Showing posts with label claude-lanzmann. Show all posts
Showing posts with label claude-lanzmann. Show all posts

Dec 7, 2015

Thảm họa và hình ảnh

Về Holocaust, không chỉ có Raul Hilberg hay Claude Lanzmann, không chỉ có những lời chứng của Primo Levi, Kertész Imre hay Robert Antelme (người tù ở trại Buchenwald, tác giả cuốn sách L'Espèce humaine xuất bản năm 1947, người chồng đầu tiên của Marguerite Duras, xuất hiện trong La Douleur của Duras). Tất nhiên đừng nói đến những kiểu như Danh sách của Schindler các thứ. Còn có một phương diện nữa của các trại tập trung, của Holocaust: hình ảnh. Hai cuốn sách này của Georges Didi-Huberman:


Sep 3, 2009

New

Trước hết là một bài mới của bác Nguyễn Chí Hoan về Chuyện người tùy nữ, đọc ở đây.

Những quyển sách cuối cùng của mùa hè năm nay cuối cùng cũng đã tới nơi. Như là đi một chuyến tàu chợ đi thì ít lắc thì nhiều. Nghe mẹ tôi kể ngày trước từng đi một chuyến tàu chợ có ông lái tàu đến cái ga xép bỏ thẳng về nhà ngủ một giấc, tỉnh dậy mới quay lại lái tiếp. Nghĩ cũng khiếp.

Trong những quyển ấy quyển mà tôi trông chờ nhất (như đã nói) là hồi ký của Claude Lanzmann, Le Lièvre de Patagonie. Về tác giả: Lanzmann là người làm bộ phim Shoah đồ sộ, chắc chắn là một trong những nhân vật có thẩm quyền nhất về Thế chiến thứ hai, đặc biệt là vấn đề tiêu diệt người Do Thái; những người có uy tín khác hay được nói tới là Anthony Beevor và William Shirer; một nhân vật nữa, có vai trò quan trọng trong Shoah, là Raul Hilberg. Về tên quyển sách: sở dĩ có tên này là vì Lanzmann trích dẫn một đoạn viết về những con thỏ của Silvina Ocampo (những ai rành về Borges chắc chắn biết bà nhà văn này - nghĩa đen cái nhan đề là "Con thỏ vùng Patagonie"). Về cách viết cuốn sách: Lanzmann đọc cho hai người (đều là nữ và đều thuộc tạp chí Les Temps modernes, nơi Lanzmann làm sếp sòng) gõ máy tính lại.

Đọc ngấu nghiến chương đầu. Quả là danh bất hư truyền, một giọng văn tuyệt hảo, một sự làm chủ văn phong và ý tưởng rất đáng nói. Và một chủ đề (của riêng chương một) ám ảnh mạnh mẽ: nó viết về cái chết. Và không phải bất kỳ cái chết nào, cụ thể là cái chết do bị hành hình. Mở đầu là hình ảnh máy chém (guillotine, biệt danh "la veuve" nghĩa là "bà góa"), sản phẩm của Cách mạng Pháp. Rồi những cách thức giết người khác nhau mà Lanzmann từng chứng kiến hoặc nhìn thấy hình ảnh khắp nơi trên đời, Nhật, Pháp, Úc etc.

Lanzmann là người đấu tranh chống án tử hình. Trong chương đầu tiên này ông kể hồi những năm 1960 đã từng đấu tranh đòi chính phủ Tây Ban Nha hủy quyết định xử tử một người. Mãi rồi hơn chục năm sau Tây Ban Nha bỏ án tử hình. Mọi việc đều có thể thay đổi. Một tranh đấu khác (lần này kéo dài) của Lanzmann là tìm cách cứu những người FLN (ai từng đọc về chiến tranh Algérie đều biết nghĩa là gì). Nhân vật lịch sử duy nhất có quan hệ mật thiết với Lanzmann được nhắc tới trong chương này chính là Le Castor, tức Simone de Beauvoir (như tôi đã có lần nói, de Beauvoir là người tình của Lanzmann). Nhiều lần khi được tin có người sắp bị tử hình, de Beauvoir và Lanzmann lại lật đật chạy đôn chạy đáo gọi điện khắp nơi tìm ai đó dám đánh thức tướng de Gaulle dậy giữa đêm để ký lệnh ân xá vào phút chót, vì de Gaulle là người duy nhất có thể làm được như vậy. Có vẻ như là chưa bao giờ cặp tandem này thành công cả.

Đó là các nỗ lực nhằm cứu vãn. Vấn đề là đối diện với một số thứ, câu hỏi không phải là làm thế nào để cứu vãn, mà là còn có thể cứu vãn được hay không. Rất nhiều lúc câu trả lời là không. Cái chết là một điểm cực quá lớn, đứng trước nó đã từng có rất nhiều sự suy tư. Lanzmann chỉ là một người tiếp nối trong mạch đó mà thôi.

Một chương khởi đầu thật là nặng nề, không biết hai người (phụ nữ) gõ máy tính hộ Lanzmann cảm thấy thế nào. Trong tâm trạng nặng nề đó, tôi đọc các tin tức về Phạm Đoan Trang, một người bạn. Tôi tin Đoan Trang vô tội, và tôi mong mọi chuyện sẽ sớm ổn thỏa.

Jul 14, 2009

Papa cũng đi ăn mảnh

Thường thì sau khi chết các nhà văn (nhất là lớn, nhỏ ai mà quan tâm) mới bắt đầu trở nên rộn ràng. Tờ The Guardian ở đoạn cuối bài này liệt kê một số vụ việc mới đây, liên quan tới một số người như George Orwell hoặc André Malraux. Tất nhiên toàn là những chuyện mang tính tiêu cực, nhất là thường xuyên dính dáng đến những thứ tài liệu mới được công bố.

The Guardian có vẻ bỏ qua hai nhà văn tên tuổi khác: Kundera và Auden. Kundera từng bị cáo buộc chỉ điểm theo giấy tờ của công an mật Tiệp Khắc, còn Auden làm thơ ca ngợi Stalin. Vụ Kundera có vẻ không còn ai nói đến nữa.

Nhân vật chính lần này là Ernest Hemingway. Theo quyển sách vừa xuất bản Spies: The Rise and Fall of the KGB in America (Yale University Press) của ba tác giả John Earl Haynes, Harvey Klehr and Alexander Vassiliev, Ernest Hemingway bắt đầu được KGB tuyển làm nhân viên cho mình vào năm 1941. Không những thế, Hemingway còn tự đề nghị được phục vụ. Năm 1941 là ngay trước khi Hemingway sang Trung Quốc, tại đó ông gặp Tưởng Giới Thạch (công khai) và Chu Ân Lai (bí mật).

Nhân vật đáng chú ý trong ba tác giả kể trên là người mang họ Nga: Vassiliev; đó là một cựu sĩ quan KGB, đã xâm nhập được kho hồ sơ thời Stalin.

Tuy nhiên theo cuốn sách, câu chuyện không có gì là ly kỳ cả: sau vài năm không thấy Hemingway cung cấp được tài liệu chính trị gì quan trọng, KGB đánh giá ông là loại "điệp viên tài tử" (dilettante spy) và rốt cuộc gạch tên khỏi danh sách. The Guardian chỉ nhẹ nhàng nói là Hemingway chắc "lose some of his lustre".

Có thể Papa thiếu tiền hoặc thấy thiếu cảm giác mạnh nên định phiêu lưu một chuyến chăng?

+ Còn ở đây khi các bạn nói đến chuyện đích danh với tên thật sao mà mình thấy funny thế (chú ý các comment).

+ Frederic Raphael mà viết lách như thế này bằng tiếng Việt chắc bị dân tình chửi chết cha vì cứ tương từ ngữ ngoại nhập vào. Không trong sáng tiếng Anh và không thuần thục tinh thần dân tộc, đã thế lại cứ chơi trò elite: viết tiếng Anh thế này có chết không cơ chứ: "just the kind of remark to nettle the bien-pensants", "Le Lièvre de Patagonie leaps from episode to episode of a vie mouvementée" hay là "during the plus beaux jours of Saint Germain-des-Prés", từ tiếng Anh thì cũng lại toàn chơi gốc Pháp, như là "rancour" chẳng hạn. Hê hê nhưng personally thì tôi thấy đọc rất dễ hiểu.

Bài này điểm quyển hồi ký mang tên Le Lièvre de Patagonie, của nhân vật nói tên ra là đã thấy oách rồi: Claude Lanzmann. Quyển này là quyển tôi đang chờ đợi nhất, mà không biết đồng chí đang cầm bỗng dưng lưu lạc đâu mất dấu vết. "Into the Wild" chăng :) Phần câu khách của bài (bài điểm sách thường có một hoặc nhiều yếu tố câu khách) là khi Raphael viết về Lanzmann hồi trẻ: