Oct 28, 2019

Những đường (đi) và những gặp

Hugo von Hofmannsthal - mà Hermann Broch từng dành cho một tiểu luận rất lớn, về thơ nhưng cũng về thời đại ấy và về thành phố Wien - trở lại: Thư của Lord Chandos trong đường link cũng sẽ (rất) sớm được hoàn thành (sous peu, sous peu).

Dẫu mọi sự trông có thể lạ đến đâu, Lord Chandos, nhân vật của Hofmannsthal (nói đúng hơn, con người có thật, cùng thời với Francis Bacon, mà Hofmannsthal để cho cất tiếng nói, hay còn đúng hơn, để cho viết thư) lại chính là một tổ tiên xa xôi của một nhân vật rất bất ngờ: Jane Austen (tổ tiên về đằng mẹ).


[text dưới đây cũng lấy từ quyển sách trong đường link phía trên]




Những con đường và những cuộc gặp

- Hugo von Hofmannsthal


Cả một tuyệt diệu, sự bay của lũ chim trong những ngày đang rạng ngời, và tôi hiểu rất rõ mình từng có thể, trước kia, chép những dòng sau đây: “Tôi còn nhớ những lời của Agur, con trai Jaké, cùng những điều mà ông tuyên bố là không thể hiểu nổi nhất và tuyệt diệu nhất: đường vạch chim trời bay và dấu vạch của người đàn ông vào cô gái trinh”. Các từ ấy được viết bằng bút chì, bên lề trang một quyển sách Hướng dẫn; cách đây ba hôm tôi tìm thấy chúng ở đó, trong lúc tìm đường xe chạy để đi từ Urbino qua núi tới Assise hoặc hồ Trasimène. Chúng là do chữ tôi, có chút run tay, như là được viết lúc ngồi xe hoặc đi tàu hỏa; nhưng tôi không sao nhớ nổi đã chép chúng từ đâu. Có khả năng từ một cuốn sách Pháp cổ. Phải chăng tôi từng đọc, trước đây, tại Ombrie, những cuốn sách nước ngoài, hiếm? Làm sao tôi biết. Agur là ai? ai là người nhớ đến ông ta? Thế nhưng chính tôi đã viết cái đó, để rồi hôm nay chỉ những dòng kia còn lại, mọi thứ khác đều đã bị xóa đi. Đâu đó trong tôi Agur kia đang ngụ, cùng những gì tôi đã sống qua trước khi được ba tuổi, mà ký ức hữu thức của tôi từng chẳng bao giờ biết gì, với các bí ẩn những giấc mơ tối tăm nhất của tôi, với những gì tôi đã nghĩ ở sau lưng của chính tôi; và có lẽ rồi một ngày đẹp trời ông ta sẽ hiện ra, giống một người chết từ hầm mộ bước lên, hay một kẻ sát nhân nâng cánh cửa sập. Sự trở lại của ông ta sẽ là một điều lạ thường, nhưng xét cho cùng cũng đâu lạ hơn sự trở lại của con chim én trẻ trung đã tới đây chiều hôm kia, xuyên qua không trung, như một tia chớp đen lao mình, nhờ cánh cửa đang hé mở, vào cái tổ cũ. Một phút sau tia chớp thứ hai từ thiên đỉnh ào xuống cũng theo đuôi tia chớp thứ nhất: cô em nhỏ, giờ đã thành vợ, vì hai con chim vốn dĩ là anh trai em gái, hồi hè năm ngoái đã nở trong tổ kia, sau cửa nhà chúng tôi. Làm sao chúng tìm được đường, để mà rơi xuống đây, chẳng chút ngần ngừ, từ sự mênh mông của bầu trời? Bằng cách nào chúng nhận ra được vùng đất này giữa mọi vùng đất, cái thung này giữa các thung lũng, ngôi nhà này giữa những ngôi nhà? Và bên trong tôi đâu là chốn trú ngụ của Agur, người ngưỡng mộ phép mầu ấy giữa tất tật những phép mầu và thấy rằng không gì bí ẩn hơn đường vạch của con chim bay trên trời?

Đi đường, tìm, gặp - chắc chắn, cách nào đó, đều là những bí ẩn của Eros. Chắc chắn rằng trên đường của chúng ta, với cả nghìn lối rẽ, không chỉ các thể động của chúng ta buộc chúng ta bước đi, mà chúng ta còn luôn luôn tuân theo sức hút của một bí ẩn dường đang đợi sẵn. Cái gì đó giống nỗi hiếu kỳ của tình yêu hút chúng ta, ngay cả vào những lúc chúng ta tìm sự cô đơn của rừng, nỗi im lặng của các núi cao hay một bãi hoang vu bên bờ của nó diềm bạc của biển vừa ào vào vừa nín giọng thì thầm. Mọi cuộc gặp trong cô độc đều êm ái, tính cho đến cả cuộc gặp với một cây lớn đơn lẻ hay một con thú rừng dừng chân trong bóng tối lờ mờ mà nhìn chúng ta, câm lặng. Tôi thấy như thể không phải vòng ôm ghì siết mà cuộc gặp mới là cử chỉ quyết định của tình yêu. Đó là khoảnh khắc các giác quan và tâm hồn nhập một, khi mọi thứ đều là khả dĩ, lúc toàn bộ con người được xúc động, sẵn sàng tan vào nhau. Đó là cuộc đi tìm còn chưa trộn vào với ham muốn, một hỗn hợp ngây thơ của tin tưởng và sự rụt rè, của sự không ý thức thú vật, của sự thuần khiết thiên thần, của tính cách thần thánh. Một câu chào có thể chứa đựng đến vô tận những điều. Dante ghi niên đại cho Vita nuova của mình bằng một lời chào hướng đến ông. Tuyệt diệu thay, tiếng kêu của con chim lớn, vươn lên, vào lúc rạng ngày, từ ngọn cây thông cao nhất, mà con chim cái lắng nghe, chẳng biết từ đâu nữa. Tiếng gọi ấy, vốn dĩ không biết nó đi đâu, tràn đầy ham muốn và dục vọng, cái tiếng kêu của con đực xa lạ về phía con cái xa lạ ấy, gây ấn tượng mạnh mẽ. Cuộc gặp hứa hẹn nhiều hơn mức sự ôm ghì siết có thể trao. Dường như nó thuộc về một trật tự vật cao hơn, cái trật tự khiến dịch chuyển các ngôi sao và làm dồi dào những suy nghĩ. Nhưng với một trí tưởng tượng gan dạ và ngây thơ, vừa trong trắng vừa vô sỉ, cuộc gặp đã là sự vượt trước của cái ôm. Bằng cách đó mà những cặp mắt đám mục đồng chăm chăm vào Nữ thần đột nhiên hiện ra trước họ, và ánh mắt của Nữ thần làm bùng cháy ánh mắt kẻ mục đồng.

Còn Agur? Dẫu đó từng là một ông vua hay một cheik vĩ đại của sa mạc, một lái buôn thiện xảo và xa hoa hay một thủy thủ danh tiếng, thì ông cũng đúng khi, ở buổi chiều của cuộc đời, ngồi trong bóng sự thông thái cùng kinh nghiệm của mình, ông tập hợp lại trong những lời lẽ của ông hai phép mầu ấy: bí ẩn sự bay của con chim và bí ẩn của ghì siết. Nhưng Agur là ai, cái người sống bên trong tôi với những lời sống động ấy? Có thực sự là tôi không thể tìm lại được khuôn mặt ông? Ông nói với tư cách người đàn ông kinh nghiệm, có một kinh nghiệm phong phú và đa dạng, nhưng giọng thì lại chẳng hề hợm hĩnh. Ông không rao giảng, chỉ đó đây ông thả rơi một lời giàu nghĩa vào cái tai chăm chú đang nghe ông. Tôi hình dung ông giống Booz mang bộ râu trắng, vận đồ lanh mỏng và để cho đám người nghèo mót trộm lúa trên các cánh đồng của ông. Nhưng chẳng phải tôi từng ít nhất một lần trông thấy mặt ông? Tôi đã thấy nó, nhưng trong mơ, và cái người mà tôi nom được khuôn mặt khi ấy không có tên. Ngày hôm nay tôi cảm thấy đó là Agur và những lời mà chính chữ viết của tôi đã lưu giữ, từng rơi ra từ miệng cái con người mà một giấc mơ đã chỉ cho tôi, bậc trưởng thượng trong số các trưởng thượng, vua của một tộc người du mục, hùng mạnh và không được đặt tên.

Sau đây là giấc mơ đó. Tôi đang nằm, mệt mỏi sau khi đã bước đi thật lâu trong núi. Mùa hè đang dần hết. Giữa đêm, một luồng gió mạnh giật tung cánh cửa dẫn ra ban công và cái hồ khởi sự gầm gào đập mình vào các cột chống. Trong cơn mơ màng, tôi tự nhủ: “Bão mùa thu đấy”. Và nửa tỉnh nửa ngủ, tôi cảm thấy hạnh phúc không sao tả xiết trong thế giới rộng lớn, giữa khi cơn bão ồn ào quét qua những núi, thung và hồ mơ hồ sáng. Tôi cảm thấy mình chìm nghỉm vào một đợt sóng mềm oặt và tối tăm, và ngay tức khắc tôi ở chính giữa giấc mơ, cùng lúc ở bên ngoài và trên cao, giữa cơn bão, trong một màn đêm uể oải, bất định, trên triền rộng của một quả núi rất to. Nhưng đó còn hơn là một triền núi, đó là một phong cảnh mênh mông, đó - tôi không thể thấy nó, nhưng vẫn biết - là rìa xếp tầng của một cao nguyên khổng lồ, tại châu Á. Quanh tôi, chế ngự cơn bão, là các chuẩn bị cho một cuộc di dân to lớn chất sự ồn ã náo động lên khung cảnh đêm với những luồng sáng chập chờn. Tôi ở chính giữa cả một dân tộc đang chộn rộn, trong sự tối tăm, thu dọn lều trại và chất của cải lên lưng lũ súc vật. Ngay gần tôi các nhóm người im lìm chất đồ lên lưng lạc đà và các loài thú khác; trời rất tối. Cả tôi, tôi cũng bắt tay dỡ một túp lều vẫn còn dựng đó. Tôi chỉ một mình, tôi nhổ khỏi mặt đất đống cọc và tôi nhận được rõ, trong ánh sáng nhợt nhạt, tác phẩm tuyệt đẹp trang trí cho gờ bên trong của lều: một bức tranh vẽ đặc biệt khéo làm từ các dải da màu nâu sẫm, trên nền da sáng màu, màu tự nhiên. Không ngừng tôi tri nhận nỗi náo động sượng đục của cuộc khởi hành chẳng thể tính đếm, tôi cảm thấy tất tật tuân lời một hiệu lệnh mà chẳng ai có thể chống đối. Và tôi cũng biết rằng túp lều tôi đang dỡ đây là một phần lều của người ấy, cái lều của người đã ban hiệu lệnh di cư và từ đó mà tỏa ra mọi mệnh lệnh. Và cứ như thể có điều gì đó buộc tôi phải làm vậy, tôi leo lên một chồng chăn bằng da la xếp lên nhau, tôi mở hé vách và nhìn vào lều chính. Nó tối hơn lều tôi đang ở, thoạt tiên tôi không thấy gì, nhưng dần dà tôi thấy được mọi thứ, hết sức rõ ràng. Không có đồ đạc lẫn các trang trí, chỉ toàn những vách sẫm tối. Một phía, trên một tấm chăn lớn đỏ sẫm hoặc tía, đang nằm một phụ nữ trẻ tuổi tóc nâu da tái, đẹp không sao nói nổi. Từ vòng tay nàng bước ra một người đàn ông cao, gầy, nhỏm dậy và đi qua ngay sát tôi, dưới mắt tôi, để đi sang phía đối diện của cái lều trống rỗng. Người phụ nữ trẻ - không mang gì trên người ngoài những vòng tay lớn - không nói gì, chỉ vươn hai tay về phía ông ta, như để gọi ông ta lại; nhưng ông ta không hề ngoái đầu. Tôi chỉ thoáng trông thấy khuôn mặt người đàn ông, nhưng tôi biết ông ta già, già và mạnh mẽ, với một bộ râu tung bay chia đôi ở chính giữa, và trên đầu là một turban màu đất. Nhưng thân hình rất thanh mảnh của ông ta, để trần xuống đến tận thắt lưng, và hai cánh tay dài, thon giống như thuộc về một chàng thanh niên dẻo dai và gan dạ. Ông ta quấn quanh hông một tạp dề dài màu vàng tuyệt diệu. Hẳn tôi sẽ nhận ra cái màu ấy bất cứ nơi đâu và khi nào nhìn thấy lại nó. Đó là một màu vàng còn tuyệt sắc hơn màu vàng các viên gạch Ba Tư cũ kỹ, chói sáng hơn màu của hoa tuy líp vàng. Tới chỗ vách lều, đối diện tôi, nơi ông ta đang đứng và là chỗ tối hơn cả, người đàn ông kéo mạnh một tấm màn, bằng cách ấy mở một cửa sổ lớn. Gió ập vào và ném xõa trên hai vai màu nâu gầy guộc, bộ râu trắng chia làm đôi. Người phụ nữ trẻ xinh đẹp vẻ cầu xin nhỏm người lên và dường đang âu yếm gọi tên ông ta, nhưng giọng của nàng không tới được chỗ tôi. Tôi chỉ nhìn thấy ông ta, và qua cửa sổ mà ông ta đã mở, sự sáng sủa mơ hồ của đêm trên phong cảnh mênh mông các ngọn núi cùng sự khởi hành câm lặng của cả một dân tộc. Chỉ cần ông ta xuất hiện trong khung vuông cửa sổ lều của mình, cái lều chế ngự mọi lều khác, sự náo động bên ngoài liền trở thành nỗi náo động ồn ào mọi rợ, bản thân những đám mây cũng như thể vội vã lên bên trên các ngọn núi, dưới làn ánh trăng bệnh.

Người đàn ông đó, và chẳng ai khác nữa, là Agur.




Hugo von Hofmannsthal: Thư của Lord Chandos

4 comments:

  1. "Quelque chose arrive, là, qui est de l’ordre du miracle, une intensité d’existence, une rencontre fusionnelle." (A. B.)

    ReplyDelete
  2. ngợi ca là dục vọng cũng như dục vọng là ngợi ca. hydro tinh khiết.

    ReplyDelete
  3. ở cuối cùng của mọi thể động thuộc dục vọng đi cho hết được con đường của nó, thế nào cũng có ideal

    ReplyDelete
  4. một Hofmannsthal khác, một eros khác: tiếng gọi mơ hồ nhưng không thể cưỡng từ sâu thẳm, từ khao khát ấy, thế giới sinh ra

    "Tinh thần tính của thế kỷ mười chín, toàn thể tinh thần tính tổng hợp kỳ vĩ ấy, ở đây, được nén thành chất sống như một thứ hơi chói sáng thấm qua từng thớ vải. Những khi nào thứ hơi này kết tinh, trong và mạnh như ở Louis Lambert, ở La Recherche de l’absolu, ở Le Chef-d’oeuvre inconnu, thì bừng lên một luồng những suy nghĩ, dự cảm, cách ngôn mà chỉ Fragments của Novalis mới so sánh được. [...] Trên tất cả là ý niệm tình yêu của Balzac. Tình yêu: tạo tác độc nhất, vô ngần. Mọi khao khát đều đồng thời là phương tiện cho hợp nhất thần bí giữa tinh thần và nhục cảm ấy. [...] Trong công trình đồ sộ này [La Comédie humaine], tình yêu không chiếm nhiều chỗ, nhưng sưởi ấm và chiếu sáng công trình ấy chính là [sự thần bí] tình yêu - nếu không có nó, tôi chẳng thể nào tưởng tượng được trọng lượng ghê gớm này, thế giới con người tăm tối này là gì ngoài khủng khiếp."

    ReplyDelete