Sau khi tôi bắt tay vào dò tìm, đúng hơn là dò hỏi, cái thế hệ sinh ra đầu thế kỷ 19 (xem ở kia), như thể có tiếng vọng nào đó vang lên, đối với tôi, từ cái thế hệ sinh ra sau đó đúng một trăm năm: những người sinh vào thập niên đầu tiên của thế kỷ 20, họ như thế nào?
Jean-Paul Sartre sinh năm 1905. Paul Nizan cũng sinh năm 1905. Họ là bạn rất thân với nhau. Có ba người khác cùng sinh năm 1908: Claude Lévi-Strauss, Maurice Merleau-Ponty và Simone de Beauvoir. Những người rất quan trọng đối với thế kỷ 20 của nước Pháp.
Một "tiếng vọng" theo một chiều khác: tôi nghĩ đến mấy nhân vật Việt Nam cùng sinh ra vào năm 1905-1906: Nhất Linh, Nhượng Tống và Nguyễn Văn Huyên. Rồi lại mấy người sinh năm 1907-1908: Nguyễn Mạnh Tường và Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long. Cũng là những người rất quan trọng đối với ở đây.
Năm người bên này, và năm người bên kia, cứ như thể cả hai bên đều có nhiều điều, rất nhiều điều để nói, và không hẳn những điều họ nói hoàn toàn không có điểm gì chung.
Vả lại, sau ở kia và ở kia, rồi lại đến ở kia (cái này sẽ sớm được viết tiếp), chắc cũng nên, trước khi thực sự bước vào phần rất hard-core của lý thuyết văn học (chẳng hạn như Paul de Man), đến với một tác phẩm mà Paul Nizan viết khi còn rất trẻ: Aden Arabie được Nizan cho xuất bản năm 1931. Nizan sẽ chỉ sống đến năm 1940. Aden Arabie có câu mở đầu (như sẽ thấy dưới đây) được Mario Vargas Llosa dùng làm đề từ cho một cuốn tiểu thuyết (xem ở kia).
Nizan rất giống Sartre. Cũng bé tí, và đặc biệt mắt cũng lác. Đây là lý thuyết của tôi: Nizan chết quá sớm, thành ra sau đó Sartre không sao mà cân bằng cho nổi, vì nếu có thêm một người mắt lác bên cạnh, sự lác của chính Sartre sẽ trở nên không lác lắm. Giả thuyết của tôi không có gì độc đáo: Ernesto Sabato cho rằng sở dĩ Sartre bảo địa ngục là người khác chỉ giản dị xuất phát từ chuyện Sartre quá xấu, bị người khác nhìn thì đúng là địa ngục.
Aden Arabie
Paul Nizan
I
Tôi hai mươi tuổi. Tôi sẽ không để
bất kỳ kẻ nào nói đó là tuổi đẹp nhất của cuộc đời.
Một thanh niên bị mọi thứ đe dọa về
hoang tàn: tình yêu, tư tưởng, mất gia đình, bước vào giữa đám người lớn. Thật
tàn khốc khi phải học để biết số phần của mình trong thế giới.
Thế giới của chúng ta ra sao? Nó có
dáng vẻ của chaos mà người Hy Lạp đặt ở khởi thủy của vũ trụ trong những đám
mây lừa dối. Chỉ có điều người ta nghĩ mình nhìn thấy ở đó khởi đầu của kết
thúc, kết thúc đích thực, chứ không phải thứ kết thúc chính là khởi đầu của một
khởi đầu. Trước các chuyển hóa gây kiệt sức mà rất ít chứng nhân cố sức tìm ra
chìa khóa, người ta có thể chỉ đơn giản là thoáng nhìn thấy sự hỗn độn dẫn đến
cái chết đẹp đẽ của cái gì tồn tại. Mọi thứ đều giống sự mất trật tự nằm ở cuối
những căn bệnh: trước cái chết vốn dĩ có nhiệm vụ biến mọi cơ thể trở nên vô
hình, nhất thể của da thịt tan rời, mỗi bộ phận của sự đông đảo khủng khiếp ấy
chạy về một hướng. Rốt cuộc sẽ là sự thối rữa không chứa đựng phục sinh.
Chỉ rất ít người cảm thấy đủ mức
sáng suốt để có thể gỡ ra rạch ròi các lực đã cuồng lên đằng sau những đống lớn
đổ nát thối rữa.
Người ta không biết chút nào về những
gì lẽ ra phải biết: văn hóa thì quá mức phức tạp, chẳng cho phép hiểu điều gì
khác ngoài các nếp nhăn trên bề mặt. Nó mất hút vào những điều tế vi trong một
thế giới ngăn nắp các đường lý trí và gần như mọi kẻ chuyện nghiệp đều không có
khả năng đánh vần các văn bản mà bọn họ bình luận. Sai lầm thì bao giờ cũng kém
giản dị hơn so với cái đúng.
Người ta cần a bê xê kết hợp lại với
nhau của những gì có tầm quan trọng đích thực. Nhưng thay vì học đọc, những kẻ
mà một sự dằn vặt chân thành đôi lúc gây mất ngủ lại tưởng tượng ra các kết luận
thảy đều dựa trên nghiên cứu về những suy đồi đối chiếu: các kết luận thông qua
sự xâm chiếm của lũ mọi, chiến thắng của máy móc, các hiện hình ở Pathmos [liên
quan đến Jesus Christ], viện nhờ đến Genève và Chúa. Sao mà tất cả mọi người ai
cũng trí tuệ thế!
Nhưng đám ma lanh ấy có tầm nhìn
quá thấp, chẳng thể nào, từ bên trên cặp kính của bọn họ, nhìn được xa hơn các
vụ đắm tàu. Thế nhưng đám trẻ lại tin tưởng vào bọn họ.
Những lời buộc tội không phúc án,
những bản án thảm khốc: “Ngươi sẽ chết.” Những người thuộc lứa tuổi tôi, bị
ngăn chặn không thể lấy hơi, bị áp bức giống như các nạn nhân bị gí đầu xuống
dưới nước, tự hỏi còn có không khí ở đâu đó hay không: tuy nhiên cần phải gửi bọn
họ đến giữa làn nước để hội với các gia đình những người chết chìm của bọn họ.
Vì người ta xếp tôi vào với đám trí
thức, tôi chưa từng bao giờ gặp ai khác ngoài lũ kỹ thuật viên vô khả năng: đám
kỹ sư, luật sư, chuyên gia cổ tự [“chartiste” là từ thường được dùng để chỉ học
sinh và cựu học sinh “École des Chartes”; dường như đối với Nizan, từ này có một
nghĩa vừa rộng hơn vừa đặc thù hơn], giáo sư. Thậm chí giờ tôi còn không thể
nào nhớ nổi sự nghèo nàn ấy nữa.
Những ngẫu nhiên của trường lớp, những
lời khuyên thận trọng đã đẩy tôi tới trường École Normale [Nizan cũng như
Sartre là học sinh ENS, trường Sư phạm phố Ulm] và cái môn tập luyện chính thức
đó, mà người ta vẫn còn gọi là triết học: cả đôi mau chóng gây cho tôi toàn bộ
nỗi kinh tởm mà tôi đã đủ khả năng có được. Nếu người ta hỏi tại sao tôi ở lại
chỗ ấy, thì đó là do sự lười biếng, thiếu chắc chắn, vô tri về các nghề nghiệp,
và cũng bởi Nhà Nước nuôi tôi ăn, cho tôi chỗ ở, cho tôi mượn sách miễn phí và
còn cho tôi thêm một trăm franc mỗi tháng [khoảng tám mươi năm sau thời của
Nizan, học sinh ENS nhận chừng trên một nghìn euro].
Tại đó người ta đề xuất với các cậu thiếu niên mệt mỏi sau những năm mài mông ở trường trung học, bị băng hoại bởi cổ văn học, bởi luân lý và bếp ăn tư sản gia đình họ, ví dụ về những người xuất chúng đi trước: Pasteur, Taine, Lemaitre, Giraudoux, François-Pontet. Người ta hứa hẹn với họ tấm huy chương chừng nào họ đã làm trò xong và Học Viện Pháp [Institut, tức là thiết chế được cấu thành từ các thiết chế cấp dưới, chẳng hạn Académie Française, Hàn Lâm Viện Pháp] ở đoạn cuối cuộc đời họ: nhưng chẳng ai kể cho họ về cuộc đời Evariste Galois.
Năm 1924, vẫn còn có một người:
Lucien Herr [rất nhiều thanh niên thế hệ của Paul Nizan chịu ảnh hưởng lớn lao
của Herr, thủ thư của trường École Normale: thư viện của École Normale rất khổng
lồ, trong đó có vô số sách của học sinh cũ và do học sinh cũ tặng trường; tin
buồn là hiện nay thư viện cũ, từng chiếm gần hết tầng hai toàn bộ khối nhà
chính đã bị bỏ, thư viện mới được xây đằng sau; người ta phải đi qua cổng, rồi
vào cửa chính, qua sảnh, qua một cửa nữa, ra vườn, đi qua vườn, qua thêm một cửa,
vào một sảnh khác, chỗ có tượng đài liệt sĩ, rồi đi thêm một cửa nữa - tất tật
theo một đường thẳng - thì sẽ đến thư viện mới]. Khi người ta trông thấy người khổng
lồ ấy cúi xuống một chồng sách lớn, cặp mắt không chút sương mù kia bên dưới một
vầng trán gồ ghề, như thể một vách đá dựng đứng của suy nghĩ, khi người ta nghe
thấy giọng nói không bao giờ dối trá của ông thốt ra những lời phán định chỉ
chăm chăm hướng đến mục đích đúng đắn này: trả về cho mỗi người cái thuộc về
anh ta, người ta biết sẽ không thảm khốc nếu phải sống tại cái nơi nhơ nhớp đó.
Nhưng ông đã chết [Lucien Herr qua đời năm 1926]: chỉ còn lại École Normale, cái
thứ thật hài hước và thường là đáng tởm, đặt dưới sự chủ trì của một ông giá nhỏ
thó và ái quốc, đạo đức giả và hùng mạnh, rất kính trọng đám quân nhân [nếu
không có gì nhầm lẫn (và chắc không nhầm lẫn), Paul Nizan đang ám chỉ đến
Gustave Lanson].
Suốt những năm ấy tôi đã nghe, tại
phố Ulm và trong các phòng của trường Sorbonne những con người quan trọng nói
năng nhân danh Trí Tuệ.
Tuy nhiên họ trình bày những tư tưởng đã thuần hóa rất kỹ, những lý thuyết mòn răng hết cắn về tâm lý học, về đạo đức, tiến bộ: những sự trừu tượng đó đã trơ lòi cả xơ kể từ thời của Jules Simon hay Victor Cousin; chúng vẫn còn dùng tốt. Họ là các quý ông tốt tính: họ nói rằng có thể túm lấy sự thật trong lúc nó đang bay giống một con chim ngây thơ. Họ lăng xê các thông điệp về hòa bình và chiến tranh, về tương lai nền dân chủ, về công lý và sáng tạo của Chúa, về tính tương đối, sự thanh thản và cuộc sống tinh thần. Họ tạo ra các tự vị, bởi vì tất cả họ đã cùng nhau phát hiện một mệnh đề quan trọng: các vấn đề sẽ không còn tồn tại nữa chừng nào các thuật ngữ về chúng đã được định nghĩa một cách ổn thỏa. Thế là chúng rơi vào cát bụi: không thấy cũng chẳng biết, đặt chúng ra cũng là giải quyết chúng rồi. Các triết gia sẽ chỉ đơn giản là đám chó canh [cụm “les chiens de garde” sẽ trở thành nhan đề một tác phẩm tàn độc khủng khiếp của Paul Nizan, hướng vào các triết gia của thời ấy] cho tự vị và sử gia về cái thời trung cổ ấy, khi các từ còn mang nhiều nghĩa. Trong lúc chờ đợi họ học cách gạt sang bên những suy nghĩ nguy hiểm, rồi sẽ đến ngày các chất độc của chúng bay hơi hết đi: lý trí có đủ thời gian, nó sẽ tìm thấy lại chúng khi tới lúc, thời điểm đó không trùng hợp với thời điểm của con người.
Họ làm triết học như vậy, nhìn
chung nó đòi hỏi kha khá sự sạch sẽ và các chăm lo, thành thử sẽ là đáng trọng
vọng nếu cống hiến cho nó những cuộc đời tách rời khỏi môn kế toán và Hội
Jésus.
Và trời ơi thứ ngôn ngữ ấy! Họ trưng
bày vô vàn lời hay ý đẹp, thành ngữ, ám dụ, đến nỗi thậm chí tôi còn chẳng biết
nữa là nếu thật cố gắng tập trung vào những im lặng được truyền tới từ các
tuyên bố bí mật của giấc ngủ, những cuộc trò chuyện với những người bộ hành loanh
quanh trên các quảng trường, doanh trại, quán xá, nhà máy, tôi còn có thể tìm lại
được nghĩa các lời nói thẳng thớm và những sáng tạo giản dị của con người hay
không.
Tuy nhiên con người ta làm việc theo dây chuyền. Tuy nhiên đám cảnh sát bước đi ngoài phố, người ta chết bên Trung Quốc một cách khốc liệt, rồi tại Thượng Volta [tên chỉ vùng thuộc địa của Pháp tại Đông Phi], lao động cưỡng bức đốn ngã người Da Đen giống như một bệnh dịch.
Tức là người ta làm hết những gì có thể để che giấu trước chúng tôi sự tồn tại bằng da thịt cụ thể những người anh em của chúng tôi, để chúng tôi thực sự được trang bị vũ khí cho các công việc cha xứ vốn dĩ dành sẵn cho chúng tôi. Đám tư sản tọng cho đầy mồm những trí thức của bọn họ nhằm khiến họ không còn bị cám dỗ yêu thế giới nữa. Tức là chúng tôi sống ở cái vận tốc khốn khổ của giấc ngủ: ai cũng biết rằng các tốc độ lớn thì đắt tiền. Chúng tôi xoay vòng giống như người ta từng dạy cho chúng tôi xoay vòng, bận rộn với những trò chơi xây dựng nhỏ mọn được rao giảng bởi tất tật các công chức kia. Gần như mọi nơi đều có người, vùng nông thôn và ngoại ô: nhưng chúng tôi, chúng tôi nhìn các thầy và bố của chúng tôi để làm giống họ, mà họ thì buồn thảm ngồi thu lu trong các góc, đôi khi đứng dậy để mua vui cho ông chủ, chuyển cho họ một đơn hàng ảo tưởng, lập luận hoặc lời biện minh. Những tên hề, những kẻ đồng lõa: các nghề nghiệp của trí tuệ. Thảng hoặc, họ cầu xin người ta kiên nhẫn: thế giới sắp được cứu rỗi rồi.
II
Hãy hình dung xem: chúng tôi đó, ở tuổi hai mươi bị thả vào một thế giới
(còn nữa)
tiếp tục
ReplyDeletenghe Paul Nizan kể đoạn này thì có vẻ ở Trường Norman người ta chỉ nhằm xây nốt Tháp Babel. để hóng xem tiếp theo. nói gì thì nói, "nếu không có tháp babel. lấy đâu nhà cửa trú thân đêm ngày." là ngày xưa thơ trong sách Vỡ lòng í.
ReplyDeleteở một "thế giới" bị lạm phát tinh thần. nhưng chẳng phải "thế giới" là lạm phát hay sao!
ReplyDeleteChú còn dịch tiếp cái này không? Cháu vẫn đang đọc.
ReplyDeleteđọc Maldoror trong lúc đợi đi
ReplyDeletebác Nhị Linh sao giờ giống cái blog của ông hán nôm nào tối ngày dịch truyện ngắn (ăn cắp bản quyền).
ReplyDeleteđây không phải truyện ngắn
ReplyDeletePaul Nizan chết năm 1940
không phân biệt được mấy cái như thế thì đi chỗ hán nôm bỏ mẹ nào đó đi đừng quay lại đây nữa xong rồi so sánh này nọ
hán nôm bỏ mẹ nào đó tôi không biết tí gì đâu