Aug 13, 2012

Lê Huy Oanh vs Thanh Tâm Tuyền

Trong lịch sử bình luận thơ Thanh Tâm Tuyền, nhà phê bình Lê Huy Oanh tạo ra mấy điểm mốc đáng nhớ. Trên số Văn đặc biệt về Thanh Tâm Tuyền (năm 1973), Lê Huy Oanh nhắc lại mình từng chê bôi, thậm chí mạt sát tập Tôi không còn cô độc đến như thế nào. Bài viết ấy giờ không dễ tìm, nó nằm trên tạp chí Sinh Lực, ấn phẩm nằm dưới sự điều hành của Võ Văn Trưng (chủ nhiệm) và Tôn Nhật Huy (chủ bút). Nên nhớ bài viết dưới đây (toàn văn) đăng không lâu sau khi Tôi không còn cô độc được ấn hành.

Đọc “TÔI KHÔNG CÒN CÔ-ĐỘC” của Thanh-tâm-Tuyền

Lê-Huy-Oanh

Giữa lúc này, người ta khao khát một tập thơ hay, như những kẻ lạc lõng trên sa-mạc thèm muốn một gốc dừa xanh bên hồ nước. Thơ Thanh-Tâm-Tuyền ra đời trong khi bao người đang chờ đợi một thi nhân có tài. Chúng ta vui-vẻ đón con người đó, hy-vọng sẽ thấy trong thơ chàng một nguồn rung cảm mới, một nghệ-thuật cao đẹp.

Tôi không muốn đọc cuốn “Tôi không còn cô độc” quá trơ trẽn. Tôi thắp lên hai cây nến trắng. Chuông đồng-hồ thong thả điểm 2 tiếng. Ngoài cửa sổ, con đường vắng trải nhựa đen im lìm dưới ánh đèn đêm thấp-thoáng. Trời hơi lành lạnh.

Tôi ưa chọn giờ để đọc thơ - nhất là đọc một tác phẩm mà tôi trót gửi vào đấy biết bao nhiêu hy vọng. - Kể ra như thế cũng hơi cầu kỳ, cái cầu kỳ của những người yêu thơ.

Tôi bắt đầu lần giở những trang giấy thơm tho một cách thành kính. Một trang, hai trang, rồi chín, mười trang… Tội nghiệp chưa, đầu tôi nóng bừng; có lúc tôi bàng hoàng như vừa ngã từ mấy từng lầu cao xuống hố bùn đen: thật khó mà tìm thấy cái hay của thơ Tự-do - một thứ tự-do kiểu Thanh Tâm-Tuyền!

Lật về trang giấy sau bức chân dung tác giả, tôi đọc đi đọc lại mấy hàng chữ đầu tiên mà tôi bắt đầu e ngại rằng đây chỉ là những lời ngạo mạn:

………
Để cai trị tôi có những luật lệ tinh-thần mà người phải thần phục nếu người muốn nhập lãnh thổ
Người hoàn toàn tự do và có thể ném cuốn sách ra cửa sổ

Tôi định ném cuốn sách ra cửa sổ thật, vì lúc đó, tôi có cảm-tưởng đã gặp phải một người khùng. Kể cũng lạ. Độc giả, yêu thơ đi tìm thơ, nghệ-thuật không thấy, thấy một chiếc ngai lạ kiểu, trên đó sừng sững một quái thai: Ông Hoàng Thanh-Tâm-Tuyền. Ông kêu lên những câu nghe rất chối tai, có lúc lại hoàn toàn vô nghĩa và ông bảo đó là thơ: một thứ thơ không cần vần, không cần âm điệu và cũng chẳng cần để ai hiểu!

Có một lúc tôi không dám phán đoán thêm nữa. Tôi lặng-lẽ nhìn ngọn lửa nến đang leo lét cháy không sao thoát khỏi cái lưới thắc-mắc, tôi cho rằng chỉ đọc một lần thì chưa thể nhận thức nổi những tinh-hoa của lối thơ này. Tôi hơi hối-hận vì đã không kìm nổi giận-dữ. Lòng dịu lại đôi chút, tôi ép má vào song cửa sổ, mặc cho gió lạnh ùa vào mặt. Cuốn thơ mầu trắng oái oăm kia nằm lệch trên bàn. Tôi trân-trối nhìn nó và tự hỏi: “nó đã lừa cảm giác tôi hay chính tôi đã lừa cảm giác tôi?

*

Suốt một tuần lễ sau tôi đọc lại cuốn thơ này. Một tuần lễ có bẩy ngày, tôi đọc lại nó tới hơn ba lần. Nghĩ mà thương cho tôi, có những đêm quá khuya, tôi vẫn còn cặm cụi trước những dòng chữ quái đản:

Tại sao em thích gọi tên hoa
Nào ngày mai của chúng ta buông từng cánh
Xuống vai trần
Viền cỏ
Bông tóc nâu
Em sẽ gọi tên anh
Mùa hoa hôm nay
Nhưng thời gian đã ngả vào lòng vô định
Chút sữa huệ ấm đời thiếu tiếng chim
Cánh hồng ngọt không gian tàn phá
Những thời gtan [sic] không rời nhau mang đến bao nhiêu mùa
Dạy em yêu phía sau cửa sổ
Thiếp điên trong chuỗi dài giấc ngủ
Rất vui
………
(Trang 32, HOA)

Tôi lật xuống những trang dưới, đọc tiếp.

………
Tôi ru chim ngủ trong cổ họng
Mặt trời kêu xuống thái dương những màu ánh sáng thơm
Tim kinh ngạc
Đời tạo câu cười thiên nhiên mãi
Hy vọng đứng ra ngoài ô ngục, ngực bâng khuâng
Lần gặp gỡ thứ nhất
Rồi kỷ niệm kim khí thủy tinh hành hạ
Đau xé trời đêm không sao bánh máy quay vũ khí
Tôi chối từ giam cầm chim đẹp trong rừng tóc
Dù tiếng hót đã chạm mấy hàm răng
Người bộ hành cô đơn chờ đêm để lên đường
Về quá khứ
Chim bay vào trận mưa sao
(Trang 46 - CHIM)

Trời ơi! đã trót yêu thơ thì tôi đành gian-díu [sic] với thơ chứ cứ đọc mãi cái điệu thơ này rồi cũng đến loạn óc mất thôi. Thi ca lập dĩ đến thế là cùng. Người ta bỏ hết dấu, người ta vứt vần xuống gót chân thô bạo, người ta cố tình ép uổng cho ý tứ thành bí hiểm: không phải người ta làm thơ mà định giết chết thơ. Hành hạ Nàng thơ đến như vậy thật dã man hết chỗ nói. Ấy thế mà Thanh Tâm Tuyền còn kêu là thơ anh bắt nguồn từ ca dao; ở trang 42 anh viết:

Không đa đa siêu thực
Thẳng thắn
Khởi từ ca dao sang tự do

Tôi ngờ rằng Thanh-Tâm-Tuyền nói dối. Âu cũng là một mánh-khóe lòe đời của những người cuồng chữ. Bảo rằng thơ anh chuyển từ ca-dao sang thì quả là định làm hại cái hay mộc mạc nhưng đầy vẻ quyến dũ [sic] của ca-dao. Ca-dao là một thứ văn chương bình-dân, đơn giản, phóng khoáng, sáng-sủa biết bao nhiêu, sao lại có thể chuyển nó sang một lối thơ “hũ nút” như vậy được.

*

Thật ra, tôi vẫn mến Thanh-Tâm-Tuyền vì anh là một thanh-niên tha-thiết với cách-mạng và anh đã muốn dùng thơ để ca-ngợi cách-mạng.

Nhưng nếu định dùng một lối thơ lập-dị để phát huy và truyền-bá tinh-thần cách-mạng, tôi e rằng khó mà thành-công. Tinh-thần cách-mạng cần được phát huy bằng những lời thơ sáng-sủa, nhịp-nhàng, giầu âm-điệu hơn.

Hình-thức của thơ càng linh-động, càng hấp dẫn, càng có năng lực làm người ta rung động; hình thức bí hiểm, tư tưởng cũng thành tối om, làm sao nó gây được ảnh-hưởng trong lòng người đọc.

Tôi không phủ nhận vai trò cần thiết của sự tự-do trong thơ, nhưng tôi chủ trương sự tự-do đó không tuyệt đối, nó phải được giới hạn trúng mức truyền cảm. Giới hạn đó không bắt buộc đứng yên một chỗ; nó có thể biến đổi, di-động tùy theo không gian và thời gian, tùy theo vài sáng-tạo của mỗi thi sĩ. Sự thực, chúng ta chẳng cần bàn nhiều về nó, ở đây, ta chỉ cần nêu ra một kết luận hết sức đơn giản:

Thi sĩ có toàn quyền định giới hạn cho sự tự do trong thơ ca của mình miễn làm sao thơ của họ phải đạt được mục đích chính yếu là truyền cảm. Thiếu tính chất truyền cảm nó hết là thơ”.

Buồn thay, đọc thơ Thanh-tâm-Tuyền ta hầu như không thấy tính-chất truyền cảm có nghĩa là ít khi ta thấy rung động mà phần nhiều chỉ thấy bực mình vì thơ.

*

Tuy nhiên, nếu cố giữ bình thản để đọc thơ anh, ta cũng tìm thấy đôi chỗ tạm gọi là nghe được. Những giòng hiếm hoi đó nằm trong vài bài thơ tương đối đỡ kỳ-quặc hơn. Bài TRƯỜNG-THÀNH (trang 18) đã khiến ta súc cảm [sic] nhờ ý tưởng nồng nàn của tác giả:

Anh biết vì sao Cộng-Sản thủ tiêu Khái-Hưng.
Mỗi lần hoàng hôn tôi bước cùng đám đông
Lòng khẫn cầu [sic] cách mạng

Anh biết vì sao Cộng-Sản thủ tiêu Phan-văn-Hùm

Mỗi lần hoàng hôn chạm mặt từng người
Có phải chúng ta đang sửa soạn

Anh biết vì sao Cộng-Sản thủ tiêu Tạ-thu-Thâu

Mỗi lần hoàng hôn tôi cố thở cho nhiều
Các anh nhớ tôi còn sống
Quờ quạng tay dan díu
Cách-mạng nổi trong sự nín thinh.

………
Mỗi lần hoàng hôn tôi chỉ là người văn-nghệ bé nhỏ.
Hoặc tôi câm mồm hoặc tôi thét la.
Mặc chúng dụ-dỗ mặc chúng dọa-nạt
Chúng sợ cách mạng vô cùng.

………

Bài “MƯA NGỦ” (trang 48) gợi cho ta tính chất quyến dũ [sic] của một thứ “poème en prose” của Baudelaire (1).

Mấy bài thơ này khiến tôi nghĩ hoài về Thanh-tâm-Tuyền tuy tôi đã cất cuốn “TÔI KHÔNG CÒN CÔ ĐỘC” vào ngăn tủ. Tôi tin rằng, nếu anh chịu rời bỏ lối thơ kỳ-quái hiện nay của anh để nhận lấy một lối thơ hợp lý hơn, thơ anh sẽ có nhiều triển vọng. Anh là người giầu tình cảm, giầu lòng yêu nước, thèm khát TỰ-DO và có óc tưởng-tượng thật phong-phú. Tiếc thay, cái tính ưa lập-dị của anh đã phản anh đã bóp nghẹt mất cả một hồn thơ rộng mở trong anh.

Tháng giêng 1957

(1) Ngoài ra, trong tờ sáng tạo số 4 [sic], ra hồi đầu tháng giêng 1957, ta còn được thưởng thức một bài nhan đề:
HÃY CHO TA KHÓC BẰNG MẮT EM,
NHỮNG CUỘC TÌNH DUYÊN BUDAPEST.
Với ý tưởng tân kỳ, bài này cũng được một số người thích,

(trích nguyệt san Sinh Lực, số 9, 1/3/1957, tr. 78-82)

-----------

Sau này, năm 1973, trên số Văn đặc biệt về Thanh Tâm Tuyền, Lê Huy Oanh đã viết khác hẳn, chẳng hạn: “Thanh Tâm Tuyền đã tuyên bố như vậy [tức đoạn đề từ] ở đầu tập Tôi không còn cô độc. Trong cơn giận dữ rất chân thật, tôi đã mạt sát đả kích anh ta thậm tệ để rồi chỉ ít ngày sau tôi dần dần thấy tất cả sự nông nổi bất công của những lời mạt sát đó, những cử chỉ đả kích đó. Tôi đã không ngần ngại “ném cuốn sách ra cửa sổ” để rồi tôi lại len lén bước ra nhặt nó lên, ấp nó vào ngực, mang nó vào nhà. Vậy thì, vậy thì tôi chỉ còn có cách phải chịu thần phục những luật lệ tinh thần của “vị hoàng đế” ấy bởi tôi rất muốn tiếp tục chuyến đi vào lãnh thổ của ông ta” (bài “Ký sự về một chuyến đi kỳ thú vào vùng rung cảm”, tr. 11).


Tập thơ Tôi không còn cô độc:

Phần 1

Phần 2

3 comments:

  1. Người chê Tôi không còn cô độc dữ nhất, là Trưởng Lão Hà Thượng Nhân, trên mục Đàn Ngang Cung của ông, ở nhật báo Tự Do. Lê Huy Oanh sau viết cho Sáng Tạo, HTN sau là sếp của TTT, ở Tiền Tuyến, họ rất thân với nhau. LHO khi viết cho ST, có truyện ngắn Hồi Chuông Báo Tử tuyệt lắm

    ReplyDelete
  2. "đất ta là của ta
    đừng ai hòng cắt xẻ
    chúng ta thương yêu nhau
    cùng là con một mẹ
    chiếm lại trọn đất đai
    xoá sạch oán thù
    nhường nhau là hết nói
    ôi hai mươi
    nhân loại trẻ như hoa búp
    con về dựng lại cửa nhà
    trẻ con đi học trên đường rộng
    chữ đầu tiên em học là gì
    thưa yêu "

    Very Lovely and Noble and very Kind of the King of Poetry!

    Hey NhiLinh, like your "Hat Co Ban", Four Eyes Boy, waiting for the new ones. Thanks.

    GioChuong

    ReplyDelete
  3. “nồng nàn” cũng như “thanh xuân” có từ nào thay thế không anh, mà sao giờ thấy ít người viết dùng?
    Nồng nàn cảm ơn anh!

    ReplyDelete