Sự thiếu vắng Danilo Kiš là tội ác đích thực đối với mọi nền dịch thuật nào (thực sự) muốn mình là một nền dịch thuật không lệch lạc.
Bài dưới đây lấy từ cuốn sách dưới đây:
(chịu khó với một số cái tên riêng rất nhiều âm hưởng barbaric nhé)
Chứng nhân buộc tội Karlo Štajner
Danilo Kiš
Những linh hồn chết
Tháng Sáu năm 1956, trong một khoang rất chi xịn của đoàn tàu đặc biệt chạy giữa Matxcơva và Kiev, có hai đại diện xuất chúng nhất của chính quyền Liên Xô và chính quyền Nam Tư ngồi đó: Khrouchtchev và Tito, cùng ngự tiền đổng lý [lạm dụng từ ngữ chút] của họ. Khỏi cần phiên dịch. Vì chương trình nghị sự quá nặng (cần phải san bằng nhiều khác biệt về phương diện ý luận đã dồn tụ lại trong vòng tám năm “cách ly” của Nam Tư), có rất ít thời gian cho những vấn đề phụ. Tận dụng một khoảnh khắc ông chủ nhà (tức Khrouchtchev) có tâm trạng hứng khởi, Tito với tay qua bàn chìa cho ông, giống như người ta đưa menu cho thực khách, bản danh sách những linh hồn chết. Cảnh tượng ấy đậm chất Gogol. “Này, đây là danh sách một trăm mười ba cựu công chức của chúng tôi bên Liên Xô. Họ sao rồi?” Khrouchtchev liếc xuống bản danh sách những linh hồn chết, rồi đưa nó sang cho cận thần: “Hai hôm nữa tôi sẽ trả lời anh.” Đúng hai ngày sau đó, cuối một cuộc họp, ở đoạn cognac và xì gà, Khrouchtchev thông báo, đùng một cái, mấy ngón tay chuối mắn gõ gõ lên một tờ giấy: “Totchno sto nietou.” (Đúng một trăm người không còn trên cõi đời này nữa.)
Thế là, theo lệnh từ cấp cao nhất, cỗ máy gớm ghiếc KGB chạy rùng rùng để tìm lại, đâu đó trong khoảng mênh mông Siberia, mười ba người cộng sản Nam Tư còn sống sót. Và chính bằng cách ấy, giữa những con người sống dở chết dở kia, tại thành phố Krasnoïarsk xa vời, người ta phát hiện Karlo Štajner, sau chừng hai mươi năm của nhà tù và trại, theo quyết định cuối cùng của Ủy ban An ninh Quốc gia, đã bị kết án đi đày suốt đời. (Ông thuộc vào số những người được gọi là “được trả tự do”!)
Štajner: “Khi ấy tôi chỉ biết là Tito còn sống… Tin đồn về chuyện đó tới được chỗ chúng tôi. Trong thời gian lưu đày, ở Maklakovo, một hôm tôi đi xem phim ngoài rạp. Khrouchtchev đã có chuyến đi sang Belgrade và công nhận những gì ông ta công nhận. Trong khuôn khổ tin tức thời sự, họ đã chiếu vài sự kiện bên Nam Tư. Và tôi nghĩ mình đã nhìn thấy Djura Cvijić. Đâu đó, trên một diễn đàn. Tôi đã nghĩ: Giờ anh ấy lên đến chức gì rồi nhỉ? Ít nhất thì cũng phải cỡ ủy viên Bộ Chính trị. Chúng tôi từng biết nhau rất rõ, và bức thư của tôi gửi cho đại sứ quán Nam Tư tại Matxcơva, tôi đề tên người nhận là anh ấy…” (Phỏng vấn tháng Ba 1981.) Nơi cái thế giới sặc mùi Gogol của các linh hồn chết kia, sự châm biếm hòa trộn vào với bi kịch: người bạn hồi trẻ đó, cựu công chức của Đảng, đã chết được mười tám năm tính tới thời điểm Štajner gửi thư cho ông! Bị thanh trừng, vì tội “phản bội”, ở một trại Siberia, hoặc tại nhà tù Boutyrki.
Không có sẹo
[bonus: thủ bút và chữ ký của Danilo Kiš, mượn từ VHT:
hết bonus]
“Štajner đây.” Mặc dù hai mươi năm đã trôi qua kể từ khi ông từ Siberia trở về - đủ để các vết thương đóng sẹo - những vết sẹo (tôi tự hỏi) đâu rồi? Cũng tương tự như vẫn ghi khắc trên mặt những kẻ sát nhân, Soljénitsyne kể với chúng ta, dấu hiệu của cuộc sát nhân, dưới hình thức một vệt nhăn thẳng đứng nơi khóe miệng, phải có một dấu hiệu, một vết sẹo, thấy rõ trên khuôn mặt các nạn nhân, giống các vết dấu của Đức Ki-tô.
“Anh đã viết, đâu đó trong Boris Davidovitch, người đàn ông hiền hòa, không chút dữ tợn, không bi thống ấy nói, rằng nhân vật chính của anh đi dạo vào buổi tối quanh điện Kremlin. Chắc anh sẽ phải sửa lại điều đó khi nào sách tái bản… Bất kỳ ai lảng vảng quanh điện Kremlin vào quãng thời gian đó, nhất là một người nước ngoài, như nhân vật chính của anh, hẳn sẽ bị bắt ngay lập tức.” Tôi hứa sẽ sửa điều đó trong lần tái bản. Cũng như vài chi tiết khác nữa mà ông gợi ý với tôi. Tôi hỏi ông muốn uống gì. Ông đáp là gì cũng được. “Còn tôi, tôi sẽ uống một cốc vodka.” Štajner, đầy bối rối, như thể không muốn làm tôi phật ý, đáp: “A! không, cám ơn. Gì cũng được cả, trừ vodka. Hai mươi năm nay tôi không uống một giọt. Và tôi cũng không sẵn sàng uống… Vẫn trong cuốn sách của anh, lúc nào đó, anh nhắc tới giấy bồi”, ông tiếp tục nói sau khi chúng tôi đã quyết định chọn một loại cognac Pháp (để hồi tưởng thời xa xưa tươi đẹp). “A! anh bạn trẻ” - Štajner giơ hai tay lên trời - “giấy bồi nào đây, bên Nga, hồi đó!” Tôi tìm cách giải thích cho ông rằng tôi đã thấy nhắc đến thứ giấy bồi ấy trong một cuốn bách khoa thư, vả lại thì tôi sử dụng cái đó chính như một điều kỳ quặc, giống như một sự lệch thời. Štajner lắc đầu, giống một người đã quá quen với chuyện người ta không tin lời mình, ngay cả khi chuyện liên quan tới những điều to lớn hơn nữa. (Nhưng các vết sẹo đâu mất rồi? tôi tự hỏi, nhìn vào cặp mắt thành thực và dịu dàng ấy. Các vết sẹo đâu mất rồi?)
“Phụ nữ là tương lai của đàn ông.”
Trong một lần gặp sau đó, vẫn ở Zagreb, Karlo giới thiệu tôi với vợ ông, Sonia người Nga, người được ông đề tặng cuốn sách của ông: “Cuốn sách này được đề tặng cho Sonia vợ tôi, người đã trung thành đợi tôi.” Mọi so sánh, một liên tưởng tới nàng Pénélope trong huyền thoại hẳn sẽ gây xúc phạm. Quả thật, trong khi Pénélope của người Hy Lạp dệt tấm thảm của nàng suốt hai mươi năm, trong yên bình tuyệt đối, dưới bầu trời rạng rỡ của Hy Lạp, đuổi đi đám cầu hôn đông đảo - trước lòng ngưỡng mộ của tất tật - thì trong phiên bản hiện đại của huyền thoại Xô viết, Sonia là “vợ của một kẻ thù của nhân dân”, bị làm nhục, truy đuổi, hành hạ. Sau đây là số phận của những người phụ nữ không chịu công khai chối bỏ chồng mình: “Tại nhà tù Boutyrki có ba trăm phụ nữ cùng đám con nhỏ dưới một tuổi của họ. Tròn một tuổi, chúng sẽ bị mang đi khỏi mẹ chúng đưa tới một trại của NKVD. Đó là các cảnh không thể chịu đựng nổi.” (Štajner, tr.23.) Hoặc nữa: “Nhiều người đàn ông để mặc vợ con họ không chỗ dựa và họ biết rằng những người ấy sẽ càng phải chịu nhiều đau khổ hơn nếu là gia đình của một “kẻ thù của nhân dân”. Không ai có thể tưởng tượng nổi tình cảnh khủng khiếp của các thành viên gia đình tù nhân ở Liên Xô: những người vợ bị đuổi khỏi chỗ làm, những đứa con bị đuổi khỏi trường học, tịch thu nhà cửa, lưu đày… Rất hiếm khi họ hàng chịu giúp đỡ những con người bất hạnh đó: bản thân họ cũng có nguy cơ bị bắt. Hàng nghìn phụ nữ ly hôn. Các tờ báo Liên Xô đăng đầy lời các phụ nữ từ chối chồng của họ đã bị bắt giữ, hoặc lời những đứa con chối bỏ bố mẹ chúng bởi vì họ là “kẻ thù của nhân dân”.” (Štajner, tr.229.)
Những cặp mắt sâu hoắm như giếng nước
Tôi nhìn bà Štajner, rồi tôi cụp mắt xuống. Ánh mắt ấy không sao mà chịu nổi! Không, Sonia Marmeladova là hình ảnh của một nỗi đau tuyệt đối có tính cách con người, một nhân vật văn chương - theo nghĩa tồi tệ nhất của cụm từ ấy - của giấy, của sự trữ tình thuần khiết, niềm vui sống. Nhưng trong cặp mắt của Sonia khác kia (Štajner), trong cặp mắt trũng sâu trên khuôn mặt người phụ nữ đẹp ấy (của người phụ nữ vẫn còn đẹp ấy), tôi khám phá một điều cho đến khi đó tôi còn chưa bao giờ thấy: cặp mắt chết! Không giống mắt của một người mù, không phải những con mắt bị mù, mà là cặp mắt như chưa có nhà văn nào từng bao giờ miêu tả, như rất ít người từng thấy, cặp mắt đã chết trên một khuôn mặt sống. (Và tôi trở nên bất lực trước ánh mắt ấy, bởi chẳng ai từng có bao giờ miêu tả một điều tương tự, vậy nên tôi đang nói tới một hiện tượng mà độc giả không thể nhận ra, với đó những lời giải thích tâm lý học chẳng dùng để làm gì.) Đôi mắt của Sonia Štajner không trống rỗng biểu đạt, chúng chết như ở một người chết, cặp mắt vô hồn, ánh mắt đông cứng, đó là cặp mắt nơi chỉ còn lại độc tro của thứ than hồng ngày xưa, một thứ tro nóng bỏng, không phải một xoáy nước, mà là một cái giếng sâu nơi ánh nắng không sao lọt xuống, cặp mắt sâu hoắm giống những cái giếng nơi người ta chỉ có thể, lúc cúi mình xuống, nhìn thấy sự bất động của nước màu lục sẫm và trong suốt, những cái giếng chỉ phản chiếu những ngôi sao đã tắt trên một bầu trời đã chết. Và giữa chúng là một vệt hằn rất sâu, dấu vết của sự tuẫn đạo.
Và giờ đây, mãi giờ đây, tôi mới thấy lộ ra ở Karlo Štajner, theo cách thức gián tiếp, cái mà tôi từng tìm kiếm: hai mươi năm đó, hơn bảy nghìn ngày, trải qua nơi các vùng đất xa xăm của Siberia, quá cả vòng cực. Nỗi nhục, những cú đánh, nỗi sợ, cái đói, cái lạnh, cái chết.
Tiểu sử ngắn
Tiểu sử của Karlo Štajner giống hàng nghìn người khác tại châu Âu, nhất là Trung Âu. Sơ đồ ai cũng đã quá rành: một người con trai gia đình vô sản dấn bước vào con đường dài của tranh đấu và của các lý tưởng, rồi rốt cuộc có mặt ở “Đệ tam Rome”, tức là Matxcơva. Sau đây là chính Štajner tóm tắt những năm tuổi trẻ của ông, trong một văn bản đánh máy: “Sinh đầu thế kỷ, bên Áo, ông là, ngay hồi cuối Thế chiến thứ nhất, lúc đó đang làm thợ sắp chữ nhà in, thành viên chủ chốt của Đoàn thanh niên cộng sản. Ông từng làm việc cho Quốc tế cộng sản thanh niên. Trong những năm hai mươi, vì có liên hệ chặt chẽ với những người cộng sản Nam Tư, ông sang Nam Tư làm việc. Tại Zagreb, theo lệnh của Đảng, ông thành lập và điều hành nhà in chuyên in các ấn phẩm bí mật của Đảng. Ông hợp tác với nhiều nhà cách mạng của chúng ta thời ấy, hoàn thành nhiều nhiệm vụ khác nhau, đi nhiều nơi, từng bị bắt giam ở Zagreb, Paris, Viên, làm việc cho Komintern tại Berlin và cuối cùng, năm 1932, theo lệnh của Đảng Cộng sản Nam Tư, sang Liên Xô… Một tháng sau khi tới Matxcơva, nơi ngay lập tức ông tự giới thiệu mình thích hợp với bộ phận Balkan của Komintern, ông được cử làm giám đốc nhà in và nhà xuất bản của Quốc tế cộng sản, hồi đó là một vị trí cao cấp. Ông làm việc ở đó bốn năm. Ông đang giữ chức vụ ấy thì bị bắt, vào năm 1936.”
Phần còn lại đã quá nổi tiếng, phần còn lại làm nên chất liệu cho cuốn sách 7000 ngày ở Siberia.
Số phận của một cuốn sách
Như vậy, do một sự hội tụ lạ thường của các hoàn cảnh, lời chứng trọng yếu của Karlo Štajner đến được với độc giả Pháp chừng hai mươi năm sau khi nó được viết ra, và mười năm sau ấn bản Nam Tư. Nhưng nó đã đến được.
Lương tri riêng
Năm 1977, trong một buổi thuyết trình trước thanh niên Belgrade, trước câu hỏi của một chàng trai khuynh tả: “Suốt trong hai mươi năm khổ sai, ông có giữ vững lòng trung thành với các lý tưởng thời trẻ của ông hay không?”, Štajner không do dự đáp: “Chúng tôi, những người tù khổ sai, chúng tôi chỉ là súc vật, những con người bị làm cho chỉ còn các bản năng sinh học thấp nhất, chỉ còn những nhu cầu sống còn sơ đẳng nhất. Ở đó, không có chỗ cho ý luận; “ý luận” duy nhất là: làm sao sống sót.” Nhiều người dự hôm ấy, trong số đó có các sinh viên Áo, Đức, Pháp, Ý, xôn xao lên ra dấu phản đối: Štajner đã không thốt ra những lời được gợi ý sẵn cho ông bởi câu hỏi, chúng giúp các ý thức đẫm ý luận được giải thoát khỏi nỗi sám hối. Štajner đã có nhiều lòng tin vào lương tri riêng của ông hơn, vào kinh nghiệm sinh học của ông nữa, so với vào ý thức chính trị; ông đã tỏ ra là mình “trưởng thành về tinh thần”, theo nghĩa đạo đức mà Kant mang tới cho từ này: “Hiểu biết, đó là sự trưởng thành về mặt tinh thần; khẩu hiệu của ông là: “Hãy có đủ can đảm mà sử dụng lương tri riêng của mi!””
(1981)
vì rất có liên quan (đến "câu chuyện Nam Tư"), tiếp tục luôn "câu chuyện Séc" (Bohême thì đúng hơn) và "câu chuyện Hungary"
Krasznahorkai-Jean Améry-Danilo K.
quỷ tha ma bắt chúng đi! nhưng ko có quỷ ma nào. ngoài chúng.
ReplyDeleteDanilo Kis là người, theo miêu tả của Kundera, kín đáo nhất, ít xuất hiện nhất trong số các nhà văn Đông Âu lưu vong sống tại Paris trong một phần tư cuối thế kỷ 20
ReplyDeletecác nhà thơ cần thấy xấu hổ khi đọc cái này dù chỉ một vài trích đoạn. những câu nhận xét về trò so sánh hoa mỹ khoa trương với huyền thoại Hy Lạp cực hay, một cách đơn giản hiện-tượng-luận, mà do mức tương phản với hình ảnh đôi mắt bà Štajner, gợi ý rằng trong văn chương luôn có nhiều trò xuẩn lố bịch đến thế nào!
ReplyDelete