Thôi, hết thời gian thả lỏng rồi nhé, giờ lại quay lại đọc sách :p
Được cái là đợt này nhiều sách hay.
Showing posts with label margaret-atwood. Show all posts
Showing posts with label margaret-atwood. Show all posts
Feb 3, 2015
Jan 27, 2015
Những câu chuyện đuổi bắt những câu chuyện
Hai người đàn bà Canada ấy (Alice Munro và Margaret Atwood)
kể cho chúng ta rất nhiều câu chuyện, một (Munro) chậm rãi trầm lắng và một
(Atwood) sôi nổi nhiều vọng động, cả hai đều rất hay gây cho ta sự điên tiết
vì cứ gỡ mãi không ngừng những lớp vỏ của cuộc sống - những lớp vỏ ấy, đồng ý
đa phần chúng giả dối, nhưng ít ra là đảm bảo một mức độ an toàn nào đó. Đã có
một tiểu thuyết của Margaret Atwood (cuốn này thì mỏng, cảm ơn) được đặt tên là
Surfacing: ngay lúc ấy mọi chuyện đã
rất rõ ràng, rằng bề mặt chẳng là gì so với những gì có ở bên dưới.
Và Atwood hết sức chi tiết, sự kỹ lưỡng ấy càng làm điên tiết
hơn nữa: ở đầu Surfacing có đoạn tả một
cặp chân cô hầu bàn đi đôi tất “rayon stocking” màu cam rất chóe; phụ nữ thường
kinh ngạc và ghi lại những dấu ấn thị giác kiểu như vậy. Tay sát thủ mù (An Lý dịch, Nhã Nam & NXB Hội Nhà văn), kiệt
tác của Margaret Atwood, cũng là một biển chi tiết: quần áo từ nghèo nàn đến
giàu sang rồi tột đỉnh phú quý diễm lệ, lũ con gái nhà quê rồi xã hội giao tế
Toronto rực rỡ trong những bữa tiệc thượng lưu theo phong cách triều đình Hốt Tất
Liệt, chiffon, lông chồn ermine, lông chó sói có viền…
Sep 3, 2009
New
Trước hết là một bài mới của bác Nguyễn Chí Hoan về Chuyện người tùy nữ, đọc ở đây.
Những quyển sách cuối cùng của mùa hè năm nay cuối cùng cũng đã tới nơi. Như là đi một chuyến tàu chợ đi thì ít lắc thì nhiều. Nghe mẹ tôi kể ngày trước từng đi một chuyến tàu chợ có ông lái tàu đến cái ga xép bỏ thẳng về nhà ngủ một giấc, tỉnh dậy mới quay lại lái tiếp. Nghĩ cũng khiếp.
Trong những quyển ấy quyển mà tôi trông chờ nhất (như đã nói) là hồi ký của Claude Lanzmann, Le Lièvre de Patagonie. Về tác giả: Lanzmann là người làm bộ phim Shoah đồ sộ, chắc chắn là một trong những nhân vật có thẩm quyền nhất về Thế chiến thứ hai, đặc biệt là vấn đề tiêu diệt người Do Thái; những người có uy tín khác hay được nói tới là Anthony Beevor và William Shirer; một nhân vật nữa, có vai trò quan trọng trong Shoah, là Raul Hilberg. Về tên quyển sách: sở dĩ có tên này là vì Lanzmann trích dẫn một đoạn viết về những con thỏ của Silvina Ocampo (những ai rành về Borges chắc chắn biết bà nhà văn này - nghĩa đen cái nhan đề là "Con thỏ vùng Patagonie"). Về cách viết cuốn sách: Lanzmann đọc cho hai người (đều là nữ và đều thuộc tạp chí Les Temps modernes, nơi Lanzmann làm sếp sòng) gõ máy tính lại.
Đọc ngấu nghiến chương đầu. Quả là danh bất hư truyền, một giọng văn tuyệt hảo, một sự làm chủ văn phong và ý tưởng rất đáng nói. Và một chủ đề (của riêng chương một) ám ảnh mạnh mẽ: nó viết về cái chết. Và không phải bất kỳ cái chết nào, cụ thể là cái chết do bị hành hình. Mở đầu là hình ảnh máy chém (guillotine, biệt danh "la veuve" nghĩa là "bà góa"), sản phẩm của Cách mạng Pháp. Rồi những cách thức giết người khác nhau mà Lanzmann từng chứng kiến hoặc nhìn thấy hình ảnh khắp nơi trên đời, Nhật, Pháp, Úc etc.
Lanzmann là người đấu tranh chống án tử hình. Trong chương đầu tiên này ông kể hồi những năm 1960 đã từng đấu tranh đòi chính phủ Tây Ban Nha hủy quyết định xử tử một người. Mãi rồi hơn chục năm sau Tây Ban Nha bỏ án tử hình. Mọi việc đều có thể thay đổi. Một tranh đấu khác (lần này kéo dài) của Lanzmann là tìm cách cứu những người FLN (ai từng đọc về chiến tranh Algérie đều biết nghĩa là gì). Nhân vật lịch sử duy nhất có quan hệ mật thiết với Lanzmann được nhắc tới trong chương này chính là Le Castor, tức Simone de Beauvoir (như tôi đã có lần nói, de Beauvoir là người tình của Lanzmann). Nhiều lần khi được tin có người sắp bị tử hình, de Beauvoir và Lanzmann lại lật đật chạy đôn chạy đáo gọi điện khắp nơi tìm ai đó dám đánh thức tướng de Gaulle dậy giữa đêm để ký lệnh ân xá vào phút chót, vì de Gaulle là người duy nhất có thể làm được như vậy. Có vẻ như là chưa bao giờ cặp tandem này thành công cả.
Đó là các nỗ lực nhằm cứu vãn. Vấn đề là đối diện với một số thứ, câu hỏi không phải là làm thế nào để cứu vãn, mà là còn có thể cứu vãn được hay không. Rất nhiều lúc câu trả lời là không. Cái chết là một điểm cực quá lớn, đứng trước nó đã từng có rất nhiều sự suy tư. Lanzmann chỉ là một người tiếp nối trong mạch đó mà thôi.
Một chương khởi đầu thật là nặng nề, không biết hai người (phụ nữ) gõ máy tính hộ Lanzmann cảm thấy thế nào. Trong tâm trạng nặng nề đó, tôi đọc các tin tức về Phạm Đoan Trang, một người bạn. Tôi tin Đoan Trang vô tội, và tôi mong mọi chuyện sẽ sớm ổn thỏa.
Những quyển sách cuối cùng của mùa hè năm nay cuối cùng cũng đã tới nơi. Như là đi một chuyến tàu chợ đi thì ít lắc thì nhiều. Nghe mẹ tôi kể ngày trước từng đi một chuyến tàu chợ có ông lái tàu đến cái ga xép bỏ thẳng về nhà ngủ một giấc, tỉnh dậy mới quay lại lái tiếp. Nghĩ cũng khiếp.
Trong những quyển ấy quyển mà tôi trông chờ nhất (như đã nói) là hồi ký của Claude Lanzmann, Le Lièvre de Patagonie. Về tác giả: Lanzmann là người làm bộ phim Shoah đồ sộ, chắc chắn là một trong những nhân vật có thẩm quyền nhất về Thế chiến thứ hai, đặc biệt là vấn đề tiêu diệt người Do Thái; những người có uy tín khác hay được nói tới là Anthony Beevor và William Shirer; một nhân vật nữa, có vai trò quan trọng trong Shoah, là Raul Hilberg. Về tên quyển sách: sở dĩ có tên này là vì Lanzmann trích dẫn một đoạn viết về những con thỏ của Silvina Ocampo (những ai rành về Borges chắc chắn biết bà nhà văn này - nghĩa đen cái nhan đề là "Con thỏ vùng Patagonie"). Về cách viết cuốn sách: Lanzmann đọc cho hai người (đều là nữ và đều thuộc tạp chí Les Temps modernes, nơi Lanzmann làm sếp sòng) gõ máy tính lại.
Đọc ngấu nghiến chương đầu. Quả là danh bất hư truyền, một giọng văn tuyệt hảo, một sự làm chủ văn phong và ý tưởng rất đáng nói. Và một chủ đề (của riêng chương một) ám ảnh mạnh mẽ: nó viết về cái chết. Và không phải bất kỳ cái chết nào, cụ thể là cái chết do bị hành hình. Mở đầu là hình ảnh máy chém (guillotine, biệt danh "la veuve" nghĩa là "bà góa"), sản phẩm của Cách mạng Pháp. Rồi những cách thức giết người khác nhau mà Lanzmann từng chứng kiến hoặc nhìn thấy hình ảnh khắp nơi trên đời, Nhật, Pháp, Úc etc.
Lanzmann là người đấu tranh chống án tử hình. Trong chương đầu tiên này ông kể hồi những năm 1960 đã từng đấu tranh đòi chính phủ Tây Ban Nha hủy quyết định xử tử một người. Mãi rồi hơn chục năm sau Tây Ban Nha bỏ án tử hình. Mọi việc đều có thể thay đổi. Một tranh đấu khác (lần này kéo dài) của Lanzmann là tìm cách cứu những người FLN (ai từng đọc về chiến tranh Algérie đều biết nghĩa là gì). Nhân vật lịch sử duy nhất có quan hệ mật thiết với Lanzmann được nhắc tới trong chương này chính là Le Castor, tức Simone de Beauvoir (như tôi đã có lần nói, de Beauvoir là người tình của Lanzmann). Nhiều lần khi được tin có người sắp bị tử hình, de Beauvoir và Lanzmann lại lật đật chạy đôn chạy đáo gọi điện khắp nơi tìm ai đó dám đánh thức tướng de Gaulle dậy giữa đêm để ký lệnh ân xá vào phút chót, vì de Gaulle là người duy nhất có thể làm được như vậy. Có vẻ như là chưa bao giờ cặp tandem này thành công cả.
Đó là các nỗ lực nhằm cứu vãn. Vấn đề là đối diện với một số thứ, câu hỏi không phải là làm thế nào để cứu vãn, mà là còn có thể cứu vãn được hay không. Rất nhiều lúc câu trả lời là không. Cái chết là một điểm cực quá lớn, đứng trước nó đã từng có rất nhiều sự suy tư. Lanzmann chỉ là một người tiếp nối trong mạch đó mà thôi.
Một chương khởi đầu thật là nặng nề, không biết hai người (phụ nữ) gõ máy tính hộ Lanzmann cảm thấy thế nào. Trong tâm trạng nặng nề đó, tôi đọc các tin tức về Phạm Đoan Trang, một người bạn. Tôi tin Đoan Trang vô tội, và tôi mong mọi chuyện sẽ sớm ổn thỏa.
Aug 6, 2009
Khởi sự là buồn
Hôm qua được tặng một quyển sách và một cái bút, bút thì Mont Blanc dĩ nhiên rồi còn sách thì hiểm lắm, thôi các bác đừng biết làm gì. Cái hay là nhân tiện như thế lại mượn được quyển sách của Linda Lê, Au fond de l’inconnu pour trouver du nouveau. Đoạn mào đầu như thế này:
Michel Leiris, dans Biffures, parle de l’indéniable plaisir qu’il avait à posséder des livres, satisfaction à laquelle s’ajoutait toujours une part de gêne devant les choses non lues qui tapissaient ses cloisons. Les laissés-pour-compte de nos bibliothèques gémissent, les livres de chevet sont des raretés encore à décrypter. N’empêche, nous continuons à écumer les librairies, passons le plus du temps possible à nous pénétrer des aperçus d’autrui, espérant beaucoup de ceux que René Char appelle les alliés substantiels, et tenant pour assuré que l’art est ce qu’il y a de plus réel, dès lors que nous mettons entre parenthèses notre non-croyance pour entre de plain-pied dans un monde qui s’impose avec force. Ce sont ces alliés substantiels, dont l’absence ferait souffrir, qui viennent ici toquer à la vitre de l’homo lisens afin de l’accompagner le long d’un chemin hérissé d’obstacles, s’il sait, dirait Baudelaire, plonger au fond de l’Inconnu pour trouver du nouveau.
Một đoạn văn đẹp đến ngẩn ngơ, tôi chỉ gắng gượng mà thô thiển chuyển sang như thế này:
Michel Leiris, dans Biffures, parle de l’indéniable plaisir qu’il avait à posséder des livres, satisfaction à laquelle s’ajoutait toujours une part de gêne devant les choses non lues qui tapissaient ses cloisons. Les laissés-pour-compte de nos bibliothèques gémissent, les livres de chevet sont des raretés encore à décrypter. N’empêche, nous continuons à écumer les librairies, passons le plus du temps possible à nous pénétrer des aperçus d’autrui, espérant beaucoup de ceux que René Char appelle les alliés substantiels, et tenant pour assuré que l’art est ce qu’il y a de plus réel, dès lors que nous mettons entre parenthèses notre non-croyance pour entre de plain-pied dans un monde qui s’impose avec force. Ce sont ces alliés substantiels, dont l’absence ferait souffrir, qui viennent ici toquer à la vitre de l’homo lisens afin de l’accompagner le long d’un chemin hérissé d’obstacles, s’il sait, dirait Baudelaire, plonger au fond de l’Inconnu pour trouver du nouveau.
Một đoạn văn đẹp đến ngẩn ngơ, tôi chỉ gắng gượng mà thô thiển chuyển sang như thế này:
Jul 31, 2009
Nhảy đầm, uống rượu, đọc sách
Cuối tuần đi nhảy đầm uống rượu đọc sách cái nhỉ :)) Bài này của bác Nguyễn Chí Hoan viết về tập truyện ngắn Của rơi (Nguyễn Việt Hà, NXB Phụ nữ, 2004), tên đầy đủ của bài là "Nhảy đầm - uống rượu - đọc sách, và cái Hà Nội lãng mạn u sầu).
-------------
Xuyên suốt và bao trùm 19 truyện ngắn trong tập truyện này, từ đầu đến cuối, trước hết không phải là đề tài cốt truyện nhân vật..., mà là cái phong cách nhất quán và xuất sắc của tác giả.
Đó là một phong cách rõ ràng biểu hiện nổi bật trong hai đặc thù về hình thức văn chương: thứ nhất, đó là sự độc đáo của từng câu văn; mỗi câu văn ở đây đều hiển nhiên mang một "bộ gen" của cái đặc thù phong cách này, nghĩa là mỗi câu văn ở đây đều mang cái âm hưởng của giọng nói của một con người cụ thể và như vậy, các câu ở đây thực sự là các phần tử tạo thành một thiên truyện; đặc tính của các câu này như một nguyên tắc cấu trúc dẫn đến đặc thù thứ hai là thuật kể chuyện của tác giả đồng thời cũng là cấu trúc của câu chuyện. Lối cấu trúc này, như ta có thể thấy trong tập truyện, rõ ràng đã phát triển từ các truyện đầu (tất cả các truyện trong tập đều đươc tác giả ghi chú thời điểm sáng tác) qua các truyện về sau, vẽ nên một tiến trình ngày càng trở nên điển hình về cách kiến tạo một thiên truyện của tác giả. Đó là một cấu trúc dòng tâm tư. Tất nhiên nó không phải là cái "dòng ý thức" đã quá nổi tiếng suốt cả trăm năm qua. Và tất nhiên, nó cũng không phải là những chuỗi phân tích tâm lý nhìn từ một góc độ nhà văn, với tư cách như là một đạo diễn kiêm biên kịch lại kiêm cả diễn viên nhập "vai"... Đơn giản nó là một dòng chảy của tâm tư hữu thức - những cái nhớ, cái tiếc, cái muốn, cái cảm thán và cái chủ định, cái hồi tưởng và cái suy ngẫm, v.v…, tất cả những hoạt động thông thường của cái tâm trí gần gũi với bất cứ ai, cũng chất chứa và sâu xa đồng thời cũng sẵn sàng là dễ hiểu với bất cứ ai. Nhưng nó lại là một "con đường vương giả" đi đến chỗ tạo nên một thực tại riêng biệt, một thực tại của tâm trí trong đó những sự phi lý về không-thời gian được nhìn nhận như là tương đương với không-thời gian có tính trần thế bên ngoài tách biệt với tâm tư.
Như chúng tôi đã nhận xét, toàn bộ những đặc tính cấu trúc trên đây là xuất phát từ/dựa vào các câu văn, từng câu văn - giống như thể con mắt của con chuồn chuồn tạo nên bởi những con mắt nhỏ hơn sắp xếp bên trong theo một trật tự chặt chẽ. Ta có thể xem một vài ví dụ trong tập truyện:
a. Mở đầu truyện "Cố rồi sẽ nhớ" tác giả viết:
"Có một ngày rất âu lo đã đến với thằng Nam béo. Bụng bồn chồn tưng tức, giống như đang ngồi giữa một cuộc họp trang trọng bỗng mót tiểu tiện mà không thể đi". (tr.240)
b. Và đây, tác giả viết về một nhân vật nữ thi sĩ trong truyện "Biển lạ":
"Cô thử gào, cái giọng khàn khàn bị lấp nhợt nhạt ngay sau tiếng gió. Giọng khàn chỉ thời thượng trên sân khấu ca nhạc còn trên thi đàn giọng đó là vớ vẩn. Văn chương khắc nghiệt lắm, một trong tứ đại phê bình gia đã chân thành khuyến cáo các cây bút trẻ. Thơ hay phải có giọng. Nhưng to quá thì ồn nhỏ quá thì nhược thánh thót quá thì sến. Làm sao nó phải vừa to vừa nhỏ, hoặc lúc thì dài lúc thì ngắn. Cứng khi cần cứng mềm lúc muốn mềm. (...) Cô đã nghe theo và mất gần hai năm cô mới đau đớn nhận ra là mình lầm lẫn. Cô là phụ nữ, cô không cần cái đó và không thể có cái đó. Cô tháo bớt vòng để buộc chỉ cổ tay thề tuyệt giao với nhà phê bình Tây Đọc, chỉ chơi với ba người còn lại theo kiểu vong niên đó là Nam Gào, Bắc Thét và Đông La." (tr.210-211)
-------------
Xuyên suốt và bao trùm 19 truyện ngắn trong tập truyện này, từ đầu đến cuối, trước hết không phải là đề tài cốt truyện nhân vật..., mà là cái phong cách nhất quán và xuất sắc của tác giả.
Đó là một phong cách rõ ràng biểu hiện nổi bật trong hai đặc thù về hình thức văn chương: thứ nhất, đó là sự độc đáo của từng câu văn; mỗi câu văn ở đây đều hiển nhiên mang một "bộ gen" của cái đặc thù phong cách này, nghĩa là mỗi câu văn ở đây đều mang cái âm hưởng của giọng nói của một con người cụ thể và như vậy, các câu ở đây thực sự là các phần tử tạo thành một thiên truyện; đặc tính của các câu này như một nguyên tắc cấu trúc dẫn đến đặc thù thứ hai là thuật kể chuyện của tác giả đồng thời cũng là cấu trúc của câu chuyện. Lối cấu trúc này, như ta có thể thấy trong tập truyện, rõ ràng đã phát triển từ các truyện đầu (tất cả các truyện trong tập đều đươc tác giả ghi chú thời điểm sáng tác) qua các truyện về sau, vẽ nên một tiến trình ngày càng trở nên điển hình về cách kiến tạo một thiên truyện của tác giả. Đó là một cấu trúc dòng tâm tư. Tất nhiên nó không phải là cái "dòng ý thức" đã quá nổi tiếng suốt cả trăm năm qua. Và tất nhiên, nó cũng không phải là những chuỗi phân tích tâm lý nhìn từ một góc độ nhà văn, với tư cách như là một đạo diễn kiêm biên kịch lại kiêm cả diễn viên nhập "vai"... Đơn giản nó là một dòng chảy của tâm tư hữu thức - những cái nhớ, cái tiếc, cái muốn, cái cảm thán và cái chủ định, cái hồi tưởng và cái suy ngẫm, v.v…, tất cả những hoạt động thông thường của cái tâm trí gần gũi với bất cứ ai, cũng chất chứa và sâu xa đồng thời cũng sẵn sàng là dễ hiểu với bất cứ ai. Nhưng nó lại là một "con đường vương giả" đi đến chỗ tạo nên một thực tại riêng biệt, một thực tại của tâm trí trong đó những sự phi lý về không-thời gian được nhìn nhận như là tương đương với không-thời gian có tính trần thế bên ngoài tách biệt với tâm tư.
Như chúng tôi đã nhận xét, toàn bộ những đặc tính cấu trúc trên đây là xuất phát từ/dựa vào các câu văn, từng câu văn - giống như thể con mắt của con chuồn chuồn tạo nên bởi những con mắt nhỏ hơn sắp xếp bên trong theo một trật tự chặt chẽ. Ta có thể xem một vài ví dụ trong tập truyện:
a. Mở đầu truyện "Cố rồi sẽ nhớ" tác giả viết:
"Có một ngày rất âu lo đã đến với thằng Nam béo. Bụng bồn chồn tưng tức, giống như đang ngồi giữa một cuộc họp trang trọng bỗng mót tiểu tiện mà không thể đi". (tr.240)
b. Và đây, tác giả viết về một nhân vật nữ thi sĩ trong truyện "Biển lạ":
"Cô thử gào, cái giọng khàn khàn bị lấp nhợt nhạt ngay sau tiếng gió. Giọng khàn chỉ thời thượng trên sân khấu ca nhạc còn trên thi đàn giọng đó là vớ vẩn. Văn chương khắc nghiệt lắm, một trong tứ đại phê bình gia đã chân thành khuyến cáo các cây bút trẻ. Thơ hay phải có giọng. Nhưng to quá thì ồn nhỏ quá thì nhược thánh thót quá thì sến. Làm sao nó phải vừa to vừa nhỏ, hoặc lúc thì dài lúc thì ngắn. Cứng khi cần cứng mềm lúc muốn mềm. (...) Cô đã nghe theo và mất gần hai năm cô mới đau đớn nhận ra là mình lầm lẫn. Cô là phụ nữ, cô không cần cái đó và không thể có cái đó. Cô tháo bớt vòng để buộc chỉ cổ tay thề tuyệt giao với nhà phê bình Tây Đọc, chỉ chơi với ba người còn lại theo kiểu vong niên đó là Nam Gào, Bắc Thét và Đông La." (tr.210-211)
Subscribe to:
Posts (Atom)