Báo chí Việt Nam
đã lớn mạnh vượt bậc ở giai đoạn sung sức nhất của Phan Khôi và Đào Trinh Nhất
(với Phan Khôi có thể coi là đoạn từ 1928 đến 1933 còn với Đào Trinh Nhất là
lúc ông từ Pháp trở về rồi bắt đầu ở hẳn Sài Gòn cộng tác với nhiều tờ báo,
nghĩa là từ 1929 cho đến mấy năm sau đó - ta có thể thấy họ đạt tới độ chín của
năng lực làm báo vào cùng một khoảng thời gian; điều này có ý nghĩa rất lớn vì
chính ở giai đoạn này Phan Khôi và Đào Trinh Nhất đã cùng nhau giúp tờ Phụ nữ tân văn khiến cho nó nhanh chóng
trở thành tờ báo quan trọng bậc nhất Việt Nam). Nó đóng vai trò rất lớn trong
quá trình đào luyện chữ Quốc ngữ, đấu tranh xã hội, xiển dương, đấu tranh và tạo
môi trường ấn hành cho tiểu thuyết và Thơ Mới. Báo chí thực sự trở thành một
trung tâm thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội, và không đáng ngạc nhiên lắm
khi báo chí dần dà trở thành một thế lực đáng kể[1].
Các nhà báo quan trọng của thời ấy (nếu chỉ tính riêng khu vực Nam Kỳ thì nổi bật
“tứ đại làng báo”: Phan Khôi, Đào Trinh Nhất, Diệp Văn Kỳ và Bùi Thế Mỹ, những
người làm sôi động làng báo Việt Nam với sự điều hành cũng như những bài viết
trên các tờ báo như Đông Pháp, Thần chung, Trung lập, Phụ nữ tân văn);
họ được quan tâm và chờ đón hết sức, đến mức tờ Trung lập từng phải vội vã công khai thanh minh rằng lời đồn Phan
Khôi không còn cộng tác với mình là sai, vì bài viết Phan Khôi rất được độc giả
đón đợi, lời đồn đại ông không còn viết cho Trung
lập nữa rất có thể làm sụt giảm doanh số bán báo[2].
Nhìn kỹ vào một
số nhân vật cụ thể như vậy cũng giúp chúng ta thấy rõ hơn một số khía cạnh khác
nữa, chẳng hạn như với tư cách hai nhà báo đặc biệt quan trọng của một thời, lại
cùng giúp cho một tờ báo, Phan Khôi và Đào Trinh Nhất có đồng nhất về tư tưởng
và có phải là “chiến hữu sát cánh bên nhau” trong sự nghiệp báo chí hay không?
Trong những cuộc tranh luận mà Phan Khôi liên tiếp gây ra hoặc tham gia tích cực
có sự can thiệp của Đào Trinh Nhất không? Hay sự gần gũi chỉ là bề ngoài, mà mỗi
người lại có những quan điểm riêng, con đường riêng, nói tóm gọn là hai “cách tồn
tại” khác nhau? Phần dưới đây sẽ cố gắng trả lời ít nhiều cho những câu hỏi ấy.
Sự “giao nhau”
giữa Phan Khôi và Đào Trinh Nhất không hẳn nhiều, mặc dù danh xưng “tứ đại làng
báo Nam Kỳ” hồi ấy rất dễ cho ta một hình dung nào đó về tính chất nhóm, phái
văn chương hay báo chí. Đào Trinh Nhất kém Phan Khôi hơn mười tuổi, cả hai hoạt
động rất tích cực ở quãng cuối thập niên 20 đầu thập niên 30 và có vẻ như cùng
đạt tới “đỉnh cao sự nghiệp báo chí” vào thời điểm 1935-1936. Lúc ấy, sau nhiều
năm làm thuê và viết thuê, cả Phan Khôi lẫn Đào Trinh Nhất đều nghĩ đã đến lúc
có thể tự lực cánh sinh, mở tờ báo riêng của mình và tự thân sống chết với một tờ
báo do mình làm chủ. Phan Khôi ra tờ Sông
Hương ở Huế và Đào Trinh Nhất ra tờ Mai
ở Nam Kỳ.
Cả Phan Khôi và
Đào Trinh Nhất, mặc dù là nhà báo kỳ cựu, đều nhầm lẫn: Sông Hương và Mai không tồn
tại được lâu, vị thế và danh tiếng kém xa những tờ báo mà họ từng làm chủ bút
hoặc bỉnh bút trước đó. Sông Hương
khiến cho Phan Khôi gần như khánh kiệt, còn trong khi làm tờ Mai Đào Trinh Nhất nhanh chóng gặp rắc rối
với chính quyền, sau đó bị trục xuất ra Bắc vào năm 1939, chấm dứt mười năm
tung hoành ở làng báo Nam Kỳ; đây là lần thứ hai Đào Trinh Nhất vướng mắc với
chính quyền, nhưng lần trước đó, hồi 1932-1933, ông đã được tòa xử trắng án.
Có vẻ như cả
Phan Khôi và Đào Trinh Nhất đều nhầm lẫn ở điểm mấu chốt này: báo chí Việt Nam
đã phát triển nhanh hơn họ tưởng, và chính những tiền đề mà bản thân họ góp
công lớn tạo dựng nên đã làm nảy sinh một mô hình báo chí văn nghệ mới mẻ mà họ
không đủ sức theo kịp nữa. Sông Hương
hay Mai (hay nhìn chung là loạt tạp
chí văn chương gắn liền với thế hệ nhà nho cuối cùng như Văn học tạp chí, Đông Thanh…)
đã không sống nổi trước một “làn sóng mới” trẻ trung hơn, học thức tiên tiến
hơn, hài hước hơn và nhất là “có tổ chức” hơn. Đó là thời điểm báo chí văn
chương Việt Nam sôi động ở Hà Nội với ba đối thủ đáng gờm: Tự Lực Văn Đoàn, Tân
Dân và Lê Cường, ba trung tâm đích thực của báo chí và văn chương trên con đường
hiện đại hóa mãnh liệt. Chỉ cách vài năm thôi, lứa Phan Khôi, Đào Trinh Nhất đã
không còn giữ được vị trí trung tâm trong thế giới báo chí ở Đông Dương nữa.
Như vậy, nếu
nhìn qua, hai nhân vật đang được xét đến ở đây rất tương đồng. Hơn thế nữa,
ngoài việc chắc chắn phải có sự nhất trí với nhau một cách ít nhất là tương đối
khi ở chung một số tòa soạn, Phan Khôi và Đào Trinh Nhất còn tương tự nhau ở sự
chú trọng hành văn và sử dụng tiếng Việt. Có thể nói sơ qua về điểm này (một chủ
đề có thể được đi sâu hơn nhiều với các phân tích ngôn ngữ): cả Phan Khôi và
Đào Trinh Nhất đều dễ dàng vượt qua lối văn chương rườm rà vẫn còn đọng lại rất
đậm nét ở nhiều người cùng thế hệ và cùng kiểu gốc gác. Phan Khôi và Đào Trinh
Nhất có văn phong gọn gàng, chỉn chu, từ ngữ tương đối sắc bén, cú pháp hiện đại
không gây mệt mỏi lắm cho độc giả ngày nay, tuy rằng cả hai đều không đẩy sự
súc tích và ngắn gọn của lối văn mình đến như mức Hoàng Tích Chu.
Nhưng nếu nhìn kỹ
hơn, dường như tuy ở bên cạnh nhau ở nhiều thời điểm nhưng Phan Khôi và Đào
Trinh Nhất không hẳn cùng tâm trạng, không cùng mối quan tâm. Trong vô số cuộc
tranh luận mà Phan Khôi từng là trung tâm hoặc có can dự, ta rất ít khi thấy có
Đào Trinh Nhất tham gia. Phan Khôi sống bằng luận chiến, còn Đào Trinh Nhất thì
không.
Thảng hoặc ta
cũng thấy hai tác giả cùng bàn và đồng ý về một vấn đề, ví dụ như lịch. Trong
bài “Hoàn cảnh với cựu truyền” đăng trên Trung
lập, các số 6452, 6453 và 6455 (bài này dường như còn dang dở), Phan Khôi
nêu vấn đề: “Cả năm không hề quen biết gì với âm lịch, rồi đến ngày đầu năm của
nó lại thừa dịp mà ăn chơi, như thế chẳng thành ra là sự vô ý thức?[4]”
Đây cũng là bài viết mà Phan Khôi dùng để phê phán nhiều vấn đề lớn hơn. Ông
công kích kịch liệt “phong hóa”: “Quốc túy của nước ta là những cái gì? Phong
hóa! Phong hóa tức […] toàn là những cái xiềng xích dùng mà ràng buộc xã hội nầy
(…) chớ có gì đâu mà đáng quý? Dầu cho là đáng quý nữa, mà làm cách nào để duy
trì? làm cách nào để bảo tồn?[5]”,
thậm chí cho rằng “dầu cho đem một mớ cựu truyền đổ xuống sông xuống biển cũng
vô hại mà[6]”.
Về phần mình, Đào Trinh Nhất, trên số Xuân của Phụ nữ tân văn năm 1930, viết bài “Phải nên bỏ lịch ta mà theo lịch
tây” từ tr.22 đến tr.25, với mấy luận cứ quan trọng như “ngày tháng của dương lịch
dễ nhớ hơn cựu lịch của ta” và “dương lịch định thời tiết không sai”, lại còn
thông dụng trên khắp thế giới.
Khi ta có một
“điểm giao” cụ thể hơn thì sự lại có vẻ như là giữa hai người không có mấy điểm
chung: đó là lúc Phan Khôi viết bài phê bình cuốn sách Phan Đình Phùng của Đào Trinh Nhất vào năm 1937 (cuốn sách được ấn
hành không lâu trước đó).
Ta có thể ngừng
một chút sự so sánh cụ thể giữa Phan Khôi và Đào Trinh Nhất để tập trung vào một
vấn đề dường như ít được quan tâm: Phan Khôi tự thể hiện bản thân mình như thế
nào? (vấn đề này cũng cần được đặt ra với Đào Trinh Nhất - đây sẽ là đề tài cho
một nghiên cứu sau này). Trả lời được câu hỏi này, ta sẽ hiểu sâu hơn về “cách
tồn tại” của một nhân vật đặc biệt trong giới báo chí văn chương suốt một thời
- cách tồn tại ấy như thể nói lên một điều, rằng tuy là nhân vật lớn nhưng Phan
Khôi không hoàn toàn là một đại diện cho các nhà báo thời ấy, có lẽ vì ông quá
đặc biệt.
Tổng lượng bài
báo của Phan Khôi ngày nay đã xuất hiện trở lại rất đáng kể (cụ thể là từ năm
1928 đến năm 1937). Vấn đề đặt ra trước mắt là xử lý phần tư liệu khổng lồ này
như thế nào. Có vẻ như giới nghiên cứu văn học và lịch sử báo chí Việt Nam hiện
nay vẫn còn lúng túng trong công việc ấy; điều này cũng là dễ hiểu vì trước nay
các nghiên cứu văn học sử hay dừng ở mức độ miêu tả tính chất báo chí và vai
trò của các tờ báo trong tiến trình lịch sử mà không mấy khi đi vào các bài báo
cụ thể, mặc dù thật ra các bộ sưu tập tác phẩm báo chí cũng đã xuất hiện khá
nhiều (với vai trò tiên phong của linh mục Thanh Lãng, rồi tiếp theo là các bộ
sưu tập báo như Tiên phong, Văn nghệ, Tri tân, Tao đàn…). Di sản
báo chí của Phan Khôi có thể được xử lý theo nhiều hướng, chẳng hạn phân loại
theo chủ đề hoặc theo dõi tỉ mỉ tiến trình phát triển và thay đổi của tư tưởng
Phan Khôi theo thời gian, hoặc sự can dự của Phan Khôi vào các cuộc tranh luận
lớn, mức độ ảnh hưởng của Phan Khôi lên dư luận đương thời.
Trong phạm vi
bài viết này, được quan tâm là những gì Phan Khôi viết về bản thân ông trong
các bài báo. Ở nhiều chỗ, con người nhà báo Phan Khôi và con người luận chiến
Phan Khôi đôi chút có sự nhường chỗ cho con người tự sự Phan Khôi. Những điểm
nhỏ này hé lộ cho chúng ta thấy thấp thoáng cách ông tự nghĩ về mình, tự định vị
mình. Vốn dĩ “trọng lý” hơn “trọng tình”[7],
Phan Khôi chưa bao giờ là người thích tâm sự, nhất lại là tâm sự công khai trên
báo. Nhưng cuộc đời làm báo rất dài và khối lượng bài báo rất lớn cũng không phải
không có những lúc như thể làm Phan Khôi bộc lộ mình nhiều hơn bên ngoài lý lẽ
và các vấn đề, chủ đề được ông mang ra phân tích.
Con người Phan
Khôi, ngoài những điều hiển nhiên và đã được nói quá nhiều như “người Quảng Nam
hay cãi” và sự bướng bỉnh, thích gây hấn nhưng lại hết sức công bằng, hiện lên
tinh tế hơn trong một số câu văn như vô tình rơi rắc trong các bài báo của ông.
Năm 1932, viết
bài “Cái biết của ta phải cho thiết thực, cho tới nơi tới chốn” đăng trên tờ Đông Tây số 143, Phan Khôi viết: “Tôi tự
phận tôi cũng như là một người thất học từ thuở nhỏ. Nói vậy chắc không ai tin.
Thuở nhỏ, tôi học nhiều lắm chớ. Song ngày nay tôi biết ra thì từ lúc sáu tuổi
cho đến trên 20 tuổi, cái học của tôi chỉ là thuộc được nhiều mặt chữ mà thôi;
chứ về sự tri thức cần cho một con người ở đời phải có, thì cái học ấy hầu như
chẳng làm ích cho tôi được chút gì[8]”.
Ông ngao ngán: “Già nửa đời người rồi, đôi khi tôi mới nằm nghĩ lại mà chẳng biết
hồi thanh niên mình học là học cái gì! Học cái gì mà cũng đã từng được tiếng đồn
khen, cũng đã từng liệt vào hàng danh sĩ?[9]”
và cay đắng: “Mà có lẽ từ nay sắp sau, cũng còn chưa chắc rằng tôi biết chữ
đâu, dầu tôi cứ học mãi cho mãn cái đời tôi[10]”.
Kết lại cuối bài, ông chỉ ra cần phải làm gì, đây cũng là phương châm, nguyên tắc
cả đời của Phan Khôi: “Theo như tôi nói từ nãy đến giờ, thì là phải làm thế nào
cho sự tri thức của ta được thiết thực, được tới nơi tới chốn[11]”.
Trong một bài viết
rất nặng lời năm 1932, “Tôi thất vọng về ông Nguyễn Tiến Lãng” đăng Đông Tây số 161, Phan Khôi nói về mình:
“Một đời tôi, như độc giả biết, không khi nào lên mặt đạo đức hết[12]”.
Ở đây, rõ hơn hết so với những chỗ khác, Phan Khôi khẳng định rằng với ông, sự
ngay thật là điều quý giá hơn cả, và trong mắt ông, Nguyễn Tiến Lãng không ngay
thật, như vậy phạm vào thói “gian vu”. Đồng thời, cùng trong bài này, ông nói đến
một thói quen của mình: “Làm văn mà cứ hay nhắc đi nhắc lại những bài cũ của
mình, thật là một thói đáng ghét, là một điều cấm kỵ cho người viết văn[13]”.
Rồi đôi lúc có
những thổ lộ nhỏ, “lặt vặt” hơn: “Tôi không phải là người viết được tiểu thuyết,
nhưng tôi hay đọc tiểu thuyết, nhứt là tiểu thuyết đương thời đây[14]”
hay: “Bất kỳ văn của ai đồng thời với tôi đây, tôi đều lấy tinh tâm mà đọc,
không dám bỏ qua một người nào hết[15]”.
Trong bài “Sự lập
thân của thanh niên nam nữ đời nay” đăng trên Phụ nữ tân văn số 87, năm 1931, Phan Khôi có những giãi bày rất cá
nhân: “Tôi chẳng biết ở đời như tôi là người thiện hay người ác[16]”;
“Nhưng nói thật, tôi yêu mình tôi, tôi còn yêu sự thiệt hơn nữa. Tôi yêu sự thiệt
lại còn hơn yêu danh dự của tôi[17]”;
đặc biệt ông thể hiện sự hài lòng rõ rệt của mình khi sống vào lúc này, nghĩa
là trong thực tại, bởi vì, “Một người đàn ông thời nay không cần nhờ có nhà nước
dùng mới lập nên công nghiệp, cũng như một người đàn bà thời nay không cần phải
lấy chồng quan mới có địa vị danh tiếng ở đời[18]”.
Ông còn hào hứng đến mức hạ câu sau đây: “Hạnh phước thay là kẻ sanh ra ở đời nầy!
Hạnh phước thay là kẻ thanh niên nam nữ sanh ra trong nước Việt Nam về thời đại
nầy! Cái hạnh phước ở trong sự mình làm chủ lấy mình, mình muốn làm nên người bực
nào tùy ý[19]”.
Không nhiều khi Phan Khôi thể hiện cảm xúc của mình như thế này. Có lẽ ông chỉ
như vậy khi đề tài bài viết động đến cùng một lúc nhiều đặc điểm quan trọng của
con người ông: coi trọng thực tại, trọng sự thật, trọng luận lý, trọng chủ
nghĩa cá nhân và đả phá quá khứ.
Điều rất nổi bật
ở con người Phan Khôi là ý thức trách nhiệm của ông. Bài “Thanh niên với tổ quốc”
đăng Phụ nữ tân văn số 172, năm 1932
có đoạn: “Sanh ra làm người trong xã hội, ai cũng có một phần trách nhiệm đối với
xã hội hết, mà những người có học thức cao chừng nào, lại càng có trách nhiệm nặng
chừng ấy[20]”.
Còn đây là ý thức trách nhiệm của Phan Khôi trong công việc làm báo: “Chúng tôi
nhận định cái cách làm báo của chúng tôi: Một là không a dua với xã hội, cho
nên gặp điều gì sai lầm, chúng tôi không tị hiềm gì hết mà cứ việc chữa sửa; một
là phải đi trước xã hội, cho nên chúng tôi tùy theo sức lực của mình mà mỗi
ngày mỗi cống hiến thêm những cái mới cái lạ cho bà con[21]”
(Phụ nữ tân văn số 125, 1932).
“Con người nhà
báo” của Phan Khôi là một vấn đề quan yếu đối với chủ đề đang bàn ở đây. Thực
chất thì Phan Khôi tự định vị như thế nào trong giới báo chí Việt Nam hồi ấy,
ông thực sự coi mình đứng ở đâu?
Ở bài “Một vài
ngu kiến ngỏ cùng hội báo giới quốc văn sắp lập” đăng trên tờ Trung lập số 6361 năm 1931, mở đầu Phan
Khôi đã tự tách biệt mình khỏi một cộng đồng chung: “tôi tuy là nhà làm báo mà
đối với các anh em khác thì có chỗ quyền lợi không giống nhau[22]”.
Và ông tự gọi mình là người “viết báo dạo”: “đồng thị là nhà làm báo mà có nhiều
hạng người. Ngoài các ông “rédacteur” mỗi ngày đi làm hai buổi ra, còn có người
“viết báo dạo” (như tôi)[23]”.
Tuy nhận mình
“không phải là người viết được tiểu thuyết” nhưng rồi sau này Phan Khôi cũng sẽ
viết cuốn Trở vỏ lửa ra đăng Phổ thông bán nguyệt san trong một chuyến
ra Bắc không nhiều vui vẻ. Cũng vậy, tuy từng công khai nhận mình “viết báo dạo”
để mà từ chối tham gia hội nhóm cùng những người khác, nhưng sau này Phan Khôi
sẽ trở thành ông chủ của một tờ báo, Sông
Hương.
Mọi điều liên
quan đến Phan Khôi, từ trước tác cho đến tâm tình, chúng ta đều cần tìm kiếm
trong các bài báo của ông.
Ở đâu đó, Phan Khôi
từng đặt câu hỏi vào thời của ông thì cần phá đi hay xây dựng, sau đó ông cho rằng
phá đi quan trọng hơn. Chính vì vậy, ông đã hết sức kiên định trong những công
trình đả phá của mình. Ở đây, óc logic và khả năng phân tích vượt trội so với
đa số người đương thời đã giúp Phan Khôi rất nhiều. Phan Khôi nhìn ra rất nhiều
vấn đề trong ngay cả những việc tưởng chừng đã có sự tồn tại suôn sẻ.
Và chính ở đây
ta bắt đầu thấy rõ Phan Khôi thực sự rất khác với Đào Trinh Nhất. Cả hai đều từng
phê phán, nhưng cái khác biệt là mức độ: Phan Khôi lúc nào cũng đẩy sự phê phán
của mình lên đến cực điểm, kể cả những lúc dường như không cần phải như thế. Cả
hai, với gia thế và sở học cùng một dạng, đều từng dõi nhìn về quá khứ, nhưng
tư thế Phan Khôi và Đào Trinh Nhất rất khác nhau: Phan Khôi chỉ nhìn quá khứ
khi cần bàn về hiện tại, vì Phan Khôi thực sự ở trong hiện tại. Phan Khôi không
bao giờ làm một công việc mà Đào Trinh Nhất thường xuyên làm - cũng là một việc
rất đặc trưng của nghề báo - là đi tìm gặp các chứng nhân lịch sử rồi từ đó viết
khảo cứu; đọc kỹ cả hai người, ta sẽ thấy thật khó tưởng tượng Phan Khôi có thể
viết một cuốn sách về Phan Đình Phùng hay Lương Ngọc Quyến, giống như Đào Trinh
Nhất. Ở đây có thể đưa ra một suy đoán: Đào Trinh Nhất, mặc dù từng ra nước
ngoài, vẫn còn nhiều liên hệ tình cảm với truyền thống Nho giáo và những mối
quan hệ trong thế giới Nho giáo. Là con trai Đào Nguyên Phổ, hồi nhỏ Đào Trinh
Nhất theo học Đông Kinh Nghĩa Thục (một thời gian ngắn), sau này, giống như để
“trả nghĩa”, Đào Trinh Nhất đã viết khảo cứu về Lương Ngọc Quyến cũng như về
Đông Kinh Nghĩa Thục. Phan Khôi không phải không từng có những mối quan hệ kiểu
như vậy, ví dụ như với Trần Quý Cáp, nhưng rõ ràng Phan Khôi không có một tâm
thế hồi tưởng quá vãng giống như Đào Trinh Nhất. Có vẻ như ý thức vùng thoát khỏi
môi trường gốc gác của mình ở Phan Khôi vô cùng mạnh mẽ. Đây là một điểm không
hề nhỏ. Nghiên cứu về Phan Khôi, ta có thể tìm hiểu những gì ông đã viết, nhưng
hoàn toàn cũng có thể đặt câu hỏi về những gì lẽ ra ông có thể viết nhưng đã
không viết.
Phan Khôi là một
nhân vật rất hiếm trong lịch sử trí thức Việt Nam đặc biệt ít hồi tưởng.
Cuối cùng, trong
sự so sánh giữa Phan Khôi và Đào Trinh Nhất, có thể thấy nổi lên một đặc điểm trình
bày dưới đây, nó cho thấy Phan Khôi và Đào Trinh Nhất, xét về sâu xa, có quan
niệm hết sức khác nhau, để có thể thấy có một “con đường Đào Trinh Nhất” và một
“con đường Phan Khôi”, hay hai cách tồn tại độc lập rất không giống nhau.
Tuy đều là các
nhân vật hết sức quan trọng của báo chí Việt Nam trong cùng một giai đoạn,
nhưng sự “ở trong báo chí” của Phan Khôi rõ rệt, ở mức độ cao hơn nhiều so với
Đào Trinh Nhất. Tổng lượng bài báo của Đào Trinh Nhất có lẽ không kém mấy so với
tổng lượng bài báo của Phan Khôi, nhưng trong đó phần đáng kể nhất là những loạt
bài dài kỳ mà ta có thể thấy rõ là ngay từ đầu đã có ý đồ dành để in thành sách[24].
Tác phẩm sách của Đào Trinh Nhất tuyệt đại đa số được lấy ra từ những bài báo.
Đào Trinh Nhất có thể đăng nhiều kỳ Cái
án Cao Đài trên tờ Công luận rồi
sau đó in thành sách, rồi có rất nhiều ví dụ như thế nữa, ngay cả bản dịch Liêu trai chí dị. Có thể nói rằng, Đào
Trinh Nhất thuộc một kiểu trí thức ở giữa “văn hóa sách” và “văn hóa báo chí”,
với một nhận thức rõ ràng về trước tác dưới dạng sách. Báo chí đối với Đào
Trinh Nhất hẳn nhiên rất quan trọng, nhưng ở một mức độ nào đó, đối với ông báo
chí giống như một bước đệm để ông đi tới sự nghiệp trứ tác riêng của mình, thể
hiện ở danh mục sách đã xuất bản vô cùng dồi dào[25].
[1] Một ví dụ nhỏ: trên số 55
ra ngày 5/6/1930, tờ Phụ nữ tân văn
thông báo tổ chức “Cuộc thi kỷ niệm đệ nhứt châu niên của PNTV” với ba câu hỏi
cho độc giả, câu hỏi thứ ba như sau: “Nếu có cuộc tuyển cử 10 vị Việt Nam Nhơn
dân Đại biểu, mà những vị kể tên sau nầy ra ứng cử, thì quí độc giả sẽ cử những
vị nào”. Danh sách do báo đưa ra như sau: 1. Nguyễn Hữu Bài (Thủ tướng Nam triều)
2. Bạch Thái Bưởi (Chủ hãng tàu và mỏ than) 3. Bùi Quang Chiêu (Lãnh tụ đảng Lập
hiến) 4. Vương Tứ Đại (Thượng thư Lễ bộ)
5. Dương Văn Giáo (Trạng sư) 6. Huỳnh Thúc Kháng (Chủ báo Tiếng Dân) 7. Trần Trọng Kim (Thanh tra sơ học) 8. Diệp Văn Kỳ (Nhà
làm báo) 9. Lưu Văn Lang (Kỹ sư sở Tạo tác) 10. Nguyễn Phan Long (Chủ báo Đuốc Nhà Nam) 11. Lê Quang Liêm (Hội đồng
Quản hạt) 12. Hoàng Trọng Phu (Tổng đốc Hà Đông) 13. Phạm Quỳnh (Chủ báo Nam Phong) 14. Nguyễn Hữu Thu (Phó Nghị
trưởng Kinh tế Hội nghị) 15. Nguyễn Trác (Nghị trưởng Nhơn dân Đại biểu viện
Trung Kỳ) 16. Nguyễn Bá Trác (Bố chánh tỉnh Bình Định) 17. Trần Trinh Trạch (Điền
chủ ở Bạc Liêu) 18. Lê Quang Trinh (Y khoa Tấn sĩ) 19. Phan Văn Trường (Luật
khoa Tấn sĩ) 20. Nguyễn Văn Vĩnh (Chủ báo Trung
Bắc Tân văn). Ta thấy khoảng một nửa trong danh sách này gắn bó mật thiết với
báo chí đương thời, theo nhiều cách khác nhau.
[2] Hoặc có thể trích lời độc
giả Tích Hàm (Tân Dương, Sa Đéc) trong bài “Cảm tình của một độc
giả đối với Trung lập” (Trung lập, 25/3/1931): “Lúc còn Phụ nữ, ông Phan Khôi có hứa sẽ lần lần
dẫn dắt chúng tôi đi vào đường “luận lý học”, “phép làm văn”, nay Phụ nữ bất hạnh, xin ông Tú mượn tờ Trung lập ngày nay mà giữ cho tròn lời hứa.
Người ta đã tặng cho ông cái huy hiệu “người lập dị”, “người trọng chân lý hơn
thầy”, “tướng tiên phong của đạo binh học giới nước nhà”, xin ông chớ phụ”. (Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1931, tr.10).
Các trích dẫn bài báo của Phan Khôi được rút từ bộ Phan Khôi tác phẩm đăng báo từ 1928 đến 1937 do Lại Nguyên Ân biên
soạn, ấn hành từ 2003 đến 2014.
[3] Nhóm xung quanh được gọi là
“tập đoàn Hoàng Tích Chu” trong Mấy chàng
trai thế hệ trước của Trúc Sơn Dương Thiệu Thanh, Sài Gòn, 1969. Phan Khôi,
vốn dĩ không bỏ qua vấn đề quan trọng nào trong xã hội thời ông sống, cũng từng
nhận xét tỉ mỉ về “lối văn Hoàng Tích Chu”: “Đối với lối văn ấy, tôi nửa phần
thì tán đồng, nửa phần thì bất mãn. Tán đồng ở cái chỗ bố cuộc khá mới, đặt câu
khá gọn, nhứt là có nhiều khi hiểu được cái ý của tác giả ở bên ngoài lời văn.
Nhưng lối văn Hoàng Tích Chu không phải toàn được như vậy hết đâu; lắm khi lại
thấy như là tạp nhạp, lắm khi lại thấy như là vô duyên; còn một điều dễ tức
mình nhứt là lắm khi không rõ, đọc xong một bài mà chẳng biết nói chuyện chi: ấy
đó là những chỗ tôi lấy làm bất mãn” trong bài “Văn nghị luận phải viết thế
nào?” đăng Trung lập số 6491, Phụ trương văn chương số 12 (trích từ Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1931,
tr.299).
[4] Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1931, tr.72.
[5] Nt., tr.68.
[6] Nt., tr.69.
[7] Ta
có nhiều ví dụ, chẳng hạn nhan đề bài báo này của Phan Khôi: “Trong việc chánh
trị, chỉ có lý mà thôi, chẳng có tình” (Trung
lập số 6616); khi bàn về việc lập hội của giới nhà báo: “Trong sự lập hội lập
hè, là sự hệ trọng, có trình Chánh phủ, có đặt chương trình, thì ta nên cứ lý
mà nói, chớ không nên vị tình. Cái tình đồng nghiệp đã cố nhiên rồi, mà đã họp
nhau thành hội, lập chương trình ra thì bản chương trình ấy tức là tờ giao kèo,
phải cho ráo lý, không nên vị tình, vị tình thì hỏng” trong bài “Một vài ngu kiến
ngỏ cùng hội báo giới quốc văn sắp lập” đăng trên tờ Trung lập số 6361, Phan Khôi
tác phẩm đăng báo 1931, tr.18.
[8] Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1932, tr.56.
[9] Nt.
[10] Nt.
[11] Nt., tr.57.
[12] Nt., tr.109.
[13] Nt.
[14] Trong
bài “Tiểu thuyết thế nào là hay?” (Trung
lập 6509, Phụ trương văn chương
15), trích từ Phan Khôi tác phẩm đăng báo
1931, tr.320.
[15] Trong
bài “Văn
nghị luận phải viết thế nào?” (Trung lập
6491, Phụ trương văn chương 12), Nt.,
tr.299.
[16] Nt., tr.90.
[17] Nt., tr.91.
[18] Nt., tr.92.
[19] Nt., tr.93.
[20] Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1932, tr.172-173.
[21] Nt., tr.99-100.
[22] 1931, tr.18.
[23] Nt., tr.19.
[24] Cho
tới nay, vấn đề sưu tầm và nghiên cứu bài báo của Đào Trinh Nhất còn chưa được
đặt ra và thực hiện, tuy đã có chuyên khảo Nguyễn Q. Thắng, Đào Trinh Nhất, nhà văn, nhà báo bực thầy,
NXB Văn học, 2010 và bộ tác phẩm do cùng nhà biên soạn thực hiện, hay Đào Trinh Nhất - Tuyển tập tác phẩm,
Chương Thâu và Đào Duy Mẫn sưu tầm và biên soạn, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ
Đông Tây và NXB Lao động, 2011, trong đó in lại 11 tác phẩm của Đào Trinh Nhất.
Theo một nhà sưu tầm báo chí, tổng lượng bài báo của Đào Trinh Nhất có thể lên
đến trên 3000, tức là nếu so với Phan Khôi thì cũng không thua sút nhiều, nhưng
tổng lượng bài ấy có đặc điểm là chỉ chưa tới một phần ba nằm ngoài nhóm các
bài báo dài kỳ sau này sẽ được Đào Trinh Nhất cho in thành sách. Đào Trinh Nhất
đăng đặc biệt nhiều bài trên Đuốc Nhà Nam,
Điện tín, Trung Bắc Chủ nhật, không nhiều lắm trên Phụ nữ tân văn, ông cho đăng dài kỳ tác phẩm Cái án Cao Đài trên tờ Công
luận, đăng dài kỳ bản dịch Liêu trai
chí dị trên tờ Tin văn; ta cũng
có thể tìm được các bài viết của Đào Trinh Nhất trên: Hữu thanh, Thần chung, Trung hòa và cả Ích hữu, Tiểu thuyết thứ Bảy,
v.v… (các thông tin liên quan đến tác phẩm báo chí của Đào Trinh Nhất ở ghi chú
này mới có mức độ chính xác tương đối; ta cũng mới có rất ít thông tin xác thực
về quá trình Đào Trinh Nhất làm báo ở Hà Nội, nhất là giai đoạn chủ bút tờ Cải tạo, ngay trước khi ông vào Nam năm
1949)
[25] Cho đến nay danh mục phổ biến
về sách của Đào Trinh Nhất (có thể chưa hoàn toàn đầy đủ) như sau: Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào
Nam Kỳ (1924); Cái
án Cao Đài (1929); Nhựt Bổn duy tân
30 năm (1936); Phan Đình Phùng. Nhà
lãnh đạo 10 năm kháng chiến (1884-1895) ở Nghệ Tĩnh (1936); Việt Nam Tây thuộc sử (1937); Đông Kinh Nghĩa Thục (1937); Cô Tư Hồng (1941); Con quỷ phong lưu (1942); Việt
sử giai thoại (1943); Vương An Thạch
(1943); Vương Dương Minh (1943); Con trời ngã xuống đất đen (1944); Chu Tần tinh hoa (1944); Lê Văn Khôi (1944); Bùi Thị Xuân (1944); Lương Ngọc
Quyến và cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên 1917 (1946); ngoài ra còn có một số bản
dịch.
[26] Ngay ở bản dịch Sử ký Tư Mã Thiên ta cũng thấy được ý hướng
phụng sự báo chí của Phan Khôi: ông chọn dịch phần về các thích khách, dĩ nhiên
là phần dễ hấp dẫn độc giả báo nhất.
Đoạn kết nghe có lí một cách phổ biến nhỉ ! Mà cũng nhờ thế thì các bác như Lại Nguyên Ân, Nguyễn Q. Thắng, ... có được kho tàng để khai thác. Bây giờ, hẳn sắp có thêm Nhị Linh nữa đấy !
ReplyDeleteui xời nói thẳng là vì báo chí nó như hóa thạch lưu giữ quá nhiều điều xảy ra vào ngay lúc í chưa xóa đi được, khai thác thì cũng tế nhị lắm
DeleteCốt tử là ở đấy đó Nhị Linh à !
DeleteMình nghĩ vài chỗ Phan Khôi tự thể hiện để tăng tính hợp lí cho lập luận của ông ấy thôi.
ReplyDeleteừ, ông Phan Khôi này quái đản thật, chẳng có tẹo nhu cầu thông thường nào của người viết lách chuyên nghiệp (tự thể hiện, kể chuyện mình, kể về những mối quen biết oách v.v…), chắc ông ấy nhất quyết muốn nghiệt ngã cho đến mức cao nhất đấy
Deletekhông dễ đoán đâu :p
ReplyDeleteCVD viết những bài như này hay nhỉ. Công bình. Nhìn lại báo chí VN sau gần 100 năm khéo còn đi giật lùi so với các cụ ngày trc. Lỗi tại con người hay tại CS nó làm cho ai cũng giống ai mà ko có được mấy Another brick on the wall. Ng việt mình mà luận chiến đc như PK thì hiếm lắm, ai cũng đặt cái tôi quá lớn, và ko có văn hóa tranh luận
ReplyDeleterất có thể nguyên do nằm ở chỗ người nào cũng thi nhau đổ lỗi cho mọi thứ đấy
ReplyDeletevới cả cái thói quái gì cũng "văn hoá"
vậy p gọi là Thói quen tranh luận mới chuẩn tiếng Việt phỏng. Hình như có lần NL có nhắc tới ông gì viết 3 cuốn Luận chiến văn chương đó nhể. Chu Giang ?!?
Delete