đêm khuya lưỡng lự canh chầy/đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh [...] ma đưa lối quỷ dẫn đường/lại tìm lấy chốn đoạn trường mà đi [...] sen tàn cúc lại nở hoa/sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
Khi thấy cần một người cho English Opium-Eater, tôi nhận ra trong số những người đã làm một số việc, mà tôi biết (tức là, mà tôi có thể nhìn thấy một số điều), có một người có thể làm được việc ấy (một chuyện tương tự): tôi cần một người có một thứ, purity, hay nói đúng hơn - như bọn hongmao hay nói - candor. Cuốn sách của Thomas De Quincey không cần gì khác ngoài cái đó. Nếu không có, nó chẳng bao giờ có thể được rendu (đây thì lại là như bọn nhaque hay nói). Hơi giống: Steven Spielberg biết là mình cần gì khi mời François Truffaut đóng phim (điển tích).
Lúc ấy, tôi mới bắt đầu nói chuyện với nhân vật. Và Công Hiện đã nhận, rồi làm xong, Gentleman cắn thuốc phiện FYI. Nhưng tôi cũng nhanh chóng nhận ra thêm một điều nữa, Công Hiện có étoffe của một dạng nhân vật rất hiếm gặp ở Việt Nam: đấy là một essayist. Một người viết tiểu luận thì tức là một người thử. Tức là, dám thử. Điều đó cũng đồng nghĩa với: dám bước lùi lại. Hãy để việc tiến lên cho bọn thô lậu.
(à sorry, để lại việc đó cho những người có thể tiến lên, những người có khả năng làm thế)
Rồi, định làm nó, nhưng tôi nhận ra, đợt in 11 quyển liền một lúc ấy, nếu thêm cả nó nữa thì sẽ bị lùi thời gian lại, dẫu sao thì cũng khủng khiếp thật. Vừa lúc, Anh Hoa đang ngơi tay có thể đảm nhiệm, thế là tôi đẩy luôn (chắc lúc nào tôi sẽ viết một Cẩm nang how to đẩy việc sang cho người khác). Thế cho nên, merit của bản tiếng Việt cuốn sách thần kỳ (vì đúng, đấy là một cuốn sách thần kỳ) của Thomas De Quincey thuộc về tandem Công Hiện-Anh Hoa. Tất nhiên, lúc cuối cùng thì tôi cũng đọc lại thêm một lần, nhưng đấy là một việc chẳng đáng nói mấy.
Đợt 11 đó chính là cơn bão Yagi, tức là nhà in kết thúc cái núi ấy (vì đó đúng là một núi) đúng vào lúc typhoon điên cuồng. Trước đó, giữa mùa hè, đợt sách đầu tiên (của sự bắt đầu lại), tức là 3 cái đầu tiên của FORMApubli - từng bị viết thành FORMApupil (Dưỡng đường đồng hồ cát, Bốn tình yêu và Daisy Miller & Di sản Aspern), đúng cái lúc nhà in mang sách đến giao thì xảy ra đợt sấm sét chỉ trong quãng thời gian rất ngắn (mấy chục phút à?) có bao nhiêu sét giáng xuống (hình như có đến cỡ chục nghìn phát), do you remember, nên xe chở sách đi một đoạn sợ quá lại quay về nhà in đợi tình hình êm rồi mới làm một chuyến mới.
Tức là, tận thế, lại thêm một tận thế. À, nhưng Apocalypse đâu phải là tận thế, ít nhất thì nó không chỉ là tận thế, vì apocalype còn có nghĩa (đây mới là nghĩa chính, hoặc ít nhất, nghĩa đáng nói, nghĩa cần nhìn vào) là khải ngộ. Sàn nhảy discothèque ở Hà Nội quanh năm 2000 là Apocalypse, phố Hòa Mã FYI; sàn nhảy tại Sài Gòn quãng sau đó mười năm có cùng tên (đường Thi Sách hay sao nhỉ? tôi chỉ còn nhớ mang máng, sorry lúc í biêng quá) - tất nhiên còn có Lust nơi tôi từng dính kinh nghiệm đau thương. Phải mãi về sau mới có Chill, nhỉ, lúc í thì tất nhiên tôi đã chẳng còn lai vãng những chỗ như thế. Hà Nội còn có đoạn Taboo trên Hồ Tây, nhưng vui nhất chắc phải là Anaconda ở sông Hồng, nhất là thiên đường Temple phố Hàng Buồm.
Một quotation lấy từ Gérard de Nerval:
"Je crois qu'il me faudrait la ville de l'Apocalypse où toute forme est type, où toute matière est précieuse, où toutes les formes sont le plus riche développement de l'art, où tout son est harmonie et expansion, toute odeur parfum, tout goût, où toute intelligence est génie."
(Carnet de Dolbreuse)
Khác thời đại, bản thân cụm từ này cần phải coi là một idiom: viết, không là gì khác, ngoài tạo ra idiom, và nhờ idiom ấy mà tiêu diệt bớt các idiom đang tồn tại; chẳng có gì khác ngoài chính idiom thì mới làm được điều đó (vì chúng ở trên cùng một bình diện: những cái khác, ở các bình diện khác, có gặp được mấy cái đó quái đâu mà đòi làm gì).
Trời còn để có hôm nay
ReplyDeleteTan sương đầu ngõ vén mây giữa trời
l'Apocalypse
ReplyDelete