Dưới đây là chương thứ hai Lan Hữu của Nhượng Tống (cả cuốn tiểu thuyết gồm 19 chương).
Trong một diễn biến khác, tiểu thuyết về thời niên thiếu của Lệnh Hồ Nhị Linh vẫn tiếp tục đăng, trong ngày hôm nay sẽ có thêm một chương đậm màu võ hiệp kỳ tình nhất từ trước tới nay :p
II
Năm ấy, tôi đã được yêu Mai Hữu. Nhưng trước đó, tôi đã được
yêu hoa, và cả yêu tiểu thuyết nữa. Tôi đã nói tôi thích hoa và thích tiểu thuyết
đến mực nào.
Khi ấy, tôi đã không cần phải học lối “khổ sai” nữa. Tôi đã
có nhiều thì giờ rỗi. Thứ Năm, Chủ nhật, tôi đã được nghỉ, được chơi. Theo tính
thích của tôi, các trò tiêu khiển cho tôi không gì bằng ra vườn hoa của chú tôi
mà thẩn thơ, cùng mượn tiểu thuyết của chú tôi mà đọc. Lần mượn đầu tiên, tôi
phải năn nỉ xin chú tôi đừng cho thầy tôi biết. Vì theo ý thầy tôi, thì tôi cần
phải lúc nào cũng dán đôi con mắt vào những sách vở mà nhà trường dạy. Còn bao
nhiêu thứ có thể cho tôi vui một chút, thầy tôi đều cho là “ngoạn vật táng chí”[1].
Cũng bởi thế mà tôi không dám đọc tiểu thuyết ở trong nhà. Tôi phải đọc vụng ở
ngoài vườn hoa. Nhiều khi đọc mải, dưới bóng trăng tôi cũng cố mà nhìn cho ra
những chữ lí tí trong những sách in bằng thạch bản. Cái đó, sau này có kết quả
trong đời tôi: mắt tôi bây giờ gần như cận thị.
Tâm hồn tôi lúc nhỏ rất lãng mạn và rất giàu thi vị. Nó khảng
khái sau khi đọc các chuyện nghĩa hiệp; nó hăng hái sau khi đọc các chuyện anh
hùng; nó nhàn nhã, nhẹ nhàng, sau khi đọc các chuyện ẩn dật, thần tiên. Từ khi
về ở với thầy, mẹ tôi, ròng rã hơn một năm trời, nó bị cái thực tại buồn tẻ, thấp
hèn đuổi lạc đi xa lắc! Thay vào nó, óc tôi phải chứa một tâm hồn khác: tâm hồn
một đứa trẻ cố lăn lóc chạy theo một mục đích thiết thực, mục đích kiếm ăn!
Nhưng khi ấy thì hoa và tiểu thuyết lại gọi cái hồn thơ của tôi tỉnh lại một,
đôi phần. Dù vậy, nó không còn là cái hồn xưa, sau khi tôi đọc những chuyện anh
hùng, nghĩa hiệp, ẩn dật, thần tiên. Mười sáu tuổi trên đầu, tôi chỉ còn cái hồn
thơ khao khát, mơ màng, sau khi tôi đọc những chuyện giai nhân, tài tử… Trong
vườn hoa, cuốn tiểu thuyết đã gấp bỏ túi, tôi ngồi, đứng bơ thờ mà nhìn cảnh vật.
Dăm ba con bướm, cánh sặc sỡ, xập xòe lượn quanh, hay lẩy bẩy đậu trên mấy đóa
hoa hồng. Một con oanh véo von lên tiếng hót, ẩn mình trong bóng liễu thướt
tha. Đàn chim khuyên vừa gọi nhau, vừa bay, nhảy tìm sâu trên các cành đào,
cành mận. Hay là: trong làn gió hiu hiu, một mùi hương của một thứ hoa nào bay
thoáng. Dưới bóng trăng vàng, mát, bóng cành, bóng lá một bụi trúc, một bụi
trúc đào, in lại mặt tường, vẽ lên một bức tranh thủy mặc… Trong những lúc ấy,
hồn thơ của tôi lại hiện ra và chiếm lấy cả người tôi. Nó man mác. Nó bồi hồi.
Nó như muốn bay liệng theo đàn bướm; ca hát theo tiếng chim; lay động lả lơi
theo các bông hoa, tàu lá. Tôi khao khát. Tôi mơ màng. Tôi thấy vườn hoa ấy thật
đáng là vườn tình của một cặp giai nhân, tài tử. Tôi điên cuồng mà tự cho mình
cũng là một tay tài tử. Nhưng… tìm đâu cho thấy giai nhân? Nhiều khi tôi ngồi một
mình ở trong vườn cho mãi đến canh khuya. Thiếu giai nhân, tôi đành mong được gặp
hồ, gặp quỷ như những anh chàng nào trong truyện “Liêu Trai”. Nhưng hồ với quỷ
hình như chỉ cười thầm tôi điên dại. Chứ không hề cảm đến tấm si tình của tôi.
Tôi mong, tôi đợi đến thế nào, cũng không hề được gặp!
Ấy thế rồi có một hôm, tôi tìm thấy giai nhân của tôi ở
trong người Mai Hữu…
Hữu kém tôi hai tuổi và học dưới tôi một lớp. Từ khi về
Thái, tôi với Hữu là bạn học chung đèn. Chú tôi dặn Hữu: “Có chỗ không hiểu,
con hỏi anh”. Ban đầu còn lạ, nhưng vài, ba hôm chúng tôi đã thân nhau. Tuy vậy,
nếu trí nhớ tôi không nhầm, tình thân của tôi đối với Hữu ban đầu chỉ là tình
thân của đôi anh, em họ. Nhưng sau đêm mồng mười tháng Hai năm ấy - cái đêm
không bao giờ tôi quên được - thì tôi nhìn Hữu không còn là người trong họ nữa,
mà là người trong lý tưởng tôi…
Trước đấy luôn mấy hôm, trời gió bấc và mưa phùn. Đến hôm ấy,
trời “bật nắng lên” cái nắng ấm áp của mùa xuân. Vì hôm sau là thứ Năm, tôi
không phải làm cái khổ dịch học bài để sớm mai vào đọc trong trường. Buổi tối đến,
tôi ra ngồi trên một tấm ghế đá đặt ở trong vườn mà chờ hồ, đợi quỷ… Dưới
trăng, các cây hoa hiện ra trước mắt tôi như những mặt bạn thân, vắng mấy ngày
mới lại gặp. Cúi nhìn bóng hoa dưới đất, tôi chợt nhớ mấy câu thơ Kiếm Nam[2]:
Trăng sáng nhuộm sân ngoài.
Ngồi rù, ngại bước chơi.
Phải đâu mình sợ lạnh:
E giẫm bóng hoa mai!
Gió hây hây thổi. Mấy làn mây mỏng theo nhau chạy lướt dưới
vầng trăng, làm cho ánh trăng khi tỏ, khi mờ. Tôi ngẩng lên nhìn vầng trăng ở
giữa các lớp mây, thấy như một con thuyền đương thuận gió chạy nhanh ở giữa
vùng bể sóng. Tôi bỗng ước ao được ngồi con thuyền ấy đi khắp bốn phương trời để
tìm người trong ý. Tôi mơ màng đến những cô tiên đa tình trong các chuyện đời
xưa. Chợt trong làn gió nhẹ, tôi thoáng thấy có mùi nước hoa. Tôi nhận ngay ra
là mùi nước hoa xức tóc của Hữu sau mỗi khi gội đầu. Tôi kinh ngạc, không hiểu
tại sao mùi thơm quen ấy bấy giờ lại làm cho lòng tôi nảy ra một cảm giác lạ.
Lòng tôi thấy bồi hồi hơi rạo rực. Tôi ngảnh lại thì Hữu đã bước đến bên cạnh.
Dưới ánh trăng, khuôn mặt trái xoan của Hữu, in trên mớ tóc đen nhánh bỏ xõa xuống
hai vai, tôn thêm vì bộ quần áo trắng mặc ngoài, tôi thấy đẹp hơn ban ngày nhiều
lắm. Lòng tôi lại càng động. Trong khi ấy thì Hữu đã hỏi tôi:
- Anh ra đây lúc nào thế?
Tôi ôn tồn đáp:
- Anh vừa ra, em ngồi xuống đây.
Hữu ngồi xuống bên tôi, cười cười, nói nói những chuyện
không đầu, không đuôi. Tôi nghe mà không hiểu. Tôi đã để cả tinh thần mà nhìn Hữu.
Trong lòng thì có cái cảm như khi tôi hôn một đứa trẻ sạch sẽ, xinh xắn: muốn
ôm chầm lấy, cắn một miệng má mà nuốt đi cho thỏa lòng yêu!… Hữu bỗng cười to
và nói to:
- Ô kìa! Ừ là thế nào, anh? Em hỏi bóng anh đâu kia mà?
Tôi như người chợt tỉnh, cười chỉ cái bóng mà rằng:
- Kia chứ đâu!
- Không phải rồi! Bóng em đấy chứ!
Thực ra thì Hữu ngồi cạnh tôi, dưới ánh trăng soi chếch,
bóng Hữu và bóng tôi đã nhập làm một. Tôi lại cười:
- Thế ra anh không có bóng! Thôi! Anh là ma quách rồi: chỉ
có ma mới không có bóng!
- Đừng nói thế, em sợ. Vừa kêu thế, Hữu vừa nắm chặt lấy
cánh tay tôi và ngồi dịch lại gần tôi. Trong người tôi, thấy một mối cảm kỳ dị,
êm ái như thế nào, không sao nói ra được, chúng tôi ngồi yên lặng dưới trăng.
Ngay lúc ấy, xa nghe có tiếng trẻ cười nói. Mấy đứa em tôi,
và em Hữu đã từ trong buồng học chạy ra vườn. Có đông người, Hữu rủ chơi trò
“chi vi”. Tôi và các em ưng ý ngay. Hữu liền xòe một bàn tay ra, cho chúng đặt
mỗi đứa một ngón tay trỏ vào. Rồi Hữu bắt đầu đọc:
“Chi vi chành chành. Cái đanh thổi lửa…”
Tôi cố tình để chậm ngón tay, cho Hữu “hập” phải. Rồi ngồi
xuống ghế cho Hữu lấy hai bàn tay mà bịt mắt tôi. Khi các em đã đi ẩn xong, Hữu
mới buông tôi ra mà đi ẩn sau cùng. Trước khi buông, Hữu không quên giao hẹn với
tôi phải nhắm mắt cho đến lúc nào nghe tiếng Hữu “hú tim”. Và sau khi buông
tôi, Hữu cũng không quên vừa cười vừa thề với lại câu: “Ai mà ti hí, chuột chí
cắn mắt đấy!” Y lời hẹn, tôi nhắm mắt ngồi cho mãi đến lúc nghe tiếng “hú tim”
vang bốn phía, mới đứng dậy đi tìm từng đứa em một. Rồi trong lòng tôi thấy nhẹ
vui sung sướng, trong khi đến bên bụi nhài, nắm cánh tay Hữu mà lôi Hữu ra ở dưới
khóm hoa…
Chúng tôi chơi đương lúc náo nức thì người nhà ra gọi vào.
Tôi bùi ngùi như khi xem một tích hát đương hay mà phải bỏ ghế đứng dậy. Vào
trong nhà, trông thấy thầy, mẹ tôi, lòng tôi tự nhiên sinh ra hổ thẹn. Tôi hổ
thẹn về những ý nghĩ của tôi khi ngồi đôi với Hữu. Tôi tự cho tôi là có tội.
Nhưng khi vào giường nằm thì những ý nghĩ ấy lại theo bóng tối mà trở lại óc
tôi. Tôi bỗng bực mình cho tôi sao không sinh ở những nước ngoài: những nước dù
đôi con cô con cậu ruột cũng có thể lấy nhau được. Ở nước mình, con cô, con cậu
ruột không lấy được nhau cái đó đã hẳn. Những cháu cô cháu cậu ruột có lấy được
nhau không? Tôi sực nhớ muốn rõ điều đó, cần phải xem bộ hội điển Gia Long!
Nhưng bộ sách ấy lại ở tận nhà quê, tôi có bay về mà xem ngay sao được! Lòng
tôi bị ngờ vực vò xé. Thế rồi tôi cầm chừng như sự tôi yêu Hữu là phạm cấm. Cõi
lòng tôi bỗng hóa một chiến trường mà quân địch đôi bên đương xô xát nhau kịch
liệt: bên tình và bên lễ. Bất thình lình, tôi bỗng như thấy một ông thánh Tàu
nào ghé tận tai tôi mà thét to cái “mạnh lệnh đích xác”: “Phát hồ tình, chỉ hồ
lễ, nghĩa!”[3] Mạnh
lệnh ấy đập vào óc tôi như một nhát roi điện. Chịu nhát roi ấy, quân bên tình
núng thế, chịu thua. Tôi quyết lòng tuyệt giao với thằng giặc Tình, nếu nó dám
đương đầu với ông chúa Lễ. Không phải tôi có yêu gì ông chúa chuyên chế ấy.
Nhưng tôi sợ ông, vì ông có quyền lột hết danh dự tôi, có quyền ruồng đuổi tôi
ra ngoài gia đình, ngoài xã hội. Bồ hôi trán tôi mướt ra, trong khi nghĩ đến rằng
nếu tôi yêu Hữu, quả là trái lễ! Tôi thở dài mà than cho bao nhiêu hạnh phúc chịu
hy sinh vì những mớ giấy lộn ở trong đời!
Mấy ngày hôm sau tôi những băn khoăn về cớ không biết tôi
yêu Hữu có hợp lễ không! Tôi nhìn Hữu bằng đôi mắt buồn rầu. Mắt tôi càng thấy
Hữu đáng yêu bao nhiêu, thì lòng tôi lại càng âm thầm đau đớn bấy nhiêu. Nhưng
may sao! làn mây ngờ vực sau khi làm u ám cõi lòng tôi suốt mấy đêm ngày, vì một
sự tình cờ, đã tan như lớp khói…
Trong một bữa cơm, thầy, mẹ tôi nói chuyện với nhau về một
đám mới cưới mà đôi vợ, chồng là đôi cháu cô, cháu cậu ruột. Thầy tôi phàn nàn
là: lấy nhau gần quá! Mẹ tôi thì nói bằng giọng mai mỉa:
- Thì “hoài chuồng trấu ta cho gà người bới” chứ sao!
Nghe xong câu chuyện ấy, lòng tôi hồi hộp nửa mừng, nửa lo.
Cái cớ ấy, ai cũng có thể đoán mà biết được. Dù vậy, trí tôi cũng được một lúc
nhẹ nhàng. Tôi đã tự đáp được một câu hỏi mà luôn mấy hôm, không mấy lúc là tôi
không đem ra để tự hỏi. Trong xã hội đã có những đôi cháu cô, cháu cậu ruột
chính thức lấy nhau, thì sự yêu nhau của những đôi ấy, cố nhiên là không trái lễ
rồi. Nhưng chỉ trong giây lát, trong trí tôi lại nảy luôn ra hai câu hỏi nó làm
cho tôi bối rối chẳng kém gì câu hỏi trước. Tôi tự hỏi: Nhưng Hữu có yêu mình
hay không?
Nếu không, làm thế nào cho Hữu yêu mình? Cố nhiên tiếng
“yêu” tôi nói đây không phải là chỉ lòng yêu nhau của anh em, mà là chỉ lòng
yêu nhau của trai, gái, vợ, chồng. Tôi nào có cần gì đến lòng yêu anh em của Hữu!
- Nói thế, tôi lại không khỏi tức mình cho loài người, trong việc đặt tiếng
nói, nhiều khi tỏ ra hà tiện quá: bao nhiêu mối tình cảm khác nhau họ nỡ đem
gói tròn cả vào trong một tiếng “yêu”!
[1] Kinh Thư: “Ngoạn nhân táng
đức, ngoạn vật táng chí”.
[2] Bản Lê Cường 1940 in nhầm
thành “Kiến Nam”. Nhượng Tống muốn nhắc tới nhà thơ Lục Du đời Tống; Lục Du sẽ
còn xuất hiện thêm một lần nữa trong sách. Bài thơ trên đây dịch từ bài “Mai
hoa tuyệt cú” (ta nên nhớ nhân vật Hữu tên đầy đủ là “Mai Hữu”) rút từ tập Kiếm Nam thi thảo của Lục Du, phiên âm
tiếng Hán như sau:
Sơn nguyệt hạo trung đình
U nhân tửu sơ tỉnh
Bất thị kiếp thanh hàn
Sầu đạp mai hoa ảnh
Văn Nhượng Tống lần đầu mình được đẹp. Văn đẹp nhỉ? Cuốn "Lan Hữu" này có khả năng tái bản không?
ReplyDeletetrong lúc chờ đợi Nhượng Tống tái bản, hãy đọc tiểu thuyết "Một mùa hè" :p
ReplyDeletebạn Nhị giỏi dẫn dắt người khác vào cuộc nhỉ :P
ReplyDelete