Như bản tường trình về tâm hồn phức tạp của một nghệ sĩ lớn,
“Chết ở Venice” (xuất hiện lần đầu cách đây đúng 100 năm) thể hiện mình là một
tác phẩm “cổ điển” điển hình cứ nhất định thật chậm chạp trong nhịp điệu riêng
của nó. Cho tới tận khoảng trang 50 của cuốn tiểu thuyết chưa đầy 150 trang
này, nhân vật chính Gustav Aschenbach mới đến được cái đích Venice vốn nằm ngay
ở nhan đề. Tuồng như các nhà văn cổ điển không bao giờ gặp vấn đề về thời gian,
thời gian đối với họ thực sự là để sống chứ không là thứ gấp gáp đuổi sau lưng
con người.
Và những miêu tả nhân vật của Thomas Mann thì vô cùng dứt
khoát: Aschenbach, nhà văn lớn, là người “từng gương mẫu dứt khoát cự tuyệt […]
vực sâu tội lỗi, khước từ mọi cảm thông dành cho sự sa đọa […] người đã đạt đến
đỉnh cao danh vọng, chế ngự được tri thức và vượt lên trên mọi mỉa mai […] con
người mà danh thơm đã được chính thức công nhận, tên tuổi đã được phong lên
hàng quý tộc, và bút pháp được đưa ra làm khuôn mẫu để giáo dục trẻ em” (tr.
135). Sự miêu tả ấy cho thấy tác giả tin rằng ông hiểu vô cùng rõ nhân vật của
mình, từ bên ngoài cho đến bên trong, mọi ngóc ngách bí mật và sâu xa nhất, và
chỉ cần vài nét phác họa là ông tái hiện được chính xác một bức chân dung chân
thực.
Nhưng đừng để sự chậm chạp kia làm nản lòng, cũng như đừng
vội bị đánh lừa bởi sự chắc chắn vốn rất không hợp chỗ trong văn chương hiện
nay: những tác phẩm cổ điển ngày nay vẫn còn được đọc chính là bởi chúng mang
lại những gì thời nay rất thiếu, và đằng sau những đặc điểm khá nặng nề của một
tác phẩm được viết ra theo một kết cấu rất chặt chẽ, ta còn thấy những gì rất
tinh tế, sâu sắc và nhìn chung là dường như nằm ngoài đầu óc nhà văn đương đại.
Ngoài cái đề tài (đam mê tính dục đồng giới) vốn từng rất cách mạng, “Chết ở Venice” còn tinh tế đi
vào được những thứ ẩn giấu đằng sau vẻ bề ngoài. Nhà văn danh tiếng và khắc khổ
ấy rồi sẽ “được nếm mùi sa ngã dâm loạn, điên cuồng” (tr. 129) trong một cơn mê
sảng. Một người đàn ông lỡ đem lòng say mê một cậu bé (Tadzio) lúc đầu còn viện
dẫn các lý thuyết, triết học Hy Lạp từ thời Socrates, rồi cũng đến khi hiểu
rằng mình sẵn sàng bất chấp tất cả, như bất kỳ ai đam mê. Cuốn tiểu thuyết cũng
không hề một chiều cứng nhắc, mà đưa ra những nhận xét không hề giản đơn, chẳng
hạn: “Nghệ thuật mang đến cho ông niềm hạnh phúc sâu xa hơn, nhưng cũng làm ông
tàn tạ nhanh hơn […] dù cho ông có giữ nếp sống thanh tịnh như một tu sĩ, về
lâu về dài nó vẫn làm thần kinh ông căng thẳng, khiến ông trở nên nhạy cảm quá
mức, mệt mỏi và thao thức, gây ra những hậu quả không khác gì một lối sống
phóng đãng chạy theo ham mê và lạc thú” (tr. 35).
Hẳn sẽ rất thú vị nếu cuốn tiểu thuyết ngắn này được đọc
cùng (như một bộ đôi) với một cuốn tiểu thuyết ngắn khác: “Daisy Miller” của
Henry James, nhà văn thuộc thế hệ trước Thomas Mann. James và Mann đều là tác
giả của những tiểu thuyết lớn nhưng đồng thời cũng rất tinh tế với các câu
chuyện ngắn. Cả “Daisy Miller” lẫn “Chết ở Venice” đều là truyện của những
người nước ngoài đến Ý (một thì ở Venice, một thì ở Rome) và đều có kết thúc
trong chết chóc.
Ở thời của cổ điển, những nỗ lực của các đường lối văn
chương khác là thứ độc giả rất cần; ở thời nay, có lẽ độc giả thỉnh thoảng lại
cần đến văn chương cổ điển. Các chủ nghĩa và trường phái có thể chết đi, nhưng
những gì tinh túy của mọi cách biểu đạt văn chương thì không chết.
Nhị Linh
Hình như là Castorp thì phải.
ReplyDeleteVâng, đúng thế, p chứ không phải q, cám ơn :p đã sửa rồi.
DeleteTớ "kết" câu kết của bạn Nhị Linh :p.
ReplyDeleteMình cũng thích câu kết của anh Nhị Linh.
Delete"những gì tinh túy của mọi cách biểu đạt văn chương thì không chết."
Pozdrowienia
ReplyDelete