Cùng một đề tài mà nhiều thể loại xúm vào khai thác, chuyện
đó không có gì lạ. Dẫu cho điều này có thể làm độc giả của tiểu thuyết Tolstoy
phiền lòng, thì ta cũng phải thừa nhận rằng lượng người đọc những tờ báo phụ nữ
chuyên viết về đời sống gia đình lớn hơn nhiều so với những người ngây ngất dõi
theo hạnh phúc và bất hạnh của các cặp vợ chồng trong “Anna Karenina”. Tuy
nhiên, cái gì thì cũng có giá trị riêng của nó: báo chí hằng ngày không bao giờ
đủ sức tạo ra một Vronski sống mãi cả hơn trăm năm qua, như một hình tượng đa
tầng ngữ nghĩa.
“Theo đuổi tri thức. Học giả, Địa vị & Văn hóa Học thuật”
của Deborah L. Rhode (Giáo sư Đại học Stanford), Bùi Thanh Châu dịch, Mai Sơn
hiệu đính, Phạm Quốc Lộc giới thiệu, Ban Tu thư Đại học Hoa Sen và NXB Thời
đại, là một tác phẩm phi hư cấu bàn rất sâu về thế giới học thuật bên Mỹ. Toàn
chuyện xa lắc xa lơ, tưởng chừng như nó chẳng mấy quan hệ với độc giả Việt Nam.
Thế nhưng đừng nghĩ vậy: rất nhiều khi những gì xa lắc lại rất ảnh hưởng đến
chúng ta, mà ví dụ kinh điển là bầu trời đầy sao trên đầu và thế giới nội tâm
của chúng ta.
“Theo đuổi tri thức” miêu tả một số khía cạnh nổi bật của
“hàn lâm” và “đại học” tại nước Mỹ, đại ý cuốn sách đặt ra câu hỏi về việc thực
sự thì các giáo sư đại học theo đuổi gì: Họ có theo đuổi tri thức không, hay
theo đuổi danh tiếng, tiền bạc và địa vị. Nhà hàn lâm “thực thụ”, ở mức độ lý
tưởng, theo Emerson là người nên “thấy đủ hạnh phúc nếu có thể thỏa mãn chính
mình chỉ bằng việc hôm đó ông ta đã thấu hiểu một thứ gì đó”, nhưng lời dạy này
có vẻ bị nhiều người quên mất.
Tác phẩm phi hư cấu này hấp dẫn vì giáo sư Rhode, tác giả
của nó, rất biết cách “tặng thêm” những câu chuyện sắc bén mang tính gợi ý cao
chứ không chỉ trình bày rất nhiều lập luận chặt chẽ với số liệu và dẫn chứng đi
kèm. Ta biết chuyện một hiệu trưởng mang theo đầu bếp riêng bay sang châu Âu dự
một bữa tiệc gây quỹ (tr. 37) như một hiện tượng trưởng giả hóa thế giới đại
học, cũng như biết rằng trong số các bài viết học thuật “có những câu mà người ta
phải van xin tác giả gạch bỏ đi” (tr. 71) vì quá tối nghĩa, rồi ngay sau đó là
câu chuyện về nữ giáo sư danh tiếng Judith Butler (tác giả cuốn sách “Genre
Trouble” đình đám cách đây chừng hai chục năm), xung quanh vấn đề sao mà các
học giả viết khó hiểu thế. Mà Butler chỉ là một học giả trong quy trình sản
xuất tác phẩm học thuật khủng khiếp: “mỗi năm đã có hơn một trăm ngàn tạp chí
chuyên ngành và hơn một trăm ngàn cuốn sách được xuất bản trên toàn thế giới”
(tr. 63). Rhode cũng chỉ ra nhiều vấn đề nữa, chẳng hạn như: “cộng đồng hàn lâm
đang mất dần tính cộng đồng” (tr. 59).
Cuốn sách phi hư cấu này sẽ được bổ khuyết rất hữu hiệu về
phương diện văn chương nếu ta đọc thêm bộ ba tiểu thuyết của David Lodge hay
được mệnh danh là thể loại “campus novel” (tiểu thuyết về giới đại học):
“Changing Places” (1975), “Small World” (1984) và “Nice Work” (1988), trong đó
cuốn đầu tiên đã được dịch ra tiếng Việt gần đây dưới nhan đề “Đổi chỗ”. Điều
rất đáng lưu ý là Lodge từng làm giáo sư đại học (trường Birmingham bên nước
Anh, nguyên mẫu cho trường Rummidge vô cùng nhiều nét nực cười trong bộ tiểu
thuyết nói trên), thời gian ấy ông là một chuyên gia khả kính về lý thuyết văn
học, với những bộ “dẫn luận” được rất nhiều sinh viên đọc và trích dẫn. Đến năm
1987, David Lodge bỏ nghề giáo sư để chuyên tâm vào văn chương.
Tương ứng với những mô tả của Rhode trong “Theo đuổi tri
thức”, trong bộ tiểu thuyết của Lodge có tất cả các khía cạnh khôi hài của giới
học giả, nói tóm lại là mặt trái của một thế giới tưởng chừng khắc kỷ, với
những màn đổi vợ đổi chồng giữa các giáo sư (trong “Đổi chỗ”), những cuộc hội
thảo khiến độc giả cười lăn cười bò trong “Small World”, các giáo sư như thể
ngôi sao giới showbiz, nhất là Morris Zapp, liên tục bay lượn như chim trên
trời để đi từ cuộc hội thảo này sang cuộc hội thảo khác, với mục đích cuộc đời
là trở thành giáo sư văn chương Anh-Mỹ được trả lương cao nhất thế giới, hoặc
giả một vị giáo sư bên Melbourne ngồi viết tham luận hội thảo bằng một thứ “đặc
ngữ” không thể hiểu giống như Rhode đã miêu tả nhưng thật ra trong đầu chỉ chăm
chăm nghĩ đến cô sinh viên giờ này đang mặc bikini trên bãi biển (chi tiết
trong “Small World”).
Có những lúc trong tiểu thuyết của mình, Lodge viết những
“trữ tình ngoại đề” đúng theo phong cách giáo sư đại học, còn Rhode lại đưa ra
các “nhân vật” nói những câu như trong tiểu thuyết, ví dụ như bà trích dẫn Richard
Posner nói rằng “nền học thuật, giống như loài cá hồi sinh sản nơi hoang dã, có
rủi ro lớn mà kết quả lại thấp” (tr. 65). Hư cấu và phi hư cấu của các giáo sư
đại học nhiều khi có biên độ trùng nhau tương đối lớn.
Và, nếu muốn có một cái nhìn “ở giữa”, không quá thiên về
định kiến về một xã hội học thuật nghiêm ngắn mà cũng không ngả hẳn sang sự
châm biếm cái xã hội ấy, ta có thể tham khảo ý kiến của nhà văn Mỹ Jonathan
Franzen được Rhode trích dẫn trong “Theo đuổi tri thức”: “niềm vui có được từ
lao động cực nhọc… niềm vui thấy mình hơn hẳn những độc giả kém cỏi, mới chính
là niềm vui đáng có nhất” (tr. 75). Lẽ dĩ nhiên, cái gì thì cũng có giá trị riêng
của nó.
Nhị Linh
alo, em mò mẫm hoài ko ra dịch giả Thùy Vũ là chàng/nàng nào?
ReplyDeleteNhắc đến thế giới đại học thì em nhớ đầu tiên tới Đổi chỗ. Mà Đổi chỗ thì nhớ ngay tới dịch giả...hum
EMi
anh cũng không biết :)
ReplyDeleteEm mò google sao không thấy chỗ nào bán cuốn này vậy ?
ReplyDelete"Đổi chỗ" hay "Theo đuổi tri thức"? "Đổi chỗ" thì đầy, ngay Fahasa Nguyễn Huệ cũng có, còn "Theo đuổi tri thức" thì liên hệ với đại học Hoa Sen ấy.
Delete