Năm 1941 ngoài Chiếc lư đồng
mắt cua Nguyễn Tuân còn in Một chuyến
đi viết về cái lần đi sang Hương Cảng cùng một nhóm người trong đó có Đàm
Quang Thiện và Nguyễn Doãn Vượng; bộ “dầu lạc” thì chắc chắn Tàn đèn dầu lạc cũng in năm 1941 này
nhưng còn Ngọn đèn dầu lạc thì sao?
khó xác định, có nơi bảo in năm 1939 nhưng cũng khó tin, rất có thể nó cũng là
của năm 1941 này, cái năm kỳ diệu (annus mirabilis) của Nguyễn Tuân, cũng là
năm kỳ diệu của nền văn chương Việt Nam, vì cho đến thời điểm ấy, rốt cuộc đã xuất
hiện một văn chương của sự đứt đoạn đúng nghĩa.
Thử tưởng tượng văn chương Vũ Trọng Phụng không có ái tình, văn
chương của một loạt nhà văn khác không có chút dí dỏm nào là thấy ngay: những
văn chương ấy không cách gì tồn tại được, nó sẽ khập khiễng, lập cập, dở dang,
chẳng ra cái hình thù gì; nhưng Nguyễn Tuân ở chính sự thiếu vắng tạo ra một
cách hờ hững lại minh chứng một cách buồn bã rằng chẳng gì là cần thiết hết; sự
đứt đoạn của cả một lịch sử, cái thời kỳ đứt đoạn thảm khốc như vực thẳm ấy đã
tìm đúng đến Nguyễn Tuân mà ụp xuống, chính Nguyễn Tuân chứ không ai khác, và vực
thẳm ấy kín đáo đến nỗi suốt hàng thập kỷ sau đó Nguyễn Tuân chỉ được nhìn nhận
như một người ngông nghênh, một người tỉ mẩn đẽo gọt chữ nghĩa, nhưng cái lớn
lao của Nguyễn Tuân nằm ở mức độ sâu của vực thẳm kia, một con người chứa đựng
trong mình cả vực thẳm.
Thuốc phiện và ả đào phảng phất hoặc nồng đượm khét lẹt trong
văn chương cả một thời, nhưng chẳng bao giờ tê tái thăm thẳm như trong những “dầu
lạc” của Nguyễn Tuân, ở chú Trô chủ tiệm hay ông Thông Phu của Chiếc lư đồng mắt cua; quá vãng vàng son
tắc tị, gỉ sét, đóng cặn ở những thân phận con người lẽ ra có thể hào hùng cái
thế, nơi vực sâu mà ít người thực sự dám thả mình vào cho ám khói từ trong ra
ngoài và nhờn nhợt muôn đời thứ phấn hương thập thành đến hồi phôi phai không
thể hồi phục.
Sau này người ta cứ hay so sánh Nguyễn Tuân với Võ Phiến, trong
khi chẳng có gì khác nhau hơn thế, ở Võ Phiến là “tinh quái của nhìn nhận”, còn
Nguyễn Tuân của năm 1941 không có ánh mắt nào dõi ra bên ngoài, cả ở chuyến đi
Hương Cảng cũng là nhì nhùng lặn ngụp của cõi vực thẳm bên trong, mọi thứ có sẵn
ở đó chứ không cần giơ tay với ra, tiếng cười nào cũng thảm khốc và thứ trò diễn
nào cũng cay đắng buồn.
Sau này, bình luận về Nguyễn Tuân, những trích dẫn đặt cách nhau
nhiều sự đặt câu quái gở “Tôi tự rước tôi ra đường”, “Tôi tự phóng hỏa tôi” vân
vân làm thiên lệch hẳn nhìn nhận vào văn chương của Nguyễn Tuân; nó không ngông
đến cỡ đó, nó cũng không gọt giũa câu chữ đến cỡ đó, mặc dù độ ngông và độ tỉ mẩn
câu từ của Nguyễn Tuân dĩ nhiên là hơn đứt mọi nhà văn khác; để nhìn được vào
văn chương Nguyễn Tuân thì cần đặt ra cả một thế giới giả định hòng thâu tóm được
cái toàn bộ, chứ những biểu hiện lặt vặt không nói lên điều gì.
Sự đứt đoạn mà không màu mè, mà không bi thống, chỉ Nguyễn Tuân mới làm
được, vào cái năm 1941 ấy.
là độc giả của (văn chương) NT, những lần đứt đoạn, những lần đối diện với vực thẳm, em đọc tùy bút của NT, chẳng hạn “Đẹp lòng” “Được ốm”…
ReplyDelete