Thêm nữa, làm như vậy giống như mô phỏng chính phương thức tự sự của Balzac (về điều này, xem trong đường link đã dẫn, chú thích số 71).
Một vụ việc ám muội (Une ténébreuse affaire) thuộc các "xen" "chính trị". Ở phần đầu (xem ở kia), ta đã biết là tại tỉnh Aube, không xa thành phố Troyes, ở thời điểm cuối của chế độ Tổng tài, Napoléon không lâu nữa sẽ lên ngôi Hoàng đế, nhân vật Michu bí hiểm gây ra nhiều lo lắng. Michu là gia nhân của gia đình quý tộc Simeuse, nhưng trong thời Cách mạng hoạt động rất tích cực bên phe cộng hòa, giờ vẫn trông coi Gondreville, vùng đất cũ của gia đình Simeuse nhưng đã sang tay chủ mới, Malin chính trị gia khủng khiếp. Dường như đang có các biến động ngầm, liên quan đến các nhà quý tộc lưu vong (nhất là hai anh em sinh đôi de Simeuse), mà người ta ngờ là vẫn giữ quan hệ mật thiết với cô em họ Laurence de Cinq-Cygne, đến nỗi cặp đôi Peyrade-Corentin, trong đó Corentin là một thiên tài của ngành cảnh sát Đế chế, được cử đến đây. Thời điểm này, Malin cũng có mặt ở Gondreville.
Thật ra, cảnh sát Đế chế dưới sự điều hành của ông lớn Fouché đang ngờ đến một âm mưu ám sát Napoléon từ phía các nhà quý tộc Pháp lưu vong. Rất có thể điều đó là đúng.
NB. mới thêm rất nhiều Ursule Mirouët
-----------
“Ra là anh có nhiều công chuyện bên Bellache quá nhỉ, lại thấy
anh đây rồi! Michu nói.
- Kìa! lại thêm một lời trách móc nữa, thưa ông Michu. Chắc
ông không định vụt gió lũ chim sẻ với một cái kèn clarinet như thế kia! Tôi
không hề biết là ông có cây súng cạc bin này đấy…
- Nó mọc lên trên một cánh đồng trồng cạc bin của tôi đấy,
Michu đáp. Này, tôi gieo chúng như thế này này.
Viên tá điền nâng khẩu súng lên ngắm một túm cỏ sặc sỡ cách
đó ba mươi bước, phát đạn phạt đứt nó.
“Có phải là để canh gác cho ông chủ của ông mà ông vác khẩu
súng của đám ăn cướp thế kia không? có lẽ vì thế ông ấy sẽ tặng quà cho ông đấy.
- Ông ấy đã đi từ Paris đến đây chỉ để mang nó cho tôi,
Michu đáp.
- Trong vùng người ta bàn tán xôn xao về chuyện ông ấy tới; một
số người bảo là vì bị thất sủng, ông ấy rút lui khỏi các chức vụ, những người
khác lại nói ông ấy muốn đến đây xem xét mọi thứ cho rõ; thật ra, tại sao ông ấy
lại âm thầm đến đây thế nhỉ, cứ giống hệt Đệ nhất Tổng tài ấy? ông có biết trước
là ông ấy sẽ đến không?
- Tôi không thân cận với ông ta tới mức được báo tin đâu.
- Tức là ông còn chưa gặp ông ấy?
- Tôi chỉ biết ông ấy đến sau khi đi tuần một vòng trong rừng,
Michu đáp, nạp lại đạn vào khẩu súng.
- Ông ấy đã cho người đi gọi ông Grévin ở Arcis, họ sẽ phát biểu cái gì đó à?”
Malin từng là người phát biểu[33].
“Nếu anh đi về phía Cinq-Cygne, viên tá điền nói với
Violette, thì chở tôi theo với, tôi cũng đến đó.”
Violette quá nhút nhát, không dám đèo bòng đằng sau một người
có sức lực như Michu, nên vội thúc ngựa đi khỏi. Judas vác súng lên vai và bước
đi trên con đường lớn.
“Michu giận dữ với ai thế nhỉ? Marthe hỏi mẹ.
- Kể từ lúc biết ông Malin đến, nó trở nên rất lầm lì, bà
đáp. Nhưng trời lạnh rồi, vào nhà thôi.”
Khi hai người đàn bà đã ngồi bên lò sưởi, họ nghe thấy tiếng
con Couraut.
“Chồng con đấy!” Marthe kêu lên.
Quả thật, Michu đang leo lên gác; lòng lo lắng, vợ ông đi
theo ông vào phòng ngủ.
“Xem có ai không đi, ông nói với Marthe, giọng xúc động.
- Không có ai đâu, cô đáp, Marianne đang chăn bò ngoài đồng,
còn Gaucher…
- Gaucher đâu rồi? ông hỏi.
- Em không biết.
- Anh nghi cái thằng nhóc ngớ ngẩn đó; lên tầng áp mái đi, lục
tìm ở đó, tìm nó trong mọi ngóc ngách cái nhà này đi.”
Marthe đi ra; khi quay trở lại, cô bắt gặp Michu đang quỳ gối
dưới đất, cầu nguyện.
“Có chuyện gì thế?” cô hỏi, vẻ hãi hùng.
Viên tá điền ôm lấy vợ, kéo vào lòng, hôn lên trán cô và trả
lời, giọng xúc động: “Nếu chúng ta không còn gặp lại nhau nữa, thì em hãy biết,
vợ tội nghiệp của anh, rằng anh đã rất yêu em. Em hãy làm theo thật đúng các chỉ
dẫn được viết trong một bức thư chôn dưới gốc cây tùng chỗ cái gò kia, ông nói
sau một quãng ngừng, đưa tay chỉ cho cô một cái cây, nó được cất trong một ống sắt
tây. Chỉ được đào nó lên sau khi anh đã chết. Mà, dẫu có chuyện gì xảy đến với
anh, thì cũng hãy nghĩ, mặc cho sự bất công của con người, rằng cánh tay anh đã
phụng sự cho công lý của Chúa.”
Marthe, mặt tái đi dần dần, trở nên trắng bệch giống thứ vải
cô đang mặc, cô nhìn chồng chăm chăm, mắt trố ra vì sợ, cô muốn nói, nhưng cổ họng
khô khốc. Michu lướt đi khỏi giống như một cái bóng, ông đã buộc con Couraut
vào chân giường, nó hú lên đúng như cách lũ chó vẫn hú khi tuyệt vọng.
Cơn giận dữ của Michu dành cho ông Marion bắt nguồn từ những
nguyên do nghiêm túc, nhưng nó đã được chuyển sang một người khác trong mắt ông
còn là tội phạm lớn hơn, Malin, mà các bí mật đã lộ ra trước mắt viên tá điền,
vốn dĩ ở vị trí thuận lợi hơn bất kỳ ai khác để có thể đánh giá cách hành xử của
vị cố vấn Nhà nước. Bố vợ của Michu từng, xét về mặt chính trị, được Malin tin
tưởng, khi ấy Malin được phong làm Đại Diện tỉnh Aube vào kỳ Quốc Ước với sự trợ
sức của Grévin.
Vào những hoàn cảnh trọng yếu của cuộc đời mình, Malin không bao giờ quên tham khảo ý kiến từ người bạn trung thành Grévin, chưởng khế ở Arcis, mà sự đánh giá các việc và những con người, từ xa, thật nét, rõ và chính xác. Thói quen này là sự khôn ngoan, và nó làm nên sức mạnh cho những con người hạng hai. Thế nhưng, vào tháng Mười một năm 1803, tình hình nghiêm trọng đối với viên cố vấn Nhà Nước đến nỗi chỉ một bức thư thôi cũng có thể gây hại cho đôi bạn. Malin, sắp được phong nghị viên, sợ gặp chuyện lôi thôi ở Paris, thế là ông rời dinh thự của mình đến Gondreville, trình lên Đệ nhất Tổng tài một lý do duy nhất khiến ngài đồng ý ngay, và nó khiến ông có vẻ đang hết sức năng nổ trong mắt Bonaparte, trong khi thay vì hành động cho Nhà Nước, vấn đề chỉ liên quan tới một mình ông. Thế nhưng, trong lúc Michu rình rập và theo đuôi ở trong khu vườn, theo cách thức của người Mọi Rợ[39], một thời điểm thuận lợi cho màn trả thù của mình, chính trị gia Malin, vốn quen thúc ép các sự kiện vì bản thân, dẫn ông bạn đi về phía một đồng cỏ nhỏ trong khu vườn Anh, nơi vắng vẻ và thích hợp cho một cuộc nói chuyện bí hiểm. Tại đó, đứng ở chính giữa và hạ thấp giọng, đôi bạn ở quá xa không ai nghe lỏm được, nếu có ai trốn để nghe, và có thể đổi chủ đề cuộc nói chuyện nếu lỡ có người tới.
“Tại sao không chọn lấy một phòng ở lâu đài để nói chuyện,
Grévin hỏi.
- Anh chưa thấy hai người mà cảnh sát trưởng[40]
gửi đến cho tôi à?”
Dẫu cho Fouché từng là, trong vụ âm mưu Pichegru, Georges,
Moreau và Polignac[41], linh hồn của văn phòng tổng tài, ông không
điều hành bộ Cảnh Sát và khi ấy chỉ còn là cố vấn Nhà Nước giống Malin[42].
“Hai tay ấy là thủ túc của Fouché. Một, tay thanh niên
muscadin có bộ mặt giống một chai nước chanh ấy, miệng lưỡi thì đầy giấm và mắt
thì đẫm nước nho xanh, là người đã xử lý cuộc nổi dậy miền Tây vào năm Bảy[43],
chỉ trong vòng hai tuần. Tay còn lại là một đứa con của Lenoir[44],
người duy nhất còn sở hữu các truyền thống lớn của ngành cảnh sát. Tôi đã đề
nghị một nhân viên ất ơ, được một nhân vật quan trọng chống lưng, thế mà họ gửi
cho tôi hai mặt giặc đó. A! Grévin, chắc hẳn Fouché muốn tìm hiểu xem tôi đang
định làm gì. Vậy nên tôi phải để hai quý ông kia lại ăn tối trong lâu đài; họ cứ
việc kiểm tra mọi thứ, sẽ chẳng tìm thấy Louis XVIII cũng như bất kỳ dấu vết cỏn
con nào đâu.
- A! ra thế, nhưng, Grévin nói, anh đang định làm gì?
- Này! bạn ơi, một trò chơi kép thì nguy hiểm lắm; nhưng so
với Fouché, nó là nhân ba cơ, và có lẽ ông ta đã đánh hơi thấy tôi nắm các bí mật
của nhà Bourbon.
- Anh!
- Tôi, Malin đáp.
- Thế ra anh không nhớ gì đến Favras[45]?”
Câu này gây tác động mạnh lên ông cố vấn.
“Thế từ bao giờ? Grévin hỏi sau một quãng ngừng.
- Kể từ khi bắt đầu chế độ Tổng Tài trọn đời[46].
- Nhưng, không có bằng chứng đấy chứ?
- Không có đâu!” Malin đáp, (…)[47].
- Không có đâu!” Malin đáp, (…)[47].
Chỉ bằng vài lời, Malin vẽ ra rõ nét tình hình nguy kịch mà
Bonaparte đặt nước Anh vào, nó đang phải gánh chịu mối đe dọa chết người từ
doanh trại Boulogne[48], giải thích cho Grévin về tầm quan trọng
không được biết đến đối với Pháp và châu Âu, nhưng Pitt[49] thì nghi
ngờ, của dự định chinh phạt kia; rồi tình hình nguy kịch mà nước Anh sẽ đặt
Bonaparte vào. Một liên quân hùng hậu, Phổ, Áo và Nga, tiền chi trả là vàng của
nước Anh, sẽ trang bị vũ khí cho bảy trăm nghìn người. Cùng lúc, một âm mưu táo
tợn đang mở rộng trong nước, tập hợp cánh Montagnard, cánh Chouan và cánh Bảo
Hoàng cùng các ông hoàng của họ.
“Khi Louis XVIII thấy có ba tổng tài[50], ông ta
tưởng tình trạng vô chính phủ vẫn tiếp diễn và chỉ cần một phong trào nào đó là
ông ta có thể trả thù cho 13 vendémiaire và 18 fructidor[51], Malin
nói; nhưng chế độ Tổng Tài trọn đời đã hé lộ rõ các dự đồ của Bonaparte, ông ta
sẽ sớm thành Hoàng Đế. Cái tay cựu thiếu úy đó muốn tạo ra một triều đại cơ đấy!
thế nhưng, lần này, người ta muốn nhắm vào mạng sống ông ta, và cú này được dàn
dựng còn khéo léo hơn so với cú phố Saint-Nicaise[52]. Pichegru,
Georges, Moreau, công tước d’Enghien, Polignac và Rivière, hai người bạn của bá
tước d’Artois[53], cũng tham gia.
- Lằng nhằng quá! Grévin kêu lên.
- Nước Pháp đang ngầm bị xâm chiếm, người ta muốn thực hiện
một cuộc a la xô tổng lực, dùng đến mọi phương tiện! Một trăm người thiện chiến,
do Georges chỉ huy, sẽ tấn công vệ binh tổng tài và giáp lá cà luôn với tổng
tài.
- Thế thì tố cáo bọn họ đi.
- Hai tháng nay, Tổng Tài, bộ trưởng Cảnh Sát, cảnh sát trưởng
và Fouché đã biết được một phần của kế hoạch khổng lồ này; nhưng họ còn chưa biết
được hết tầm vóc của nó, và vào thời điểm hiện tại, họ vẫn để cho gần như tất cả
những ai tham gia được tự do nhằm dò biết mọi chuyện.
- Xét về quyền, viên chưởng khế nói, nhà Bourbon có nhiều
quyền để lập kế hoạch, tiến hành, thực hiện một vụ chống lại Bonaparte, nhiều
hơn nhiều so với quyền của Bonaparte khi âm mưu chống nền Cộng Hòa ngày 18
brumaire, mà ông ta lại là đứa con của nền cộng hòa ấy; ông ta đã sát hại mẹ
mình, còn những người kia thì muốn trở về nhà. Tôi cho rằng khi nhìn thấy danh
sách lưu vong khép lại, các vinh dự tăng lên nhiều lần, Công giáo được tái thiết
lập[54], rồi thì việc ban hành nhiều nghị định phản cách mạng, các
ông hoàng đã hiểu rằng họ rất khó quay về, nếu không muốn nói là không thể.
Bonaparte trở thành chướng ngại vật duy nhất, và họ muốn hất bỏ chướng ngại vật,
chẳng gì giản dị hơn được nữa. Những kẻ âm mưu mà thất bại thì trở thành giặc
cướp; còn như thắng lợi, họ sẽ trở nên các anh hùng, và tôi thấy nỗi bối rối của
anh khá là tự nhiên.
- Vấn đề là, Malin nói, ném cho người nhà Bourbon, bởi tay
Bonaparte, đầu của công tước d’Enghien, giống như Quốc Ước từng ném cho các ông
vua cái đầu của Louis XVI, cũng là nhằm để nhấn ông ta, trước cả chúng ta, sâu
hơn vào tiến trình của Cách Mạng; hoặc nhằm lật nhào thần tượng hiện thời của
người dân Pháp và Hoàng Đế tương lai của nó, để có thể đặt ngai vàng đích thực
lên trên đống điêu tàn. Số phận của tôi tùy thuộc vào một sự kiện, một phát
súng trúng đích, một vụ nổ trên phố Saint-Nicaise thành công. Người ta đã không
nói cho tôi mọi điều. Người ta đã đề nghị tôi dẫn dắt Hội Đồng Nhà Nước ủng hộ
vào thời điểm nguy cấp, điều hành khía cạnh luật pháp cho sự trung hưng của nhà
Bourbon.
- Đợi đi, viên chưởng khế đáp.
- Không thể nào! Tôi chỉ còn đúng thời điểm hiện tại để quyết
định mà thôi.
- Tại sao?
- Hai Simeuse tham gia âm mưu, bọn họ đang ở trong vùng; tôi
phải, hoặc cho theo dõi họ, để mặc họ gây chuyện rồi trừ khử, hoặc ngầm ủng hộ
họ. Tôi đã yêu cầu trợ thủ, và người ta gửi đến cho tôi hai con linh miêu hảo hạng,
bọn họ đã ghé Troyes với mục đích thâu tóm đám cảnh binh.
- Gondreville là cái Của
anh còn Âm Mưu thì là Cái anh sẽ có,
Grévin nói. Cả Fouché lẫn Talleyrand, hai đối tác lớn của anh, đều không được
như vậy: hãy chơi thẳng thắn với họ. Thế nào cơ! tất cả những kẻ đã cắt đầu
Louis XVI đều có mặt trong chính phủ, nước Pháp đầy rẫy đám người đi mua tài sản
quốc gia, thế mà anh lại muốn đưa trở về đây những kẻ sẽ đòi lại Gondreville từ
anh? Nếu nhà Bourbon không phải lũ ngu, bọn họ hẳn sẽ xát xà phòng lên tất tật
những gì chúng ta đã làm. Báo cho Bonaparte đi.
- Một người ở thứ hạng của tôi thì không đi tố cáo, Malin
hăng hái.
- Thứ hạng của anh? Grévin kêu lên và mỉm cười.
- Người ta đề nghị với tôi chức Quan Chưởng Ấn.
- Tôi hiểu nỗi ngây ngất của anh, và tôi mới là người cố sức
nhìn cho thật rõ vào những tối tăm chính trị, đánh hơi ở đó cánh cửa để thoát
ra. Thế nhưng, chẳng thể nào dự đoán các sự kiện có thể đưa nhà Bourbon về, khi
mà một ông tướng Bonaparte sở hữu tám mươi chiến thuyền cùng bốn trăm nghìn
quân. Điều khó nhất trong bộ môn chính trị đoán trước, là biết được chừng nào một
quyền lực đang nghiêng sẽ đổ; nhưng, bạn ơi, quyền lực của Bonaparte thì lại
đang ở giai đoạn tăng tiến. Nhỡ đâu chẳng phải là Fouché đã cho người dò xét
anh nhằm biết rõ tâm can anh rồi trừ khử anh?
- Không, tôi chắc chắn về nhân vật đại sứ. Vả lại, Fouché hẳn
sẽ không gửi đến cho tôi hai con khỉ như thế kia, mà tôi biết quá rõ để mà
không nảy sinh nghi ngờ.
- Họ làm tôi thấy sợ, Grévin nói. Nếu Fouché không nghi ngờ
anh, không muốn thử thách anh, thì tại sao ông ta lại gửi họ đến cho anh?
Fouché không chơi một đòn tương tự nếu không có lý do nào đó…
- Điều đó khiến tôi phải quyết định, Malin kêu lên, hẳn tôi
sẽ chẳng bao giờ được yên thân với hai tay Simeuse kia; có lẽ Fouché, vốn biết
hoàn cảnh của tôi, không muốn hụt mất bọn họ, và nhờ bọn họ mà với tới được các
Condé.
- Này! ông bạn, chẳng phải dưới thời Bonaparte mà người ta
có thể gây lo lắng cho người chủ của Gondreville đâu.”
Ngẩng đầu lên, Malin trông thấy trong tán lá một cây đoạn lớn
nòng một khẩu súng.
“Tôi đã không nhầm mà, tôi nghe thấy tiếng lên đạn một khẩu
súng trường, ông nói với Grévin sau khi lẩn ra sau một gốc cây to, viên chưởng
khế lo lắng trước cử động đột ngột của bạn cũng chạy vào theo.
- Michu đấy, Grévin nói, tôi nhìn thấy bộ râu hung của hắn.
- Đừng tỏ vẻ sợ hãi, Malin lại nói, chậm rãi đi khỏi đó, nhắc
đi nhắc lại nhiều lần: Cái tay đó muốn gì ở những người mua mảnh đất này thế nhỉ?
Chắc chắn là hắn không nhằm bắn anh rồi. Nếu hắn nghe được chúng ta nói, thì
tôi sẽ phải xử lý! Lẽ ra chúng ta phải ra ngoài cánh đồng chứ. Kẻ nào mà có thể
sinh lòng nghi ngờ không khí được!
- Thì phải học thôi! viên chưởng khế nói; nhưng hắn ở rất
xa, mà chúng ta lại thì thầm với nhau.
- Tôi sẽ nói với Corentin vài câu về chuyện này”, Malin đáp.
Một lúc sau, Michu trở về nhà, mặt tái nhợt và nhăn nhúm.
“Anh sao thế? vợ ông hoảng sợ, hỏi.
- Không có gì”, ông đáp, nhìn thấy Violette, việc con người
này có mặt ở đây đối với ông giống như một cú sét.
Michu nhấc một cái ghế, bình thản ngồi trước lò sưởi, và ném
vào đó một bức thư, sau khi rút nó ra từ một cái tuýp sắt tây, loại mà người ta
hay đưa cho đám lính để cất giấy tờ. Hành động này, nó cho phép Marthe thở phào
như một người vừa thoát được khỏi một sức nặng ghê gớm, khiến Violette thấy hết
sức tò mò. Viên tá điền đặt khẩu cạc bin lên bệ lò sưởi với một vẻ lạnh lùng
đáng ngưỡng mộ. Marianne và bà mẹ của Marthe đang xe chỉ trong luồng ánh sáng một
ngọn đèn.
“Nào, François, ông bố nói, ta đi ngủ thôi. Con muốn ngủ
chưa?
“Thằng nhóc bậy bạ toàn không chịu đi ngủ, viên tá điền quay trở lại, nói, nó cứ thích bắt chước người lớn cơ, nhìn thấy mọi thứ, nghe thấy mọi thứ, biết mọi thứ. Anh nuông chiều làm hư hỏng người nhà tôi đấy, bố Violette ạ.
- Chúa ơi! Chúa ơi! Violette kêu lên, người nào làm cho ông
đột nhiên thích nói thế? chưa bao giờ ông nói nhiều như vậy đâu.
- Anh nghĩ tôi để cho người khác rình mò mà không nhận thấy
à? Anh không ở bên phe tốt đẹp đâu, bố Violette ạ. Nếu, thay vì phục vụ những
người giận dỗi với tôi, anh đứng về phía tôi, thì hẳn tôi làm được nhiều điều
cho anh, chứ không phải chỉ là gia hạn thuê trang trại đâu…
- Gì nữa thế? tay nông dân tham lam tròn mắt lên.
- Tôi sẽ bán rẻ đất của tôi cho anh.
- Chẳng bao giờ có chuyện rẻ khi phải trả tiền, Violette trở
nên văn hoa.
- Tôi muốn đi khỏi đây, và tôi sẽ giao cho anh trang trại
Mousseau của tôi, nhà cửa, hoa lợi, súc vật, với giá năm mười nghìn franc.
- Thật!
- Anh thấy có được không?
- Mẹ ơi, để xem đã.
- Ta bàn vụ này nhé… Nhưng tôi muốn có tiền đặt cọc.
- Tôi chẳng có gì.
- Một lời nói.
- Thế nữa!
- Nói cho tôi biết ai đã sai anh đến đây đi.
- Tôi từ nơi tôi lại sắp đến tới đây, tôi chỉ muốn chào ông
một câu thôi.
- Vậy mà lại không có con ngựa ư? Anh nghĩ tôi ngu lắm phải
không? Anh nói dối, anh sẽ không có trang trại của tôi.
- Ơ kìa, thì là ông Grévin, đấy! Ông ấy bảo tôi: Violette,
chúng tôi cần Michu, ghé qua đó gọi đi. Nếu anh ta không có nhà, thì hãy đợi…
Tôi hiểu là phải ở lại, tối nay, ở đây…
- Hai thằng cha Paridiêng cao kều còn ở lâu đài không?
- A! tôi không biết rõ lắm đâu; nhưng trong phòng khách có
nhiều người.
- Anh sẽ có trang trại của tôi, ta thỏa thuận các chi tiết
luôn! Em yêu, lấy rượu vang uống mừng hợp đồng lên đây. Lấy thứ rượu Roussillon
ngon nhất ấy, rượu vang của cựu hầu tước… Chúng ta đâu phải trẻ con. Em sẽ thấy
hai chai trên cái thùng tô nô rỗng ở lối vào, cùng một chai trắng.
- Được rồi! Violette nói, ông chẳng bao giờ uống rượu say.
Ta uống nhé!
- Anh giấu năm mươi nghìn franc dưới các ô gạch trong phòng
ngủ của anh, dưới cái giường, anh sẽ đưa nó cho tôi hai tuần sau khi bản hợp đồng
được chuyển đến cho Grévin…” Violette trân trối nhìn Michu, mặt tái nhợt đi.
“A? anh đến đây rình rập một người Jacobin toàn tòng từng có vinh dự chủ trì
câu lạc bộ ở Arcis, thế mà anh nghĩ người đó sẽ không cho anh một cú? Tôi có mắt
để nhìn, tôi đã thấy các ô gạch mới được trát lại, và tôi kết luận rằng anh đã
không lật chúng lên để gieo lúa mì. Uống đi.”
Violette, đang ngẩn tò te, uống cạn một cốc rượu vang lớn mà
chẳng hề để ý tới chất lượng của nó, nỗi hãi hùng như thể gí tấm sắt nung vào bụng
ông, rượu mạnh bị đốt cháy ở đó bởi sự hà tiện; hẳn ông sẵn sàng cho đi nhiều
thứ để được về nhà, với mục đích chuyển kho báu của mình đi chỗ khác. Ba người
phụ nữ mỉm cười.
“Anh thấy như thế có được không? Michu hỏi Violette, rót
thêm cho ông một cốc nữa.
- Vâng, được.
- Anh sẽ về nhà thôi, đồ đểu ạ!”
Sau nửa tiếng tranh luận sôi nổi về vấn đề hưởng thụ, về cả
nghìn chi tiết nhỏ nhặt mà người nông dân vẫn hay lao vào khi thỏa thuận giá cả
với nhau, giữa những khẳng định, những cốc rượu nốc cạn, những lời ngập tràn hứa
hẹn, những phủ nhận, những: - không phải à? - chí phải! - một lời thôi đấy! -
tôi đã bảo mà! - chặt đầu tôi đi nếu… - cốc rượu này sẽ có thuốc độc nếu tôi
không nói thậc… Violette xỉu, đầu gục
lên bàn, không phải chếnh choáng hơi men, mà là say bí tỉ; và, ngay khi nhìn thấy
mắt ông trở nên lờ đờ, Michu đã vội mở cửa ra.
“Cái thằng ranh Gaucher đâu rồi nhỉ? ông hỏi vợ.
“Cái thằng ranh Gaucher đâu rồi nhỉ? ông hỏi vợ.
- Đi ngủ rồi.
- Cô, Marianne, viên tá điền nói với cô hầu trung thành, ngồi
chặn lấy cửa nhé. Mẹ, mẹ ơi, ông nói, mẹ ở dưới nhà, trông họ con tên gián điệp
này, phải thật tỉnh táo vào nhé, và chỉ được mở cửa khi nghe thấy giọng của
François. Đây là chuyện sống chết đấy! ông nói thêm, giọng sâu thẳm. Đối với tất
cả những người đang ở dưới mái nhà này, đêm nay tôi đã chẳng hề đi đâu và, dẫu
đầu có bị đặt lên giá chém, mọi người cũng sẽ phải khăng khăng như vậy. - Nào,
ông nói với vợ, em yêu, đi giày và đội khăn lên đầu, ta đi thôi! Không hỏi han
gì hết, anh đi cùng em.”
Đã từ bốn mươi lăm phút, người đàn ông này thể hiện trong cử
chỉ và ánh mắt một uy quyền bạo chúa, khôn cưỡng, được múc lấy từ nguồn chung
và không được biết đến nơi múc lấy những quyền lực ngoạn mục, cả các danh tướng
trên trận tiền, tại đó họ khiến đội quân bừng lửa cháy, cũng như những nhà hùng
biện vĩ đại lôi kéo các tập hợp người và, ta cũng nên nói luôn, lũ tội phạm lớn
trong những cú táo bạo của chúng nữa! Khi ấy, hồ như cả khuôn mặt ông toát ra
uy quyền và lời nói mang một sức ảnh hưởng vô địch, động tác thì truyền ý muốn
từ ông sang người khác[55]. Ba phụ nữ tự biết họ đang ở giữa một cơn
khủng hoảng ghê gớm; dẫu chẳng hề được báo trước, họ đã dự cảm được dựa trên sự
mau chóng các hành động của người đàn ông đó, với khuôn mặt ngời sáng, vầng trán
như nói nên lời, cặp mắt thì bừng lên như hai ngôi sao; họ nhìn thấy mồ hôi rịn
ra từ chân tóc ông, hơn một lần lời nói của ông rung lên sốt ruột và giận dữ. Vậy
nên Marthe tuân lời một cách thụ động. Trang bị vũ khí đến tận chân răng, khẩu
súng vác trên vai, Michu nhảy vọt vào con đường, theo sau là vợ ông; và họ
chóng vánh tới ngã tư nơi François trốn trong bụi rậm.
“Thằng bé hiểu chuyện đấy”, Michu nói khi nhìn thấy nó.
Đó là câu đầu tiên của ông. Vợ ông và ông đã chạy một mạch, trên đường không thốt ra lời nào.
“Quay về chòi đi, trèo lên cây nào rậm nhất, trốn ở đó, quan
sát vùng ruộng, khu vườn, ông nói với con trai. Tất cả chúng ta đều đã đi ngủ,
chúng ta sẽ không mở cửa cho bất kỳ ai. Bà con đang canh rồi, và sẽ chỉ nhúc
nhích nếu nghe thấy giọng của con! Làm đúng theo lời bố nói nhé. Chuyện liên
quan đến cuộc sống của bố con cũng như mẹ con đấy. Cầu cho chính quyền không
bao giờ biết chúng ta đã không ngủ.” Sau những câu thầm thì vào tai đứa con
trai ấy, nó chạy biến đi, như một con lươn trườn dưới đáy nước, qua khu rừng,
Michu nói với vợ: “Lên ngựa thôi! và hãy cầu Chúa thương xót chúng ta. Ngồi chắc
vào nhé! Con ngựa có thể sẽ gục đấy”.
Lâu đài, mà Marthe và Michu cùng nhau ngắm nhìn một hồi lâu, tạo ra một ấn tượng quyến rũ giữa phong cảnh. Dẫu không sở hữu một sự rộng lớn đáng kể cũng như nét đặc biệt nào về kiến trúc, nó chẳng hề thiếu một nét hấp dẫn nhất định ở phương diện khảo cổ. Tòa nhà cổ của thế kỷ mười lăm này, nằm trên một khoảnh đất cao, bao quanh là các hào sâu, rộng và vẫn còn đầy nước, được xây bằng đá trộn vữa, nhưng các bức tường rộng đến bảy bộ. Vẻ giản dị của nó gợi nhớ theo đường lối đáng ngưỡng mộ cuộc sống khắc nghiệt nhiều tính cách chiến trận của thời phong kiến. Tòa lâu đài này, thực sự ngây thơ, gồm có hai tòa tháp lớn màu đỏ nhạt, ngăn cách với nhau bởi một dãy nhà dài trổ những cửa sổ đích thực bằng đá, với các thập tự đẽo thô giống những dây nho leo. Cầu thang nằm lộ thiên, chính giữa, và được đặt vào trong một tháp ngũ giác có cánh cửa nhỏ hình vòm cung nhọn đầu. Tầng trệt, bên trong được hiện đại hóa dưới thời Louis XIV, cũng như tầng hai được phủ mái ngói rộng, trổ các cửa sổ có ô văng đẽo gọt. Trước lâu đài là một bãi cỏ mênh mông nơi đám cây mới bị chặt đi. Nằm hai bên cây cầu dẫn vào cổng có hai căn nhà nhỏ dành cho những người làm vườn, và ngăn cách nhau bởi một hàng lưới mảnh, không tính cách, nhìn là biết rất mới. Bên phải và bên trái bãi cỏ, chia thành hai phần bằng một lối đi lát đá, là tàu ngựa, chuồng thú, kho chứa cỏ, chứa củi, lò bánh mì, chuồng gia cầm, nhà cho người hầu, hẳn được cải tạo từ hai cánh cũ của tòa lâu đài. Xưa kia, tòa nhà này hẳn có hình vuông, bốn góc có công sự, được trấn giữ bởi một tòa tháp lớn cổng uốn vòng cung, bên dưới là, chỗ của lưới sắt, cây cầu kéo. Hai tòa tháp lớn lợp mái chóp nhọn đã không bị san phẳng, gác chuông nhỏ của tháp nằm giữa tạo phong thế cho ngôi làng. Nhà thờ, cũng cũ kỹ, trưng bày cách đó không xa tháp chuông nhọn hoắt của nó, ăn nhập hài hòa với các khối còn lại của lâu đài. Ánh trăng làm bừng lên mọi ngọn cây và chóp đỉnh quanh chúng ánh sáng nhảy nhót lấp lánh. Michu ngắm nhìn tòa nhà lãnh chúa này theo cách thức khiến vợ ông phải ngẩn ngơ, vì khuôn mặt ông đã trở nên bình tĩnh hơn diễn tả niềm hy vọng và cả một chút cao ngạo. Ánh mắt ông bao quát chân trời, hơi tỏ ra nghi ngại; ông lắng nghe vùng nông thôn, lúc đó chắc đã chín giờ, mặt trăng vãi ánh sáng xuống rìa khu rừng, và đặc biệt gò đất được chiếu rất sáng. Vị trí này dường như khiến người canh gác thấy là nguy hiểm, ông xuống khỏi đó, tỏ ra sợ bị trông thấy. Tuy nhiên không một âm thanh khả nghi nào khuấy động sự bình yên của cái thung nhỏ, về phía này được bao bọc bởi khu rừng Nodesme. Marthe, kiệt sức, run rẩy, đợi một tình tiết sáng sủa nào đó sau khi đã chạy hùng hục như vậy. Cô sẽ làm được gì đây? phục vụ một hành động tốt đẹp hay một tội ác? Đúng lúc đó, Michu kề sát vào tai vợ.
“Em sẽ đến chỗ nữ bá tước de Cinq-Cygne, đòi gặp cô ấy; khi
gặp, em xin cô ấy được nói chuyện riêng. Nếu thấy không ai nghe lỏm được, em
nói với cô ấy như thế này: “Thưa cô, mạng sống hai người anh họ của cô đang gặp
nguy hiểm, và người sẽ giải thích cho cô tại sao, như thế nào, đang đợi cô.” Nếu
cô ấy sợ, nếu cô ấy nghi ngờ, thì em nói thêm: “Họ tham gia âm mưu chống lại Đệ
nhất Tổng tài, và âm mưu đã bị phát hiện.” Đừng tự xưng tên, người ta nghi ngờ
chúng ta quá mức.”
Marthe Michu ngẩng đầu lên nhìn chồng, và nói: “Tức là anh
phục vụ họ?”
- Thế rồi sao? ông hỏi, nhíu mày lại, vì tưởng mình vừa nghe
thấy một lời trách móc.
- Anh không hiểu em rồi, Marthe kêu lên, cầm lấy bàn tay to
tướng của Michu và quỳ gục xuống trước gối ông, hôn lên bàn tay ấy, đột nhiên
nó đẫm nước mắt.
- Chạy đi, để sau rồi hãy khóc”, ông nói, ôm choàng lấy cô với
một sức mạnh bất ngờ.
Bị chấn động bởi cả nghìn suy nghĩ giống các suy nghĩ xuất hiện trong óc người chồng, Marthe thắt tim gan lại vì lo cho mối nguy mà hai anh em de Simeuse đang gặp phải, vì cô đã hiểu mọi chuyện, cả bộ mặt hai tay Paridiêng kia, nhưng cô không sao tự giải thích về khẩu súng cạc bin. Cô lao đi thoăn thoắt như một con nai và đã đến lối đi dẫn vào lâu đài, cô kinh ngạc nghe thấy sau lưng tiếng bước chân của một người đàn ông, cô bật hét lên, bàn tay to lớn của Michu đã bịt lấy miệng cô.
“Từ trên mỏm đất, anh đã trông thấy lấp lánh từ xa miếng bạc
gắn trên những cái mũ tròn! Em lẻn vào trong qua một cái ngách hào nằm giữa
tháp Cô và tàu ngựa nhé; lũ chó sẽ không sủa em đâu. Vào trong vườn, gọi nữ bá
tước trẻ qua cửa sổ, bảo cô ấy cho thắng ngựa, nói với cô ấy là dắt nó đi ra
qua đoạn hào, anh sẽ ở đó, sau khi đã xem xét kế hoạch của đám Paridiêng và tìm
cách thoát khỏi chúng.”
Mối nguy này, ập xuống như tuyết lở, cần được báo đi ngay,
và thế là chân Marthe như thể mọc thêm cánh.
Bất kỳ ai từng đọc cuốn tiểu thuyết tuyệt đẹp Rob-Roy hẳn đều còn nhớ đến một trong các nhân vật phụ nữ hiếm hoi mà để xây dựng Walter Scott đã vượt ra các thói quen về sự lạnh lùng của ông, đó là Diana Vernon[67]. Kỷ niệm này có thể dùng để khiến người ta hiểu Laurence, nếu ta thêm vào các phẩm chất của nàng thợ săn Scotland cái hứng khởi được kiềm chế của Charlotte Corday, nhưng cùng lúc phải loại trừ đi vẻ sống động dễ mến làm cho Diana hấp dẫn tới vậy. Nữ bá tước trẻ tuổi đã chứng kiến mẹ chết, trưởng tu d’Hauteserre ngã xuống, vợ chồng hầu tước de Simeuse bỏ mạng trên đoạn đầu đài; người anh trai duy nhất của nàng thì chết vì các vết thương, hai người anh họ đang phục vụ cho quân đội của Condé có thể bị giết chết bất kỳ lúc nào, rốt cuộc tài sản nhà Simeuse và nhà Cinq-Cygne vừa bị Cộng Hòa nuốt mất, mà không có lợi nhuận nào cho Cộng Hòa. Vẻ nghiêm trang nơi nàng, bị thoái hóa thành sự ngây độn vẻ ngoài, hẳn là điều có thể hình dung.
Đúng vào lúc Marthe, đã được thông báo về hiểm họa cận kề, vội vã lướt đi như một cái bóng về phía khe hở đã được Michu chỉ cho, phòng khách của lâu đài Cinq-Cygne đang trưng bày cảnh tượng êm đềm nhất. Các cư dân của nó ít ngờ đến cơn giông sắp ụp xuống đầu họ tới mức thái độ của họ hẳn sẽ khơi gợi lòng cảm thông của bất kỳ người nào biết đến hoàn cảnh mà họ rơi vào. Trong lò sưởi, trang trí bằng bức tranh, treo phía trên tấm gương, trong đó các nữ mục đồng xách giỏ nhảy múa, bừng cháy một đống lửa chỉ có thể thấy tại các lâu đài nằm bên rìa rừng. Ở góc lò sưởi ấy, trên một cái ghế rộng hình vuông bằng gỗ nẹp vàng, phủ vải lụa màu lục tuyệt đẹp, nữ bá tước trẻ tuổi như thể nằm ngả người trong dáng điệu một người đang chất chứa mệt mỏi. Mới trở về lúc sáu giờ từ vùng ven Brie, sau khi phóng ngựa như bay phía trước đoàn người nhằm đưa đến nơi an toàn bốn nhà quyền quý, tại cái nơi họ sẽ dừng lần cuối trước khi tiến về Paris, nàng bắt chợt ông bà d’Hauteserre vào lúc họ sắp dùng xong bữa tối. Đói lả, nàng ngồi ngay vào bàn mà không kịp cởi bộ trang phục kỵ sĩ lấm bùn đất cũng như đôi giày. Thay vì đi thay quần áo sau bữa ăn, nàng cảm thấy đuối sức bởi những cơn mệt mỏi, và nàng thả mặc cái đầu để trần, phủ cả nghìn lọn tóc quăn màu vàng, lên lưng tựa cái ghế rộng, hai chân đặt lên một cái ghế nhỏ. Ngọn lửa hong khô những vệt bùn lấm trên bộ quần áo và đôi giày của nàng. Đôi găng tay da hoẵng, cái mũ nhỏ bằng da hải ly, tấm voan màu lục và roi ngựa nằm cả trên cái bàn console, nơi nàng vứt chúng lên. Nàng hết nhìn cái đồng hồ treo tường cũ hiệu Boulle nằm trên khung lò sưởi giữa hai giá nến hình hoa, để nghĩ xem, căn cứ vào giờ giấc, bốn kẻ âm mưu đã ngủ hay chưa; rồi nàng lại nhìn cái bàn chơi bài boston đặt trước lò sưởi nơi ông d’Hauteserre cùng vợ đang ngồi, thêm ông cha xứ Cinq-Cygne và em gái ông.
Dẫu cho mấy nhân vật kia sẽ không in dấu ấn sâu đậm lên tấn kịch này, khuôn mặt họ hẳn cũng xứng đáng đại diện cho một trong các nét mặt của giới quý tộc sau thảm bại của họ năm 1793. Dưới khía cạnh này, bức tranh phòng khách Cing-Cygne mang hương vị của lịch sử nhìn trong trang phục phòng ngủ.
Nhà quyền quý, khi ấy năm mươi hai tuổi, cao, ngẳng, khí huyết
mạnh, sức khỏe sung mãn, hẳn sẽ có vẻ đủ khả năng để mạnh mẽ nếu không có cặp mắt
lớn màu xanh lơ như sứ với ánh mắt báo hiệu một sự giản dị hết mực. Trên khuôn
mặt kết thúc bằng một cái cằm vểnh của ông, giữa mũi và miệng, có một khoảng rộng
bất thường nếu so với các luật hình họa, khiến ông có dáng vẻ quy thuận, nó tuyệt
đối ăn nhịp với tính cách ông, với đó hòa hợp mọi chi tiết nhỏ nhất trong vẻ
bên ngoài nơi ông. Nghĩa là mái tóc ngả bạc của ông, đội cái mũ mà ông đặt lên
đó suốt cả ngày, tạo thành giống như hình một cái mũ chỏm trên đầu, khuôn theo
công tua một quả lê. Trán ông, rất nhăn nheo vì cuộc sống nơi thôn dã và bởi những
mối lo âu liên tục, phẳng và không chút biểu cảm. Cái mũi khoằm của ông nâng
khuôn mặt ông lên cao một chút; dấu chỉ sức mạnh duy nhất nằm nơi hàng lông mày
rậm rì vẫn còn lưu giữ được màu đen của chúng, và nơi màu sắc sống động làn da
ông; nhưng dấu chỉ này không hề nói dối, nhà quyền quý mặc dù giản dị và hiền hậu
có lòng tin quân chủ và Thiên chúa giáo, không một nhìn nhận nào có thể làm ông
thay đổi. Con người trung hậu này hẳn sẽ để cho mình bị bắt giữ chứ không chịu
bắn vào vệ binh thành phố, và sẵn sàng êm ái đi lên đoạn đầu đài. Ba nghìn
livre tiền niên kim trọn đời, nguồn thu nhập duy nhất của ông, đã ngăn cản ông
đi lưu vong. Vậy nên ông tuân lời chính phủ bằng hành động, nhưng không ngừng
yêu quý hoàng gia và mong mỏi họ trung hưng; nhưng hẳn ông sẽ từ chối tự gây
nguy hiểm cho mình bằng cách tham gia một âm mưu nhằm ủng hộ nhà Bourbon. Ông
thuộc về cái nhóm người bảo hoàng ấy, họ vĩnh viễn nhớ là mình đã bị đánh đập
và bị ăn cướp; những người đó, kể từ bấy, trở nên im lìm, hà tiện, thù hận,
không nghị lực, nhưng không đủ khả năng thực hiện bất kỳ sự từ bỏ nào, cũng như
bất kỳ hành động hy sinh nào; hoàn toàn sẵn lòng hoan nghênh quyền lực quân chủ
chiến thắng, là bạn hữu của tôn giáo và các linh mục, nhưng nhất quyết chịu đựng
mọi sỉ nhục của bất hạnh. Không còn là chuyện có một ý kiến nữa, mà chỉ là bướng
bỉnh. Hành động là cốt tử của các đảng. Không trí tuệ, nhưng trung thành, hà tiện
như một nông dân, và thế nhưng là quý tộc trong cung cách, gan dạ trong các
mong muốn nhưng kín đáo trong lời lẽ và các hành động, ủng hộ mọi bên, và sẵn
sàng nhận chức thị trưởng Cinq-Cygne, ông d’Hauteserre đại diện theo đường lối
đáng ngưỡng mộ cho những nhà quyền quý quang vinh đã được Chúa viết lên trên
trán chữ mites[72], những
người để mặc cho nổ ra bên trên dinh thự nông thôn cũng như trên đầu họ các cơn
giống tố của Cách Mạng, họ đứng lên trở lại vào kỳ Trung Hưng, sở hữu những món
tiền tiết kiệm giấu kỹ, kiêu hãnh vì sự gắn kết ngấm ngầm và trở về vùng đồng
quê của họ sau năm 1830. Trang phục của ông, vỏ bọc nhiều biểu cảm của tính
cách này, họa hình con người cùng thời đại. Ông d’Hauteserre mặc một cái áo
choàng màu hạt dẻ nhạt, cổ thít, mà công tước d’Orléans cuối cùng đã biến thành
mốt khi từ bên Anh trở về và, hồi Cách Mạng, giống như một sự chuyển tiếp giữa
những quần áo tởm lợm của đám bình dân và những chiếc rơ đanh gốt trang nhã của
giới quý tộc. Cái gi lê nhung của ông, với những đường nét hoa lá cành, gợi nhớ
áo của Robespierre và của Saint-Just, để hé cho thấy phần trên một cái khăn xếp
nhiều li nhỏ đính liền vào áo sơ mi. Ông vẫn giữ quần cộc, nhưng quần của ông bằng
vải thô màu xanh lơ, có các vòng khuyên bằng thép màu nâu. Đôi bít tất tơ sồi
đen khuôn lấy cặp chân như chân hoẵng, đi đôi giày to tướng quấn ghệt vải đen.
Ông vẫn giữ cái cổ áo vải mút-xơ-lin đến nghìn li, siết lại bằng một cái vòng
vàng trên cổ. Con người trung hậu ấy không hề định chơi trò chiết chung chính
trị bằng cách ăn vận kiểu như vậy, vừa nông dân, vừa cách mạng lại pha quý tộc,
ông đã chỉ hết sức ngây thơ tuân theo hoàn cảnh mà thôi.
Từ hai năm nay, cựu gia sư của anh em de Simeuse, bạn của trưởng tu d’Hauteserre, tên là Goujet[73], trưởng tu Minimes, đã lui về phụ trách việc đạo ở Cing-Cygne vì tình bạn với gia đình d’Hauteserre và với nữ bá tước trẻ tuổi. Em gái ông, cô Goujet, có bảy trăm franc tiền lợi tức, góp vào với món tiền thu nhập còm cõi của ông anh, và chăm lo nhà cửa cho ông. Cả nhà thờ lẫn khu nhà cha xứ đều chưa bị bán đi, vì chúng có giá trị quá nhỏ. Thế nên trưởng tu Goujet sống ngay sát lâu đài, bởi vì tường khu vườn khu đạo và tường vườn lớn lâu đài chung nhau ở vài chỗ[74]. Thành thử, hai lần mỗi tuần, trưởng tu Goujet và em gái ăn tối tại Cing-Cygne, nơi mọi buổi tối họ ở cùng vợ chồng d’Hauteserre. Laurence không hề biết chơi bài. Trưởng tu Goujet, ông già tóc trắng và khuôn mặt cũng trắng giống mặt một bà già, sở hữu một nụ cười đon đả, một giọng nói êm dịu và khôn khéo, khiến cho bớt đi sự nhạt nhẽo của khuôn mặt bầu nhờ một vầng trán tỏa rạng trí tuệ và cặp mắt đặc biệt sắc sảo. Vóc dáng tầm thước và cân đối, ông vẫn mặc áo đen kiểu Pháp, mang các vòng vàng ở cái quần cộc và trên đôi giày, đi bít tất lụa đen, một cái gi lê phủ phần bẻ xuống của cổ áo to, trông ông có vẻ đỏm nhưng không hề đánh mất chút gì trong phẩm cách. Ông trưởng tu ấy, trở thành giám mục Troyes thời Trung Hưng, vốn dĩ đã quen, vì cuộc đời cũ, phán xét các thanh niên, đoán định được tính cách lớn lao nơi Laurence, ông trân trọng nàng với đầy đủ giá trị, và ngay từ đầu ông đã bày tỏ một sự kính ngưỡng đối với cô thiếu nữ này, điều đó càng khiến nàng trở nên độc lập hơn tại Cinq-Cygne và làm cho cúi rạp xuống trước nàng quý bà già nua khổ hạnh và ông già trung hậu, mà lẽ ra theo tập tục là những người nàng phải nghe lời. Từ sáu tháng nay, trưởng tu Goujet quan sát Laurence với thiên tài đặc thù của các linh mục, những con người sáng suốt nhất trên đời; và, dẫu không biết cô gái hăm ba tuổi này đang suy tính chuyện lật đổ Bonaparte vào thời điểm nàng dùng đôi bàn tay lả lướt vuốt cho phẳng một dải diềm trên bộ trang phục kỵ sĩ, ông ngờ nàng đang nung nấu một dự đồ lớn.
Cô Goujet thuộc vào số các phụ nữ mà bức chân dung có thể xong xuôi bằng vài từ, chỉ vậy thôi cũng đã đủ để những người kém óc tưởng tượng nhất cũng hình dung ra: cô thuộc về hạng ngựa to lớn mà phụ nữ hay cưỡi. Cô tự biết mình xấu, cô là người đầu tiên cười sự xấu xí của mình, chìa ra những chiếc răng dài vàng khè cũng giống nước da cô và đôi bàn tay xương xẩu. Cô tuyệt đối là người tốt tính và vui tươi. Cô vận loại áo cánh lừng danh của thời xa xưa, một cái chân váy thật rộng với các túi lúc nào cũng đựng đầy chìa khóa, đội cái mũ bonnê buộc ruy băng và tóc búi cao. Cô bốn mươi tuổi từ rất sớm sủa; nhưng cô giảm bớt được thiệt hại, chính cô nói vậy, nhờ bốn mươi tuổi sẵn kể từ hai mươi năm nay. Cô trọng vọng quý tộc, và biết giữ phẩm cách riêng, bằng cách dành cho những con người cao quý tất tật lòng tôn trọng và vinh dự mà họ xứng đáng được hưởng.
Hai người ấy tới Cinq-Cygne thật hợp ý bà d’Hauteserre, vốn
dĩ bà không có các công việc ruộng đồng giống chồng, bà lại cũng không, giống
Laurence, có dưỡng chất tốt lành của một lòng hận thù ngõ hầu gánh đỡ sức nặng
một cuộc đời cô độc. Vậy nên mọi thứ, theo cách nào đó, đã được cải thiện kể từ
sáu năm nay. Việc Thiên chúa giáo được khôi phục cho phép người ta thực hiện
các nghĩa vụ tôn giáo, thứ có nhiều vang động trong cuộc sống ở nông thôn hơn
so với mọi nơi nào khác. Ông bà d’Hauteserre, yên lòng trước các hành động bảo
thủ của Đệ nhất Tổng tài, đã có thể thư từ với các con, nhận tin tức của họ,
không còn run lên sợ hãi khi nghĩ đến họ nữa, cầu xin họ đệ thỉnh nhằm được gạch
tên khỏi danh sách người lưu vong, và quay trở về Pháp. Ngân Khố đã thanh toán
các khoản chi trả lợi tức, và đều đặn trả tiền đúng kỳ hạn. Khi ấy vợ chồng
d’Hauteserre sở hữu, ngoài niên kim trọn đời, tám nghìn franc tiền lợi tức. Ông
già tự tán thưởng bản thân vì sự khôn khéo nhìn xa trông rộng, ông đã nộp hết số
tiền tiết kiệm được, hai mươi nghìn franc, cùng thời điểm với cô gái mà ông
giám hộ, trước ngày 18 brumaire, điều đó khiến cho, như người ta đều biết, số
tiền gốc tăng từ mười hai lên mười tám franc[75].
Người gia nhân trung thành này, tên Durieu, cùng vợ, đã luôn luôn dõi theo vận hạn cô chủ trẻ tuổi của họ. Durieu là người chạy việc của lâu đài, cũng như vợ ông chuyên lo việc vặt. Dưới bếp, Durieu được đỡ đần thêm bởi em gái của Catherine, người được ông truyền nghề cho, và đang trên con đường trở thành một đầu bếp tuyệt hảo. Một người làm vườn đã già, vợ ông, con trai ông được trả công theo ngày, và con gái họ phụ trách chăn bò, vậy là đã đủ mặt người làm trong lâu đài. Từ sáu tháng nay, vợ Durieu đã lén lút may đồng phục theo màu của Cing-Cygne cho con trai người làm vườn và Gothard. Dẫu bị nhà quyền quý mắng mỏ nên thân vì việc làm thiếu thận trọng ấy, bà tự thấy vô cùng vui sướng khi chứng kiến bữa tối được bày biện, vào hôm Saint-Laurent[76], để ăn mừng ngày lễ thánh của Laurence, gần giống với trước kia. Sự khôi phục nặng nề và chậm chạp của mọi sự này tạo nên niềm vui cho ông bà d’Hauteserre cũng như vợ chồng Durieu. Laurence mỉm cười trước những gì mà nàng gọi là các trò trẻ con. Nhưng ông già trung hậu d’Hauteserre cũng nghĩ đến chuyện lâu dài, ông sửa nhà sửa cửa, xây lại các bức tường, trồng trọt ở mọi nơi nào có thể chuyển tới một cái cây, và không để cho một tấc đất nào nằm đó không mang lại lợi ích. Vậy nên thung lũng Cinq-Cygne coi ông như một đại sư về nông nghiệp. Ông đã đoạt về được một trăm arpent đất tranh chấp, không bị bán, nhưng bị Xã nhập vào các địa phận của nó; ông đã cải tạo chúng trở thành các đồng cỏ nhân tạo cung cấp thức ăn cho lũ súc vật của lâu đài, trồng dương bao quanh, từ sáu năm nay đám cây đã lớn nhanh, trở nên lực lưỡng. Ông nuôi ý định mua lại vài mảnh đất, và sử dụng mọi khu nhà trong lâu đài, lập tại đó trang trại thứ hai rồi tự mình điều hành.
Do vậy, từ hai năm nay, cuộc sống ở lâu đài đã trở nên gần như sung sướng. Ông d’Hauteserre rời nhà từ lúc mặt trời mọc, ông đi coi sóc cánh công nhân, bởi vì lúc nào ông cũng thuê người làm; ông quay về ăn trưa, sau đó leo lên lưng một con nghẽo nông dân, và đi một vòng như người lính gác; rồi, lại về để ăn tối, ông kết thúc ngày của mình bằng trò boston. Tất cả cư dân của lâu đài đều có việc để làm, ở đó cuộc sống cũng quy củ giống như tại một tu viện kín. Chỉ Laurence gây xáo trộn bởi những chuyến đi đột ngột của nàng, bởi những kỳ vắng vặt, bởi cái mà bà d’Hauteserre gọi là những cuộc dạt vòm. Tuy nhiên tại Cing-Cygne có hai chính sách, và những nguyên do gây chia rẽ. Trước hết, Durieu và vợ ghen tị với Gothard và Catherine được sống trong cảnh thân cận với cô chủ trẻ tuổi, thần tượng của cả nhà, hơn so với họ. Rồi vợ chồng d’Hauteserre, có sự ủng hộ của cô Goujet và cha xứ, muốn hai con trai của họ, cũng như anh em sinh đôi de Simeuse, trở về và dự phần vào niềm hạnh phúc của cuộc sống êm đềm này, thay vì sống trong cảnh nhọc nhằn xa xứ. Laurence dè bỉu sự thoái lui tồi tệ này, và đại diện cho chủ nghĩa bảo hoàng thuần khiết, đầy tính chiến đấu và không khoan nhượng. Bốn người già, không còn muốn phải chứng kiến cảnh một sự tồn tại sung sướng bị hủy hoại, cũng như cảnh cái chốn giành giật được từ dòng lũ hung dữ của cách mạng này bị xâm phạm, cố công cải Laurence đi theo các học thuyết thực sự khôn ngoan của họ, đoán định rằng nàng đóng vai trò quan trọng trong việc các con họ cùng hai anh em de Simeuse cự tuyệt trở về Pháp. Sự cao ngạo tót vời của cô gái mà họ giám hộ gây khủng hoảng cho những con người khốn khổ ấy, họ không hề nhầm khi bực dọc trước cái mà họ gọi là một cơn bốc đồng. Mối chia rẽ ấy đã bùng nổ vào thời điểm bùng cháy cỗ máy khủng khiếp trên phố Saint-Nicaise[77], toan tính đầu tiên của cánh bảo hoàng nhằm vào người chiến thắng trận Marengo[78], sau khi ngài từ chối gượng nhẹ với nhà Bourbon. Vợ chồng d’Hauteserre nghĩ thật may mắn khi Bonaparte thoát khỏi mối nguy này, vì tin rằng đám Cộng Hòa là thủ phạm của vụ mưu sát. Laurence khóc vì điên giận khi thấy Đệ nhất Tổng tài an toàn tính mạng. Nỗi tuyệt vọng của nàng mạnh hơn sự che giấu quen thuộc, nàng buộc tội Chúa đã phản bội các con trai của thánh Louis[79]! “Nếu là tôi, nàng kêu lên, thì hẳn tôi đã làm được việc. Chẳng phải, nàng nói với trưởng tu Goujet khi nhận ra nỗi hãi hùng sâu sắc mà câu nói của mình gây ra trên mọi khuôn mặt, người ta có quyền tấn công sự soán đoạt bằng bất kỳ phương cách nào đấy ư? - Con gái ơi, trưởng tu Goujet đáp, Nhà Thờ từng bị tấn công và thóa mạ khủng khiếp bởi các triết gia vì xưa kia đã ủng hộ việc người ta có thể sử dụng chống những kẻ soán đoạt các thứ vũ khí mà bọn soán đoạt từng sử dụng nhằm chiến thắng; nhưng ngày nay Nhà Thờ được hưởng lợi ích quá lớn từ ngài Đệ nhất Tổng tài nên chẳng thể nào không bảo vệ ngài và lo sao để ngài không bị hại bởi câu châm ngôn, vả lại câu ấy là do lũ dòng Tên nói ra. - Tức là Nhà Thờ bỏ rơi chúng ta!” nàng đáp, dáng vẻ u tối.
Ngay từ ngày ấy, mọi lần nào bốn người già nói đến chuyện phải
nhẫn nhịn tuân phục Thiên Hựu, nữ bá tước trẻ tuổi đều rời ngay khỏi phòng
khách. Từ ít lâu nay, cha xứ, vốn dĩ khéo léo hơn ông giám hộ, thay vì tranh luận
về các nguyên tắc, nêu bật lên các lợi thế vật chất của chính quyền tổng tài, nhằm
làm thay đổi tư tưởng nữ bá tước thì ít hơn so với để bắt chợt trong ánh mắt
nàng các biểu hiện hòng soi sáng cho các dự định của nàng. Những đợt đi vắng của
Gothard, vô số những cuốc phi ngựa của Laurence và mối bận tâm của nàng, mấy
ngày vừa qua hiện ra trên nét mặt, rồi thì cả một đoàn lũ những điều vụn vặt
không thể nào thoát khỏi, trong sự im lìm và tĩnh lặng của cuộc sống tại
Cing-Cygne, nhất là trong ánh mắt lo âu của vợ chồng d’Hauteserre, trưởng tu
Goujet và vợ chồng Durieu, mọi thứ đều đánh động những nỗi sợ nơi các nhà bảo
hoàng thuần phục này. Nhưng vì chưa thấy có sự kiện gì xảy ra, và cũng vì sự
yên tĩnh tuyệt đối nhất vẫn ngự trị trên chính trường kể từ vài hôm nay, cuộc sống
nơi cái lâu đài nhỏ bé này đã quay trở lại êm đềm. Ai cũng coi việc nữ bá tước
hay cưỡi ngựa là xuất phát từ niềm ham mê săn bắn của nàng.
-----------
[33] Thời kỳ Cách mạng Pháp ở
cao trào, Malin từng là “tribun”, người diễn thuyết trước dân chúng. Violette tự
tạo một động từ mới, “tribuner”, từ “tribun”.
[34] Sự “đồng đều” này hết sức
quan trọng cho các tình tiết về sau của câu chuyện.
[35] Dường như đúng là bà mẹ của
hoàng thân de la Paix nói câu tương tự như thế này, nhưng là trong một hoàn cảnh
không tương tự như thế này.
[36] Tiếng Latin, nghĩa đen là
“ngươi có thể có thân thể”, đây là một thuật ngữ ý nói khả năng kháng cáo của một
ai đó bị chính quyền bắt giữ.
[37] Tức là thực chất Malin đang
mị dân.
[38] Cf. chú thích số 22.
[39] Đây là một dấu vết ảnh hưởng
của Fenimore Cooper lên Balzac; cf. chú thích số 45 của Ferragus.
[40] Thật ra ở chỗ này Balzac nhầm;
sẽ nói kỹ hơn sau; tất nhiên Malin đang muốn nói đến Peyrade và Corentin.
[41] Vụ việc xảy ra vào cuối năm
1803, đầu năm 1804: đây là một âm mưu bắt cóc Napoléon, đang là Đệ nhất Tổng
tài; nhân vật đáng quan tâm ở đây là Pichegru, từng là thầy dạy học của
Bonaparte khi Bonaparte còn bé, đi đánh nhau bên Mỹ, chiến đấu thời Cách mạng
Pháp; một nhân vật nổi bật nữa của vụ việc là Cadoudal.
[42] Đúng ra phải là, khi Fouché
thất sủng, Napoléon “đền bù” bằng cách phong Fouché làm nghị viên; vả lại, dường
như Fouché, dẫu có lúc bị thất sủng, luôn luôn có quan hệ tốt với Napoléon và cố
vấn sát sao cho Napoléon.
[43] Tức là phong trào
“Chouanerie” ở miền Tây nước Pháp, chủ đề của Les Chouans (Những người Chouan), tác phẩm lớn của Balzac thuộc các
“xen” “nhà binh”; “năm Bảy” là tính theo lịch Cách mạng.
[44] Jean-Charles-Pierre Lenoir,
năm 1776 được giao việc quản lý Cảnh sát; Lenoir đã thực hiện công việc một
cách xuất sắc và rời vị trí ấy chuyển sang điều hành tài chính năm 1785.
[45] Đây là một hầu tước, bị
treo cổ năm 1790 vì bị nghi ngờ tiến hành một âm mưu phản cách mạng, việc mà dường
như de Favras không hề làm.
[46] Tức là từ tháng Sáu năm 1802.
[47] Có ai hiểu khi Balzac viết
“dit Malin en faisant claquer l’ongle de son pouce sous une de ses palettes”
nghĩa là Malin đang làm gì không? móng của ngón tay cái bật vào cái gì để phát
ra âm thanh nhỉ?
[48] Ngày 16 tháng Năm 1803,
quân Anh bắt giữ chừng một trăm thuyền Pháp; Napoléon lập ra doanh trại (camp)
Boulogne, ở ngoại vi Boulogne-sur-Mer, tập hợp Đội Quân Vĩ Đại ở đây nhằm chuẩn
bị tiến sang đánh Anh; Boulogne-sur-Mer là vùng đất tranh chấp lâu dài giữa Anh
và Pháp, ta nhớ là mãi đến François Đệ nhất nước Pháp, Boulogne về cơ bản vẫn
là đất của Anh.
[49] Chính trị gia quyền lực nước
Anh hồi ấy.
[50] Chế độ Tổng tài nước Pháp
là chế độ “tam đầu chế”, gồm ba người, trong đó “Đệ nhất Tổng tài” là Napoléon;
hai nhân vật còn lại: google.
[51] Đây là hai sự kiện: vụ thứ
nhất xảy ra ngày 5/10/1795, vụ thứ hai ngày 4/9/1797, khi Bonaparte trợ giúp
Barras đẩy lui phe bảo hoàng.
[52] Đêm Noel 1800, vụ nổ lớn
trên phố Saint-Nicaise ngay trước xe ngựa của Bonaparte (cũng trong khuôn khổ
loạt âm mưu Cadoudal; vụ nổ này gây ra chừng năm mươi nạn nhân, nằm vương vãi
trên phố, nhưng Đệ nhất Tổng tài không hề hấn chút nào.
[53] Tức là Charles X tương lai;
trong số những cái tên được liệt kê, nhân vật công tước d’Enghien rất đáng quan
tâm.
[54] Đây là một nét nổi bật dưới sự cầm quyền của
Napoléon: Cách mạng hủy bỏ các đặc quyền tôn giáo và tăng lữ nhưng Napoléon cho
tái thiết lập Công giáo (liên quan đến “Concordat”).
[55] Dường như Balzac luôn luôn
tin rằng dục vọng, nhất là ý chí, thể hiện một cách tương ứng ở các cử chỉ, động
tác của cơ thể.
[56] Có chuyên gia về Balzac kỹ tính đến mức đã đi
tra lịch rất cẩn thận, và khẳng định cái đêm xảy ra câu chuyện này không thể có
trăng.
[57] Có một lý thuyết cho rằng mọi
cái họ quý tộc Pháp đều có, ở bên dưới nó, một họ khác, “nguyên thủy” hơn; ở
đây Balzac đang tạo ra cái họ nguyên thủy ấy cho gia đình de Cinq-Cygne và gia
đình de Chargeboeuf, chiểu theo quy tắc (hai gia đình này có họ gần gũi với
nhau, chi tiết rất quan trọng cho đoạn sau của câu chuyện).
[58] Cinq-Cygne có nghĩa là “năm
con thiên nga”; còn trong cái họ “Chargeboeuf” dĩ nhiên có “boeuf” nghĩa là con
bò.
[59] Đây là một ví dụ cho “hài
hước kiểu Balzac” (phải nói là rất nhiều hương vị Molière).
[60] Một thứ rất lằng nhằng, có
thể hiểu đại khái là liên quan đến “người Franc” cổ xưa.
[61] Ẩn dụ “cái bụng” ở đây muốn
nói sự sinh đẻ, và do đó, ám chỉ việc riêng gia đình này (vì có các cụ bà hiển
hách) được đặc cách chú trọng trao sự vinh hiển cho phụ nữ.
[62] Tức là quý tộc.
[63] Google, google; ta cũng nhận
ra cách Balzac miêu tả Laurence de Cinq-Cygne rất giống cách miêu tả Rosalie de
Watteville trong Albert Savarus.
[64] Ở đoạn trước, rất không
may, Balzac lại nói “mười hai tuổi” chứ không phải mười ba như ở đây.
[65] Ý nói các nhà quý tộc chiến
đấu chống Cách mạng 1789, đi lưu vong (cũng như anh em sinh đôi de Simeuse).
[66] Cho ai còn chưa biết: đây là cô gái ám sát
Marat trong bồn tắm.
[67] Thêm một lần nữa, Balzac nhắc đến Walter Scott; Diana Vernon của cuốn tiểu thuyết Rob-Roy cũng xuất hiện trong Mặt bên kia của lịch sử hiện thời.
[68] Cf. chú thích số 7.
[69] “Tontine” là một hình thức
tương đối giống “chơi họ” ở Việt Nam; sở dĩ được gọi là “tontine” là vì người
nghĩ ra hệ thống này tên là Laurent Tonti, một người Napoli; thực chất đây là một
dạng xổ số kiêm bảo hiểm; gia đình Balzac rất không xa lạ với “les tontines
Lafarge”.
[70] Ngày 25 tháng Ba năm 1802, hiệp ước Amiens được
ký kết giữa Pháp và một số nước châu Âu; nó sụp đổ vào ngày 18 tháng Năm 1803;
quãng thời gian này (nhỉnh hơn một năm) là giai đoạn hòa bình duy nhất tại châu
Âu trong vòng 21 năm (từ 1793 đến 1814, tức là năm Napoléon thoái vị).
[71] Đúng ra, sự thật lịch sử là tất cả những người tham gia âm mưu này đều vào Pháp từ Normandie.
[72] Tiếng Latin, có thể hiểu là “dịu dàng”.
[73] Thêm một nhân vật trưởng tu
nữa trong Vở kịch con người.
[74] Hơi khó hình dung.
[75] Nhìn chung, đây là một vấn đề hết sức phức tạp.
[76] Nếu không có nhầm lẫn gì,
thì là ngày 30 tháng Chạp.
[77] Cf. chú thích số 52.
[78] Trận đánh rất nổi tiếng của
Bonaparte, diễn ra ngày 14 tháng Sáu năm 1800; tướng Bonaparte đánh bại đội
quân Đế chế Thần thánh dưới quyền chỉ huy của nam tước von Melas, tại Ý.
[79] Ám chỉ vua Louis IX nước
Pháp, làm vua vào thế kỷ 13, được coi là thánh ngay từ khi còn sống, “Saint-Louis”.
[80] Một đề tài ưa thích của Balzac trong Vở kịch con người: các “trò chơi xã hội”.
Cf. đoạn đầu Albert Savarus.
(còn nữa)
X. Ursule Mirouët
Balzac và Flaubert
IX. Louis Lambert
VIII. Nàng tình nhân hờ (đầy đủ)
[tiện bút] Đọc Balzac ở Hà Nội
VII. Người phụ nữ tuổi ba mươi
VI. Viên bác sĩ nông thôn
Trở về cổ điển: Balzac - Vở kịch con người
V. Một vụ việc ám muội (phần 1)
IV. Albert Savarus (phần 1)
(phần 2)
III. Séraphîta
II. Ferragus (phần 1)
(phần 2)
I. Mặt bên kia của lịch sử hiện thời
Vinh quang và một cốc nước cho Honoré de Balzac
đoạn trò chuyện Malin với Grévin trong rừng đem dựng thành một vở "kịch lịch sử" về Đế chế đi. nhưng ở đây ko kiếm đc diễn viên. thấy "trại Boulogne" lại thấy hồi hộp cứ như vụ đó chưa hề bị canceled. nhưng đoạn 'đốn ngộ" về nhau của vợ chồng Michu hình như mới là đoạn kiệt tác. cảnh ông bạn chống cạc-bin dưới trăng thật ngưỡng mộ quá! đêm ấy buộc phải sáng trăng thôi. lẩn thẩn nhớ đến cảnh hai bạn gì ôm nhau trên mũi tàu Titanic í, có lẽ cũng etude cái đêm trăng này :P
ReplyDeletekể từ đây, Balzac viết đúng như một tác giả truyện trinh thám đích thực, tính toán thời gian và sắp xếp sự kiện giống như một tiểu thuyết của Agatha Christie :p
ReplyDelete(chi tiết cần đặc biệt nhớ là nhân vật Violette vẫn đang ở nhà Michu, say bí tỉ - dường như có liên quan đến vấn đề "tạo alibi" hehe)
tiếp tục
ReplyDelete