Sep 12, 2013

Mori Ogai: Đang sửa chữa


Ông Hội đồng Watanabe xuống khỏi tramway tại trạm trước rạp Kabuki vừa lúc trời ngừng mưa. Cẩn thận tránh các vũng nước, ông rảo bước qua khu Kobiki theo hướng Bộ Truyền thông. Chắc chắn là quán ăn nằm đâu đó gần đây, ông nghĩ trong lúc đi dọc theo con kênh; ông nhớ mình từng nhìn thấy biển hiệu ở một trong các góc phố kia.

Phố xá vắng vẻ. Ông vượt qua một nhóm thanh niên ăn vận theo lối Tây phương. Họ lớn tiếng chuyện trò và trông như vừa rời khỏi nhiệm sở. Rồi tới một cô gái mặc kimono và choàng một cái khăn màu sắc vui mắt bước nhanh qua, suýt đâm sầm vào ông. Có lẽ cô ta làm phục vụ bàn trong một quán trà nào quanh đây, ông nghĩ. Một chiếc xe kéo dựng mui từ đằng sau vượt lên.

Cuối cùng ông cũng nhìn thấy một biển hiệu nhỏ với dòng chữ nằm ngang viết theo phong cách Tây phương: “Seiyoken Hotel”. Mặt trước của tòa nhà hướng ra dòng kênh dựng đầy giàn giáo. Lối vào phụ nằm trên một cái ngõ. Có hai khúc cầu thang nằm chéo bên ngoài quán, tạo thành một hình tam giác thiếu. Ở đầu mỗi cầu thang có một cánh cửa kính; sau khi do dự một lát, Watanabe đi vào cánh cửa phía bên trái, trên đó viết mấy chữ Nhật có nghĩa “Lối vào”.

Bên trong là một lối đi rộng rãi. Cạnh cửa có một chồng khăn nhỏ để khách lau giày và tiếp nữa là tấm thảm chùi chân rộng kiểu Tây. Giày của Watanabe dính bùn vì đi ngoài trời mưa, ông cẩn thận lau chùi nó bằng cả khăn và thảm. Có vẻ như là ở quán ăn này người ta theo cung cách của Tây, đi giày vào bên trong.

Không có gì trên lối đi, nhưng từ xa xa vẳng tới tiếng búa đập và tiếng cưa. Nơi này đang sửa chữa, Watanabe nghĩ.

Ông đợi một lúc, nhưng không thấy ai ra đón, ông bèn bước luôn tới cuối lối đi. Tại đó ông dừng lại, không biết phải đi đâu tiếp nữa. Đột nhiên ông nhìn thấy một người đàn ông kẹp tấm khăn trải giường dưới nách đứng dựa lưng vào tường cách đó không xa. Ông tiến lại gần.

“Tôi đã gọi điện thoại từ hôm qua để đặt chỗ.”

Người kia tức khắc chú ý ngay. “Ôi vâng, thưa ngài. Bàn hai người, có phải không nhỉ? Ở trên tầng hai. Xin mời ngài đi theo tôi.”

Người phục vụ đi cùng ông lên khúc cầu thang bên kia. Anh ta biết ngay ông là ai, Watanabe nghĩ. Chắc quán có ít khách, lại còn thêm chuyện đang sửa chữa nữa. Càng leo thêm, tiếng đập và tiếng loảng xoảng càng trở nên inh tai nhức óc.

“Sôi động đấy,” Watanabe nói, ngoái lại nhìn người phục vụ.

“Ôi không, thưa ngài. Mấy người kia năm giờ là về nhà rồi. Ngài sẽ ăn tối mà không bị làm phiền đâu.”

Khi họ lên tới hết cầu thang, người phục vụ đi vượt lên Watanabe để mở một cánh cửa bên tay trái. Đó là một căn phòng rộng nhìn thẳng xuống kênh. Có vẻ là hơi quá rộng cho hai người. Quanh mỗi cái trong số ba cái bàn nhỏ trong phòng người ta kê xúm xít rất nhiều ghế. Bên dưới cửa sổ là một ghế sofa rất lớn và bên cạnh đó là một cây nho trồng trong bồn cao khoảng bảy mươi phân và một cây lùn có chùm quả, kiểu cây trồng trong nhà kính.

Người phục vụ đi qua căn phòng, mở cánh cửa kia. “Đây là phòng ăn của ngài, thưa ngài.” Watanabe đi theo anh ta. Căn phòng rất nhỏ - đúng ra là vừa đủ cho hai người. Giữa phòng có một cái bàn được trình bày một cách kỹ lưỡng với hai bộ đồ ăn và một cái giỏ cắm mấy loại hoa đỗ quyên.

Mơ hồ cảm thấy hài lòng, Watanabe quay trở lại phòng lớn. Người phục vụ rút lui, Watanabe còn lại một mình. Đột nhiên tiếng búa ngừng lại. Ông nhìn đồng hồ đeo tay: phải: đúng năm giờ. Vẫn còn nửa tiếng nữa mới tới giờ hẹn. Watanabe rút một điếu xì gà từ cái hộp mở sẵn để trên mặt bàn, cấu bỏ đầu, rồi châm lửa.

Thật kỳ quặc, ông không hề cảm thấy hồi hộp chút nào. Cứ như thể việc ai sẽ đến đây trong căn phòng này với ông hoàn toàn không quan trọng, như thể ông hoàn toàn không quan tâm khuôn mặt nào ông sắp nhìn thấy qua giỏ hoa kia. Ông ngạc nhiên trước sự lạnh lùng của chính mình.

Thở ra một hơi xì gà đầy khoan khoái, ông bước ra chỗ cửa sổ, mở nó ra. Ngay bên dưới là những đống gỗ chồng chất. Đây là lối vào chính. Nước của dòng kênh trông tĩnh lặng tuyệt đối. Ở bờ bên kia ông có thể nhìn thấy một dãy nhà gỗ. Trông chúng giống như những ngôi nhà được phân bổ. Ngoại trừ một người đàn bà cõng một đứa trẻ trên lưng, chậm rãi đi lại bên ngoài một trong các ngôi nhà ấy, ông không nhìn thấy ai. Tận cùng bên tay phải, khối nhà gạch đỏ đồ sộ của Bảo tàng Hải quân chắn ngang tầm mắt ông.

Watanabe ngồi xuống ghế sofa nhìn ngó căn phòng. Các bức tường được trang trí bằng những bức tranh không ăn nhập với nhau: chim họa mi trên một cây mận, một bức minh họa truyện cổ tích, một con cú. Các cuộn giấy nhỏ và hẹp khổ, cao trên tường trông chúng ngắn ngủn đến kỳ khôi, như thể phần dưới cùng của chúng đã bị gấp lại để che giấu đi điều gì. Trên cánh cửa dán một tờ giấy khổ rộng in một bài kệ Phật giáo. Lãnh địa của nghệ thuật là như thế này đây, Watanabe nghĩ.

Trong một lúc lâu ông ngồi đó hút điều xì gà của mình và không làm gì khác ngoài tận hưởng cảm giác thoải mái của cơ thể. Rồi ông nghe tiếng người nói trên lối đi và cửa mở ra. Đó là nàng.

Nàng đội một cái mũ rơm rộng vành kiểu Anne-Marie đính nhiều hạt. Dưới cái áo choàng dài màu ghi của nàng ông nhìn thấy một chiếc áo bờ lu phin nõn thêu màu trắng. Váy của nàng cũng màu ghi. Nàng cầm trên tay một cái ô nhỏ có tua. Watanabe cố nở một nụ cười. Ném điều xì gà vào một cái gạt tàn, ông nhỏm người dậy khỏi ghế sofa.

Người đàn bà Đức gỡ mạng che mặt và liếc nhìn về phía người phục vụ đứng đằng sau, anh ta đã đi theo nàng vào phòng và giờ đây đang đứng cạnh cửa. Rồi nàng hướng đôi mắt sang Watanabe. Chúng thật rộng, đôi mắt màu nâu như quả mận. Chúng là đôi mắt trong quá khứ ông đã thường xuyên nhìn vào đến vậy. Thế nhưng ông không nhớ đã từng nhìn thấy những quầng thâm ấy hồi những ngày họ còn ở Berlin…

“Xin lỗi vì bắt anh phải đợi,” nàng nói nhanh bằng tiếng Đức.

Nàng chuyển cái ô sang tay trái rồi chìa những ngón tay đi găng của bàn tay trái ra, vẻ cứng nhắc không tự nhiên. Chắc hẳn là để cho người phục vụ thấy, Watanabe nghĩ, trong lúc ông lịch thiệp nắm lấy những ngón tay ấy.

“Khi nào chuẩn bị xong bữa tối thì báo cho tôi biết,” ông nói, liếc nhìn ra cửa. Người phục vụ cúi người và rời khỏi phòng.

“Gặp lại em anh mừng quá,” ông nói bằng tiếng Đức.

Người đàn bà dựng cái ô lên một cái ghế với dáng điệu hững hờ và ngồi xuống sofa, hơi có vẻ mệt mỏi. Đặt hai khuỷu tay lên mặt bàn, nàng lặng lẽ nhìn Watanabe. Ông nhấc một cái ghế đưa tới gần bàn rồi ngồi xuống đó.

“Ở đây yên tĩnh nhỉ,” nàng nói sau một lúc.

“Đang sửa chữa mà,” Watanabe đáp. “Khi anh đến đây họ làm việc ồn ã kinh khủng.”

“À, hóa ra là vậy. Quả thật nơi này tạo cho người ta cảm giác rất chống chếnh. Mà em thì cũng không phải là một người đặc biệt bình thản.”

“Em qua Nhật hồi nào?”

“Hôm kia. Và rồi hôm qua em tình cờ thấy anh ngoài phố.”

“Tại sao em đến?”

“À, em ở Vladivostok từ hồi cuối năm ngoái.”

“Anh cho rằng em đã hát ở chỗ khách sạn đằng kia, chẳng biết tên là gì nữa.”

“Vâng.”

“Rõ ràng em không đang một mình. Em đang cùng ai à?”

“Không, em không cùng ai cả. Nhưng em cũng không một mình… Em từng ở với một người đàn ông. Thật ra thì anh biết anh ấy đấy.” Nàng ngập ngừng giây lát. “Em ở với Kosinsky.”

“Ôi, cái tay Ba Lan ấy. Thế thì bây giờ em đã trở thành Kosinskaya rồi.”

“Đừng điên rồ thế chứ! Chỉ đơn giản là em hát và Kosinsky đệm đàn cho em thôi.”

“Chỉ vậy thôi à?”

“Ý anh muốn hỏi bọn em ở cùng nhau có ổn không à? Vâng, em không thể nói chuyện ấy chưa từng xảy ra.”

“Không đáng ngạc nhiên lắm đâu. Chắc anh ta đang ở Tokyo với em?”

“Vâng, bọn em ở Aikokusan Hotel.”

“Nhưng anh ta để em đi ra ngoài một mình.”

“Bạn thân mến ơi, em chỉ để cho anh ấy đệm đàn cho em để em hát thôi, anh cũng biết rồi mà.” Nàng dùng từ begleiten. Nếu anh ta đệm đàn piano cho nàng, Watanabe nghĩ, thì hẳn anh ta cũng cùng nàng theo những cách khác nữa.

“Em bảo anh ấy là em đã nhìn thấy anh ở Ginza,” nàng nói tiếp, “và anh ấy rất mong gặp anh đấy.”

“Cho phép anh khỏi phải nhận cái vinh hạnh đó.”

“Đừng lo. Anh ấy không bị thiếu tiền hay sao đó đâu.”

“Không, nhưng có thể anh ta sẽ như vậy nếu cứ ở đây lâu,” Watanabe mỉm cười nói. “Em dự định sẽ còn đi đâu tiếp sau đây nữa?”

“Em sẽ sang Mỹ. Mọi người đều bảo em rằng Nhật giờ vô phương rồi, thế nên em không định sẽ kiếm việc ở đây đâu.”

“Khá là đúng đấy. Mỹ là một nơi rất tốt để đến, sau Nga. Nhật vẫn còn lạc hậu quá… Vẫn còn đang sửa chữa, em thấy đấy.”

“Trời ạ! Nếu anh không chịu cẩn thận, sang Mỹ em sẽ nói là có một quý ông người Nhật công nhận đất nước của anh ta lạc hậu. Mà em sẽ nói đó là một công chức nhà nước Nhật Bản. Anh là công chức chính phủ phải không?”

“Đúng, anh làm cho chính phủ.”

“Và cư xử rất mẫu mực, đúng không?”

“Mẫu mực đến phát sợ! Anh đã trở thành một Fürst chính cống, em biết không. Tối nay là ngoại lệ duy nhất đấy.”

“Em thấy vinh hạnh quá!” Nàng chậm rãi cởi mấy cái cúc trên đôi găng tay dài, tháo chúng ra, rồi chìa bàn tay phải cho Watanabe. Đó là một bàn tay đẹp, trắng muốt đến chói mắt. Ông nắm chặt lấy nó, sửng sốt vì thấy nó quá lạnh. Vẫn để yên bàn tay trong bàn tay Watanabe, nàng nhìn chăm chăm vào ông. Đôi mắt lớn màu nâu của ông với những đám quầng đen trông như thể còn lớn gấp đôi so với trước kia.

“Anh có muốn em hôn anh không?” nàng hỏi.

Khuôn mặt Watanabe đầy vẻ cảnh giác. “Chúng ta đang ở Nhật,” ông nói.

Không hề báo trước, cánh cửa mở ra và người phục vụ xuất hiện. “Bữa tối đã sẵn sàng, thưa ngài.”

“Chúng ta đang ở Nhật,” Watanabe nhắc lại. Ông đứng dậy, dẫn người đàn bà vào phòng ăn nhỏ. Người phục vụ đột nhiên bật những bóng đèn sáng chói trên đầu.

Người đàn bà ngồi xuống đối diện với Watanabe và liếc nhìn quanh phòng. “Họ cho chúng ta một chambre séparée,” nàng nói, cười phá lên. “Thật là kích thích quá!” Nàng thẳng lưng lên, nhìn thẳng vào Watanabe như thể muốn chờ xem ông sẽ phản ứng thế nào.

“Anh chắc chủ yếu là vì gặp may thôi,” ông bình thản nói.

Ba người phục vụ lúc nào cũng ở đó để phục vụ hai người. Một người rót rượu anh đào, một người mang những lát dưa ra, người còn lại rối rít tít mù mà gần như chẳng được tích sự gì.

“Có mấy người phục vụ chỗ này sống động hẳn lên nhỉ,” Watanabe nói.

“Phải, và trông bọn họ có vẻ hết sức vụng về,” nàng đáp, hai cánh tay chụm lại vuông góc, nàng bắt đầu ăn dưa. “Cũng tệ y như ở khách sạn của em.”

“Anh cầu mong sao em và Kosinsky bị bọn họ đi thẳng vào phòng. Luôn luôn vào mà không gõ cửa…”

“Anh sai về mọi chuyện hết cả rồi. À, mà dưa ngon đấy.”

“Ở bên Mỹ em sẽ có hàng đống thứ để ăn hằng sáng, mỗi khi em thức dậy.”

Cuộc trò chuyện nhẹ nhàng trôi đi. Cuối cùng những người phục vụ mang xa lát hoa quả lên và rót sâm banh.

“Anh có ghen không - dẫu chỉ là một chút thôi?” người đàn bà hỏi đột ngột. Toàn bộ thời gian ngày trước họ ăn uống và chuyện gẫu với nhau. Nàng nhớ họ từng thích ngồi đối diện với nhau như thế này sau khi đi xem phim, tại cái quán nhỏ phía trên Blühr Steps. Thỉnh thoảng họ cãi nhau, nhưng rồi luôn luôn làm lành. Nàng rất muốn câu nói nghe như thể nàng đang đùa; nhưng mặc cho nàng muốn thế, giọng nàng vẫn rất nghiêm túc và nàng cảm thấy thật ngượng ngùng.

Watanabe nâng ly rượu sâm banh của mình lên cao hơn những bông hoa và nói, giọng rất rành mạch: “Kosinsky soll leben!

Người đàn bà im lặng nâng ly của mình lên. Trên mặt nàng hiện ra một nụ cười băng giá. Dưới bàn, tay nàng run lên không sao kiểm soát nổi.

*
*       *

Mới tám giờ rưỡi một chiếc ô tô đơn độc màu đen đã chậm rãi chạy dọc theo khu Ginza xuyên qua một đại dương những ngọn đèn lấp lóa. Trên băng ghế sau là một người đàn bà, khuôn mặt lấp sau tấm mạng.

3 comments:

  1. "nhà được phân bổ" là nhà gì?
    "Các cuộn giấy nhỏ và hẹp khổ, cao trên tường trông chúng ngắn ngủn đến kỳ khôi" là sao?
    "Chúng là đôi mắt trong quá khứ ông đã thường xuyên nhìn vào đến vậy" " "đến vậy" hơi kỳ!
    ""Toàn bộ " thời gian ngày trước họ ăn uống và chuyện gẫu với nhau." là sao?
    "soll leben" nghĩa tiếng Việt là gì?

    ReplyDelete
  2. "(Kosinski) soll leben" đai khái là "(anh) phải sống!". Chữ viết nghiêng có nghĩa là trong nguyên tác dùng chữ nước ngoài (tiếng Đức), khi dịch cũng phải để nguyên văn (không được dịch). (lv)

    ReplyDelete
  3. trinité của văn chương hiện đại Nhật có phải là Soseki-Akutagawa-Ogai không NL?

    ReplyDelete