Jun 15, 2025

Ngây thơ và tình cảm


sống thì cũng chỉ là một phần, có lẽ một phần không lớn lắm

(Etdung Kaovi, yes he's back)


Nhìn cái tên sẽ có nhiều (several, nhiều thật hoặc nhiều ít) người nghĩ (tưởng) sẽ là William Blake. Nhưng lại không phải. Nhưng cái đó thì lại đúng là rất Blake. Blake, Swedenborg and Co.: Urizen, etc. Nhân vật ở đây thật ra lại là: hẳn rất ít ai ý thức được là nhân vật ấy lại chính xác là người cùng thời với William Blake.



Sự thể Nerval rất thuộc về phía WB là điều không quá khó để nhận ra, tuy sẽ không thấy ngay lập tức - trái ngược với sự vị cùng thời với nhau, của Schiller và Blake.



Về thơ ngây thơ và tình cảm

- Schiller


Về thơ ngây thơ và thơ tình cảm

Có các khoảnh khắc trong cuộc đời chúng ta nơi chúng ta dành cho tự nhiên đúng như nó xuất hiện ở những cái cây, các khoáng chất, động vật, vùng nông thôn, cũng như cho bản tính con người đúng như nó được biểu lộ ở bọn trẻ con, nơi các tập quán đồng quê hay nguyên thủy, một dạng tình yêu đầy tôn kính cảm động không phải vì nó làm các giác quan của chúng ta phấn khởi, cũng không phải vì nó thỏa mãn lý trí của chúng ta hay sở thích của chúng ta (từ hai yếu tố này, chính điều trái ngược mới là thứ được sinh ra), mà hết sức đơn giản vì nó là tự nhiên. Mọi con người nào đủ mức tinh xảo, miễn sao người ấy không hoàn toàn bị thiếu mất sự nhạy cảm, đều có kinh nghiệm về điều đó những khi anh ta đi dạo ngoài trời, khi anh ta sống ở vùng nông thôn, hoặc giả khi anh ta nấn ná trước các vết tích từ những thời xa xưa, nói ngắn gọn, những khi nào ở chính giữa các mối quan hệ và hoàn cảnh nhân tạo anh ta bị bắt chợt bởi cảnh tượng tự nhiên trong sự đơn giản của nó. Chính mối quan tâm này, không hiếm khi được nâng lên hạng của nhu cầu, là thứ làm nên nền cho tình trìu mến của chúng ta đối với hoa và thú, đối với các khu vườn khiêm nhường, đối với những cuộc dạo chơi, đối với vùng nông thôn cùng cư dân của nó, đối với nhiều món đồ vật phát xuất từ một quãng cổ đại xa xôi, v.v...; tất nhiên đấy là nếu giả định rằng ở đó không hề có cả sự giả đò lẫn lợi ích ngẫu nhiên nào. Nhưng loại quan tâm dành cho tự nhiên ấy chỉ được tạo ra với hai điều kiện. Điều kiện thứ nhất: nhất thiết phải có chuyện đồ vật ảnh hưởng chúng ta theo hướng này đúng là thuộc tự nhiên hoặc được chúng ta coi là như thế; điều kiện thứ hai: mối quan tâm đó phải ngây thơ, theo nghĩa mạnh của từ này, tức là ở nó tự nhiên ở vào thế tương phản với nghệ thuật và che lấp nó đi. Ngay lúc điều kiện thứ nhất nhập vào với điều kiện thứ hai, trước đó thì không, tự nhiên liền hòa vào với cái ngây thơ.

Tự nhiên, trong phối cảnh này, hiện ra với chúng ta chẳng là gì khác ngoài như là bản sinh trong tự do của nó, hiện diện tự trị của các vật, tồn tại chiểu theo các luật riêng và không suy suyển.

Trình hiện này là tuyệt đối cần thiết nếu người ta muốn dự phần thế nào đó vào các hiện tượng ấy. Nếu người ta có thể trao cho một bông hoa giả toàn bộ vẻ ngoài của tự nhiên, trong một sự làm giả hoàn hảo, nếu người ta có thể đưa sự bắt chước cái ngây thơ [ở trong tinh thần] lên mức độ ảo tưởng cao nhất của nó, thì việc phát hiện ảo tưởng đó sẽ hư vô hóa hoàn toàn tình cảm đang nói tới ở đây. [Kant là người đầu tiên, trừ phi có nhầm lẫn gì, khởi phát một suy tư về hiện tượng đặc biệt này, nhắc rằng nếu chúng ta nghe thấy tiếng hót chim họa mi được bắt chước ở mức độ ảo tưởng cao nhất bởi một con người, và đồng thời chúng ta tự buông mình vào cảm giác ấy với một cảm xúc hoàn toàn, thì sự phá hủy ảo tưởng kia sẽ làm biến mất toàn bộ khoái lạc của chúng ta. Chỉ cần đọc ở chương về "Mối quan tâm trí năng dành cho Cái Đẹp" trong Phê phán năng lực đánh giá. Người nào đã chỉ học được cách bắt chước nơi tác giả đó một nhà tư tưởng sẽ được sung sướng gặp ở đây dấu vết của trái tim ông và, qua khám phá ấy, được thuyết phục về thiên hướng triết học rất cao của ông - thứ đòi hỏi, theo lối tuyệt đối, việc hai phẩm chất phải được hội tụ. - chú thích của Schiller] Từ đó mà, rất rõ, có chuyện dạng sung sướng lấy được từ tự nhiên này không thuộc trật tự cảm năng, mà thuộc trật tự tinh thần [cũng có thể hiểu cùng lúc là luân lý]; bởi nó được thông truyền nhờ phương tiện là một khái niệm chứ không phải một cách tức thì chỉ nhờ vào ngắm nhìn; do vậy nó không được quy định bởi vẻ đẹp của các hình thức một chút nào. Cũng như, bằng cái gì mà một bông hoa vô hình, một dòng suối, một tảng đá phủ đầy rêu, tiếng chim ríu rít, tiếng thì thầm của ong, v.v..., tự thân chúng có cái gì đó khiến chúng ta thích được? Từ đâu mà toàn bộ những cái đó có thể tự phụ về việc được chúng ta yêu quý? Không phải những đối tượng ấy, mà chính một ý được tạo thành từ chúng mới là thứ mà chúng ta yêu quý ở chúng. Chúng ta yêu quý ở chúng sự sống im lìm và tích cực, các hiệu ứng được chính mình đạt đến đầy yên ả, tồn tại theo những luật riêng của mình, tất yếu bên trong, nhất thể vĩnh cửu với chính mình.

Chúng là những gì mà chúng ta từng vốn dĩ; chúng là những gì mà rồi một ngày kia chúng ta sẽ quay trở lại. Chúng ta từng là tự nhiên, giống chúng, và văn minh của chúng ta phải, trên con đường của lý trí và của tự do, đưa chúng ta trở về với tự nhiên. Như vậy chúng vừa là trình hiện cho tuổi thơ đã mất của chúng ta, nó sẽ vĩnh viễn vô cùng thân thiết với chúng ta; vì lý do này, chúng đổ đầy vào chúng ta một nỗi hoài nhớ nào đó. Và đồng thời cũng vừa là trình hiện cho sự tựu thành đầy đủ của chúng ta trong lý tưởng, ở điểm này chúng truyền tới cho chúng ta một cảm xúc trác tuyệt.

Nhưng sự hoàn hảo của chúng không phải là giá trị của chúng, bởi đó không phải tác phẩm từ lựa chọn tự do của chúng. Bằng cách ấy chúng tạo cho chúng ta khoái cảm hết sức đặc biệt, là các mẫu của chúng ta, mà không làm chúng ta thấy xấu hổ. Chúng giữ ở xung quanh chúng ta biểu hiện thường hằng của Chúa, nhưng điều này khiến chúng ta được ngơi nghỉ thì nhiều hơn là làm chúng ta bị lóa mắt. Cái tạo dựng tính cách của chúng chính là những gì thiếu mất nơi tính cách của chúng ta để nó có thể trở nên hoàn hảo; cái làm cho chúng ta khác với chúng chính là những gì chúng bị thiếu mất để có thể trở nên thần thánh. Chúng ta tự do còn chúng thì tất yếu; chúng ta thay đổi, chúng thì cứ mãi vậy. Và chỉ khi nào hai khía cạnh này tụ hội được với nhau - lúc ý chí tự do đi theo các luật của tất yếu và lúc ở giữa những biến tấu của trí tưởng tượng lý trí duy trì quy tắc của nó - thì cái thần thánh hay lý tưởng mới xuất hiện. Như vậy, chúng ta luôn luôn nhìn thấy ở chúng những gì vuột đi mất khỏi chúng ta, những gì vì đó chúng ta nhận lệnh phải tranh đấu và những gì mà chúng ta phải hy vọng xích lại được gần trong một tiến bộ miên viễn, dẫu cho chẳng bao giờ chúng ta đạt tới nổi. Chúng ta nhìn thấy nơi chúng ta một lợi thế vốn dĩ thiếu vắng ở chúng, nhưng một số người, các con người được phú cho lý trí, không thể xâm nhập được nó, và những người khác, như bọn trẻ con, chỉ có thể tham gia nó bằng cách đi theo chính con đường của chúng ta. Thế thì, chúng cho phép chúng ta nhìn nhận với một khoái lạc đặc biệt êm dịu cái ý chung về nhân tính của chúng ta, dẫu chúng chỉ có thể làm nhục chúng ta nếu chúng ta nhìn nhận mỗi trạng thái đặc biệt ở nhân tính của chúng ta.

Trong chừng mực mối quan tâm đối với tự nhiên ấy được dựng trên một ý, nó chỉ có thể biểu lộ ra trong một tinh thần dễ tiếp nhận các ý, tức là trong một tinh thần [thuộc] luân lý. Phần lớn con người chỉ làm mỗi một việc là giả vờ mối quan tâm đó và tần suất của tính tình cảm ấy vào thời chúng ta, vốn dĩ chủ yếu được diễn tả, kể từ khi một số viết lách được xuất bản, bằng các hành trình tình cảm, các khu vườn cũng cùng thể loại [tức là "tình cảm"], những cuộc dạo chơi cùng các tỏ bày hâm mộ thuộc cùng dạng, tần suất đó không hề là một chứng cứ cho tần suất của cách cảm nhận này. Sự thật là, tự nhiên sẽ luôn luôn tạo ra hiệu ứng nào đó ngay cả là lên những người ít được thiên phú sự nhạy cảm nhất, vì để làm thế nó chỉ cần mỗi sự bố trí luân lý này là đủ, thứ vốn dĩ tất tật con người đều có: dẫu khoảng cách đáng kể phân tách các thể động của chúng ta khỏi sự đơn giản và khỏi sự thật của tự nhiên có là thế nào đi chăng nữa, thì các ý của chúng ta cũng đưa chúng ta về phía nó trở lại. Sự nhạy cảm dành cho tự nhiên ấy được tỏ lộ với một lực đặc biệt và theo cách trải rộng hơn cả về phía các đồ vật ở gần chúng ta nhất, những thứ làm chúng ta trở ngược lại với chính chúng ta và hé lộ cho chúng ta cái phần không-tự nhiên nằm bên trong chúng ta: chẳng hạn, bọn trẻ con. Người ta nhầm khi nghĩ rằng chỉ mỗi sự mong manh của bọn trẻ con là thứ khiến cho đôi khi sự tiếp xúc với chúng gây thật nhiều cảm động. Có thể chuyện đúng là như vậy ở những ai, những lúc có hiện diện của sự yếu ớt, không cảm thấy gì khác ngoài sự vượt trội của chính họ. Không, tình cảm mà tôi đang nhắc tới đây (nó chỉ được tạo ra ở các điều kiện luân lý hết sức đặc thù và không được phép bị lẫn lộn với tình cảm mà sự náo động vui tươi của bọn trẻ con đánh thức nơi chúng ta) gây nhiều nhục nhã hơn so với tạo tự đắc cho sự tự ái của chúng ta; và nếu nó cho chúng ta thấy lợi thế nào đó, thì ít nhất lợi thế đó không nằm bên phía chúng ta. Như vậy không phải là vì chúng ta nhìn đứa bé đầy trịch thượng từ độ cao sức mạnh cùng sự hoàn hảo của chúng ta, mà vì, từ vị thế chật hẹp của chúng ta, thứ không thể phân tách khỏi mức độ quyết tâm mà chúng ta dã đạt đến, chúng ta ngưỡng mộ ở đứa bé tính quyết tâm không giới hạn của nó, và sự trong trắng thuần khiết của nó, phải, chính vì thế mà chúng ta xúc động và tình cảm của chúng ta vào một khoảnh khắc như vậy bị trộn lẫn vào với nỗi hoài nhớ theo lối quá mức hiển hiện, thành thử người ta chẳng thể lờ đi nguồn chính xác của nó. Ở đứa trẻ, mọi sự đều là bố trí [sẵn] và đi tới, còn ở chúng ta, mọi thứ đều là sự tựu thành, hiển nhiên là thứ rất thấp so với mấy cái kia. Vì lý do này, đứa trẻ là cái khiến lý tưởng trở nên hiện diện, không phải lý tưởng mà chúng ta đã hoàn thành, mà lý tưởng mà chúng ta đã chối bỏ. Do đó, không phải cả ý về sự nghèo nàn của nó lẫn về những giới hạn của nó là thứ khiến chúng ta bị khuấy động, mà là ý về sức mạnh của nó trong trạng thái tự do và thuần khiết, về sự khiết tịnh của nó, về sự vô biên của nó. Điều đó khiến cho đứa trẻ đối với con người luân lý và nhạy cảm là một đối tượng thiêng, một đối tượng mà tầm quan trọng lý tưởng đoạt lấy chỗ của tầm quan trọng duy nghiệm; đối tượng ấy, dẫu thua cuộc trước đánh giá của trí năng, giành thắng lợi trước đánh giá của lý trí.

Mâu thuẫn ấy giữa đánh giá của trí năng và đánh giá của lý trí chủ trì ở mức hoàn toàn sự biểu lộ của thứ tình cảm hỗn hợp kia, mà cái ngây thơ đánh thức nơi chúng ta. Nó hợp nhất sự đơn giản trẻ thơ và sự đơn giản con nít; nhờ sự đơn giản con nít, cái ngây thơ sắp đặt ở trí năng một điểm yếu, và gợi ra cái cười mỉm thông qua đó chúng ta cho thấy sự vượt trội (về lý thuyết) của mình. Nhưng ngay khi chúng ta có những lý do để nghĩ rằng sự đơn giản con nít cùng lúc cũng là một sự đơn giản trẻ thơ, rằng do vậy nguồn của nó không phải cả trí năng lẫn sự thiếu khả năng về lý thuyết, mà là một lực thực hành lớn hơn, một trái tim đầy ngập sự trong trắng và sự thật, mà tài khéo hẳn làm giảm bớt quyền năng, thì kết thúc luôn thắng lợi của trí năng và sự nhạo báng nhằm vào sự đơn giản biến thành ngưỡng mộ đối với sự chất phác cao quý kia. Chúng ta cảm thấy mình buộc phải coi trọng những gì thoạt tiên đã khiến chúng ta mỉm cười và, tung một cái nhìn vào bên trong chúng ta, buộc phải tự thấy thương mình vì không giống được với nó. Bằng cách ấy mà được tạo ra biểu lộ hết sức đặc biệt kia của một tình cảm nơi chế nhạo vui tươi, tôn trọng và sầu muộn trộn lộn vào với nhau. [ở đây Schiller có một chú thích, tiếp tục liên quan đến Kant, một chú thích rất dài - để lại sau]

Điều kiện của cái ngây thơ nằm ở chỗ tự nhiên chiến thắng nghệ thuật, điều này diễn ra hoặc ngược lại ý định của người liên quan, hoặc theo cách thức hoàn toàn có ý thức. Ở trường hợp thứ nhất, người ta sẽ nói đến cái ngây thơ dạng bất ngờ, nó gây vui thích; ở trường hợp thứ hai, đó là cái ngây thơ của [dạng] tình cảm, nó làm ta sôi lên.

Ở cái ngây thơ dạng bất ngờ, con người phải được phú bẩm một năng lực luân lý [hoặc, again: tinh thần] trong việc chối bỏ tự nhiên; ở cái ngây thơ của tình cảm, người đó có thể không có năng lực ấy, nhưng chúng ta cần phải nghĩ người đó không thiếu mất khả năng ấy ở phương diện thể chất, để nó có thể tạo lên chúng ta ấn tượng về cái ngây thơ. Chính vì thế các thể động cùng lời lẽ của bọn trẻ con mang tới cho chúng ta ấn tượng thuần túy về cái ngây thơ, do trong tâm trí chúng ta không có sự thiếu khả năng hoàn toàn của chúng đối với trò xảo và chúng ta chỉ ghi nhận tương phản giữa vẻ tự nhiên của chúng và trò xảo. Cái ngây thơ, ấy là tuổi thơ ở nơi nào người ta không chờ đợi nó, và vì lý do này nó không thể được quy, trong nghĩa đầy của mình, cho chính bọn trẻ con.

Tuy nhiên, ở cả hai trường hợp, nơi cái ngây thơ dạng bất ngờ cũng như nơi cái ngây thơ của tình cảm, tự nhiên đều phải đúng, và sự xảo [có thể hiểu đồng nghĩa luôn với cái nhân tạo] thì sai.

Chỉ thông qua định nghĩa vừa xong thì khái niệm cái ngây thơ mới được hoàn chỉnh. Tình cảm [affect - a, đúng là cần một từ cho cái này; để từ từ; tạm gọi là x] cũng là tự nhiên còn quy tắc tập tục thì là nhân tạo, và thế nhưng, thắng lợi của x trước tập tục hoàn toàn chẳng có gì ngây thơ. Nếu x này giành chiến thắng trước cái nhân tạo thô lậu, trước tập tục giả, trước sự che giấu, thì chúng ta sẽ chẳng cần phải đắn đo chút nào mà nói đến cái ngây thơ. Điều đòi hỏi, ấy là tự nhiên không thắng lợi nhờ lực mù của nó ở tư cách nó là động năng, mà do hình thức của nó ở tư cách nó có một tầm quan trọng luân lý, nói ngắn gọn: nó không giành chiến thắng như là sự bất lực mà như là tất yếu bên trong. Không phải sự không đầy đủ mà là sự không đúng lúc của cái nhân tạo mới là thứ phải trao thắng lợi cho cái ngây thơ; bởi sự không đầy đủ thì tức là thiếu, và không gì phát xuất tự sự thiếu lại xứng nhận lòng coi trọng. Chắc chắn, ở cái ngây thơ bất ngờ, lúc nào quyền năng vượt trội của x và một sự thiếu của suy tư cũng làm cho người ta tỏ ra [mình] tự nhiên; nhưng sự thiếu này và quyền năng vượt trội này không tự chúng [và chỉ mình chúng] tạo dựng được cái ngây thơ: chúng chỉ làm một việc là trao cơ hội cho tự nhiên để [nó] đi theo không gặp rào cản gì hình thái luân lý của nó, tức là luật hài hòa.

Cái ngây thơ bất ngờ chỉ có thể hề hấn đến con người ở tư cách vào giây phút đó nó không còn là tự nhiên thuần túy và trong trắng nữa. Nó đặt giả định một ý chí không hòa hợp với những gì mà chính tự nhiên làm. Một người như thế, bị đưa trở lại về với suy tư, sẽ tự làm chính mình sợ; ngược lại, người được phú cho một sự ngây thơ [thuộc] tình cảm thì sẽ chỉ thấy kinh ngạc về những con người và sự ngạc nhiên của họ. Bởi vì ở đây không phải tính cách luân lý và cá nhân mà chỉ tính cách tự nhiên, được cảm xúc giải phóng, là thứ thú nhận sự thật, từ đó mà có chuyện chúng ta chẳng hề thấy cái con người mang sự thành thực ấy có chút công lao nào: như vậy, cái cười của chúng ta là một nhạo báng rất xứng hợp, mà không sự coi trọng cá nhân nào sẽ kìm lại. Nhưng bởi vì cùng lúc chính sự thành thực của tự nhiên hiện ra xuyên qua tấm mạng của sự giả, một quan hệ được thiết lập giữa sự thỏa mãn thuộc một trật tự cao hơn này và niềm vui ranh mãnh vì đã bắt quả tớm [sorry, bắt quả tang] tại chỗ một người phạm lỗi; bởi tự nhiên, đối lập với sự giả đò, và sự thật, đối lập với lừa dối, luôn luôn phải tạo ra lòng coi trọng. Do đó ở trường hợp cái ngây thơ bất ngờ chúng ta cảm thấy một sự thỏa mãn có tính cách luân lý một cách sâu sắc, dẫu nó chỉ được áp dụng vào cho một đối tượng luân lý.

Nơi cái ngây thơ bất ngờ, lúc nào chúng ta cũng coi trọng tự nhiên vì chúng ta luôn luôn phải coi trọng sự thật; nơi cái ngây thơ thuộc tình cảm, ngược lại, chúng ta coi trọng con người, và do vậy không chỉ cảm thấy một thỏa mãn luân lý, mà một thỏa mãn luân lý liên quan tới một đối tượng luân lý. Ở cả hai trường hợp, tự nhiên đều đúng, bởi nó nói sự thật; nhưng ở trường hợp thứ hai, không chỉ tự nhiên đúng, mà con người cũng xứng với lòng kính trọng. Ở trường hợp thứ nhất, sự thành thực của tự nhiên luôn luôn được biểu lộ kèm với nỗi xấu hổ lớn nhất của người, điều này cho thấy nó không thuộc chủ ý; ở trường hợp thứ hai, nó luôn luôn là một công lao đối với người, ngay cả nếu như những gì mà nó thú nhận hẳn sẽ làm người ấy phải xấu hổ.

Chúng ta gán cho một cá nhân một sự ngây thơ thuộc tình cảm khi trong các đánh giá về các vật của người ấy, người ấy lơ là những mối quan hệ nhân tạo và được tìm kiếm, chỉ khăng khăng bám vào tự nhiên đơn giản. Tất tật các đánh giá mà người ta có thể có về các vật khởi đi từ bầu ngực của tự nhiên lành mạnh, chúng ta đều đòi hỏi chúng từ người ấy và chúng ta chỉ thấy người ấy sạch nợ khỏi những gì đặt giả định rằng người ta tách rời khỏi tự nhiên, dẫu cái đó là ở trong suy nghĩ, trong tình cảm hay thậm chí trong hiểu biết.

Khi một ông bố kể cho những đứa con của mình rằng người này hay người kia sắp chết đói và một đứa con đến tìm người kia để đưa cho ông ta túi tiền của bố mình, thì đó là một hành động ngây thơ; bởi tự nhiên lành mạnh đã hành động thông qua đứa bé, và tại một thế giới nơi tự nhiên ngự trị, hẳn sẽ hoàn toàn đúng khi sử dụng nó như thế. Nó chỉ nhìn thấy nhu cầu, cùng phương cách gần hơn cả nhằm thỏa mãn nhu cầu ấy; một sự mở rộng quyền sở hữu như vậy, thứ hẳn sẽ có thể đe dọa đến chết một phần loài người, không được dựng trên chỉ mỗi tự nhiên. Hành động của đứa trẻ đó khiến xã hội thực phải xấu hổ, và đấy là điều mà trái tim chúng ta chấp nhận khi nó cảm thấy khoái lạc trước hành động ấy.

Khi một người không biết gì về thế giới những rất trí tuệ trao các bí mật của mình cho một người khác, kẻ này lừa anh ta nhưng rất giỏi che giấu, và do sự thành thực của mình mà cung cấp cho kẻ kia những phương tiện để làm hại mình, chúng ta bắt gặp một người ngây thơ. Chúng ta chế nhạo người ấy nhưng chúng ta không thể tự cấm mình coi trọng người ấy vì điều đó. Bởi lòng tin vào người khác của người ấy sinh ra từ sự thành thực nơi những tình cảm riêng của người ấy; ít nhất người ấy chỉ ngây thơ trong chừng mực người ấy là như thế.

Sự ngây thơ trong cách nghĩ hẳn sẽ chẳng thể tồn tại nơi những kẻ bị băng hoại. Nó chỉ tồn tại ở lũ trẻ con và những người vẫn trẻ thơ. Những người này thường hành động và suy nghĩ theo lối ngây thơ ở chính giữa các mối quan hệ giả trá vốn dĩ ngự trị ở thế giới; nhân tính đẹp của họ làm họ quên đi rằng họ đang gặp phải một thế giới băng hoại, và họ cư xử thậm chí là tại triều đình của các ông vua với một sự chất phác cùng một sự trong trắng mà người ta chỉ tìm được tại thế giới của những khúc nhạc đồng quê.

Thêm nữa, không hề dễ, cái việc lúc nào cũng phân biệt được sự trong trắng trẻ thơ và sự trong trắng con nít bởi có các hành động đi từ loại này sang loại kia và chúng khiến chúng ta thấy nghi hoặc - cần phải cười sự đơn giản kia hay coi trọng sự chất phác cao quý kia? Một ví dụ đáng kể về điều này nằm trong câu chuyện kỳ cai quản của giáo hoàng Adrien VI mà ông Schröckh đã miêu tả cho chúng ta với đầy vững chãi và chân thực theo lối thực dụng, vốn dĩ là những thứ đặc trưng hóa cho ông. Vị giáo hoàng kia, sinh ra là người Hà Lan, thực thi quyền hạn của mình vào một trong những khoảnh khắc gay cấn nhất cho tôn ti: một đảng đầy tức tối huỵch toẹt phơi ra các chỗ yếu của Nhà thờ La Mã và đảng đối lập phải tìm mọi cách nhằm che giấu chúng đi. Ở trường hợp ấy một tính cách ngây thơ một cách chân thực, nếu quả có chuyện một cá nhân như thể lạc lối tận tới cái ghế giáo hoàng [người Đức, giống Luther, rất ghét giáo hoàng], có thể làm gì, đấy không phải là vấn đề: mà câu hỏi là, một sự ngây thơ về tình cảm như vậy tương thích đến mức nào với vai trò giáo hoàng? Thêm nữa, đối với những người tiền nhiệm và kế nhiệm của Adrien đó chỉ là một nỗi bối rối nhỏ nhặt. Hết sức đồng lòng, họ đi theo hệ thống La Mã đã được chọn lựa một lần là xong luôn, không hề chấn chỉnh chút nào. Nhưng Adrien đã nhận truyền thừa từ tình cách thẳng thắn nơi dân tộc của ông và lưu giữ sự trong trắng nơi trạng thái trước đó của ông. Xuất phát từ tầng cầu không mấy đông đảo của các văn nhân, ông đã xâm nhập vị trí cao vời kia, và cho tới tận các độ cao của phẩm cách ấy, ông vẫn trung thành với sự đơn giản nơi tính cách của mình. Những lạm dụng của Nhà thờ La Mã lay chuyển ông và ông quá mức thẳng thắn thành ra không thể giấu đi những gì mà cá nhân ông nghĩ. Vì lý do này, ông đã viết vào Các chỉ dẫn trao cho các viên khâm sai của mình được gửi đi khắp nước Đức những lời thú nhận mà chưa hề có giáo hoàng nào dám lộ ra và đối nghịch chằn chặn với các nguyên tắc triều đình của ông. "Chúng ta biết rõ, ông viết, ngoài nhiều điều khác nữa, rằng ngôi vị thiêng liêng này từ nhiều năm đã gây ra những điều tàn khốc; không được thấy ngạc nhiên khi căn bệnh lan đi từ trên đầu xuống tứ chi, từ giáo hoàng cho tới các giáo sĩ cấp cao. Tất tật, chúng ta đã lạc đường từ lâu và chẳng người nào trong số chúng ta từng làm điều tốt, không một ai hết." Ở chỗ khác, ông ra lệnh cho khâm sai của mình nhân danh ông giải thích "rằng ông, Adrien, không thể bị chê trách về những gì đã xảy ra với những giáo hoàng trước đó, và ông từng luôn luôn không biết các quá tay kia, vì ông vốn chỉ có một vị thế khiêm nhường, v.v..." Người ta chẳng khó nhọc gì mà tưởng tượng ra sự ngây thơ của giáo hoàng ấy bị giới tăng lữ La Mã túm lấy như thế nào; điều nhỏ nhất mà người ta dùng để buộc tội ông là ông giao nộp Nhà thờ cho đám dị giáo. Bước đi vô cùng thiếu khéo léo kia của giáo hoàng hẳn xứng được hưởng toàn bộ lòng coi trọng của chúng ta cùng toàn bộ sự ngưỡng mộ của chúng ta nếu chúng ta có thể tự thuyết phục bản thân rằng ông hoàn toàn ngây thơ, tức là ông làm như thế vì sự thật tự nhiên nơi tính cách ông, chẳng chút đoái hoài nào đến các hệ quả khả dĩ và, dẫu có nhận thấy hết sức đầy đủ độ rộng sự xuẩn ngốc của mình, hẳn ông cũng sẽ không vì thế mà bớt hành động như vậy. Nhưng hỡi ôi chúng ta có những lý do để nghĩ rằng ông không thực hiện bước đi đó mà không kèm mục đích chính trị, và trong sự trong trắng của mình thậm chí ông cho là ông đã chinh phục, nhờ sự độ lượng đối với các đối thủ, được những lợi thế rất hữu ích cho Nhà thờ. Trong suy nghĩ của ông, chuyện không nằm ở chỗ thực hiện bước đi ấy chỉ ở tư cách con người thẳng thắn, mà còn bập vào đó cả ở tư cách giáo hoàng, và vì quên bẵng mất rằng thứ nhân tạo hơn cả trong số các tòa công trình chẳng thể nào trụ vững nổi nếu người ta tiếp tục chối bỏ sự thật, ông phạm phải nhầm lẫn không thể tha thứ, cầu viện những phương cách của bảo tồn trong một hoàn cảnh tuyệt đối đảo ngược lại so với hoàn cảnh nơi hẳn chúng sẽ có thể nhiều hiệu quả. Đấy là điều làm biến đổi rất nhiều ý kiến của chúng ta; và thậm chí nếu chúng ta không thể chối bỏ lòng coi trọng của mình dành cho sự thẳng thắn của trái tim, thứ làm nảy sinh khởi xướng đó, thì khởi xướng đó cũng không vì thế mà bớt bị suy yếu đi do cái ý theo đó ở đây tự nhiên chiến thắng quá dễ dàng cái xảo [nhân tạo], và trái tim thì thắng cái đầu.

Thiên tài đúng nghĩa nhất thiết phải ngây thơ, bằng không nó không phải là thiên tài. Chỉ mình sự ngây thơ của nó mới có thể biến nó thành thiên tài và những gì mà nó vốn dĩ ở địa hạt trí năng và cảm năng, hẳn nó sẽ không thể ngừng tiếp tục vẫn vậy ở địa hạt luân lý [tinh thần]. Xa lạ với các quy tắc, những thứ nạng của sự yếu, những dụng cụ dùng để dựng lại các nếp gấp tồi tệ, được dẫn dắt chỉ bởi tự nhiên, hoặc giả bản năng, vốn dĩ là thiên thần hộ mệnh của nó, nó thong dong bước đi xuyên qua tất tật những cái bẫy của gu giả dối, nơi cái không-thiên tài, vì thiếu trí năng nhằm vòng tránh được chúng, rơi vào và bị đóng cùm, không thể khác. Chỉ thiên tài thì mới có thể làm được cái việc là cảm thấy như ở nhà mình tại Cái Không Biết và mở rộng tự nhiên thay vì xâm phạm nó. Xâm phạm nó, điều này đôi khi xảy đến với các thiên tài lớn nhất, chắc chắn rồi, nhưng đấy chỉ là vì họ cũng có những khoảng khắc phăng te di nơi tự nhiên bao bọc bỏ mặc họ, vì lực của hình mẫu lôi kéo họ hoặc gu băng hoại vào thời của họ khiến họ bị chệch hướng.

Các vấn đề rối mù nhất, thiên tài phải giải quyết chúng với một sự đơn giản không vương chút tự phụ nào, và thật dễ dàng; quả trứng của Colomb [không biết thì đi hỏi anh Chất nhé] có nhiều tính cách biểu trưng cho các giải pháp thiên tài ấy. Nó chỉ được hợp thức hóa như là thiên tài ở chỗ nó chiến thẳng được các sự xảo [nhân tạo] phức tạp. Hành xử của nó không tuân theo những nguyên tắc đã biết mà theo những gì nó tìm ra cùng các tình cảm của nó; nhưng những gì mà nó tìm được là các cảm hứng thần thánh (toàn bộ những gì mà tự nhiên lành mạnh làm đều thần thánh hết), các tình cảm của nó là những luật cho mọi thời và cho tất tật các dòng giống con người.

Tính cách trẻ thơ mà thiên tài in vào các tác phẩm của mình, nó cũng bày cái đó ra trong cuộc sống riêng tư cùng những cung cách của mình. Nó thẹn thùng [pudeur/pudor bao giờ cũng quan trọng nhất - nhưng con người thì trơ trẽn; nếu muốn biết thêm, cf. Alain], vì tự nhiên luôn luôn thẹn thùng; nhưng nó không tinh tươm [decency], vì chỉ sự băng hoại thì mới tinh tươm được [đấy, đã bảo]. Nó trí tuệ, vì hẳn tự nhiên sẽ chẳng thể nào khác vậy được; nhưng nó không mưu mẹo ["lõi đời" chắc hay hơn], bởi chỉ nghệ thuật mới có thể nhiều mưu mẹo. Nó trung thành với tính cách của mình [fidélité, fidélité] và với những khao khát của mình, không phải vì nó có các nguyên tắc mà vì tự nhiên, ở giữa những biến tấu của nó, luôn luôn làm lại bề mặt và luôn luôn mang về cùng nó các nhu cầu nguyên thủy. Nó khiêm nhường, và thậm chí hèn mọn, vì thiên tài lúc nào cũng vẫn bí hiểm đối với chính nó, nhưng nó không lo lắng, bởi nó không biết các mối nguy của con đường nơi nó bước đi. Chúng ta biết ít điều về cuộc sống riêng tư của những thiên tài lớn hơn cả, nhưng một chút mà chúng ta biết chắc được chẳng hạn về Sophocle, về Archimède, về Hippocrate, và ở những thời gần đây hơn, về Arioste, về Dante, về Le Tasse, về Raphael, về Albrecht Dürer, về Cervantes, về Shakespeare, về Fielding, về Sterne [it's our man, it's the man], v.v..., củng cố các khẳng định trên.

Phải, và dẫu dường sẽ khó hơn để chấp nhận được,


(* đang test thử "xúc cảm" cho affect, nếu work thì sẽ attest)


[những gì Schiller nói ở ngay trên đây về thiên tài, ai cũng thấy rất quen, có phải không? đấy là vì thiên tài tức là một cái gì đó vĩnh cửu, lúc nào cũng ở đó, ai nói đến nó cũng như nhau cả? không hề, thiên tài theo như chúng ta hiểu - đại khái giống những gì Schiller nói - là sản phẩm của Lãng mạn, một trong những sản phẩm lớn và cũng đặc thù hơn cả của Lãng mạn; nếu muốn hiểu được ngay, chỉ cần nhớ, ngoài thiên tài, tình yêu - tức là tình yêu như chúng ta hiểu - cũng là sản phẩm của Lãng mạn; một cái gì đó như thế - tức là như thiên tài và tình yêu - thì có thời độ (durable); không phải cái gì cũng có thời độ, thậm chí rất ít thứ có thời độ; đến đây thì rất rõ ràng, có phải không? tiếp tục: một thứ như thế - tức là thiên tài, hay tình yêu, như đã nói ở trên - có tồn tại mãi không? câu trả lời là không: đến chúa cũng chết, và không có cái sự vĩnh cửu í; chỉ cần đặt ra một câu hỏi: tại sao mấy năm trở lại đây người ta bàn về tình yêu nhiều thế, trong đó rất nhiều thứ thực sự nghiêm túc? đấy là vì có một cảm giác, nó in the air, mà một thứ, ta hãy gọi là common sensibility nắm bắt được, cảm giác gì? cảm giác về sự chết: không gì gây nhiều thôi thúc cho con người bằng sự chết, ngay cả người lãnh đạm nhất cũng thấy mình cảm thấy rất nhiều điều nếu chứng kiến cảnh một con vật chết, chỉ cần một con chó thôi, chưa nói nếu đấy lại là một con người; và: suy đồi thì mới rực rỡ, suy tàn thì tráng lệ; đấy là vì, tình yêu chết, hoặc sắp chết; điều đó có nghĩa là gì? là Lãng mạn đang thực sự hết, nó sắp trở thành thêm một Trung cổ, hoặc hiểu luôn là Cổ đại cũng chẳng sao, nó sắp thành một phế tích, rất huy hoàng, gothic baroque rococo you know; vậy thì: những thứ như tình yêu hay thiên tài - tình yêu và thiên tài sinh ra ở Lãng mạn - rơi vào một hoàn cảnh, hoàn cảnh của mất ý nghĩa, hay nói đúng hơn, mất nghĩa; nói mất nghĩa thì đúng hơn là vì mấy cái đó trước hết là các ý, mà các ý thì phát ra nghĩa; tức là, những gì Schiller nói về thiên tài thật ra là một trong những attestation quan trọng cho sự tồn tại của cái đó; giờ, cần nhìn thêm một chút: thiên tài mất nghĩa, thì cụ thể nghĩa là thế nào? cụ thể là, phải thấy thiên tài có bản tính là gì thì sẽ hiểu ngay: thiên tài là một thiết chế (tình yêu cũng là một thiết chế), chỉ cần nhớ, thiết chế là thứ tạo ra gì? ý thì tạo ra nghĩa, còn thiết chế thì tạo ra ý luận; tất nhiên, thiên tài (hay tình yêu) cũng là khái niệm - thì có ai cấm một thứ vừa là cái này vừa là cái kia đâu, một cô sinh viên triết học vào ban ngày đến đêm hoàn toàn có thể hành nghề gái điếm - thiết chế thì có yếu tính: lạc hậu; thế cho nên, vào lúc này, thiên tài (và tình yêu) tạo cảm giác rất mạnh về anachronism, cũng bởi vậy nên mới có sản phẩm đặc thù của thời chúng ta, just fuck aka Tinder và những thứ tương tự; đừng cố, thôi đừng cố nữa, chẳng được tích sự gì đâu, thời của chúng ta là sa mạc, không có thiên tài cũng chẳng có tình yêu, chưa kể một loạt sản phẩm khác sinh ra từ Lãng mạn, sắp tới đây tôi sẽ tập trung vào một thứ trong đó - Lãng mạn thì mắn đẻ, một cái bụng to]


7 comments:

  1. không thể sống và nói chuyện với một người chỉ vô tình lạc vào hiện tại này mà không thực sự sống trong đó
    ba lối tới hồ - I.B

    ReplyDelete
    Replies
    1. Cản ơn bài thơ hay nhé https://meditop.com.vn/chong-nhiem-khuan-xu-ly-rac-thai

      Delete
  2. nhưng Etdung Kaovi là ai nhỉ

    ReplyDelete
    Replies
    1. Thuyền trưởng lon đại uý người Hàn nhé

      Delete
  3. phải tìm hiểu đi chứ, tra Who's Who hoặc hỏi cái gì bây giờ ai cũng hỏi là ra ngay

    ReplyDelete
  4. tới đây thì có thể so sánh "tình cảm" theo nghĩa của Schiller khác với "tình cảm" theo nghĩa của Sterne như thế nào

    ReplyDelete