Sao cho trong ấm là số XVII, tại sao giờ đã đến số XIX rồi? Tôi nhầm lẫn, bởi vì mấy cái thứ số La Mã quá phức tạp chăng? Cũng có thể; nhưng nói cho đúng, số XVIII tôi quyết định để lại sau: XVIII đích xác là cột mốc báo hiệu tôi đã đến đúng một nửa chặng đường Balzac của riêng tôi.
Đi đến một nửa, đồng thời tác phẩm số XVIII vừa là kết thúc "vòng thứ hai" vừa mở ra "vòng thứ ba". Đối với riêng tôi, nó có ý nghĩa đặc biệt, nên tôi để yên nó ở đó đã. Cũng không nên khuấy động vội.
Và như vậy, với số XIX (tức là gần tròn hai chục), ta đã bước hẳn sang vòng thứ ba các tác phẩm của Balzac. Đây sẽ là một tác phẩm thuộc phần "triết học".
L'Auberge Rouge cũng sẽ được đầy đủ luôn, như vậy đây là tác phẩm thứ tư của Balzac tôi hoàn thành (một phát xong luôn), sau Nàng tình nhân hờ, Vĩnh biệt và Sao cho trong ấm. Nhìn rộng hơn ra, đến đây, tôi đã đến với tác phẩm thứ tư thuộc phần "triết học" của Vở kịch con người: đó là sau Séraphîta, Louis Lambert và Vĩnh biệt. Tôi từng nói (chẳng biết ai còn nhớ không), phần "triết học" của Vở kịch con người có tổng cộng hai mươi tác phẩm, nhưng mới chỉ có năm bản dịch tiếng Việt. Thêm bốn tác phẩm, rồi chỉ cần một nữa là chúng ta sẽ đến được mức giữa, mức một nửa. Tôi cũng sẽ sớm dịch nhát thứ năm của phần triết học này.
Ở phần "tỉnh", với Ursule Mirouët và Gái già, tôi cũng đã bổ sung để từ mức sáu trên mười tác phẩm đã có bản dịch tiếng Việt, giờ đã là tám trên mười. Với Viên bác sĩ nông thôn, có thể coi là đã hoàn toàn khép lại được phần về "nông thôn". Một vụ việc ám muội cũng có tính chất then chốt đối với một phần khác của Vở kịch con người. Còn lại phần đồ sộ và phức tạp nhất, phần đầu tiên, "cuộc sống riêng" (cũng như phần về Paris), tôi sẽ sớm nói kỹ hơn.
Cảnh báo: Quán trọ Đỏ là một câu chuyện rùng rợn.
Một điều nho nhỏ nhưng tôi thấy rất ý nghĩa: đối với triết gia Alain, Quán trọ Đỏ tuy là một tác phẩm tương đối ngắn nhưng có ý nghĩa rất đặc biệt, trong tổng số tác phẩm của Balzac.
Và tất nhiên, đã đầy đủ Sao cho trong ấm (cuối cùng thì nữ bá tước de Soulanges gì sẽ làm gì tại cuộc vũ hội nơi dinh thự bá tước de Gondreville?)
Quán trọ Đỏ
Tặng ông hầu tước de Custine.
Vào một năm không rõ là năm nào, một chủ ngân hàng ở Paris,
vốn dĩ có các mối quan hệ thương mại rất rộng bên Đức, mở tiệc ăn mừng một
trong những người bạn, họ, thường chưa bao giờ gặp suốt một thời gian dài, là
kiểu bạn mà các thương gia hay có thông qua thư tín. Người bạn này, chủ của một
hãng cũng không rõ là hãng nào khá lớn tại Nuremberg, là một người Đức to béo tốt
tính, có gu và uyên bác, nhất là hay hút tẩu, có một khuôn mặt Nuremberg đẹp, lớn,
trán vuông, rộng, điểm một ít tóc vàng lơ thơ. Ông trưng bày típ những đứa con
của cái xứ Germanie thuần khiết và cao quý ấy, vô cùng phong nhiêu về khoản
tính cách đáng trọng, mà các phong hóa êm đềm chẳng bao giờ bị chối bỏ, ngay cả
sau bảy cuộc xâm chiếm. Người khách lạ cười lớn vẻ thuần hậu, lắng nghe đầy
chăm chú, và có tửu lượng rất cao cường, tỏ ra thích rượu Champagne, có lẽ ở
ngang mức với các loại vang thơm của Johannisberg. Ông tên là Hermann, giống gần
như tất tật người Đức vẫn hay được các tác giả lấy làm nhân vật. Ở tư cách con
người không biết làm điều gì một cách nhẹ nhàng, ông ngồi chễm chệ nơi bàn của
chủ ngân hàng, với sự phàm ăn thô lỗ lừng danh khắp châu Âu, và nói một lời
vĩnh biệt đầy ý thức với cuisine của CARÊME vĩ đại. Nhằm vinh danh người khách,
chủ nhà đã mời vài người bạn thân thiết, nhà tư bản hoặc lái buôn, nhiều phụ nữ
khả ái, xinh đẹp, mà những lời trò chuyện duyên dáng cùng các cung cách thẳng
thắn rất ăn nhịp với sự lịch thiệp kiểu Germain. Thực sự, nếu từng chứng kiến,
như tôi rất mong muốn, cuộc họp mặt vui tươi của những người đã cất các móng vuốt
thương mại của mình đi để suy tưởng về những khoái lạc cuộc đời, chắc hẳn bạn sẽ
khó lòng căm ghét những khoản chiết khấu nặng lãi hay nguyền rủa các vụ phá sản.
Con người đâu có thể lúc nào cũng làm điều xấu. Vậy nên, kể cả ở xã hội của đám
cướp biển, vẫn phải có vài tiếng đồng hồ êm ả trong đó bạn cứ tưởng mình, ngay
trên con tàu hắc ám của bọn họ, như là đang ở trên một cái xích đu.
“Trước khi chia tay chúng ta, ông Hermann sẽ còn kể chuyện
cho chúng ta, tôi hy vọng điều đó, một câu chuyện Đức khiến chúng ta phải khiếp
sợ.”
Những lời ấy được phát biểu vào lúc dùng món tráng miệng bởi
một phụ nữ trẻ có nước da nhạt màu và mái tóc vàng, chắc hẳn cô từng đọc các
câu chuyện của Hoffmann cùng những tiểu thuyết của Walter Scott. Đó là con gái
độc nhất của ông chủ ngân hàng, tạo vật tươi tắn mà sự giáo dục đạt đến tận mức
Gymnase, và vô cùng thích các vở kịch mà người ta diễn ở đó. Lúc này, khách khứa
đang ở vào cái tâm trạng sung sướng của lười nhác và im lặng nơi một bữa ăn tuyệt
ngon đặt chúng ta vào, khi chúng ta đã đánh giá hơi quá cao sức mạnh tiêu hóa của
bản thân. Tựa lưng vào thành ghế, cổ tay đặt khẽ lên gờ bàn, mỗi người khách lười
biếng nghịch cái lưỡi mạ vàng con dao của mình. Khi một bữa tối đã đến khoảnh
khắc suy tàn này, một số người vần vò lõi một quả lê; những người khác thì lấy
ngón tay cái và ngón tay trỏ vê một mẩu bánh bì nhỏ; những người đang yêu dùng
đống vỏ hoa quả xếp thành những chữ dị hình; những kẻ hà tiện đếm đống hồ đào
và xếp chúng lên đĩa như một kịch tác gia bố trí các diễn viên phụ của ông ta ở
tận sâu một nhà hát. Đó là những lạc thú nho nhỏ của chuyện ăn uống đã không được
liệt kê trong cuốn sách của Brillat-Savarin, mà vốn dĩ đó là một tác giả rất đầy
đủ. Đám người hầu đã biến mất. Giờ ăn tráng miệng giống như một hạm đội sau trận
chiến, tơi tả, tồi tàn, tan nát. Những cái đĩa lang thang vô định trên mặt bàn,
mặc cho sự bướng bỉnh mà bà chủ nhà bày tỏ trong việc đặt chúng về đúng chỗ.
Vài người nhìn các bức tranh phong cảnh Thụy Sĩ treo rất cân xứng trên mấy bức
tường màu ghi của phòng ăn. Chẳng người khách nào thấy buồn chán. Chúng ta
không hề biết đến người nào còn có thể buồn bã trong khoảng thời gian tiêu hóa
một bữa ăn ngon. Khi ấy chúng ta thích nán lại trong một sự yên bình nào không
rõ, dạng trung điểm giữa mơ mộng của nhà tư tưởng và sự thỏa mãn của các con
thú thuộc dòng nhai lại, mà ta phải gọi là nỗi sầu muộn mang tính cách vật chất
của bộ môn ăn uống. Thế cho nên khách khứa liền quay hết về phía ông người Đức
tốt tính, tất cả đều ngây ngất vì có một bản ba lát để nghe, dẫu cho nó chẳng mấy
hấp dẫn. Trong quãng nghỉ lành hiền đó, giọng của một người kể chuyện luôn luôn
như thể thật tuyệt diệu đối với ngũ quan đã trở nên đờ đẫn của chúng ta, nó giúp
nhiều cho hạnh phúc âm tính. Vốn dĩ là người đi tìm kiếm các bức tranh, tôi hay
ngưỡng mộ những khuôn mặt trở nên vui sướng bởi một nụ cười, được chiếu sáng bởi
các ngọn nến, mà sự ăn ngon đã làm cho đỏ tía lên; nhiều biểu hiện đa dạng của
họ tạo ra những hiệu ứng nhiều hương vị xuyên qua dãy chân nến, đám bình lọ bằng
sứ, những thứ quả và đồ pha lê.
Đột nhiên trí tưởng tượng của tôi sửng sốt trước dáng vẻ của
người khách đang ngồi ngay trước mặt tôi. Đó là một người đàn ông tầm thước,
khá béo, hay cười, có lối nói năng, các cung cách của một nhân viên hối đoái,
và dường như chỉ được phú cho một tinh thần hết sức thông thường, tôi còn chưa
hề để ý đến ông ta; đúng lúc đó, khuôn mặt ông, chắc hẳn bị sạm đi bởi thứ ánh
sáng trong phòng, khiến tôi thấy như thể thay đổi tính cách; nó trở nên xỉn;
các sắc tím vạch thành rãnh trên đó. Hẳn bạn có thể nói đó là cái mặt nhợt sắc
của một người đang hấp hối. Bất động giống như các nhân vật được vẽ trong một
Diorama, cặp mắt thất thần của ông nhìn chăm chăm vào các mặt nhỏ xíu sáng bừng
của một cái nút pha lê; nhưng chắc chắn ông không đếm chúng, và như thể chui tọt
sâu xuống một chiêm ngưỡng kỳ ảo nào vào tương lai hoặc quá khứ. Khi đã săm soi
một lúc lâu khuôn mặt khó diễn tả ấy, nó làm tôi nghĩ: “Ông ta đang đau khổ?
tôi tự nhủ. Hay ông ta đã uống quá nhiều? Ông ta bị khánh kiệt vì tiền mất giá?
Ông ta đang nghĩ đến chuyện chơi cho các chủ nợ một vố?”
“Nhìn xem! tôi nói với người phụ nữ ngồi bên cạnh, chỉ cho
nàng khuôn mặt người lạ, đó chẳng phải là một vụ phá sản đang nở hoa đấy ư?
- Ồ! nàng đáp, hẳn ông ấy sẽ vui lên thôi.” Rồi, duyên dáng
khẽ lắc đầu, nàng nói tiếp: “Nếu cái ông này có bao giờ bị lụn bại, thì tôi sẵn
sàng đi đầu xuống đất! Ông ấy sở hữu một triệu về khoản điền địa đấy! Trước kia
ông ấy là một nhà cung ứng cho các đội quân đế chế, một người tốt khá là độc
đáo. Ông ấy đã tục huyền để đầu cơ, và thế nhưng lại làm vợ ông ấy trở nên hạnh
phúc cực điểm. Ông ấy có một cô con gái xinh đẹp mà, suốt một thời gian dài,
ông ấy không muốn nhận; nhưng cái chết của con trai ông ấy, thật không may bỏ mạng
trong một cuộc đấu súng, đã buộc ông ấy phải đưa cô gái về sống cùng, vì ông ấy
không thể có con được nữa. Cô gái khốn khổ vậy là đột nhiên trở thành một trong
những nữ nhân thừa kế giàu nhất Paris. Việc mất đi đứa con trai duy nhất đã nhấn
cái ông thân mến đó vào một nỗi buồn khổ đôi khi xuất hiện trở lại.”
Đúng lúc ấy, nhà cung ứng ngẩng đầu lên nhìn tôi; ánh mắt
ông khiến tôi phát run, vì nó u tối và tư lự biết chừng nào! Chắc chắn, cái
nhìn ấy tóm tắt cả một cuộc đời. Nhưng bỗng dưng vẻ mặt ông trở nên vui tươi;
ông nhặt lấy cái nút chai pha lê, đặt nó, bằng một động tác máy móc, lên một
bình đựng đầy nước nằm trước cái đĩa của ông, và quay đầu về phía ông Hermann,
mỉm cười. Người đàn ông đó, hứng khởi bởi những hân hưởng của sự ăn uống, chắc
hẳn đầu óc chẳng vướng bận lôi thôi, và chẳng nghĩ đến bất kỳ điều gì. Vậy nên
tôi, theo cách nào đó, thấy ngượng vì đã áp dụng bộ môn khoa học chuyên về đoán
định của tôi in anima vili của một
nhà tài chính xuẩn ngốc. Trong lúc tôi thực hiện, mà xôi hỏng bỏng không, những
quan sát thuộc vào môn tướng sọ học, ông người Đức tốt bụng đã nhét vào mũi một
ít bột thuốc lá, và khởi sự câu chuyện của mình. Chắc hẳn đối với tôi sẽ là khó
khăn để tái tạo nó bằng đúng các từ ngữ, với những chỗ ngắt ngang giữa chừng
liên tục và các trữ tình ngoại đề lắm lời nhiều lẽ. Thế cho nên tôi đã viết lại
nó, bỏ các nhầm lẫn lại cho con người Nuremberg kia, chỉ chiếm đoạt lấy những
gì ở nó có thể nhiều tính cách thơ ca và hấp dẫn, với sự ngây thơ của những nhà
văn quên không viết bên dưới nhan đề những cuốn sách của họ: dịch từ tiếng Đức.
TƯ
TƯỞNG VÀ SỰ KIỆN
“Quãng cuối vendémiaire, năm VII, cái giai đoạn cộng hòa, mà
theo phong cách hiện hành, tương ứng với ngày 20 tháng Mười năm 1799, hai thanh
niên, khởi hành từ Bonn lúc sáng tinh mơ, kịp hoàng hôn thì tới vùng phụ cận
Andernach, thành phố nhỏ nằm trên tả ngạn sông Rhin, cách Coblentz vài dặm. Vào
lúc ấy, quân đội Pháp dưới quyền chỉ huy của tướng Augereau đang thực hiện ma nớp
trước quân Áo, họ chiếm bên hữu ngạn của dòng sông. Đại bản doanh của sư đoàn cộng
hòa đặt tại Coblentz, và một trong các tiểu đoàn thuộc quân số của Augereau
đóng ở Andernach. Hai lữ khách là người Pháp. Nhìn bộ quân phục màu xanh lẫn sắc
trắng của họ, rồi thì những trang trí bằng nhung đỏ, kiếm của họ, nhất là cái
mũ phủ tấm vải thô chống nước màu lục, và điểm thêm một chùm lông tam tài, bản
thân các nông dân Đức hẳn cũng nhận ra họ là bác sĩ quân y, những con người của
khoa học và có phẩm cách, phần lớn được yêu mến, không chỉ trong quân đội, mà cả
ở các đất nước bị những đội quân của chúng ta xâm chiếm. Thời đó, nhiều con cái
nhà danh giá bị bứng đi khỏi kỳ thực tập y khoa bởi đạo luật mới ban về tòng
quân do tay tướng Jourdan, hết sức tự nhiên, đã thích tiếp tục học tập trên chiến
địa hơn so với bị sung vào phục vụ trong hàng lính chiến, chẳng mấy ăn nhập với
sự giáo dục đầu tiên của họ cũng như số phần êm ả của họ. Vốn dĩ là những con
người của khoa học, ưa hòa bình và nhiều ích lợi, các thanh niên đó làm được một
số việc tốt ở giữa ngần ấy nỗi bất hạnh, và hòa hợp được với các nhà thông thái
của nhiều vùng đất khác nhau mà nền văn minh tàn nhẫn của Cộng Hòa quét qua. Cầm
theo, cả hai người, một tờ quân lệnh và được giao làm phó y sĩ, ký tên Coste và Bernadotte, hai chàng thanh niên đi tới
chỗ tiểu đoàn nơi họ được cử đến. Cả hai đều thuộc những gia đình tư sản
Beauvais giàu có vừa vừa, nhưng ở đó phong hóa êm dịu và lòng trung thực của
các tỉnh được truyền thừa giống như một phần di sản. Bị lôi vào sân khấu cuộc
chiến tranh từ trước giai đoạn vốn dĩ được tính sẵn để họ bắt đầu công vụ, bởi
một sự hiếu kỳ rất tự nhiên nơi các chàng trai trẻ, họ đã đi xe ngựa đến
Strasbourg. Dẫu sự cẩn trọng của mẹ họ chắc hẳn đã chỉ để cho họ mang theo một
món tiền nhỏ, họ tưởng mình rất giàu vì sở hữu vài đồng louis, một kho báu đúng
nghĩa vào cái lúc tiền assignat đã đạt đến mức độ suy thoái lớn nhất, cũng là
lúc vàng đáng giá hơn bạc rất nhiều. Hai chàng phó y sĩ, cùng lắm thì cũng mới
hai mươi tuổi, tuân theo thứ thơ ca hoàn cảnh của họ với toàn bộ lòng hào hứng
của tuổi trẻ. Từ Strasbourg đến Bonn, họ đã thăm Đất Tuyển Hầu và hai bên bờ
sông Rhin với tư cách nghệ sĩ, triết gia, người quan sát. Khi có một số phần
mang tính cách khoa học, ở cái tuổi ấy chúng ta là những con người thực sự được
nhân lên nhiều lần. Ngay cả trong địa hạt tình ái, hoặc trong lúc du hành, một phó
y sĩ cũng phải tích trữ các cơ sở ban đầu cho tài sản hoặc vinh quang sắp tới của
anh ta. Vậy nên hai chàng thanh niên đã buông mình vào sự ngưỡng mộ sâu sắc ấy,
nó xâm chiếm những người có học trước dáng vẻ bờ sông Rhin và các phong cảnh
vùng Souabe, giữa Mayence và Cologne; tự nhiên mạnh mẽ, phong phú, gập ghềnh dữ
dội, chất đầy những kỷ niệm phong kiến, xanh um, nhưng vẫn giữ ở mọi nơi các dấu
ấn của máu lửa đụng độ. Louis XIV và Turenne đã đốt cháy cái vùng đất tươi tắn
này. Đây đó, những đống đổ nát chứng nhận cho lòng kiêu ngạo, hoặc giả có lẽ là
sự nhìn xa trông rộng của ông vua ở Versailles, người đã cho triệt hạ những lâu
đài đáng ngưỡng mộ xưa kia từng điểm trang cho vùng nước Đức đó. Nhìn thấy mảnh
đất tuyệt mỹ này, phủ đầy những khu rừng, và là nơi cái đẹp của Trung Cổ tràn
ngập, nhưng là dưới dạng các đổ nát, ta hình dung được thiên tài Đức, những mơ
mộng của nó và thuyết thần bí của nó. Tuy nhiên kỳ lưu trú của hai người bạn tại
Bonn có một mục đích khoa học và cả khoái lạc nữa. Bệnh viện lớn của đội quân
Pháp-Batavia cũng như của sư đoàn tướng Augereau được dựng tại chính cung điện
của Tuyển Hầu. Thế cho nên hai chàng phó y sĩ mới tinh tươm đã đến đó gặp các đồng
đội, trình giấy tờ cho các sĩ quan chỉ huy, và làm quen ở đó với những ấn tượng
đầu tiên của nghề nghiệp. Nhưng nữa, ở đó, cũng như các nơi khác, họ lột bỏ đi
một số trong những định kiến khăng khăng mà chúng ta trung thành lâu tới vậy,
nghiêng về các công trình và vẻ đẹp của quê hương chúng ta. Sửng sốt trước dáng
vẻ những cây cột đá hoa cương tô điểm cho cung điện tuyển hầu, họ tới ngắm sự kỳ
vĩ các công trình xây dựng Đức, và ở mỗi bước đi lại tìm ra thêm các kho báu cổ
xưa hay hiện đại. Thỉnh thoảng, những con đường nơi hai người bạn lang thang
trong lúc tiến về phía Andernach đưa họ tới chỏm cao của một ngọn núi đá granit
cao hơn các ngọn núi khác. Ở đó, do một vệt cắt của khu rừng, do một sự phạt xuống
của các tảng đá, họ nhìn thấy một quang cảnh nào đó của sông Rhin lộng khung
trong cát hoặc thêu viền những cây cối xanh tươi. Các thung lũng, những lối đi,
đám cây tỏa ra cái hương vị mùa thu ấy, nó xui khiến mơ mộng; các ngọn cây
trong rừng bắt đầu điểm vàng, mang những tông màu nóng và nâu, các dấu hiệu của
tuổi già; nhiều lá rụng, nhưng bầu trời thì vẫn một màu thanh thiên thật đẹp,
và những con đường, khô ráo, vẽ ra giống như những đường thẳng màu vàng lẫn vào
trong phong cảnh, lúc đó được rọi sáng bởi các tia nắng xiên của mặt trời lặn.
Còn cách Andernach nửa dặm, hai người bạn bước đi giữa một im lặng thẳm sâu,
như thể chiến tranh không hề tàn phá cái vùng đất đẹp đẽ này, và theo một con
đường cho lũ dê xuyên qua những bức tường đá granit màu xanh nhạt cao vút giữa
chúng sông Rhin sôi sục. Họ sớm đi xuống theo một triền của cái hẻm mà ở dưới
đáy có thành phố nhỏ, đỏng đảnh ngồi tựa vào bờ sông, nơi nó bày ra một bến cảng
xinh xắn cho cánh thủy thủ. “Nước Đức đúng là quá đẹp”, một trong hai chàng
trai kêu lên, anh tên là Prosper Magnan, đúng vào lúc thoáng nhìn thấy những
ngôi nhà sơn màu của Andernach, ép sát vào nhau giống như đống trứng trong một
cái giỏ, ngăn cách với nhau bởi cây cối, các khu vườn và hoa. Rồi anh ngắm nhìn
một lúc các mái nhà nhọn hoắt có rầm nhô ra, những cầu thang bằng gỗ, các hành
lang gồm cả nghìn ngôi nhà yên bình, và những con thuyền đung đưa trên sóng ở bến
cảng…”
Khi ông Hermann nói đến cái tên Prosper Magnan, nhà cung ứng
túm lấy bình nước, đổ vào cốc của mình, rồi một hơi cạn hết sạch. Hành động này
khiến tôi để ý, tôi nghĩ mình nhận ra một thoáng run rẩy ở hai bàn tay ông và
ánh mồ hôi ẩm ướt trên trán của nhà tư bản.
“Nhà cựu cung ứng tên là gì? tôi hỏi người phụ nữ vui tươi
ngồi bên cạnh.
- Taillefer, nàng đáp.
- Ông thấy khó ở à? tôi kêu lên khi nhìn thấy cái nhân vật kỳ
khôi kia tái mặt đi.
- Không hề, ông ta vừa đáp vừa phác một cử chỉ lịch thiệp.
Tôi đang nghe chuyện thôi, ông nói thêm, gật đầu về phía những người khác, tất
cả đều đang đồng loạt nhìn ông.
- Tôi đã quên, ông Hermann nói, tên của chàng thanh niên còn
lại. Chỉ có điều, những lời kể của Prosper Magnan cho tôi biết người bạn đồng
hành của anh ta tóc nâu, khá gầy và tính khí vui vẻ. Nếu các vị cho phép, tôi sẽ
gọi anh ta là Wilhem [Balzac viết “Wilhem” chứ không phải “Wilhelm”], nhằm khiến
cho câu chuyện trở nên sáng sủa hơn.”
Ông người Đức trung hậu kể tiếp sau khi, chẳng hề tỏ lòng
tôn trọng chủ nghĩa lãng mạn và màu sắc lô can, ông đặt tên cho viên phó y sĩ
người Pháp một cái tên germanique.
“Tới đây tôi phải xin nói, ông Hermann ngưng lại giữa chừng, rằng chúng tôi đã không bao giờ biết cả tên đúng cũng như câu chuyện của người lạ mặt kia; chỉ là, giấy tờ của ông ta cho biết ông ta từ Aix-la-Chapelle tới; ông ta mang họ Walhenfer, và sở hữu ở vùng ven Neuwied một nhà máy sản xuất ghim khá lớn. Cũng như mọi nhà công nghiệp của vùng này, ông ta mặc một cái áo rơ đanh gốt bằng dạ thường, một cái quần cộc và một cái áo gi lê bằng nhung màu lục sẫm, đi bốt và thắt một cái dây lưng da to bản. Khuôn mặt ông ta tròn xoe, các cung cách thì thẳng thắn và lịch thiệp; nhưng buổi tối hôm đó đối với ông ta thật quá khó để che giấu hoàn toàn những sợ hãi ngấm ngầm hoặc giả cũng có thể là các lo âu khủng khiếp. Ông chủ quán trọ luôn luôn giữ ý kiến rằng ông lái buôn người Đức ấy đang chạy trốn khỏi đất nước. Về sau, tôi được biết nhà máy của ông ta đã bị thiêu cháy bởi một trong những sự tình cờ thật không may quá thường hay xảy ra trong chiến tranh. Mặc cho biểu hiện nhìn chung là lo lắng, vẻ mặt ông ta thông báo một sự tốt tính lớn. Ông ta có các đường nét đẹp, và nhất là một cái cổ lớn mà màu trắng càng trở nên nổi bật hơn nhờ một cái cà vạt đen, mà Wilhem chỉ cho Prosper, đầy vẻ chế nhạo…”
Lúc này, ông Taillefer uống một cốc nước.
“Prosper lịch thiệp mời ông lái buôn dùng chung bữa xu pe với
họ, và Walhenfer nhận lời ngay không khách khí, giống như một người cảm thấy
mình đủ sức nhận ra sự lịch thiệp này; ông ta đặt cái va li xuống đất, giẫm hai
chân lên, bỏ mũ, ngồi vào bàn, tháo đôi găng tay cùng hai khẩu súng ngắn giắt ở
thắt lưng. Vì ông chủ đã mau mắn bày cho ông ta một bộ đồ ăn, ba người khách bắt
đầu thỏa mãn cơn đói, một cách khá lặng lẽ. Bầu không khí trong căn phòng nóng
và muỗi thì nhiều, đến nỗi Prosper nhờ ông chủ mở cửa sổ nhìn ra ngoài, cho
thoáng khí. Cửa sổ này được chặn lại bởi một thanh sắt, hai đầu gắn vào hai cái
lỗ đục vào hai góc bên khuôn cửa. Để tăng phần an ninh, hai đai ốc, gắn vào cả
hai bên chớp, được vít lại. Do tình cờ, Prosper săm soi cách thức ông chủ sử dụng
để mở cửa sổ.
Tới đây ông Taillefer chùi trán và uống thêm một ít nước nữa.
“Chậm rãi, Prosper nhỏm dậy, không hề gây tiếng động. Chắc chắn là mình đã không đánh thức ai dậy, anh mặc quần áo, đi sang căn phòng chung; rồi, với cái trí năng đầy định mệnh mà con người đột nhiên tìm thấy trong mình, với sức mạnh của sự tinh tế và ý chí ấy, thứ chẳng bao giờ thiếu vắng cả với các tù nhân lẫn những tên tội phạm trong khi thành tựu các dự đồ của bọn họ, anh mở mấy cái đinh vít giữ các thanh sắt, gỡ chúng ra khỏi mấy cái lỗ mà không gây chút ồn ào nào, đặt chúng xuống đất gần tường, và mở các chớp, khiến chúng tì mạnh xuống bản lề nhằm làm giảm tiếng cọt kẹt. Ánh trăng chiếu luồng sáng nhạt của nó xuống cảnh này, cho phép anh nhìn thấy lờ mờ những thứ đồ vật trong căn phòng nơi Wilhem và Walhenfer đang ngủ. Tới đây, anh ta kể với tôi là đã dừng lại một chốc lát. Tim anh ta đập liên hồi, mạnh, sâu và to đến nỗi anh ta thấy hoảng hốt. Rồi anh sợ không thể hành động một cách lạnh lùng; hai bàn tay anh run lên, gan bàn chân như thể đang giẫm lên than hồng. Nhưng việc thực hiện kế hoạch đã hết sức may mắn, đến mức anh thấy một dạng tiền định trong sự ưu ái này của số phận. Anh mở cửa sổ, quay trở lại trong phòng ngủ, rút hộp dụng cụ ra, tìm trong đó món đồ thích hợp nhất để tiến hành tội ác. “Khi lại gần cái giường, anh ta nói với tôi, một cách máy móc tôi thầm tự giao nộp mình cho Chúa.” Đúng lúc giơ tay lên, dồn hết sức lực, anh nghe thấy trong mình như thể một giọng nói, và nghĩ là đã nhìn thấy một tia sáng. Anh ném món đồ xuống giường, chạy sang phòng bên kia, và tới đứng trước cửa sổ. Ở đó, anh hình dung nỗi kinh hoảng sâu thẳm nhất đối với bản thân anh; và thế nhưng cảm thấy đức hạnh của mình quá yếu ớt, vẫn còn sợ sẽ gục ngã trước sự quyến rũ đang giằng xé anh, anh vội vã nhảy ra ngoài con đường và đi dọc sông Rhin, cứ như thể anh muốn canh gác trước quán trọ. Thường thì anh đi đến tận Andernach trong cuốc đi dạo hối hả ấy; cũng rất thường các bước chân của anh dẫn tới triền dốc mà anh đã đi xuống để đến chỗ quán trọ; nhưng sự im lìm của đêm thì sâu thẳm, anh lại hết sức tin tưởng vào lũ chó, đến nỗi, đôi khi, anh không nhìn thấy cái cửa sổ mà anh vẫn để mở. Mục đích của anh là tự làm cho mình mệt để có thể ngủ. Tuy nhiên, trong lúc bước đi như thế dưới một bầu trời không mây, ngắm nhìn các vì sao, có lẽ cũng ngây ngất trước làn không khí thuần dịu của đêm và bởi tiếng sóng vỗ sầu muộn, anh rơi vào một cơn mơ mộng dẫn dắt anh theo các mức độ đến với những ý nghĩ lành mạnh của đạo đức. Rốt cuộc lý trí đã phá tan hoàn toàn cơn cuồng nhiệt thoáng chốc nơi anh. Những dạy dỗ mà anh từng được hưởng trong sự giáo dục, các giới luật tôn giáo, và nhất là, anh ta kể với tôi, các hình ảnh cuộc sống khiêm nhường mà anh từng có cho tới lúc ấy dưới mái nhà của bố mẹ, giành thắng lợi trước những suy nghĩ xấu xa. Khi anh quay trở lại, sau một hồi trầm tư thật lâu, trên bờ sông Rhin anh buông mình vào sự quyến rũ của nghĩ suy, chống khuỷu tay lên một tảng đá lớn, chắc hẳn anh có thể, anh ta nói với tôi, không phải ngủ, mà thức ngay bên cạnh một tỉ đồng tiền vàng. Vào lúc lòng trung thực của anh dựng lại đầy kiêu hãnh và mạnh mẽ từ cuộc chiến đấu ấy, anh quỳ gối xuống trong một cảm giác ngây ngất của hạnh phúc, cảm ơn Chúa, thấy mình sung sướng, nhẹ, thỏa mãn, giống ngày làm lễ ban thánh thể đầu tiên, khi anh đã nghĩ mình xứng đáng với các thiên thần, bởi vì đã qua cả ngày mà không phạm lỗi cả trong lời lẽ, hành động lẫn suy nghĩ. Anh quay trở lại quán trọ, đóng cửa sổ lại mà không ngại gây tiếng ồn, và nằm ngay lên giường. Sự mệt mỏi tinh thần và thể chất đẩy anh không thể chống cự vào cơn ngủ. Không lâu sau khi đặt đầu lên tấm nệm, anh rơi vào giấc thiu thiu đầu tiên đầy huyễn tưởng luôn luôn đi trước một giấc ngủ sâu. Khi ấy ngũ quan anh trở nên đờ đẫn, và cuộc sống dần dần xóa bỏ đi; các suy nghĩ thì không đầy đủ, và những nhảy dựng lên cuối cùng các ngũ quan chúng ta đóng giả một dạng mơ mộng. “Sao không khí nặng nề thế nhỉ, Prosper tự nhủ. Mình thấy như là đang hít vào một thứ khói ẩm.” Anh mơ hồ tự giải thích đặc điểm đó của bầu không khí bằng khác biệt chắc phải có giữa nhiệt độ trong phòng và không khí trong lành ngoài vùng nông thôn. Nhưng anh sớm nghe thấy một tiếng động đều đặn khá giống với tiếng những giọt nước nhỏ từ một cái rô bi nê. Tuân theo một nỗi hãi hùng hoảng sợ, anh những muốn dậy và gọi ông chủ, đánh thức viên thương gia hoặc Wilhem; nhưng, thật bất hạnh cho anh, anh chợt nhớ đến cái đồng hồ bằng gỗ; và cứ tưởng mình đang nhận ra chuyển động của con lắc, anh thiếp đi vào trong cái tri giác lờ mờ và hỗn độn ấy.”
“Ông muốn uống nước à, ông Taillefer?” ông chủ nhà hỏi, khi
nhìn thấy ông chủ ngân hàng máy móc đưa tay với bình nước.
Nó đã cạn sạch.
Ông Hermann tiếp tục câu chuyện, sau quãng dừng ngắn gây ra
bởi câu nói của ông chủ ngân hàng.
Đến đây ông Taillefer bật ho, rút khăn mùi soa từ trong túi áo ra để hỉ mũi, và lau trán. Những động tác khá tự nhiên ấy chỉ mình tôi để ý; mọi người khách đều dán chặt mắt vào ông Hermann, và lắng nghe như thể thèm khát. Nhà cung ứng chống khuỷu tay lên bàn, tựa đầu vào bàn tay bên phải, và nhìn Hermann đăm đăm. Từ lúc ấy, ông ta không còn để lộ một dấu hiệu nào nữa của xúc cảm hay quan tâm; nhưng vẻ mặt ông vẫn tư lự và tối xỉn, giống cái lúc ông ta nghịch cái nút chai.
“Dụng cụ phẫu thuật mà kẻ sát nhân đã sử dụng nằm trên bàn cùng cái hộp, ví tiền và giấy tờ của Prosper. Các ánh mắt của đám đông chuyển từ những vật chứng đó sang chàng thanh niên, trông anh như thể sắp chết, với cặp mắt tắt ngấm dường như không nhìn thấy gì. Tiếng rì rầm hỗn độn cất lên từ bên ngoài tố cáo sự hiện diện của đám đông bị thu hút đến trước quán trọ bởi tin về tội ác, và có lẽ cũng bởi cả ham muốn nhận biết kẻ sát nhân. Tiếng bước chân của lính gác bên dưới những cửa sổ của căn phòng, tiếng động gây ra bởi những khẩu súng trường của họ chế ngự tiếng thì thào nói chuyện của dân chúng; nhưng quán trọ đã bị đóng kín, ngoài sân vắng hoe và im lìm. Không thể chịu nổi ánh mắt của viên sĩ quan đang viết biên bản, Prosper Magnan cảm thấy bàn tay mình được siết chặt bởi một người đàn ông, và ngẩng đầu lên để nhìn xem ai là người bảo vệ cho mình giữa đám đông thù địch kia. Anh nhận ra, căn cứ vào bộ quân phục, viên bác sĩ quân y của tiểu đoàn đóng quân ở Andernach. Ánh mắt của người đàn ông này thật thấu suốt, thật nghiêm khắc, đến nỗi chàng thanh niên khốn khổ rùng mình, và buông đầu xuống lưng tựa của cái ghế. Một người lính cho anh hít giấm, và ngay lập tức anh tỉnh lại. Tuy nhiên, cặp mắt thất thần của anh trông rõ là không có sức sống và trí năng, thành thử bác sĩ nói với viên sĩ quan, sau khi bắt mạch cho Prosper: “Đại úy, không thể thẩm vấn anh ta vào lúc này đâu. - Vậy thì! đưa anh ta đi, viên đại úy đáp, ngắt lời bác sĩ, bảo một viên đội đứng sau lưng phó y sĩ. - Đồ hèn nhát bẩn thỉu, người lính hạ giọng nói với anh, ít nhất thì cũng cố mà đi cho vững trước đám người Đức kia, để cứu vãn danh dự cho Cộng Hòa.” Mệnh lệnh này đánh thức Prosper Magnan, anh đứng dậy, đi vài bước; nhưng khi cửa mở ra, khi anh cảm thấy không khí bên ngoài ập vào mình, và nhìn thấy đám đông ào tới, sức lực liền rời khỏi anh, đầu gối anh lỏng ra, anh lảo đảo. “Tay sinh viên y khoa khốn kiếp này xứng đáng chết hai lần! Đi đi nào! hai người lính lấy tay xốc nách anh để đỡ anh đi. - Ôi! thằng hèn! thằng hèn! Hắn đấy, hắn đấy! hắn đây rồi! hắn đây rồi!” Những từ ấy như thể được nói bằng một giọng duy nhất, cái giọng hỗn loạn của đám đông vừa đi theo vừa chửi rủa anh, mỗi bước lại lớn thêm lên. Trong chuyến đi từ quán trọ tới nhà tù, sự ồn ào mà dân chúng và đám lính gây ra, tiếng thì thầm của nhiều cuộc trò chuyện khác nhau, quang cảnh bầu trời và sự mát mẻ của không khí, dáng vẻ Andernach và sự run rẩy của làn nước sông Rhin, những ấn tượng ấy đến với tâm hồn của viên phó y sĩ, mơ hồ, hỗn độn, u tối giống như mọi cảm giác mà anh đã cảm thấy kể từ lúc ngủ dậy. Đôi khi anh nghĩ, anh ta nói với tôi, mình không còn tồn tại nữa.
“Khi ấy tôi đang ở trong tù, ông Hermann ngừng câu chuyện. Vốn
dĩ hào hùng giống như mọi chúng ta ở tuổi hai mươi, tôi từng muốn bảo vệ đất nước
tôi, và chỉ huy một đại đội du kích mà tôi đã tổ chức ở vùng lân cận Andernach.
Vài hôm trước, trong đêm tôi đã chạm trán với một đơn vị lính Pháp gồm tám trăm
quân. Cùng lắm chúng tôi cũng chỉ có tổng cộng hai trăm người. Đám gián điệp của
tôi đã bán đứng tôi. Tôi bị ném vào nhà tù ở Andernach. Khi ấy người ta định xử
bắn tôi, với mục đích nêu tấm gương khiến cả vùng phải sợ hãi. Người Pháp cũng
nói đến các cuộc trả đũa, nhưng vụ giết chóc mà cánh cộng hòa muốn trả thù lên
tôi đã không được thực thi tại Đất Tuyển Hầu. Cha tôi đã tìm cách khiến người
ta tạm hoãn hành hình ba ngày, nhằm có thể chạy đi xin ân xá từ tướng Augereau,
và ông ta đã chuẩn y. Vậy nên tôi gặp Prosper Magnan đúng vào lúc anh ta vào
nhà tù Andernach, và anh ta khiến tôi thấy thương xót sâu sắc. Dẫu anh ta nhợt
nhạt, rũ rượi, trên người dính đầy máu, vẻ ngoài của anh ta có một tính cách
thơ ngây và vô tội khiến tôi vô cùng sửng sốt. Đối với tối, nước Đức thở phập
phồng trong mái tóc dài màu vàng của anh ta, trong cặp mắt xanh của anh ta.
Hình ảnh đích thực của đất nước đang sụp đổ của tôi, anh ta hiện ra như một nạn
nhân chứ không phải một kẻ giết người. Đúng cái lúc đi ngang qua dưới cửa sổ
phòng giam của tôi, anh ta nở, tôi cũng chẳng biết là hướng về đâu, một nụ cười
chua xót và sầu muộn của một kẻ điên vừa tìm lại được một tia sáng thoáng qua của
lý trí. Nụ cười ấy chắc chắn không phải của một tên sát nhân. Khi gặp viên cai
ngục, tôi hỏi hắn về tù nhân mới. “Anh ta đã không nói kể từ khi bị nhốt vào xà
lim. Anh ta ngồi, hai tay ôm lấy đầu, và ngủ hoặc suy nghĩ đến vụ việc của anh
ta. Cứ nghe đám người Pháp nói chuyện với nhau thì sáng mai anh ta sẽ bị xử, sẽ
bị bắn trong vòng hai mươi tư tiếng.” Buổi tối tôi đứng bên dưới cửa sổ phòng của
người tù, trong quãng thời gian ngắn ngủi mà tôi được phép đi dạo trong sân nhà
tù. Chúng tôi nói chuyện với nhau, và anh ta, đầy thơ ngây, kể cho tôi cuộc
phiêu lưu của mình, đáp lại các câu hỏi của tôi một cách tương đối chuẩn xác.
Sau cuộc trò chuyện thứ nhất ấy, tôi chẳng còn nghi ngờ gì về sự vô tội của anh
ta nữa. Tôi xin phép và được ở vài tiếng bên cạnh anh ta. Thế nên tôi gặp anh
ta nhiều lần, và đứa trẻ khốn khổ không hề vòng vo bộc bạch với tôi hết mọi suy
nghĩ. Anh ta cho mình vừa vô tội vừa có tội. Nhớ tới cái toan tính kinh khiếp
mà anh ta đã đủ sức kháng cự, anh ta e rằng mình đã hoàn thành, trong lúc đang
ngủ và trong một cơn mộng du, tội ác mà anh ta mơ thấy lúc còn tỉnh. “Thế còn
người bạn của anh đâu? tôi hỏi anh ta. - Ồ! anh ta nồng nhiệt kêu lên, Wilhem không
thể nào…” Thậm chí anh ta còn không nói hết câu. Nghe cái lời nóng bỏng, tràn
ngập tuổi trẻ và đức hạnh đó, tôi siết chặt lấy bàn tay anh ta. “Khi tỉnh dậy,
anh ta nói tiếp, chắc hẳn cậu ấy đã quá khiếp sợ, mất trí, và bỏ chạy. - Mà
không đánh thức anh dậy à, tôi nói. Nhưng vậy thì việc biện hộ của anh sẽ dễ
dàng, vì cái va li của Walhenfer chắc đã không bị lấy đi.” Đột nhiên anh ta òa
lên khóc. “Ồ! vâng, tôi vô tội, anh ta kêu lên. Tôi đã không giết người. Tôi
còn nhớ những giấc mơ của tôi. Tôi chơi đánh nhau với các bạn ở trường. Chắc là
tôi đã không cắt đầu ông thương gia đó, trong lúc nằm mơ thấy là tôi đang chạy.”
Rồi, mặc cho các tia hy vọng đôi lúc trả lại cho anh ta chút bình yên, anh ta vẫn
cảm thấy mình bị đè nát bởi nỗi hối hận. Chắc chắn anh ta đã giơ tay lên để cắt
cái đầu của viên thương gia. Anh ta tự xét xử mình, và không thấy là mình trong
sạch, sau khi đã phạm tội ác ở trong ý nghĩ. “Và thế nhưng! tôi là người tốt!
anh ta kêu lên. Ôi mẹ khốn khổ của tôi! Có lẽ vào lúc này mẹ tôi đang vui vẻ
chơi bài impériale cùng các bà hàng xóm trong phòng khách nhỏ chăng thảm. Nếu mẹ
tôi biết tôi đã dẫu chỉ giơ tay lên để giết một con người… ồ! mẹ tôi chắc sẽ chết!
Và tôi thì đang ở trong tù, bị cáo buộc đã phạm một tội ác. Nếu đã không giết
người đàn ông đó, thì chắc chắn tôi cũng sẽ giết chết mẹ tôi!” Nói xong anh ta
không khóc; nhưng, bị khuấy động bởi cơn thịnh nộ ngắn và mạnh mẽ vốn dĩ khá
thường gặp ở những người Picardie, anh ta lao mình vào tường và, nếu tôi không
giữ anh ta lại, chắc hẳn anh ta đã tự đập vỡ đầu. “Cứ đợi đến lúc xét xử đi,
tôi bảo anh ta. Anh sẽ được xử trắng án, anh vô tội. Và mẹ anh… - Mẹ tôi, anh
ta kêu lên đầy thịnh nộ, mẹ tôi sẽ biết lời buộc tội trước hết. Tại các thành
phố nhỏ, bao giờ chẳng như vậy, bà già tội nghiệp sẽ chết vì buồn khổ. Vả lại,
tôi không vô tội. Ông có muốn biết toàn bộ sự thật không? Tôi cảm thấy là tôi
đã đánh mất sự trinh nguyên của ý thức nơi tôi.” Sau cái câu khủng khiếp ấy,
anh ta ngồi xuống, khoanh hai tay lại trước ngực, cúi đầu, và nhìn xuống đất với
dáng vẻ u ám. Đúng lúc đó, viên lính gác mở cửa đi vào để dẫn tôi về phòng;
nhưng, tức tối vì phải bỏ lại người bạn vào một khoảnh khắc khi sự nản chí của
anh ta trông thật sâu thẳm, tôi thân ái ôm lấy anh ta vào lòng. “Kiên nhẫn đi,
tôi nói với anh ta, mọi chuyện sẽ ổn, có lẽ. Nếu giọng nói của một con người
trung thực có thể khiến im lặng những nỗi nghi ngờ của anh, hãy biết rằng tôi
coi trọng anh và yêu quý anh. Hãy nhận lấy tình bạn của tôi, và hãy ngủ đi,
trên trái tim tôi, nếu anh không hòa bình được với trái tim anh.” Hôm sau, một
viên đội và bốn tay súng tới tìm phó y sĩ vào quãng chín giờ. Nghe thấy tiếng ồn
mà đám lính tạo ra, tôi chạy ra chỗ cửa sổ. Lúc chàng thanh niên đi qua sân,
anh ta nhìn tôi. Sẽ chẳng bao giờ tôi quên nổi cái ánh mắt chất chứa nghĩ suy,
tiên cảm, nhẫn nhục đó, và thêm cả một vẻ duyên dáng buồn thảm và sầu muộn mà
tôi không thể miêu tả rõ. Đó là một dạng di chúc lặng câm và khả tri qua đó một
người bạn giao phó cuộc đời đã mất của mình cho người bạn cuối cùng của anh ta.
Chắc hẳn đêm vừa qua đã rất khó khăn, vô cùng cô độc đối với anh ta; nhưng cũng
có thể vẻ nhợt nhạt in hằn trên khuôn mặt anh ta tố cáo một sự khắc kỷ bắt nguồn
từ một sự coi trọng bản thân mới mẻ. Có lẽ anh ta đã được thanh tẩy bởi một sự sám
hối, và nghĩ rằng mình rửa sạch đi được tội lỗi trong đau khổ và nỗi nhục. Anh
ta bước đi vững vàng; và, ngay từ sáng, anh ta đã làm biến mất các vết máu mà
anh ta đã vô ý mà vấy lên người. “Hai bàn tay tôi đã nhúng vào đó một cách định
mệnh trong lúc tôi đang ngủ, vì khi ngủ không yên bao giờ”, hôm trước anh ta đã
nói với tôi, với một âm sắc tuyệt vọng ghê rợn. Tôi được biết anh ta sẽ phải ra
trình diện trước một tòa án binh. Sư đoàn sẽ, hai hôm sau đó, tiến về phía trước,
và viên tư lệnh của tiểu đoàn không muốn rời khỏi Andernach mà chưa xét xử tội
ác tại đúng nơi mà nó đã xảy ra… Tôi rơi vào một nỗi sợ chết người trong suốt
khoảng thời gian diễn ra phiên tòa. Rốt cuộc, quãng giữa trưa, Prosper Magnan
được đưa quay lại nhà tù. Lúc đó tôi đang có cuộc đi dạo quen thuộc; anh ta
nhìn thấy tôi, và lao ngay vào vòng tay tôi. “Hỏng rồi, anh ta nói. Tôi đã hỏng,
không chút hy vọng nào! Như vậy ở đây, đối với tất cả mọi người, tôi sẽ là một
tên sát nhân.” Anh ta ngẩng đầu lên đầy kiêu hãnh. “Nỗi bất công này đã trả tôi
nguyên vẹn về cho sự vô tội của tôi. Cuộc đời tôi chắc hẳn sẽ luôn luôn bị quấy
rối, cái chết sẽ chẳng có gì để trách cứ. Nhưng, có một tương lai hay không?”
Toàn bộ thế kỷ mười tám nằm cả trong cái câu hỏi đột ngột ấy. Anh ta tư lự.
“Mà, tôi nói với anh ta, anh đã trả lời như thế nào? họ đã hỏi anh những gì?
anh đã không ngây thơ mà kể sự việc đúng như anh đã kể cho tôi nghe đấy chứ?”
Anh ta nhìn tôi chằm chằm một hồi lâu; rồi, sau quãng ngừng đáng kinh hãi đó,
anh ta đáp với một sự nồng nhiệt như lên cơn sốt từ ngữ: “Thoạt tiên họ đã hỏi
tôi: ‘Trong đêm anh có ra khỏi quán trọ không?’ Tôi đáp: ‘Có. - Bằng đường
nào?’ Tôi đỏ mặt, và đáp: ‘Qua cửa sổ. - Như vậy anh đã mở nó ra? - Đúng! tôi
đáp. - Anh đã hết sức cẩn thận khi làm việc đó. Chủ quán trọ đã không nghe thấy
gì!’ Tôi sửng sốt. Đám thủy thủ tuyên bố đã nhìn thấy tôi bước đi, lúc thì về
phía Andernach, khi theo hướng khu rừng. - Tôi đã, bọn họ nói, đi nhiều lần.
Tôi đã chôn vàng và kim cương. Rốt cuộc, người ta đã không tìm được cái va li!
Rồi thì tôi vẫn phải chiến đấu dữ dội với những niềm hối hận. Khi tôi muốn nói:
‘Mi đã muốn phạm tội!’ một giọng nói không chút xót thương hét lên. Mọi sự đều
chống lại tôi, ngay cả bản thân tôi!… Họ đã hỏi tôi về người bạn của tôi, và
tôi đã tuyệt đối bảo vệ cậu ấy. Thế là họ nói với tôi: ‘Chúng tôi phải tìm ra một
thủ phạm giữa anh, bạn của anh, ông chủ quán trọ và vợ ông ta! Sáng ra, tất tật
cửa sổ và cửa ra vào đều đóng chặt!” - Trước câu nói ấy, anh ta kể tiếp, tôi đã
câm lặng, không chút sức lực, thẫn thờ cả người. Vốn dĩ chắc chắn vào người bạn
của tôi còn hơn vào chính tôi, tôi không thể buộc tội cậu ấy. Tôi đã hiểu rằng
chúng tôi bị coi là đồng lõa giống như nhau trong vụ giết người, và tôi bị coi
là kẻ kém khéo léo hơn! Tôi đã muốn giải thích tội ác bằng sự mộng du, và biện
hộ cho người bạn tôi; thế là tôi đã dông dài. Tôi tiêu rồi. Tôi đã đọc thấy lời
kết án trong mắt các viên thẩm phán. Họ nở những nụ cười đầy nghi hoặc. Mọi điều
đã được nói. Chẳng còn gì không chắc chắn nữa. Ngày mai tôi sẽ bị xử bắn. - Tôi
chẳng còn nghĩ đến tôi, anh ta nói tiếp, mà chỉ nghĩ đến mẹ tôi!” Anh ta ngừng
lại, nhìn lên trời, và không hề khóc. Cặp mắt anh ta khô khốc và nhăn rúm dữ dội.
“Frédéric!” A! người kia tên là Frédéric, Frédéric! Đúng, đúng cái tên đó!” ông
Hermann kêu lên, vẻ đắc thắng.
Người phụ nữ ngồi bên cạnh tôi đá vào chân tôi, và hất đầu ý
bảo tôi nhìn về phía ông Taillefer. Nhà cựu cung ứng đã vì lơ là mà để rơi bàn
tay xuống hai mắt; nhưng, giữa các kẽ hở của các ngón tay, chúng tôi nghĩ có
nhìn thấy một ngọn lửa u ám trong ánh mắt ông.
“Hả? nàng nói thầm vào tai tôi. Ông ta có tên là Frédéric
không nhỉ.”
Tôi đáp, nháy mắt với nàng như để nói: “Trật tự nào!”
(còn nữa)
Heinrich Heine: Tháng Giêng năm 1832
XVII. Sao cho trong ấm (đầy đủ)
Honorer Honoré
Mặc Đỗ: một César (về César Birotteau)
Heidegger
Adolphe
XVI. Nữ công tước de Langeais (phần 1)
(phần 2)
XV. Béatrix (phần 1)
(phần 2)
Balzac trong thế kỷ mười chín
XIV. Gái già
Cách một (hay là "Balzac trong thế kỷ 19", phần mở đầu)
XIII. Vĩnh biệt (đầy đủ)
XII. Một người con gái của Eva
XI. Rực rỡ và khốn cùng đời kỹ nữ
X. Ursule Mirouët (phần 1)
(phần 2)
Balzac và Flaubert
IX. Louis Lambert
VIII. Nàng tình nhân hờ (đầy đủ)
[tiện bút] Đọc Balzac ở Hà Nội
VII. Người phụ nữ tuổi ba mươi (phần 1)
(phần 2)
VI. Viên bác sĩ nông thôn
Trở về cổ điển: Balzac - Vở kịch con người
V. Một vụ việc ám muội (phần 1)
(phần 2)
(phần 3)
(phần 4)
IV. Albert Savarus (phần 1)
(phần 2)
III. Séraphîta
II. Ferragus (phần 1)
(phần 2)
(phần 3)
I. Mặt bên kia của lịch sử hiện thời
Vinh quang và một cốc nước cho Honoré de Balzac
Ôi phải chi vừa được đọc vừa được chạm, lật giở, ngửi mùi giấy ở lần đọc lại tất cả những tác phẩm này của Balzac
ReplyDeletetức là, nói tóm lại, thích sờ
ReplyDeletetiếp tục
Đúng vậy, như Modiano í, mí lại ở đây lao xa lao xao, chia trí bỏ mẹ.
Deletekhục khục
ReplyDeletetiếp tục
Túc tiệp :D
ReplyDeleteP/S: Cái mở đầu câu chuyện thật vĩ đại :D
VVD
Chú nằm nhiều nhỉ.
ReplyDeleteVVD
Đặt cạnh đây, đoạn kết của "Crime and Punishment" tỏ ra thật thiếu sức sống. Nhưng thực ra cái kết có quan trọng đến vậy đâu nhỉ?
ReplyDeleteMột trường hợp khác: Rashomon.
thế á
ReplyDeleteà mà cũng sắp tới "kỳ" Dostoievski đúng chính xác về "tội ác và etc." rồi đây
Dịch lủng củng. Thiếu tự nhiên.
ReplyDeleteNo matter why you come here, you leave with something
Deletethì đi đọc trường phái tự nhiên à la Lê Đình Chi đi vậy
ReplyDelete