Jun 10, 2025

Đi về phía Đông


đi (thôi)

(còn đây thì: bập bềnh bập bềnh)




[Nerval quả thật có chuyến đi sang phương Đông, và chuyến đi ấy kéo dài cả năm, nhưng Đi về phía Đông, tức là cuốn sách - tiền thân của nó là cả loạt gồm rất nhiều bài báo, thuộc dạng chronique - lại không hoàn toàn là kết quả của chuyến đi ấy; điều này cần hiểu theo nghĩa, lộ trình mà Nerval thực hiện không trùng khớp với những gì được thuật, và rất nhiều điều được kể trong cuốn sách như thể Nerval đã trải qua, thì Nerval lại không hề trải qua, tức là, Nerval lấy kinh nghiệm từ người khác, từ nhiều người khác, từ rất nhiều nguồn; hoàn toàn có thể nói, Voyage en Orient của Nerval được lấy từ đủ mọi nguồn trên đời. Đây là kiệt tác duy nhất trong địa hạt oriental của Lãng mạn Pháp: không một nhân vật văn chương nào thời ấy không có phương Đông riêng của mình, nhưng không một ai, kể cả Victor Hugo, Théophile Gautier hay Lamartine - Lamartine viết một thứ tên đúng là Voyage en Orient - tạo ra được kiệt tác, tất tật đều loanh quanh trong địa hạt của cái pittoresque, sự thể còn tiếp tục như vậy đến về sau, khi thực dân-thuộc địa đã trở thành câu chuyện rõ ràng hơn, như chẳng hạn Pierre Loti. Cực kỳ ít người phương Tây miêu tả phương Đông mà khiến người phương Đông thấy chấp nhận được. Edward Said đã làm cho điều vừa nói trên đây trở nên quá rõ. Cả một literature khổng lồ, trong một quãng thời gian cực dài, nhìn chung chẳng có mấy thứ giá trị.

Phương Đông là gì? phương Đông là mặc cảm của phương Tây.

Nói chung, cứ chỉ chăm chăm vào một cái thứ phương Đông huyền bí. Thế nhưng, vấn đề nằm ở chỗ, phương Đông huyền bí thật.

Đi về phía Đông chính là cuốn sách đầu tiên của Nerval, in năm 1851. Ở thời điểm ấy, ta có thể chắc chắn, Nerval biết trước cái chết - nếu không thì, sự điên - sắp ụp xuống mình, nên có cả một sự hối hả. Chỉ trong vòng vài năm là xong xuôi.

Đi về phía Đông, một từ then chốt trong tự vị của Nerval xuất hiện: Femmes. Tức là phụ nữ. Filles là thêm một từ then chốt. Từ thứ ba cốt yếu trong thế giới nervalien là: Chimères. Các huyễn tưởng.

Giống ông bạn - gọi là cậu bạn thì chắc đúng hơn - Baudelaire, phương Đông của Nerval có một nổi bật lớn, là Cythère. Nerval-Baudelaire thì tức là đầy đủ một thế giới: nửa thế giới của thiên thần, phía Nerval, và nửa thế giới của quỷ, phía Baudelaire. Vậy thì thực sự đầy đủ. Một bài thơ văn xuôi thuộc Le Spleen de Paris trong nhan đề có "Chimère". Vả lại, thiên thần và quỷ gần như là một. Giữa Nerval và Baudelaire xảy ra cả một quá trình - một hoạt động - quấn, quện, đan, móc: hai tinh thần nhập thành nhất thể, thông qua một esoteric way.

Nhưng ba người bạn, với đó Nerval tạo thành một yếu tố của bộ tứ, phải là Théophile Gautier, Alexandre Dumas và Heinrich Heine; Heine còn có một merit đặc biệt lớn: đó là người đã ấn Nerval lên xe đưa thẳng đến nhà thương điên vì thấy ông bạn đã mất hết đầu óc. Cũng có thể nhắc đến Balzac thấp thoáng, thông qua từ scènes hay thấy chính ở những gì viết về chuyến đi sang Orient này.

Như vậy là, ba từ, và ba người bạn (tất nhiên, đằng sau ba từ kia là từ quyết định tất: feu - feu, lửa, ở trung tâm Nerval giống mal ở trung tâm Baudelaire, thế cho nên thiên thần, vì lửa thanh tẩy, và quỷ, vì cuộc đùa nghịch với cái ác; Les Filles du FeuLes Fleurs du Mal: cứ như đối xứng qua một tấm gương, hay qua một mặt nước thì đúng hơn, vả lại filles=fleurs, cho nên Proust: Filles en Fleurs, tức là ở Proust thì Nerval là một bóng mờ, mờ nhưng vẫn có; trong khi đó, hiện diện của Baudelaire trong thế giới proustien thuộc vào số những gì lớn nhất, rõ nhất, Proust vươn người về phía thế giới của quỷ nhưng vẫn được kéo lại, lên phía của thiên thần). Chưa hết, còn có ba người phụ nữ, mà trước hết là Sophie Dawes - và cả Jenny Colon, Marie Pleyel. Aurélia, Sylvie: Gilberte và Albertine. Những cái tên phụ nữ như thần chú. Còn Baudelaire? Jeanne Duval, Madame Sabatier.

Khoảnh khắc Nerval-Baudelaire: đã nói đến tấm gương, thì tiếp tục tấm gương. Nói về gương, Jacques Derrida từng nói đến sự vỡ gương, hay sự gương vỡ thì đúng hơn. Một lời ở trong chuyển động nhằm đi sang người khác, ở bên kia tấm gương: một lời bất hạnh, nỗ lực là tuyệt vọng. Và thế nào thì gương cũng sẽ phải vỡ. "Một phần của chúng ta bị [tổn] thương và chúng ta vẫn cứ hướng vào chính mình ở trong công việc của để tang và của Erinnerung."

Khi Filles/Fleurs đã đạt được đến, tấm gương trở nên - điều này có thể nào hình dung được không? - có mức độ intensity quá lớn, hay nói đúng hơn, density không thể chịu đựng nổi (cái gương không thể chịu nổi). Thế nào gương cũng vỡ, như một sự nhẹ nhõm, một trút ra. Tức là ngay lập tức, ngôn ngữ đi lên mức của méta-langage, nhưng là méta-langage ở dạng "sans surplomb", như Derrida tiếp tục nói - hoặc cũng có thể là "confronts itself" (Paul de Man).

Gương vỡ thì không bao giờ lành. Tất nhiên, rơi từ méta-langage xuống koinè như thế này thì đúng là hơi quá. Nhưng, dẫu thế nào đi nữa, vẫn cứ phải đi qua phía bên kia tấm gương.

Như thế này thì mới thực sự khó: nhất thiết phải đi qua gương, nhưng gương đã vỡ. Tức là, đi qua một tấm gương vỡ, vậy thì cũng đồng nghĩa với vượt qua cái không thể vượt qua. Nhưng, nếu không khó đến mức ấy, thì có gì để làm đâu.

Filles en Fleurs của Proust là gì? là Trong bóng hoa nữ. Đây là hoa thật, không phải ẩn dụ: con người của thời artificial hoành hành thậm chí còn không thấy được những bông hoa thật, con người của thế giới mùi nhân tạo còn không biết tưởng nhớ một mùi hương, xếp tàn y lại.

Cần phải biết làm một việc: cần phải biết úp mặt vào hoa, vục mặt vào luôn thì càng tốt.

Nhưng hoa cũng có thể là từ, gần như là từ (danke Hölderlin): Hölderlin bảo, "Các từ thì cũng gần như là những bông hoa". Vậy thì, các từ, mots (hẳn ta cũng phải tự hỏi, nó đâu mất rồi, sao chưa thấy hiện ra? nó chưa hiện ra là vì còn lấp (nấp) sau (dưới) hoa).

Giờ thì chỉ cần thêm một yếu tố nữa là đạt đến một mức độ đầy đủ còn cao hơn nữa, cái từ xuất hiện một cách mênh mông ở Proust: chính là temps, thời gian. Các từ đưa chúng ta đi trong thời gian và cũng đi qua luôn thời gian.

Balzac (cần phải quay trở lại với Balzac) ở vào vị trí Atlas, tức là gánh những gì rất nặng: cái mà Balzac gánh là gì? comédie, tất nhiên, nhưng đặc biệt là humaine, là con người. Nhờ Balzac đã gánh hộ một thứ như thế, cho nên mới có thể như vậy. Nếu không có nhân vật hộ pháp ấy, hẳn tất tật sẽ trở thành các Tantale ("Tăng-tàn" - Nguyễn Văn Vĩnh). Và sẽ chẳng bao giờ có nổi Cassandre. Lấy đâu ra nổi tai họa, nếu chỉ toàn người là người? Nền bạo chúa các khuôn mặt người (Baudelaire thuổng ngay từ Thomas De Quincey, sans vergogne).

Cái đó thực sự lớn: Triết học là gì? Bergson trả lời rất ngắn gọn: triết học là sự vượt qua. Nhưng vượt qua cái gì? Vẫn Bergson: vượt qua con người.

Và Mots thì đi đến Choses (vật) - chứ không phải chiều ngược lại. Les Mots et les Choses có lẽ rốt cuộc vẫn cứ là cuốn sách lớn nhất của Foucault.

("Vẽ một bông hoa hồng là việc khó nhất trên đời, vì khi vẽ một bông hoa hồng, người ta phải quên đi bằng được tất tật hoa hồng từng được vẽ." - Henri Matisse)]



Đi về phía Đông

(Voyage en Orient)

- Gérard de Nerval


GdN



Phụ nữ Cairo

I

Các cuộc hôn nhân Cophte

I

Mặt nạ và mạng che


Cairo là thành phố vùng Cận Đông nơi phụ nữ vẫn còn mang mạng che mặt kín mít hơn cả. Ở Constantinople, ở Smyrne, một tấm mạng mỏng màu trắng hay đen thỉnh thoảng để người ta đoán được những đường nét của các nữ nhân Islam, và những chỉ dụ hà khắc nhất hiếm khi bắt được họ làm thứ vải mảnh kia dày thêm lên. Đấy là các nữ tu kiều mị và cồ quẹt, những người, dẫu hiến mình cho chỉ một ông chồng, vẫn không ghét chuyện gieo rắc các nuối tiếc cho thế giới. Nhưng Ai Cập, trang trọng và sùng đạo, lúc nào cũng là đất nước của các câu đố và các bí ẩn; vẻ đẹp ở đó được vây quanh, giống xưa kia, bởi những tấm voan cùng những dải vải, và thái độ ủ dột ấy dễ dàng gây nản chí cho anh chàng người châu Âu nhẹ dạ. Anh ta rời bỏ Cairo sau tám hôm, vội vã đi về phía các thác sông Nil tìm kiếm những nỗi thất vọng khác mà khoa học dành sẵn cho anh ta, với đó anh ta sẽ chẳng bao giờ hòa hợp được.

Kiên nhẫn là đức hạnh lớn hơn cả ở những người được khai trí cổ xưa. Tại sao lại phải đi qua nhanh thế? Chúng ta hãy dừng lại và tìm cách lật một góc tấm voan khổ hạnh của nữ thần Saïs lên. Vả lại, chẳng phải là thật khích lệ khi thấy tại những đất nước nơi phụ nữ bị coi là các tù nhân, những bazar, phố và vườn lại bày ra cho chúng ta hàng nghìn người trong số họ, một mình đi bộ không mục đích, hoặc hai người cùng nhau, hoặc kèm thêm một đứa trẻ? Thực sự, phụ nữ châu Âu đâu có được ngần ấy tự do: các phụ nữ cao quý thì ra khỏi nhà, điều đó đúng, ngồi trên lưng lũ lừa và trong một tư thế bất khả xâm nhập; nhưng, ở chỗ chúng ta, các phụ nữ thuộc cùng hạng gần như chỉ đi xe ngựa những lúc ra khỏi nhà. Còn tấm mạng che mặt thì... nó, có lẽ, không thiết lập một thanh ba ri e dữ tợn như người ta vẫn tưởng.

Trong số các phục trang Ả Rập và Thổ rất phong phú mà cải cách không động vào, đồ ăn mặc bí hiểm của các phụ nữ mang đến cho đám đông đổ đầy phố xá dáng vẻ vui tươi của một vũ hội hóa trang; sắc của những cái domino chỉ biến chuyển từ xanh tới đen. Các mệnh phụ phu nhân phủ trùm eo lưng họ dưới habbarah vải sa nhẹ, trong khi phụ nữ giới bình dân thì diễm lệ gói mình vào trong một cái áo dài đơn giản màu xanh bằng len hoặc bông (khamiss), giống những bức tượng cổ. Trí tưởng tượng tìm được phần của nó nơi sự vi hành của những khuôn mặt phụ nữ ấy, vốn dĩ không mở rộng ra đến tất tật các vẻ quyến rũ của họ. Những bàn tay đẹp trang trí đống nhẫn kiêm bùa cùng các vòng tay bạc, thảng hoặc những cánh tay như đá cẩm thạch nhạt thò ra, đầy đủ, từ các ống tay rộng của chúng, được vén lên phía trên vai, những bàn chân trần đeo nhiều vòng mà dép kiểu babouche thả rơi ở mỗi bước, mà mắt cá ngân vang tiếng ồn lanh lảnh bạc, đấy là những gì được phép ngắm nghía, đoán định, bắt chợt, mà đám đông chẳng hề phải thấy lo lắng hay chính người phụ nữ dường để ý thấy. Đôi khi các nếp bồng bềnh của tấm mạng gấp vuông màu trắng và xanh che trên đầu và hai vai có chút bị lệch, và khoảng thoáng hiện ra giữa món đồ đó và tấm mặt nạ thuôn dài mà người ta gọi là borghot để cho người ta nom thấy một thái dương kiều mị nơi những sợi tóc nâu xoắn lại thành các lọn chặt, giống ở những bức tượng bán thân Cléopâtre, một cái tai nhỏ và chắc lay động trên cổ áo và má các chùm sequin vàng hoặc một miếng khảm các viên ngọc turquoise và có vân bạc chìm. Khi ấy người ta cảm thấy nhu cầu tra hỏi cặp mắt nữ nhân Ai Cập che mạng, và chính đó là điều nguy hiểm hơn cả. Mặt nạ được tạo ra từ một tấm làm bằng sợi cước màu đen hẹp và dài chạy từ đầu xuống chân, và được chọc thủng hai cái lỗ như mũ trùm đầu cho kẻ trong cuộc ăn năn chịu tội; vài cái vòng sáng lấp lánh được xỏ vào quãng giữa nối trán với râu của mặt nạ, và chính ở đằng sau bức thành đó mà cặp mắt nồng cháy đợi ta, được trang bị vũ khí là tất tật những quyến rũ mà chúng có thể vay mượn được từ nghệ thuật. Lông mày, hốc mắt, thậm chí luôn cả mí, phía bên trong hàng mi, sống động lên nhờ thuốc nhuộm; và không thể nào làm cho nổi một chút ít con người mình lên theo cách tuyệt vời hơn so với một phụ nữ được quyền để cho người ta thấy, ở đây.

[Đế chế Ottoman hồi đó đang áp dụng nhiều biện pháp cải cách - theo hướng Tây phương hóa, một số thứ liên quan đến trang phục]

Thoạt tiên tôi đã không hiểu được bí ẩn mà cái nửa hấp dẫn nhất của dân chúng phương Đông được bọc vào thì có gì cuốn hút; nhưng chỉ cần vài ngày là đủ để tôi học được rằng một phụ nữ nào cảm thấy mình bị để ý thường tìm được phương cách nhằm làm cho mình được trông thấy, nếu nàng đẹp. Những người không đẹp còn biết rõ hơn việc duy trì những tấm mạng của họ, và người ta không thể trách họ điều đó. Chính đây là xứ sở của các giấc mơ và của ảo tưởng! Sự xấu xí được giấu đi như một tội ác, và lúc nào người ta cũng có thể thoáng thấy một cái gì đó thuộc vào số những thứ vốn dĩ là hình thức, quyến rũ, tuổi trẻ và vẻ đẹp.

Bản thân thành phố, giống các nữ cư dân của nó, chỉ dần dà mới hé ra những chỗ khuất nẻo rợp bóng mát hơn cả của nó, những nội thất hấp dẫn nhất của nó. Vào cái buổi tối tôi tới Cairo, tôi buồn và nản đến chết đi được. Trong vòng vài tiếng đi dạo trên lưng một con lừa, cùng một drogman, tôi đã chứng tỏ được cho tôi là mình sắp qua sáu tháng chán ngán nhất trong đời, tại đây, và tuy nhiên mọi sự đã được sắp xếp từ trước để tôi không thể ở lại đó bớt hơn một ngày. Gì cơ! nó đấy à, tôi tự nhủ, thành phố của Nghìn lẻ một đêm, thủ đô của các calife fatimite cùng các soudan?... Và tôi đắm mình vào mạng lưới những phố hẹp phủ bụi bột loằng ngoằng, băng ngang đám đông ăn vận rách rưới, sự quẩn chân của lũ chó, lạc đà và lừa, khi trời sắp tối, mà bóng đen xuống thật nhanh, do thứ bụi làm xỉn bầu trời đi và do độ cao của các ngôi nhà.

Hy vọng gì đây từ mê cung rối mù ấy, có lẽ to lớn ngang với Paris và Rome, từ những cung điện cùng nhà thờ Islam kia, có đến hàng nghìn? Toàn bộ những cái đó chắc hẳn lộng lẫy và tuyệt diệu, nhưng ba mươi thế hệ đã đi qua đấy; khắp nơi đá sụt, gỗ thì mục. Dường như người ta đang du hành trong mơ nơi một thành thị của quá khứ, chỉ toàn là những con ma làm cư dân, chúng ở đầy trong nó nhưng không náo động nó lên. Khu phố nào, vây quanh là những bức tường có các lỗ châu mai, đóng chặt lại bằng những cánh cửa nặng như vào thời Trung cổ, cũng lưu giữ vẻ bề ngoài chắc hẳn nó từng có vào thời Saladin; nhiều lối có vòm tròn che bên trên dẫn đi đây đó từ phố này sang phố khác, thường xuyên hơn người ta bước vào một đường cụt; cần phải trở bước. Dần dà mọi thứ đóng lại; chỉ các quán cà phê còn sáng đèn, và những người hút hít ngồi trên mấy cái lồng kết bằng cọ, trong luồng sáng mơ hồ của những ngọn đèn đêm bơi trong dầu, lắng nghe câu chuyện dài nào đó được kể bằng tông giọng nhiều the thé. Trong lúc đó các moucharaby sáng lên: ấy là những hàng rào gỗ, được đẽo gọt và chạm trổ rất kỳ, chúng tiến lên trên phố và được dùng làm cửa sổ; ánh sáng băng ngang chúng không đủ để hướng lối cho bước chân khách bộ hành; nhất là khi rất chóng đã đến giờ tắt lửa; người nào cũng cầm một cái đèn, và gần như ở bên ngoài chỉ còn gặp toàn những người châu Âu hoặc lính tráng đi tuần.

Đối với tôi, tôi không còn thấy rõ những gì mình có thể làm trên phố khi đã quá giờ đó, tức là mười giờ tối, và tôi đã đi nằm, hết sức buồn bã; tự nhủ rằng chắc hẳn hôm nào cũng sẽ thế thôi, và thấy tuyệt vọng về các khoái lạc của thủ đô đã bị đọa kia... Giấc ngủ đầu tiên của tôi giao, theo một cách thức không thể giải thích, với các âm thanh mơ hồ của một cái cornemuse và một cây viole rè, chúng hành hạ thần kinh của tôi rõ khiếp. Thứ âm nhạc bướng bỉnh ấy cứ luôn luôn lặp lại trên nhiều tông khác nhau cùng câu giai điệu, nó đánh thức ở tôi ý về một thánh ca giáng sinh Bourgogne hay Provence. Cái đó thì thuộc vào mộng hay đời? Tâm trí tôi do dự một hồi lâu thì mới tỉnh hẳn. Tôi thấy dường người ta đang đem chôn tôi xuống đất theo một lối vừa nghiêm trang vừa hài bựa, với ca đoàn giáo xứ cùng đám nốc rượu đầu kết vành nho; một dạng vui tươi dạng trưởng lão cùng buồn bã thuộc huyền thoại trộn những ấn tượng của nó vào bản công xe lạ thường kia, nơi các khúc ca nhà thờ thảm thương tạo nên cái nền cho một bài rất hề đáng dùng để điểm theo bước nhảy của bọn phóng đãng. Tiếng ồn càng lúc càng tiến lại gần thêm và lớn thêm lên, tôi nhỏm dậy, vẫn còn đờ đẫn hết cả ra, và một ánh sáng lớn lao, xuyên qua lưới mắt cáo cửa sổ của tôi, rốt cuộc cho tôi biết đó là một cảnh tượng hoàn toàn có tính cách vật chất. Tuy nhiên những gì tôi đã nghĩ mình mơ thấy được hiện thực hóa một phần: những con người gần như trần truồng, đội vòng lá trên đầu như các đấu sĩ cổ xưa, chiến đấu ở giữa đám đông với những thanh kiếm và những cái khiên; nhưng họ chỉ chăm chăm dùng thép đập vào đồng, theo đúng nhịp của nhạc và, lại lên đường, tái khởi sự, ở xa hơn, cùng sự giả đò đánh nhau kia. Nhiều ngọn đuốc cùng tháp nến do lũ trẻ con mang chiếu sáng rực rỡ phố lên và dẫn đường cho một đoàn diễu dài gồm đàn ông và phụ nữ, mà tôi không thể thấy rõ được tất tật các chi tiết. Một cái gì đó giống một con ma màu đỏ đội cái vành gắn các viên đá nhỏ chậm chạp tiến lên giữa hai matrone có tư thái nghiêm trang, và một nhóm hỗn độn phụ nữ trong trang phục xanh khóa lại đoàn người, vừa đi vừa phát ra, tại mỗi lần dừng, một tiếng lục cục chói tai có hiệu ứng dị thường nhất.

Ấy là một đám cưới, không thể nhầm lẫn được về điều này. Tôi từng thấy ở Paris, trong đống ván khắc của công dân Cassas [Louis-François Cassas], một bức tranh đầy đủ về những nghi lễ này; nhưng những gì tôi vừa trông thấy xuyên qua các tua rua cửa sổ không đủ dập tắt đi sự tò mò của tôi, và tôi muốn, dẫu có chuyện gì xảy ra, đi theo đoàn rước và quan sát nó mặc sức hơn. Drogman của tôi, Abdallah, lúc tôi nói cái ý này, làm ra vẻ run lên trước sự dạn dĩ của tôi, tuy vốn dĩ chẳng mấy sợ việc chạy ra ngoài phố đêm hôm khuya khoắt, và nói với tôi về mối nguy bị giết hoặc bị đánh. Thật may, tôi đã mua một cái áo khoác lông lạc đà gọi là machlah, nó phủ kín một người từ vai xuống hết chân; với bộ râu đã dài của tôi cùng một cái khăn mùi soa buộc quanh đầu, sự giả trang đã hoàn chỉnh.



II

Một bữa tiệc đốt nhiều đuốc


Khó khăn nằm ở chỗ đuổi kịp đoàn người, nó đã mất dạng vào mê cung các phố cùng ngõ cụt. Viên drogman đã thắp một ngọn đèn giấy


[...]


III

Viên drogman Abdallah


Drogman của tôi là một con người quý giá, nhưng tôi sợ anh ta là một người hầu hơi quá cao quý cho một lãnh chúa nhỏ tí xíu tận đến mức như tôi. Ở Alexandrie, trên boong con tàu hơi nước Léonidas anh ta đã hiện ra trước tôi trong toàn bộ vinh quang của mình.


7 comments:

  1. á em đã nhìn thấy

    ReplyDelete
  2. đâu có đường là ta cứ đi hoặc, muốn nhuốm thêm màu nv, vì cuộc đời là những chuyến đi

    ReplyDelete
    Replies
    1. đi đâu khi xung quanh tối như hũ nút

      Delete
    2. thế lại phải hỏi L-F C à

      Delete
    3. "con người tuyệt vọng là một con người đưa mắt nhìn tương lai, nhưng không còn thấy ánh sáng nữa"

      Delete
  3. cú vào Proust ác thiệt

    ReplyDelete
  4. Nhân nói về Atlas, thì đang rơi trúng đoạn Atlas gặp Persée

    ReplyDelete