Hai cửa sổ trổ vào quá khứ - nếu có tồn tại những cửa sổ như
vậy - Patrick Modiano luôn luôn chọn cửa sổ hẹp hơn, tối hơn, và có ô kính nhiều
vết rạn. Đó là một cái nhìn vào quá khứ rất không đơn giản, nó đòi hỏi những nỗ
lực ghê gớm, những nỗ lực rất dài.
Trong Pour que tu ne
te perdes pas dans le quartier, cuốn tiểu thuyết mới nhất, Modiano, ở giọng
kể của một nhà văn đã già, bỗng có một nhận xét: ta rất không nên đưa một người
thân thiết vào tác phẩm của mình, vì khi làm vậy, giống như ta đưa người ấy đi
qua một tấm gương, và rồi người ấy sẽ biến mất vĩnh viễn. Mối quan hệ giữa nhà
văn và cuốn sách có lẽ giống mối quan hệ của một người với tấm gương soi: rất
có thể một ngày, như cô bé Alice, ta bỗng nhận ra rằng tấm gương có thể hút ta
vào; đằng sau tấm gương là một thế giới kỳ bí không thể thăm dò. Những gương
kính trên cõi đời này, rất không nên đùa với chúng.
Cuốn sách mở ra hết sức nhẹ: nó nói đến vết đốt của côn
trùng, thoạt tiên gần như không hề cảm thấy, rồi bắt đầu tấy lên, tấy lên mãi.
Ký ức cũng thế, thoạt tiên chỉ phớt qua rất nhẹ, rồi rốt cuộc giống như viên
tuyết lăn cứ lớn mãi không ngừng: hình ảnh viên tuyết lớn dần lên rất đáng nhớ
của thời điểm Roland viết về “những vùng trung tính” trong Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối.
Những gì rất nhẹ và rất nhỏ là căn tính của văn chương. Ta
biết rằng cây kim rất nhỏ, nhưng vẫn chưa phải là nhỏ lắm; phải hình dung được
mũi kim có thể nhỏ đến đâu, mà như thế vẫn chưa nhỏ lắm; phải hình dung một mũi
kim tạo ra những gì nhỏ đến đâu, nhỏ đến cỡ nào thì đó là văn chương. Từ những
gì vô cùng nhỏ mới tạo ra một sự nghiệp văn chương đích thực.
Những lặp lại, nhờ một sự kiên nhẫn vô biên, trở thành một yếu
tố không thể tách rời khỏi thế giới tiểu thuyết của Patrick Modiano. Modiano,
tì trán vào ô kính cửa sổ dõi về quá khứ, luôn luôn thấy mọi thứ mù mờ, từ đó
đôi khi vang lên một giọng nói nào tưởng đã quên, hay một số nhà (số 73 như
trong Pour que tu ne te perdes pas dans
le quartier và cũng số 73 ấy trong Vestiaire
de l’enfance), chúng là những “điểm cố định” trong một màn sương mờ ảo: ta
rất hay gặp từ “buée” (hơi nước đọng) trong những cuốn sách của Modiano. Một từ
nữa, rất giống từ “buée” nhưng có nghĩa khác hẳn: “bouée” - cái phao nổi trên mặt
nước; các nhân vật của Modiano khi nào cũng chực rơi xuống nước, xuống vực thẳm
hoặc rơi từ cửa sổ, những cái phao ấy nhiều lúc vô cùng cần thiết vì một cụm từ
hung hiểm cũng không ngừng lặp lại: “basculer par-dessus bord” (ngã nhào khỏi
boong tàu). Các nhân vật, khi ở cùng với ai đó, lại thường xuyên muốn “fausser
compagnie” (đi khỏi, để được ở một mình trong cô độc, để đi qua những “quãng
hoang vu” hay “quãng trống trải” của tháng ngày).
Đó là một phần của “tự vị modianesque”, hết sức đặc trưng mà
ta có thể trông chờ bắt gặp ở bất kỳ trang sách nào trong rất nhiều cuốn tiểu
thuyết của Patrick Modiano. Người ta rất dễ nảy sinh ham muốn so sánh văn
chương của Modiano với âm nhạc; điều này xét cho cùng rất hợp lý và không có gì
lạ, bởi vì bản thân Modiano trong diễn từ nhận giải Nobel Văn chương vừa rồi
cũng có một đoạn dài nói đến âm nhạc.
Phố những cửa hiệu u tối
trở thành nhan đề cho cuốn tiểu thuyết có lẽ nổi tiếng hơn cả của Patrick
Modiano, nhưng nó cũng đã xuất hiện trước đó, cũng chỉ đúng một lần, một chi tiết
rất nhỏ, trong một câu chuyện diễn ra ở Rome, câu chuyện này nằm trong Livret de famille, tức là tác phẩm in
ngay trước Phố những cửa hiệu u tối
đúng một năm (1977 và 1978).
Ở quán cà phê của tuổi
trẻ lạc lối có nhân vật trung tâm là Jacqueline (nhũ danh Delanque, họ chồng
Choureau, biệt hiệu Louki - biệt hiệu này được chính Modiano giải thích là lấy
cảm hứng từ “Youki”, tên vợ của Robert Desnos, nhà thơ Pháp chết trong trại tập
trung, Robert Desnos là tác giả một tác phẩm tên đúng là Quảng trường Ngôi sao tức là nhan đề tác phẩm đầu tay của Modiano
nhưng Modiano cho biết ở nhiều nơi và cả trong Dora Bruder là ông không biết từng tồn tại tác phẩm tên như vậy khi
in cuốn sách của mình; cái tên “Louki” này thật ra còn nhiều ý nghĩa hơn). Nhân
vật Jacqueline này không phải Jacqueline duy nhất của Modiano: trong Du plus loin de l’oubli in trước Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối 11
năm đã có Jacqueline (đầu tiên dính dáng với nhân vật Van Bever) và trong Accident nocture ở quãng giữa của hai cuốn
đó cũng có Jacqueline (Beausergent); cái tên Caisley thám tử trong Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối cũng
đã xuất hiện trong Du plus loin de l’oubli.
Các chi tiết nhỏ nhặt xuất hiện trong các tiểu thuyết của
Modiano luôn luôn không phải là ngẫu nhiên. Văn chương Modiano rất điển hình
cho một “sự giản dị đầy cạm bẫy”: Ở quán
cà phê của tuổi trẻ lạc lối là một bài toán đố rất phức tạp, có những chi
tiết vô cùng khó xác định ý nghĩa và giá trị, và tất tật ở dưới một văn chương
giản dị kinh người, thứ giản dị quái dị của một nhà văn lão luyện; ở đây chỉ
nói đến hai điều. Ở Modiano có một điều này, hết sức đối xứng: nhân vật và sự
kiện có thật được đưa vào như hư cấu, và những gì hư cấu được làm như là thật,
ranh giới giữa sự thực lịch sử và hư cấu cực kỳ khó phân biệt, và “mức độ tinh
tế” của Modiano lừng danh như vậy trong suốt nửa thế kỷ qua một phần lớn nhờ
vào đặc điểm này; khi đọc Vestiaire de l’enfance,
có một bức tượng lấy làm bối cảnh cho nhiều trường đoạn quan trọng, nếu không để
ý lắm thì sẽ nghĩ đương nhiên bức tượng có tên người cụ thể thì phải là thực, nhưng
tra cứu thì mới thấy hình như bức tượng ấy không hề tồn tại trên đời. Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối là
chiều ngược lại: những nhân vật thoáng qua, khách khứa quen thuộc của quán cà
phê Le Condé phần lớn là có thực, như kịch tác gia Adamov hay nhà văn Maurice
Raphaël; thực chất một tầng khác của Ở
quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối là lịch sử đời sống một giai đoạn trí thức
Paris đầu thập niên 60, với Tả ngạn và Hữu ngạn sông Seine như hai bên bờ một
chiến tuyến, cũng là giai đoạn hoạt động tích cực nhất của Guy Debord (cảm hứng
chính của cuốn tiểu thuyết) và phong trào Internationale Situationniste của
ông.
Và còn có điểm tinh tế hơn nhiều: khi Jacqueline cố nhớ lại
tên cái quán trên phố La Rochefoucauld thì: “Le Rouge Cloître? Chez Dante? Le
Canter? Đúng rồi, Le Canter” (tr.85); trong cuốn “tiểu thuyết cặp đôi” với Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối là Du plus loin de l’oubli, Modiano, với sự
quỷ quái của mình, đã chuẩn bị sẵn, ở đó đã xuất hiện tên “phố Dante” nhiều lần.
Ta có cái tên Dante, rồi ngay sau đó, “tên đúng” của cái quán, “Le Canter”, một
từ hoàn toàn điệp vần và gợi ngay lập tức tới “Enfer” (Địa ngục); câu đề từ của
Guy Debord mà Modiano chọn nói đến cảnh đến giữa đường đời (“ở lưng chừng cuộc
đời thực sống”), còn La Divina Commedia
(Thần khúc) của Dante cũng vậy: mọi thứ bắt đầu ở giữa đường đời (In the middle
of the journey of our life…); và bởi vậy, bước qua cánh cửa của quán cà phê thì
“hãy bỏ lại mọi hy vọng”.
Trò chơi của Modiano hình như quá mức tinh tế.
Ta có thể lấy Phố những
cửa hiệu u tối làm “trục” chính để đi vào thế giới tiểu thuyết của Patrick
Modiano. Đó là một tiểu thuyết có dung lượng tương đối nhỏ, nhưng trong tổng thể
tác phẩm của Modiano, nó là cuốn sách dài bất thường.
Nó đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp văn chương của
Modiano vì hai điều nổi bật: thứ nhất, đây là cuốn sách thực sự mở ra đặc điểm
nổi trội nhất trong suy tư của Modiano, là đi tìm “căn cước cá nhân” (identité
personnelle), và cũng là cuốn sách “gỡ” Modiano khỏi vai trò nhà văn về Thế chiến
thứ hai, nhất là về thời Đức Chiếm đóng Paris (Quảng trường Ngôi sao, cuốn sách đầu tay in vào lúc Modiano mới
ngoài hai mươi tuổi rồi ngay tiếp sau đó, La
Ronde de nuit về hoạt động của Gestapo Pháp, và nữa, Những đại lộ ngoại vi, dễ làm tên tuổi Modiano dính chắc vào Thế
chiến thứ hai).
Nhân vật chính của Phố
những cửa hiệu u tối (nhan đề sách lấy từ một chi tiết rất nhỏ, gần như
không được để ý trong đống “phích thông tin” hay “tài liệu hành chính”) không
thực sự biết mình là ai; không một nhân vật nào trong các tiểu thuyết của
Modiano thực sự biết mình là ai, và quá trình tái hình thành căn cước dựa vào
hai thứ: điều tra quá khứ (nhất là lục tìm trong hồ sơ lưu trữ hành chính, cảnh
sát) và tưởng tượng. “Phương pháp tưởng tượng” cuối cùng lại còn quan trọng hơn
cả “phương pháp điều tra”: nhân vật (thường xuyên được đồng hóa với tác giả -
nhưng ngay điểm này có thể chính là cái bẫy lớn nhất) của Modiano có thể đi
trên một phố vắng và bỗng có cảm giác một ai đó cách đây nhiều năm cũng từng đi
qua đây, một chi tiết trong một cuốn tiểu thuyết của Jean Genet (nhà văn từng
được Modiano sùng kính như một vị thánh, thuộc lòng nhiều đoạn văn - cả Genet
và Modiano đều có một thời niên thiếu khó nhọc và lêu lổng; Genet và cả Modiano
đều rất hay viết về những cuộc chạy trốn (fugue) của các cô bé cậu bé) cũng có
thể giúp cuộc điều tra căn cước hơn nhiều so với mọi thông tìm thấy được trong
hồ sơ cảnh sát.
Thường xuyên, các nhân vật của Modiano rơi vào hoàn cảnh phải đương đầu với quá khứ, vì bỗng gặp lại một người nào, tìm lại được quyển sổ địa chỉ thất lạc, nhìn thấy một bức ảnh hay một cái tên… Không lần nào họ thoát ra tình cảnh ấy một cách hoàn toàn yên ổn, dẫu di chứng của cuộc đối đầu ấy có thể chỉ là một vết chích của lũ côn trùng.
Thường xuyên, các nhân vật của Modiano rơi vào hoàn cảnh phải đương đầu với quá khứ, vì bỗng gặp lại một người nào, tìm lại được quyển sổ địa chỉ thất lạc, nhìn thấy một bức ảnh hay một cái tên… Không lần nào họ thoát ra tình cảnh ấy một cách hoàn toàn yên ổn, dẫu di chứng của cuộc đối đầu ấy có thể chỉ là một vết chích của lũ côn trùng.
anh có nghĩ Jean Daragane và Annie Astrand là tình nhân ko?
ReplyDeletebonne question ;)
DeleteJean Daragane và Annie Astrand trong Pour que tu ne te perdes pas dans le quartier chắc là tình nhân theo kiểu Jean Dekker và Ghita Wattier trong Quartier perdu và rất nhiều cặp như thế nữa, nghĩa là nghĩ thế nào cũng được
juste une piqure d'insecte apres tout ;)
Deletec'est dur parfois, et on peut imaginer des insectes assez gros ;) cela fait penser et rêver quand même, les "amours" chez Modiano
Deleteles amours un beau jour disparus dans l'éternel retour :D
Delete