Apr 5, 2020

Abismo de rosas

sau "milonga" tức là Argentina (xem ởkia - cũng đã viết tiếp bài ấy) giờ chúng ta chuyển sang Braxin: như vậy là Patagonia mở rộng

nhân tiện, Edgar Blanc vừa có một tác phẩm xuất sắc mới: "Desafinado" của Tom Jobim (c'est très beau, un absolument grand arrangement; les tonalités sont si riches que curieusement elles me font parfois penser aux joueurs de luth en Europe dans un passé lointain)

Jobim là một nhân vật lớn của Bossa Nova. Tôi nhớ đến một buổi biểu diễn tại Paris trong thập niên 70 của thế kỷ trước (có lẽ là sân khấu Olympia). Nhân vật chính là Vinicius de Moraes, khi đó đã khá già, có thêm một hay hai ca sĩ nữ. Jobim chơi keyboard, Toquinho hồi ấy còn rất trẻ cũng chơi đàn và cuối buổi thì Baden Powell cũng xuất hiện, mặc áo đỏ, vài đoạn chơi cùng Toquinho.

Trước Bossa Nova, đầu thế kỷ 20, một nhân vật đã mở ra một con đường lớn cho âm nhạc Braxin: Canhoto, tức Américo Jacomino, một "violonista". Nhất là bản nhạc "Abismo de rosas".

Kể từ đó, "Abismos de rosas" đã được chơi bởi những người Braxin vĩ đại nhất thế kỷ 20: có version Garoto, version Dilermando Reis hay version Baden Powell. Cũng cần kể version của Raphael Rabello, một nhân vật rất lớn của "truyền thống 7 dây".


Một bản nhạc của Canhoto (Américo Jacomino): "Olhos Feiticeiros". Đây là một "choro maxixe". Trong âm nhạc đặc trưng Braxin, nhịp 2/4 chiếm thế thượng phong. "Maxixe": một hình thức nhạc tổng hợp, chủ yếu từ polka, habanera và lundu (loại tiết tấu có nhiều yếu tố châu Phi da đen). Tuy không phải là người Braxin nhưng Agustín Barrios "Mangore" từng viết một bản "Maxixe" tuyệt vời (hết sức nghiêm túc, nếu tìm nghe bản nhạc ấy thì nên tìm ai chơi nó mà có dáng vẻ của người da đỏ Anh điêng). Nhìn chung hơn, âm nhạc đặc trưng Braxin là tổng hợp chủ yếu của tango, polka (ta nhớ, trong một truyện ngắn, Machado de Assis chế giễu một nhạc sĩ mơ thành Bach, Beethoven nhưng rồi cả đời chỉ viết những bản polka ăn khách) và habanera (habanera, you know, có một khúc rất nổi tiếng trong Carmen của Georges Bizet: Georges Bizet, you know, có một người con trai là Jacques Bizet, bạn học của Marcel Proust, những bức thư của Proust gửi cho mẹ của Jacques Bizet, Madame Straus, cho thấy rất nhiều về một Proust trẻ tuổi; sở dĩ mẹ của Jacques Bizet lại mang họ khác là bởi nhạc sĩ Georges Bizet chết sớm nên bà vợ tái giá, lấy đốc tờ Émile Straus - cho đến tận bộ phim hoạt hình Up gần đây vẫn sử dụng khúc ấy, đoạn ông già đi xuống cầu thang nổi tiếng).

Américo Jacomino là người thiết lập một nhân vật điển hình của âm nhạc Braxin thế kỷ 20, nhất là kể từ khi có thu âm (đầu thế kỷ 20 người ta bắt đầu thu âm được - có những người chết trước đó, và ta có thể tưởng tượng sự thiệt hại là lớn đến mức nào, khi mà ta chỉ có thể tưởng tượng Liszt chơi đàn piano ra sao mà không biết cụ thể được, bởi vì Liszt chết trước khi có những bản thu âm đầu tiên chừng 20 năm; một trường hợp còn gây tiếc nuối lớn hơn: Francisco Tárrega - về lý thuyết Tárrega sống cho đến lúc người ta đã bắt đầu thử nghiệm thu âm nhưng có vẻ sự thu âm đã hụt mất một trong những virtuoso lớn nhất trong lịch sử): hình ảnh của một composer kiêm virtuoso, lên sân khấu (và thu âm trong studio) biểu diễn những bản nhạc do chính mình viết.

Garoto (tức là Aníbal Augusto Sardinha - ít nhất thì tìm nghe bản choro số 1 của Garoto tức là "Tristezas de um violão" đi) hoàn toàn có thể là một nhân vật của Bossa Nova: sinh năm 1915, Garoto chỉ nhỉnh hơn João Gilberto một ít tuổi. João Gilberto trải qua tuổi niên thiếu (tuổi teen) trong thập niên 40 của thế kỷ 20. Nhưng vì Garoto chết sớm (năm 1955) nên tuy ngày nay vẫn còn có thể nghe được nhạc của Garoto thu âm nhưng đó sẽ không thuộc vào Bossa Nova (mà mang "ý nghĩa tiền triệu" nhiều hơn). Nhờ công việc tìm kiếm của một nhạc sĩ lớn, Paulo Bellinati, nhiều tác phẩm của Garoto đã được khôi phục (không ít nằm trong bộ sưu tập riêng của một đốc tờ, bạn của Garoto). Nhiều bản nhạc của Garoto cũng đã được tất cả virtuoso của Braxin (và rất nhiều người ở các nước khác) chơi thường xuyên, chẳng hạn "Lamentos do Morro" ("morro" nghĩa là ngọn đồi).

Garoto, cũng giống Manuel de Falla (từng viết bản nhạc tưởng niệm "Homenaje"), thuộc về phía Debussy: Garoto viết một "Debussyana" giống một thế kỷ trước đó Mauro Giuliani viết loạt "Rossiniana". Đằng sau Barrios ta thấy thấp thoáng bóng của Chopin, còn Heitor Villa-Lobos hay được mệnh danh là "Bach của Nam Mỹ".

Bossa Nova là âm nhạc duy nhất kháng cự được trước nhạc rock, và trước The Beatles. Bài hát duy nhất cạnh tranh được với "Yesterday" (ở khía cạnh được biểu diễn nhiều) là "Garota de Ipanema" (của Jobim, lời Vinicius de Moraes). Đây là một samba. "Garota" là giống cái của "Garoto", biệt hiệu của Aníbal Augusto Sardinha.

João Gilberto vừa qua đời năm ngoái, 2019. Chắc vì vậy cho nên bản "Desafinado" chuyển soạn trên đây được Edgar Blanc đề tặng (hommage) cho João Gilberto.


Trước khi đến với câu chuyện cuộc đời của João Gilberto (một câu chuyện đặc biệt hấp dẫn), quay trở lại với Garoto. Số lượng kiệt tác của Garoto không kém so với Tárrega hay Barrios. Đây là một trong những người sản sinh ra âm nhạc kỳ diệu. Không phải virtuoso nào cũng làm được như vậy. Andrés Segovia cũng viết nhạc, nhưng người ta nghe Segovia chơi nhạc rất nhiều chứ có ai chơi nhạc của Segovia không? (tất nhiên, ta nhớ đến Sigismond Thalberg của thế kỷ 19). Thậm chí cần phải nói rằng, tuyệt đại đa số virtuoso bị rơi vào cái bẫy của "virtuosité" của chính họ: bởi chơi nhạc quá giỏi, họ viết ra những gì chỉ thuần túy thuộc về "sự trưng trổ" - như người ta hay nói (về các virtuoso, xem ởkia). Bất kỳ virtuoso nào khi đọc (với đàn trước mặt hoặc trên tay) các tổng phổ của Liszt, Debussy hay Garoto hẳn đều cảm thấy một luồng điện chạy qua mình, thậm chí một sự đảo lộn to lớn, một cơn chóng mặt rất đặc trưng. Sự chóng mặt ấy - rất có thể - là ghi nhận của "đồng hội đồng thuyền". Garoto có quá nhiều kiệt tác, cho nên ở đây sẽ chỉ nói đến một bản duy nhất: "Gente Humilde"; đây là một "cançao".

Còn "Abismo de rosas", đó là một bản "valsa lenta". Ngoài các version của bản nhạc ấy đã nói ở trên, có thể xem bản arrangement của Isaias Sávio (tất nhiên còn nhiều nữa).

Dilermando Reis, một trong những người từng rất nổi tiếng với "Abismo de rosas", hay được gọi là một nhân vật của âm nhạc bình dân. Không nên quá hoảng sợ: không có nhạc sĩ nào trong lịch sử không hiểu (rồi đến lúc cũng hiểu, hoặc nếu không thì đã trở thành đại lý bán thuốc lá, bán rượu hoặc bảo hiểm - nói đến bảo hiểm không phải là ất ơ, vì có một nhạc sĩ rất lớn của thế kỷ 20 nước Mỹ chính xác là một nhà kinh doanh bảo hiểm đại tài: Charles Ives) là cần phải tìm nguồn cho mình từ chính cái bình dân kia. Reis có một répertoire đồ sộ, nhưng gần như không có gì khác ngoài "valse" và "choro". Một bài valse, rồi lại một bài choro, rồi lại một bài valse, etc. Nhưng đâu có cần gì hơn?

Braxin là đất nước của tiết tấu. Người ta nói, chỉ tính những gì đã được thống kê cụ thể, cho tới gần đây, có đến hơn 400 tiết tấu. Ritmo, ritmo. Cho nên, nghe các bình luận viên bóng đá Việt Nam - chính họ lại là những người đặc biệt hay nói bằng ẩn dụ - gọi đội tuyển bóng đá Braxin là "các vũ công samba", rất dễ có cảm giác (à mà thôi). Và người ta rất dễ có ấn tượng âm nhạc Braxin chỉ có trống và các nhạc cụ dây, nhưng điều này là nhầm. Chỉ cần nghĩ đến một maestro lớn, Radamés Gnattali, là biết.

Nhưng cũng đúng, Braxin sở hữu một sự đa dạng đáng kinh ngạc về các nhạc cụ dây. Đàn mandolin chẳng hạn, có một nhân vật rất lớn, được gọi tên theo nhạc cụ luôn: Jacob do Bandolim. Hệ thống (nếu có thể gọi đó là một hệ thống) những cái đàn be bé nhiều dây hay ít dây vô cùng phong phú: các "viola". Viola caipira, viola-de-cocho, viola caiçara, viola-de-samba, viola-de-buriti, etc. Phần lớn virtuoso Braxin chơi được rất nhiều loại khác nhau.

Baden Powell: nhìn thấy cái tên ấy, ai nghĩ chắc có liên quan gì đến nhân vật lớn của câu chuyện scout, thì người ấy đã nghĩ đúng. Ông bố của Baden Powell đặt tên cho con để tỏ lòng ngưỡng mộ người Anh hướng đạo sinh vĩ đại đó (không biết sau hồi bóng đá năm bao nhiêu đó có bao nhiêu đứa trẻ con ở Việt Nam chỉ vì sinh ra đúng lúc mà đã mang cái tên Phan Cao). Ông nội của Baden Powell là chỉ huy dàn nhạc gồm toàn những người nô lệ da đen mới được giải phóng, đầu tiên. Tên đầy đủ của Baden Powell là "Baden Powell de Aquino". Hình ảnh Baden Powell trên sân khấu, đối với tôi, là một enigma. Gắn liền với Baden Powell là khái niệm "afro-samba".

Nhưng Braxin lại cũng là đất nước của Auguste Comte và của thành phố được xây dựng mới toanh, từ đầu.




(còn nữa)





đã tiếp tục:

+ "Trong lúc đọc Kierkegaard (6) Đầu và cuối"
+ "tiếng Việt abc"
+ câu chuyện của Maupassant về đốc tờ Héraclius Gloss

8 comments:

  1. Thằng chó ngu bị tụi Phan book nó coi như chó giữ nhà mà không hay hahaha.

    ReplyDelete
  2. sao, Nguyễn Vĩnh Nguyên, thấy đồng nghiệp cũ nói gì chưa?

    ReplyDelete
  3. có chút liên quan, NL có biết vụ cháy kho lưu trữ của Universal Music vừa rồi không?

    ReplyDelete
  4. không, tan tành hết rồi à?

    ReplyDelete
  5. chết, nhầm, xảy ra lâu rồi, năm 2008 nhưng năm 2019 lại lên báo, mong là không đến nỗi, trong danh sách bị ảnh hưởng có Nirvana

    ReplyDelete
  6. Hi hết The phantom rồi qua Carmen, love never dies chỉ có người thì chết, thôi lát lao động xong ăn uống nghỉ ngơi đàng hoàng nhé, em đi đọc kinh, habanera hallelujah hallelujah

    ReplyDelete