Đây là bài phỏng vấn số chín trong tổng số mười bài tôi định dịch trong loạt phỏng vấn các lý thuyết gia của Vincent Kaufmann. Cho đến lúc này tôi mới có thể quay trở lại xem các bản dịch trước đây. Trong quá trình đăng những bài phỏng vấn này, Vi Văn Tuyên trên Tiền Vệ chỉ ra nhiều chỗ sai trong các bản dịch của tôi. Tôi sẽ lần lượt xem lại từng chỗ trong mỗi bài và bình luận từng chỗ. Đường link các bài sửa tôi để ở cuối post này.
J. Hillis Miller. Sinh năm 1928, giáo sư văn học Anh tại Đại học Johns Hopkins (1952-1972), tại Đại học Yale (1972-1986), rồi tại Đại học California, Irvine; tác phẩm chính: Thomas Hardy: Distance and Desire, 1970, Fiction and Repetition: Seven English Novels, 1982, The Linguistic Moment: From Wordsworth to Stevens, 1985, The Ethics of Reading: Kant, de Man, Eliot, Trollope, James, and Benjamin, 1987, Theory Now and Then, 1991, Speech Acts in Literature, 2001.
Ta hãy bắt đầu bằng Phê bình Mới, với ông từng rất quan trọng, chính là cái thống trị những năm tháng ông còn đi học. Liệu có thể nói rằng nó đã được thiết lập thành định chế ở mọi trường đại học quan trọng tại Mỹ vào thời điểm ông khởi đầu sự nghiệp học thuật của mình?
Đúng, điều đó có nghĩa mọi sinh viên tốt nghiệp đại học đều đã đọc [Cleanth] Brooks, [René] Wellek và [Austin] Warren. Khoa Anh ngữ tại Yale được coi là nhất nước vì Phê bình Mới đã được hình thành từ đây.
Vậy thì Phê bình Mới ở Mỹ chưa từng đóng cùng cái vai trò mà cấu trúc luận đã có thể đóng tại Pháp. Nó chưa từng bao giờ được coi như là tiền phong chủ nghĩa hay có tính chất lật đổ phải không?
Có hai câu trả lời cho câu hỏi này. Một mặt, Phê bình Mới có vẻ phi chính trị, nhưng đấy chỉ là vẻ ngoài thôi. Những người lập ra nó xuất thân từ miền Nam, họ là người Thiên chúa giáo, không những thế còn là người theo phái Giám lý, tức là dòng Tin lành tương đối bảo thủ gắn chặt với các hình thức cụ thể của thơ ca. Phê bình Mới tự muốn mình phi chính trị, nhưng ở bình diện tri thức nó lại truyền đạt một loạt giá trị khá là bảo thủ. Lý tưởng của nó là thơ ca siêu hình, tất tật được viết bởi các nhà thơ Thiên chúa giáo, cùng với đó còn là những khái niệm như tính thống nhất hữu cơ của bài thơ và, bởi vậy, cả một di sản của chủ nghĩa lãng mạn.
Mặt khác, nó đã đóng một vai trò quan trọng sau Thế chiến thứ hai, với nước Mỹ đó là thời điểm quan trọng để dân chủ hóa Đại học, mà chủ yếu người ta phải mở để phục vụ các cựu chiến binh. Nhiều trường đại học đã phát triển rất mau chóng, đón nhận nhiều thanh niên thuộc tầng lớp trung lưu dưới, những người về cơ bản chưa từng được hưởng giáo dục và mù tịt về truyền thống văn chương. Phê bình Mới đã tự áp đặt vào đúng lúc ấy, không phải vì các lý do chính trị, mà bởi nó đặt tiền giả định rằng nghiên cứu văn học không cần đến một hiểu biết đặc thù nào. Điều duy nhất cần có là một quyển từ điển để biết nghĩa các từ.
Điều này không phải là không có điểm tương đồng với trào lưu cấu trúc luận tại Pháp, cũng xuất hiện chính vào thời điểm phát triển mạnh mẽ của các trường đại học dành cho giới bình dân…
Có thể, nhưng cấu trúc luận là một phương pháp dễ làm chủ và khả dụng trong đủ mọi lĩnh vực. Vậy nên nó có cái gì đó mang tính chất phổ quát. Phê bình Mới thì chưa bao giờ như thế, nó chỉ quanh quẩn bên trong ngành nghiên cứu văn học.
Hồi những năm 1960 ông đã giảng dạy ở Đại học Johns Hopkins, đúng lúc trường là một trong những điểm tiếp xúc chính giữa nghiên cứu văn học anglo-saxon và phê bình mới của Pháp, rồi French Theory [lý thuyết Pháp], nhất là với cuộc hội thảo lừng danh năm 1967 mà cả [Jacques] Lacan và [Jacques] Derrida đều tham gia. Với ông, rất nhanh chóng, chủ yếu là tác phẩm của Derrida sẽ trở nên rất quan trọng. Tại sao? Ông ấy mang lại điều gì mới mẻ?
Vấn đề mà Derrida cho phép tôi giải quyết là như sau: với tôi, có tồn tại những tác phẩm văn chương rất quan trọng, nhưng chúng không thuộc về tính thống nhất hữu cơ nào. Derrida đã cho phép tôi đoạn tuyệt hoàn toàn với Phê bình Mới, ông ấy đã cho tôi các phương tiện để phân tích những tác phẩm hẳn nhiên là rất không đồng nhất, mâu thuẫn.
Có phải mối quan tâm của ông đối với Derrida trước hết mang tính chất tri thức? Có những nguyên do chính trị nào khiến ông quan tâm đến ông ấy không?
Đó là một mối quan tâm trước hết mang tính chất tri thức. Mãi sau này tôi mới bắt đầu suy nghĩ tới những hàm ý chính trị trong diễn ngôn và chỗ đứng của ông ấy, đến việc ông ấy không thuộc đảng Cộng sản, rằng ông ấy đã cãi nhau với Philippe Sollers v.v… Tôi có biết, nhưng thời ấy những chuyện đó với tôi không mấy quan trọng. Cũng tương tự với Paul de Man, người từng là đồng nghiệp của tôi ở Hopkins rồi Yale, với ông ấy tôi đã có thể hệ thống hóa toàn bộ vấn đề, một vấn đề trọng yếu đối với tôi, về tính chất bất khả quyết định [indécidabilité] của các văn bản. Tất nhiên, lúc đó tôi chưa hề biết những gì Paul de Man từng viết hồi chiến tranh. Nếu là bây giờ, hẳn tôi sẽ nhạy cảm hơn nhiều đối với những hàm ý chính trị trong diễn ngôn của họ và hẳn tôi sẽ quan tâm hơn, chẳng hạn vậy, tới các liên hệ giữa Derrida và Sartre, bởi Derrida bắt đầu dạy tại Trường Sư phạm Ulm đúng lúc ảnh hưởng chính trị của Sartre đang mạnh mẽ nhất. Hẳn Derrida đã bị Sartre ảnh hưởng theo một cách thức rất phức tạp. Mãi sau này tôi mới bắt đầu suy nghĩ đến kiểu các vấn đề ấy, khi những cuộc tấn công vào Derrida lớn mạnh ở Mỹ, hoặc người ta chê trách ông ấy đã phi chính trị, hoặc chê trách ông ấy đã đứng về phe những người bảo thủ.
Về mặt chính trị thì ông biện minh hay bảo vệ cho Derrida như thế nào, trong bối cảnh nước Mỹ?
Có rất nhiều điều học được khi đọc Derrida, đặc biệt từ các văn bản sau này của ông. Những gì độc giả trẻ tuổi tự định vị mình vào trong một trào lưu khuynh tả có thể học được ở ông, đó là để nhận lấy những vị thế chính trị có thể gây hiệu ứng, bạn phải tự đặt cho mình câu hỏi về trách nhiệm. Các sinh viên Mỹ từng tham gia những phong trào nổi loạn rõ ràng là sẵn sàng nhận lấy một trách nhiệm về những hiệu ứng của các cuộc chiếm đóng trường đại học hoặc các cuộc biểu tình đông người. Hiện nay, tôi lại mong sinh viên xuống đường, làm một cái gì đó, tôi mong có vài vụ lộn xộn. Derrida rất nghiêm túc với vấn đề các hàm ý chính trị của những gì ông làm. Đó là một trong các lý do khiến ông ấy chờ đợi lâu đến vậy mới viết về Marx.
Ông giải thích thế nào về sự thành công gây choáng váng của giải cấu trúc trong giới học thuật Mỹ?
Thành công của giải cấu trúc gắn liền với bối cảnh Phê bình Mới, cái đã chuẩn bị sẵn địa bàn cho nó. Ở trung tâm của giải cấu trúc cũng có phân tích ngôn từ. Do vậy nó có một sự hữu dụng rất nhiều tính chất thực hành, nó đã củng cố cho phân tích văn bản trong khuôn khổ của nghiên cứu văn học. Bởi chính đó là cái nằm ở trung tâm sự thực hành của Derrida: một phiên bản rất đặc thù của giải thích văn bản kiểu Pháp, cũng có thể áp dụng vào các văn bản triết học, cái cho phép xem xét một văn bản và khám phá ở đó những điều chưa từng có ai nhìn thấy. Tôi tin đó là lý do chính: đã có sẵn một bối cảnh cho phép đón nhận phương pháp của Derrida. Có lẽ còn có thêm một lý do nữa: chúng tôi là một đất nước trẻ, chúng tôi ít chắc chắn về thẩm quyền của mình và do đó luôn luôn sẵn sàng nhập khẩu các phương pháp và tư tưởng từ nơi khác, và đặc biệt hơn là từ Pháp, ngay cả khi chúng tôi làm việc đó với rất nhiều lo lắng.
Ngày nay vẫn luôn luôn có chỗ cho giải cấu trúc trong giới học thuật Mỹ chứ?
Ngày càng ít đi, vì đủ mọi lý do. Lý do đầu tiên là Derrida cùng những người theo ông đều rất khó đọc. Suy nghĩ về văn chương bằng những khái niệm ấy đòi hỏi nhiều nỗ lực. Lý do hiển nhiên thứ hai là sự thăng tiến mạnh mẽ của cultural studies [nghiên cứu văn hóa], cái thường đặt tiền giả định rằng giải cấu trúc về mặt chính trị là cái gì đó bảo thủ, ngay cả khi một người như Judith Butler chịu ảnh hưởng rất mạnh mẽ từ Derrida. Nhiều nhà phê bình thuộc trào lưu cultural studies cũng tương tự, điều đó không ngăn cản họ nói với sinh viên của mình đừng đọc những gì xuất phát từ giải cấu trúc. Nhưng lý do chính hẳn là sự thoái lưu chung của tầm quan trọng của văn chương trong nền văn hóa chúng tôi. Giờ đây tại các khoa văn học chúng tôi có thế hệ đầu tiên các trợ lý giáo sư được giáo dục trong một môi trường cấu thành nên từ phim, video, trò chơi điện tử và các loại phương tiện truyền thông mới. Dù cho họ có nói gì về mối quan tâm dành cho văn chương của mình và dù cho có thể mong muốn điều gì, chúng tôi cũng biết rằng họ không được cấu trúc nên từ việc đọc Shakespeare. Tôi hoàn toàn không chống lại tiến trình này, nhưng nó cũng có nghĩa văn chương nhanh chóng mất đi tầm quan trọng của mình. Biểu tượng cho tình thế ấy là một đồng nghiệp trẻ được tuyển vào làm ở Irvine cách đây vài năm với tư cách chuyên gia về Flaubert, cô ấy tin Flaubert là một người đàn ông da trắng đã chết và bảo sinh viên của mình đừng đọc Flaubert nữa, rằng làm thế là xấu. Cô ấy quan tâm đến trang phục, mốt và bắt tay nghiên cứu các tạp chí mốt dành cho phụ nữ da đen (cô ấy thì không da đen). Tôi tôn trọng vị thế của cô ấy, nhưng đó là một ví dụ huy hoàng cho sự sụp đổ của nền văn hóa văn chương mà tôi quan sát thấy, mà cũng là như vậy khi tôi giảng bài ở Trung Quốc hay những nơi khác, về các tác giả như Henry James. Sớm hay muộn thì cũng sẽ rõ ràng rằng với họ điều quan trọng hơn cả là các chuyển thể tác phẩm của James thành phim ảnh. Tôi nghĩ điều này là không thể đảo ngược, ít nhất là vào lúc này. Như vậy lý thuyết văn học đóng một vai trò ngày càng bớt phần quan trọng vì càng ngày càng có ít người đọc và dạy văn chương.
Như vậy hẳn ông có thể theo giả thuyết của [Michel] Foucault, người nói rằng lý thuyết văn học chính là tiếng hát thiên nga của một nền văn hóa thực sự có tính chất văn chương?
Đó là một giả thuyết mà tôi thấy là khả dĩ, ngay cả khi tôi nghĩ văn chương còn sống sót được một thời gian nữa, sẽ vẫn có người quan tâm đến nó. Nhưng Foucault có lý, nó không còn là cái lực tự nhiên và ở vào vị trí trung tâm của nền văn hóa nữa. Không phải vì lý thuyết đã giết chết nó. Mà lý thuyết, sự suy tư về bản chất của nó, về việc nó vận hành như thế nào, mọi thứ ấy quả thực đã xuất hiện vào lúc nó mất đi quyền lực của mình. Với những người thời Victoria, tiểu thuyết có tính chất trung tâm và xác quyết đối với hành xử của họ cũng như điện ảnh và các phương tiện truyền thông khác ngày nay. Bởi vậy, không cần phải nghĩ đến nó, tiểu thuyết là một thứ rất hiển nhiên. Chỉ khi tiểu thuyết gây ra vấn đề thì mới cần suy nghĩ về nó, không chỉ trong khuôn khổ lý thuyết văn học, mà cả trong bản thân khuôn khổ thực hành văn chương nữa. Thomas Pynchon hay E. L. Doctorow hẳn đã không viết những gì họ từng viết nếu với họ kịch, tiểu thuyết hay vị thế tác giả là những điều hiển nhiên. Cũng vậy, có thể Aristote đã viết Nghệ thuật thi ca của mình, chủ yếu hướng tới bi kịch Hy Lạp, vào đúng lúc bi kịch biến mất - ít nhất thì ngày nay cũng có một số người khẳng định điều đó.
---------------------
Nguyên tắc tiến hành của tôi như sau: bản dịch đầu tiên tôi vẫn để, ở dưới cùng, bản sửa tôi để ngay trên đó. Những bản dịch có phê phán của Vi Văn Tuyên, tôi copy từng bình luận rồi nêu ý kiến của tôi luôn, cả phần này sẽ ở trên cùng.
Những chỗ trong dấu [] in đậm là tôi mới thêm vào. Nếu phần trong [] không có gì đi kèm thì là tôi mới thêm vào, nếu phần trong [] đi ngay sau ngữ đoạn trong // thì tức là phần trong [] tôi muốn thay thế cho phần trong //, những chỗ tôi gạch bỏ sẽ có dấu gạch (đơn) nằm ngang qua những chữ muốn gạch.
Bài Vincent Kaufmann phỏng vấn Todorov
Bài Vincent Kaufmann phỏng vấn Genette
Bài Vincent Kaufmann phỏng vấn Culler
Bài Vincent Kaufmann phỏng vấn Stierle
Bài Vincent Kaufmann phỏng vấn Lotringer
Bài Vincent Kaufmann phỏng vấn Roudinesco
Bài Vincent Kaufmann phỏng vấn Pierssens
Tôi đang đọc bài Vi Văn Tuyên chỉ trích CVD trên Tiền vệ, để đọc lại kỹ kỹ rồi sẽ cho ý kiến. Cái ông Vi Văn Tuyên ấy thật là nực cười, không biết tiếng Pháp của ông ấy giỏi đến đâu, ý kiến với chả ý cò nghe chán quá. Thôi thì cũng được cái là ông ấy chịu khó đọc bản dịch của CVD, lại có "phản hồi" nữa!
ReplyDeleteTôi xin nói ngay là CVD dịch ổn, có vài chỗ sai nhỏ nhưng không đáng kể, ví dụ chữ visibilité tôi nghĩ là CVD dịch "tính khả thị" (có dấu nặng), mà đánh máy nhầm thành "khả thi". Còn những chỗ sửa của ông Vi Văn Tuyên nghe lại còn tệ hơn nữa.
Còn những bài lý thuyết ấy bản thân nó đã khó đọc, khó hiểu rồi, ông VVT lại muốn CVD biến nó thành dễ hiểu thì là bắt ông ấy làm quá cái công việc dịch thuật của ông ấy.
Chớ có chê CVD dở tiếng Pháp, hihi, nhầm to đấy !
Lan Huong
Vài nhận xét sơ bộ của tôi :
ReplyDeleteBài phê bình của ông Vi Văn Tuyên giọng điệu chớt nhả, hằn học, thóa mạ, thật đáng tiếc cho một người đã bỏ bao công lao học hành (thì mới giỏi giang được như ông ấy tự nhận).
Về việc dịch thuật thì có nhiều quan niệm khác nhau, có người ưa dịch thoát, có người dịch sát. Cá nhân tôi thích dịch sát như kiểu CVD, nhất là đối với những đề tài mang tính lý thuyêt cao, vì cách dịch ấy mới chuyển tải chính xác được điều quan trọng nhất.
Cách dịch kiểu ông Vi Văn Tuyên ưa thích trái ngược với cách của CVD (nên chắc vì vậy mà ông ấy mới tức tối đến thế), đó là kiểu dịch đại khái, nghe êm tai, lại thêm vào những cách hiểu riêng của mình (và làm cho người đọc tưởng đấy là văn bản gốc nói). Cách ấy kém chính xác, và thường là thuận lợi cho việc giấu dốt.
Cách dịch chặt chẽ của CVD khiến cho ngay khi dịch sai người ta có thể thấy rất rõ, và tôi rất vui mừng trước sự minh bạch này, là một phẩm chất mà tôi cho là rất nhiều nhà nghiên cứu ở ta thiếu trầm trọng, và nó khiến cho ta không tiến bộ được.
Tôi sẽ trở lại phân tích các nhận xét của ông VVT.
Lan Huong
Tôi bắt đầu công việc phân tích đây, sẽ hơi dài và mất thời gian một chút, nhưng cũng chịu khó vậy.
ReplyDelete1. chữ "pratiquement" mà CVD dịch "trên thực tế" và VVT dịch "gần như"
--) Nếu đã sa vào việc tranh luận nghĩa từ thì chúng ta phải tra từ điển về étymologie, nghĩa là "từ nguyên", tức là nguồn gốc của từ. Nếu không đưa ra được nghĩa étymologique thì việc nói từ này đúng hay từ kia sai chỉ là chủ quan của người nói mà thôi.
Đây là định nghĩa étymologique của Littré cho từ "pratique" : Etymologie : Provenç. et ital. pratica ; espagn. practica ; du lat. practica, qui vient du grec, capable de faire, du grec, faire, que Curtius rapproche du lat. parare, sanscr. par, faire passer à travers, accomplir.
Vậy "pratique" có nghĩa là "thực hành", "pratiquement" là trạng từ, có nghĩa liên quan tới "thực hành", dịch thoát một chút là "thực tiễn", hay "thực tế" như CVD là chấp nhận được, còn "gần như" như VVT là đi quá xa, mặc dù tra từ điển thì thấy 1 từ đồng nghĩa của "pratiquement" là "quasiment", nhưng lưu ý bạn VVT là bạn chớ nên tưởng là mọi từ đồng nghĩa đều thực sự đồng nghĩa cả.
Kết luận, CVD dịch không sai, còn VVT dịch dở vì nghe nó rất "mài mại". Không phải cứ thấy "người ta dùng tối ngày mà" là mình cũng dùng được!
Tôi sẽ phân tích từng điểm một, rồi tiếp tục qua bài của ông Hà Thúc Lang (vì nể tình các ông ấy chịu khó tranh luận tiếng Pháp, tuy là ăn nói có hơi quàng xiên). Vậy các bạn cứ kiên nhẫn nhé!
Lan Huong
2. "une suite logique" được CVD dịch là "một chuỗi logic" và VVT dịch là "một tiếp nối tất yếu cho"
ReplyDelete--) chính xác phải là "một tiếp nối hợp lý", mặc dù chữ logique thường được dùng trong tiếng Việt nguyên văn như vậy, vì tiếng Việt không có từ nào đủ đắt để dịch khái niệm tương đương. Dịch "logique" thành "tất yếu" (inéluctable) thì than ôi, đúng là học trò mới học tiếng Tây thật.
"Chuỗi logic" của CVD ở đây thực sự rất hay, vì nó thể hiện được cả ngữ cảnh (contexte), đó là trong khi nghiên cứu Hiện tượng luận, các khám phá của nhà nghiên cứu đã tạo thành một "chuỗi logic". Nhân tiện chữ "constituer" nghĩa là "cấu thành" mà VVT dịch là "đã là" thì tôi thật chẳng thấy hay chút nào.
Kết luận lần thứ 2 là VVT thích dịch "mài mại".
Tôi không có nhiều thời gian lắm, nên mỗi ngày chỉ phân tích được vài điểm thôi. Ngày mai tôi sẽ tiếp tục.
ReplyDeleteLH
Cái vụ dịch những bài académiques từ tiếng phương Tây sang Việt thì có nhiều chuyện lắm đấy ạ. Thiển ý của em thì thấy nó không chỉ đơn thuần có thể dùng từ điển hay lý luận làm nhàm (kiểu "nghe quen tai") để giải quyết đâu ạ. Để lúc nào rảnh làm cái colloque cho vui mới được, hihi. Nhân tiện: Madame có phải là Madame Lan Huong lúc trước có cộng tác ở viện Rousseau không?
ReplyDeleteTôi thấy lý luận của bạn Lan Huong về chữ "pratiquement" thật là buồn cười. Ai cũng biết "pratiquement" có hai nghĩa là "trên thực tế" và "gần như" nên khi dịch phải dựa vào văn cảnh. Theo văn cảnh này thì có lẽ ông VVT dịch đúng hơn.
ReplyDelete"une suite logique" có thể dịch ra tiếng Anh là "a logical (next)step" hoặc "a logical extension". Đây chỉ là một "step" thôi nên không thể dịch là một chuỗi được.
ReplyDelete"constituer" có nhiều nghĩa trong đó có nghĩa là "être". Trong văn cảnh này theo tôi dịch theo nghĩa "être" là đúng.
Nếu đọc cả câu sẽ thấy câu của ông VVT makes sense hơn hẳn câu của CVD.
Không bàn về một số sự khác biệt cách chọn từ, ông VVT đã chỉ ra khá nhiều lỗi KHÔNG CHẤP NHẬN ĐƯỢC trong bản dịch của CVD (dịch ẩu, sai hẳn nghĩa, hoặc vô nghĩa). Những lỗi ông VVT chỉ ra làm tôi ngạc nhiên về trình độ tiếng Pháp, hoặc ít ra là về phong cách làm việc của CVD.
ReplyDeleteNói thêm về từ "constituer". Cấu trúc "être+une suite logique" rất phổ biến (tra "est une suite logique" trên Google có hơn 500.000 hits). Có lẽ CVD không nhớ (hay không biết?) nghĩa "être" của "constituer" nên mới dịch ở đây là "cấu thành". Do đó tiếp theo CVD phải dịch "suite" theo nghĩa "série" (chuỗi) thì câu văn mới có nghĩa. Điều này tuy có thể chấp nhận được nhưng đã đi khá xa so với ý của tác giả. Tóm lại, theo tôi ở đây dịch "constituer" theo nghĩa "être" như VVT là hoàn toàn chính xác.
ReplyDelete"être" và "constituer": tôi có nói tới trong đường link bài Genette, ở số 20
ReplyDeleteXin lỗi, ở số 19.
ReplyDeleteCác bạn anonymous làm ơn ký tên, ký tắt, điềm chỉ, etc. để tôi dễ gọi tên trao đổi có được không ạ ?
ReplyDeleteBạn anonymous nào buồn cười vì tôi dùng tự điển étymologie thì cứ việc cười. Còn tôi thì rất buồn cười với những câu kiểu "ai cũng biết/mọi người đều biết/Những thằng ngốc nhất cũng biết, tôi cảm thấy ..., tiếng Anh nói là... nên tiếng Việt phải là... ", cái đó không gọi là lý lẽ được.
"Constituer" trong nghĩa étymologique của nó là từ gốc latin "cum" (với) và "statuere" (Etre, là), mời các bạn suy nghĩ xem nó có khác "Etre" không ạ ?
LH
Tôi vừa post xong bản sửa đầy đủ bài phỏng vấn Genette. Cho đến lúc này thì tôi hiểu tại sao tôi đọc sai "la mode" thành "le mode": trong bài có hai lần khác Genette dùng từ "mode" thì đều là "le mode": ở đoạn có Trung tâm Thực nghiệm Vincennes và câu trả lời cuối cùng. Tôi đã quá chủ quan, không nghĩ ông ấy dùng "mode" ở một nghĩa khác tại một chỗ khác.
ReplyDeleteVi Văn Tuyên đã có hai chỗ sai quan trọng trong khi chỉ trích bản dịch bài phỏng vấn Genette của tôi:
ReplyDelete- thứ nhất là hiểu sai nghĩa "vulgarisation" (số 16), tôi đã trình bày rất rõ trong đường link
- thứ hai là hiểu sai nghĩa từ "trahir" (số 20). Tôi đã suy nghĩ kỹ về trường hợp này: Kaufmann hỏi Genette về mối liên hệ giữa lý thuyết và "văn chương tự suy tư", sau khi nói rằng mình từng làm việc ở "độ thứ hai", Genette cho biết ông đã "immédiat" hơn và cái đó có gần hơn với "văn chương tự suy tư". Ở đây "trahir" không thể hiểu là "phản bội" được.
Người ta không nói "phản bội một ý đồ" (trahir une intention) mà là "để lộ một ý đồ". Ngoài tra các nghĩa và ví dụ của TLFi, có thể xem thêm ở đây:
http://www.google.com.vn/#sclient=psy-ab&hl=vi&biw=1400&bih=854&source=hp&q=%22trahir+une+intention%22&pbx=1&oq=%22trahir+une+intention%22&aq=f&aqi=&aql=&gs_sm=e&gs_upl=1062l4790l0l5022l22l19l0l0l0l1l932l7805l2-2.7.6.1.2l18l0&bav=on.2,or.r_gc.r_pw.,cf.osb&fp=3de5a755151fdf0
3. "prenait une signification politique » được CVD dịch là (lý thuyết) "mang một tác dụng biểu nghĩa chính trị", VVT dịch là "mang một ý nghĩa chính trị »
ReplyDelete--) VVT thấy khó chịu vì CVD dịch cầu kỳ, nhưng đó chỉ là vấn đề phong cách dịch mà thôi, hoàn toàn chẳng có gì sai. Những văn bản mang tính lý thuyết cao thường có vẻ "hầm bà lằng" đối với những độc giả không quen đọc, hoặc chỉ quen đọc những lý thuyết đã được "vulgarisé" (phổ biến cho dễ hiểu).
Vì sao mà "cầu kỳ", "hầm bà lằng" ? Vì phải cố gắng diễn đạt với độ chính xác cao. Cho nên 2 câu dịch của CVD và VVT ở đây là khác nhau đấy, và câu của CVD chính xác hơn. Nói "lý thuyết... mang nghĩa chính trị" thì là cả lý thuyết ấy kém giá trị, còn "lý thuyết... mang tác dụng biểu nghĩa chính trị" thì là chỉ những "tác dụng biểu nghĩa chính trị" của nó là kém giá trị thôi.
Kết luận : VVT thích những gì được phổ biến dễ hiểu (để đỡ mất công suy nghĩ, tìm hiểu)
LH
Về chuyện tại sao tôi dịch "signification" thành "tác dụng biểu nghĩa" thì tôi đã giải thích ở đây (phần comment):
ReplyDeletehttp://nhilinhblog.blogspot.com/2011/10/vcln-genette.html
Tôi học cách dịch đó từ từ điển ngôn ngữ học của Cao Xuân Hạo và Hoàng Dũng.
4. "Thi pháp" vs "thi pháp học": Ong VVT phân biệt 2 từ này thì làm ơn cho định nghĩa bằng tiếng Việt để mọi người thấy được vấn đề cho minh bạch (tức là bản thân ông hiểu nó như thế nào). Chữ "poétique" trong tiếng Pháp mang cả 2 nghĩa này nhưng không ai nhầm lẫn gì đâu. Đây không phải là vấn đề khó.
ReplyDeleteKết luận : VVT chẻ sợi tóc làm tư một cách vô ích.
LH
5. "ceux qui ont été identifiés comme" được CVD dịch là "những người bị đồng hóa thành " và VVT dịch "những người được coi là "
ReplyDelete--) Tôi lại mời các bạn tra tự điển étymologique : "identifier" có gốc từ "identique" nghĩa là "giống hệt nhau", "cùng một thứ", vậy thì dịch là "đồng hóa thành" là rất sát nghĩa, còn "được coi là" thì vẫn là dịch "mài mại", "xấp xỉ" thôi, tôi gọi là dịch kiểu "vạn năng" (passe-partout), dùng được mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh... cái lợi là nghe lúc nào cũng có vẻ đúng.
Kết luận : VTT thích kiểu dịch "vạn năng", cho chắc ăn.
LH
6. «J’ai toujours été étonné par la façon dont la droite réactionnaire a mis en avant la déconstruction dans ses plaintes à propos du déclin de la civilisation occidentale...»
ReplyDeleteCVD dịch : "Tôi vẫn luôn luôn ngạc nhiên trước cách thức cánh hữu phản động đã lôi giải cấu trúc ra trước trong những lời phàn nàn của họ về sự suy tàn của nền văn minh phương Tây... »
VVT dịch : "«Tôi đã luôn ngạc nhiên trước việc cánh hữu phản động , khi phàn nàn về chuyện văn minh phương Tây suy tàn, lại đưa giải cấu trúc ra... »
--) Vẫn là VVT càu nhàu về việc CVD dịch khó hiểu, và đề nghị một cách theo ông ấy là dễ hiểu hơn. Tuy nhiên nếu đọc 2 câu thì ta sẽ thấy là câu CVD dịch nghe khách quan hơn, câu VVT chủ quan, nặng về chê bai hơn (thấy được tính cách người dịch nhỉ ?)
Kết luận : phê bình của VVT không có gì mới.
LH
7. "la montée en puissance de la déconstruction", được CVD dịch là :(tôi rất tiếc vì) "sự leo thang quyền lực của giải cấu trúc", VVT dịch : (tôi tiếc là) "sự phát triển mạnh của giải cấu trúc"
ReplyDelete--) Thì mời bạn VVT tra tự điển, ngay định nghĩa đầu tiên "puissance" được giải nghĩa là "pouvoir" kìa ! Tuy là mỗi từ đồng nghĩa luôn có sắc thái riêng của nó, nhưng trong trường hợp này cũng không có gì đáng phàn nàn cả. Dịch "sự phát triển mạnh" thì lại là dịch kiểu "vạn năng" rồi, làm sao hay bằng "leo thang quyền lực" được. "Tôi rất tiếc vì" với "tôi tiếc là" thì cũng không có gì đáng nói.
Kết luận : tôi bắt đầu hiểu bạn VVT rồi. Cứ cái gì phức tạp một chút là làm bạn ấy nổi giận.
LH
Tôi phải tạm dừng vì bận công chuyện.
ReplyDeleteLH
À bạn VVT tự thấy mình giỏi tiếng Pháp lắm mà bạn ấy viết "mot à mot" thành một từ "mot-à-mot" kìa! Đố bạn ấy tìm được từ ấy trong tự điển đấy !
ReplyDeleteCác bạn cũng đừng chê dịch kiểu "mot à mot", nó sẽ rất hữu ích để các bạn tránh dịch sai đấy!
LH
8. «Il y a aux Etats-Unis une prime accordée à la nouveauté et à la visibilité (...) il faut dire que les départements de philosophie américains ont plus ou moins abandonné le très riche héritage de la philosophie continentale . Les départements de littérature ont pu se réapproprier cet héritage via la déconstruction, revalorisant ainsi au passage leur statut . Lorsqu’on prétend que la littérature traite de questions fondamentales, cela ne gâche rien d’avoir Kant, Adorno, Benjamin ou Heidegger dans son portfolio»
ReplyDeleteCVD dịch : «Ở Mỹ có sự hào hứng dành cho cái mới và cái khả thị (...). Mặt khác, cần phải nói rằng các khoa triết học ở Mỹ đã ít nhiều từ bỏ cái di sản hết sức phong phú của triết học lục địa . Các khoa văn học đã có thể tái tiếp nhận di sản này thông qua giải cấu trúc, bằng cách ấy mà đồng thời cũng tuyên dương cho vị thế của họ . Khi người ta coi văn chương xử lý những vấn đề nền tảng, thì điều đó không gây hại gì đến việc trong hồ sơ có tên Kant, Adorno, Benjamin hay Heidegger .»
VVT dịch :«Ở Mỹ có sự hào hứng dành cho cái mới và cái bề nổi (...). Mặt khác, cần phải nói rằng các khoa triết học ở Mỹ đã ít nhiều từ bỏ di sản hết sức phong phú của triết học Âu châu lục địa . Các khoa văn đã có thể tái tiếp nhận di sản này thông qua giải cấu trúc, qua đó nâng cao vị thế của mình . Khi người ta khoe là văn chương xử lý những vấn đề nền tảng, thì chẳng thiệt hại gì mà không trưng Kant, Adorno, Benjamin hay Heidegger trong cuốn portfolio tự quảng cáo ».
LH
8. (suite)
ReplyDelete--) Về lỗi đánh máy "khả thị" và "khả thi" thì tôi đã nói. Dịch "bề nổi" là RẤT sai.
Về "lục địa" : dân học hành nghiên cứu đều biết từ này chỉ châu Âu, nếu có người không biết, thì đấy cũng không phải lý do khiến CVD phải thêm lời giải thích vào.
Về "tuyên dương cho vị thế của họ" (CVD) và "nâng cao vị thế của mình" (VVT): CVD vẫn dịch đúng, và hay hơn, vì trong chữ "revalorisant" có chữ "valeur" (giá trị), mà chữ "nâng cao" đã đánh mất
"điều đó không gây hại gì đến việc" (CVD) : chữ "đến" khiến cho câu hơi sai, bỏ nó đi là ổn, nhưng cũng không phải là lỗi nặng, vì không gây hiểu nhầm hay ngược nghĩa, người đọc có thể đoán được là dịch giả nhầm.
"portfolio" mà giữ nguyên như VVT làm thì gọi là không dịch (dịch giả mà không chịu dịch thì ai dịch ?)
KL : VVT thích dịch thoát, và thường thoát quá khiến mất mát rất nhiều vẻ đẹp và giá trị của văn bản gốc.
LH
9. "au regard du" được CVD dịch : "trong cái nhìn (của)" và VVT dịch "so với"
ReplyDelete--)Cả hai đều sai, CVD sai ít hơn. Động từ "regarder" mà "ai cũng biết" nghĩa là "nhìn" có nghĩa "hướng cái nhìn (về một vật nào đó)", nghĩa mở rộng là "hướng cái nhìn về một vấn đề nào đó". Chính xác phải là "trong cái nhìn VỀ trường/lĩnh vực văn học" (nghĩa là "liên quan tới", "liên hệ tới"). Còn "so với" thì sai hoàn toàn, so cái gì với cái gì mới được chứ ? Đây là VVT tra tự điển thấy giải nghĩa là "par rapport à" và dịch theo kiểu "ai cũng biết" là "so với".
KL : dịch "mot à mot" sai ít hơn.
LH
10. "à un titre ou à un autre" được CVD dịch (các công trình lý thuyết) "về một đầu sách nào đó", VVT dịch "với lý do này hay lý do khác"
ReplyDelete--) Cả hai đều sai, VVT sai nặng hơn. Nhóm từ "à un titre ou à un autre" ở đây bổ nghĩa cho "nombreux travaux théoriques" và được hiểu là "ayant un titre ou un autre". "Titre" này là "tên" của lý thuyết (chứ không phải của đầu sách), có thể dịch là (các công trình lý thuyết) "loại này hay loại khác".
Câu này quả thực rất khó dịch vì cụm từ "à un titre ou à un autre" lại có nghĩa riêng khá thông dụng "mà ai cũng biết" của nó là "theo cách này hay cách khác". Vì vậy có lẽ là phải bám vào cách dịch "mot à mot" là "với danh nghĩa này hay danh nghĩa khác" rồi tùy vào cấu trúc câu và ngữ cảnh mà biến đổi một chút cho phù hợp.
KL : VVT bớt dịch thoát đi kẻo đôi lúc bị sai quá.
LH
11. « Il serait inimaginable , pour des étudiants gradués aujourd’hui, par exemple, de décider d’être «contre» la théorie, de ne pas en prendre connaissance au moins fragmentairement.»
ReplyDeleteCVD :« Thật không thể hình dung nổi, đối với các sinh viên tốt nghiệp ngày nay, chẳng hạn, quyết định “chống lại” lý thuyết, không thèm tìm hiểu nó ít nhất là một mảnh nhỏ nào đó .»
VVT : «Chẳng hạn, với các sinh viên có học vị ngày nay, ‘chống lại’ lý thuyết, không tìm hiểu nó ít nhất là từng phần một, có lẽ là một việc không thể tưởng tượng nổi».
LH
11. (suite)
ReplyDeleteÔi tôi bắt đầu chán ngấy ông VVT dịch sai be bét, lợn lành thành lợn què. Thôi tôi lại đi công chuyện rồi sẽ viết tiếp.
LH
Bạn LH Kết luận : "tôi bắt đầu hiểu bạn VVT rồi. Cứ cái gì phức tạp một chút là làm bạn ấy nổi giận."
ReplyDeleteĐọc xong bài bạn viết, tôi có tể kết luận: Tôi bắt đầu hiểu bạn LH rồi. Cứ cái gì VVT "chê" CVD một chút là làm bạn nổi giận"
Nói vậy bạn đừng nổi giận nhé.
Cái gì cũng có chỗ đúng chỗ sai thôi, và có những chỗ rất khó phân định đúng sai rạch ròi.
ReplyDeleteTôi cũng thấy đây là cơ hội suy nghĩ kỹ hơn về nhiều điểm thuần túy kỹ thuật ngôn ngữ và dịch thuật, mặt positive là như vậy.
À mà bác gì cũng không nên nói thế. Hồi vụ "Vô tri" ở đây có bác Lan Hương chẳng đồng ý với tôi cái gì và nói tôi khá nặng nề. Xét về khẩu khí thì tôi nghĩ bác Lan Hương lần này vẫn là bác Lan Hương ấy.
ReplyDeleteHihi, CVD lại đúng rồi, còn anonymous lại nhầm rồi. VVT làm tôi buồn cười gần chết thì có, tôi chỉ nổi giận vì cách ăn nói của ông ấy thôi. Tôi nghĩ ông ấy đã chịu khó đọc bản dịch, bản gốc, so sánh, phản hồi... là cũng quý lắm. Nếu tôi là CVD thì sẽ mời ông ấy đi uống cà phê.
ReplyDeleteLH
Tôi thấy cả bạn LH và CVD, VVT không ai buồn cười cả. Tôi chỉ buồn cười cho cái thói đời đã sai nhưng cứ cố tỏ ra mình đúng thôi.
ReplyDeleteThế cái thói cứ bắt người ta sai trong khi mình không đúng thì có buồn cười không?
ReplyDeleteLH: chuyện cà phê thì dễ :p nhưng theo cách nói của VVT thì con người tôi VVT đã không chịu được, nói gì cà phê cà pháo.
Tôi rất thích và quí trọng sách của bạn Nhị Linh dịch và cảm ơn bạn rất nhiều. Tôi không cần phải nói để bạn vui lòng gì đâu, nhưng nói gì thì nói, bạn vẫn là một trong (rất ít) dịch giả văn học hàng đầu ở VN hiện nay. Đa số các dịch giả khác (ngay cả ông Trịnh Lữ hay ông Trần Tiễn Cao Đăng) cũng chỉ là vớ được cuốn sách nào hay thì dịch cuốn đó thôi, chứ người vừa dịch vừa có kiến thức sâu rộng, có một cái nhìn bao quát và một "chiến lược" dịch bài bản & chuyên nghiệp như bạn là không nhiều, thậm chí trong văn học hiện nay tôi chẳng thấy ai hết.
ReplyDeleteBởi vậy tôi nghĩ vụ VVT này cũng có ý nghĩa "tích cực", đúng như bạn nói. Tuy rằng thái độ phê bình "mục hạ vô nhân" của ông VTT là nhà quê, vớ vẩn, nhưng tôi nghĩ bạn Nhị Linh đúng là đang có một sự chệch choạc, lỏng lẻo nhất định khi chuyển từ việc dịch sách hư cấu sang sách nghiên cứu. Điều này có lẽ cũng bình thường thôi, bạn chỉ cần lưu ý và cẩn thận hơn là được.
Cám ơn bác. Tôi luôn luôn tự dặn mình phải cẩn thận đến từng chi tiết nhưng chỗ nào bị sai thì vẫn cứ sai thôi, nhiều chỗ không ngờ nổi. Ai góp ý gì tôi cũng rất trân trọng và xem lại kỹ lưỡng, sửa sang nếu có thể.
ReplyDeleteAnh Cao Đăng có cả một mối quan tâm lớn đối với văn học Mỹ Latinh và hiểu biết sâu sắc về lĩnh vực này, chỉ là chưa có nhiều cơ hội để bộc lộ thôi.
11. Về cond. Présent : trong mệnh đề chính-phụ thì ý nghĩa của nó là quan trọng, trong mệnh đề độc lập thì cũng bình thường thôi, chỉ thể hiện cách nói lịch sự thôi (VVT ngạc nhiên quá hả ? Lịch sự nghĩa là gì nhỉ?). Dịch như CVD là ổn.
ReplyDelete« Sinh viên có học vị » thì đúng hoặc hay hơn « sinh viên tốt nghiệp » ở chỗ nào ?
« Fragmentairement » nghĩa là « thành từng mảnh », « không đầy đủ », tạm hiểu là « đôi chút », vậy CVD dịch vẫn đúng ý, còn VVT dịch « không tìm hiểu nó ít nhất là từng phần một» (tức là « một cách có hệ thống », nghĩa tốt) thì không có nghĩa « hơi xấu, péjoratif » về chuyện kiến thức lẻ tẻ. Vậy ai dịch phản nghĩa ở đây ?
LH
Phỏng vấn Genette :
ReplyDelete12. «Quant à la notion attrape-tout de «poststructuralisme», je n’ai jamais perçu sa pertinence ; elle me semble mêler, sinon confondre, des attitudes de pensée sans grande parenté entre elles, si ce n’est dans le fait purement chronologique de venir après la brève période de «mode» structuraliste, comme le très hétérogène «postimpressionnisme» est venu après la mode de l’impressionnisme.»
CVD : «Còn về khái niệm cái gì cũng nhét vào được , “hậu cấu trúc luận”, tôi chưa bao giờ nhìn ra được tính xác đáng của nó; với tôi nó đã làm rối tung, thậm chí lẫn lộn, các thái độ tư duy không mấy kề cận với nhau, nếu như không phải hoàn toàn trong khía cạnh biên niên của việc đến sau giai đoạn ngắn ngủi của “thức” cấu trúc luận, cũng như “chủ nghĩa hậu ấn tượng” rất thiếu thuần nhất đến sau thức ấn tượng chủ nghĩa»
VVT : «Còn về khái niệm thượng vàng hạ cám “hậu cấu trúc luận”, tôi chưa bao giờ thấy tính xác đáng của nó – với tôi nó dường như làm rối tung, thậm chí lẫn lộn, các thái độ tư duy không mấy liên quan đến nhau – ngoài lý do duy nhất là, về trật tự thời gian, nó đến sau cái “mốt” cấu trúc luận ngắn ngủi, cũng như “ hậu ấn tượng chủ nghĩa ” cực lộn xộn đã đến sau cái mốt ấn tượng chủ nghĩa».
LH
12. --) Chỉ là vấn đề phong cách dịch thôi. «Thượng vàng hạ cám » là có ý dè bỉu, thể hiện bản chất của VVT. « Purement » nghĩa là « một cách thuần túy », chứ không phải là «duy nhất ». « Le mode » và « la mode » cũng hơi có liên quan với nhau đấy, vì chỉ về cách thức, khác nhau một chút là « la mode » có nghĩa cách thức suy nghĩ của một tập thể. CVD hơi sai nhưng cũng không sai lắm. Còn VVT thậm chí còn không dịch, giữ nguyên chữ «mốt» mà ở ta thường dùng với nghĩa là mốt thời trang.
ReplyDelete« Cực lộn xộn » lại thêm ý dè bỉu trong khi «thiếu thuần nhất » thì đơn giản là khách quan.
LH
13. «Sur le terrain des études littéraires, j’en ai aimé (j’en aime toujours) une libération à l’égard des pratiques mesquines de l’“histoire littéraire”post-lansonienne.» (tr.239)
ReplyDeleteCVD : «Trên địa hạt nghiên cứu văn học, tôi từng rất thích ở nó (giờ vẫn thích) một sự giải phóng đối với các thực hành đầy thiển cận của “văn học sử” hậu Lanson.»
VVT : «Trên địa hạt nghiên cứu văn học, tôi từng thích ở nó (giờ vẫn thích) một sự giải phóng khỏi các thực hành đầy thiển cận của “văn học sử” hậu Lanson.»
--) Cũng vẫn chỉ là vấn đề phong cách dịch. «À l’égard de » nghĩa chính xác là « liên quan tới », « đối với », không hề có nghĩa là « khỏi ». VVT dịch thoát là « khỏi » nhờ ở đây có chữ « libération, giải phóng ». CVD chỉ đơn giản là tôn trọng cách diễn đạt của G. Genette, mềm mỏng (nuancé) hơn, thực ra hay hơn cách hiểu của VVT (vốn hơi thiển cận cứng nhắc). « Giải phóng khỏi », « thoát khỏi» ngụ ý trước đó có một sự chiếm đóng, một sự áp đặt rất nặng nề. Điều đó không hẳn, vì sự thiển cận khó mà áp đặt được tư duy (thực sự), nó chỉ làm chúng ta khó chịu mà thôi.
LH
14. «Je ressens ‘le théorique », dans mon domaine et dans d’autres, comme intemporellement nécessaire et donc comme virtuellement , si j’ose ce barbarisme , ‘irrévoluble’. De ce fait , je le crois, pour l’essentiel , indépendant de tout accompagnement et de toute actualité littéraire ou idéologique.»
ReplyDeleteCVD : « «Tôi cảm thấy “cái lý thuyết”, trong lĩnh vực của tôi và những lĩnh vực khác, là cần thiết bất kể thời điểm và một cách thực tế , cho phép tôi sử dụng lối nói kỳ quặc cổ xưa này , là “không thể trở ngược” [irrévoluble]. Từ đây , tôi tin rằng nó, xét về điểm cốt yếu , độc lập với mọi sự đi kèm và mọi thứ thời sự văn chương hay ý hệ.»
VVT : «Tôi cảm nhận rằng trong lĩnh vực của tôi và những lĩnh vực khác, “chất lý thuyết” luôn luôn cần thiết và vì vậy gần như “ không thể kết thúc được ” [irrévoluble], nếu tôi dám sử dụng cái từ không thuần chính này. Cho nên tôi tin rằng phần lớn, nó độc lập với mọi kèm cặp và mọi thời sự văn chương hay ý hệ»
LH
14. --) CVD nhầm nghĩa « irrrévoluble » khiến cho câu này sai nặng. « Virtuellement » là «một cách phi thực tế », « một cách tiềm năng», ở đây cũng bị dịch phản nghĩa. (Phải cám ơn VVT, hay là "trăm bó đuốc cũng được một con ếch" ?).
ReplyDeleteVVT có vẻ chỉ cần một chữ « gần như » là đủ để dịch vô số thứ (pratiquement, virtuellement, quasiment…).
Lưu ý chữ « barbarisme » có từ « barbare » (nghĩa étymologique là « étranger », (người) "xa lạ", ngày nay có nghĩa xấu là « cruel, féroce » tức là «mọi rợ »), dịch là « cách nói kỳ quặc » là hay nhưng thêm « cổ xưa » là dở, vì «irrrévoluble» là một từ mới (nên nghe lạ tai, kỳ quặc). Dịch « không thuần chính » thì mất nghĩa « mọi rợ » này. Còn « Cho nên», « phần lớn » (khác hẳn với « xét về điều chính yếu», « pour l’essentiel » đó nha), «kèm cặp» đều là dịch kiểu « mài mại » rất đặc trưng VVT.
Ngoài ra tôi thích « ý thức hệ » hơn là « ý hệ ».
LH
15. «Qu’est-ce que le théorique a apporté? A-t-il favorisé la culture littéraire? Est-il responsable de son déclin? Est-il le symptôme de ce déclin? Y a-t-il déclin ?»
ReplyDeleteCVD : «Cái văn chương đã mang lại những gì? Nó có tạo thuận lợi cho văn hóa văn học không? Nó có trách nhiệm với sự suy tàn của văn chương không? Nó có phải là triệu chứng của suy tàn ấy không? Có một suy tàn không?»
VVT : « Chất lý thuyết đã mang lại gì? Nó có thúc đẩy văn hóa văn chương không? Nó có là nguyên nhân dẫn đến sự suy tàn của văn hóa văn chương không? Nó có phải là triệu chứng của sự suy tàn ấy không? Có suy tàn không?»
--) Đúng là CVD nhầm « théorique » thành «văn chương » (Lại phải cám ơn VVT) ; Thực ra để tránh những lỗi như vậy CVD cần có người đọc lại bản dịch của mình trước khi xuất bản, vì chỉ một mình mình thôi thì rất khó thấy. Để tránh sai sót thì cách tốt nhất là phải có nhiều người đọc đi đọc lại. Mời VVT có lẽ cũng hay nhưng ông ấy cứ vừa đọc vừa kêu la chí chóe thì cũng gây căng thẳng thần kinh.
Phần còn lại vẫn là phong cách dịch.
LH
Tôi tạm dừng ở đây.
ReplyDeleteLH
"ý hệ" là tôi học từ cách dùng của Bùi Văn Nam Sơn, cái này ông ấy có phân tích, giải thích ở trong lời nói đầu một cuốn sách nào đó
ReplyDeleteTôi mới post bản sửa bài phỏng vấn Jonathan Culler ở đường link cuối trên đây, trong đó có bình luận từng nhận xét của Vi Văn Tuyên.
ReplyDeleteỞ đây, ngoài chép sai từ của tôi (khả thi/khả thị), không biết nghĩa thuật ngữ của "signification", hiểu sai nghĩa "fragmentairement" và nhiều lỗi khác, Vi Văn Tuyên có một đóng góp lớn cho tiếng Việt: cụm từ "sinh viên có học vị" trên toàn mạng Internet Việt Nam chỉ có Vi Văn Tuyên nói (ngoài một trang "kuốc-gia"). Chúc mừng thành tựu:
http://www.google.com.vn/#sclient=psy-ab&hl=vi&source=hp&q=%22sinh+vi%C3%AAn+c%C3%B3+h%E1%BB%8Dc+v%E1%BB%8B%22&pbx=1&oq=%22sinh+vi%C3%AAn+c%C3%B3+h%E1%BB%8Dc+v%E1%BB%8B%22&aq=f&aqi=&aql=&gs_sm=e&gs_upl=1437090l1442309l4l1442617l33l16l3l0l0l5l1045l7706l2-3.1.4.2.2.2l17l0&bav=on.2,or.r_gc.r_pw.r_cp.,cf.osb&fp=f8ad42e10a6bf4ed&biw=1400&bih=854
Tôi mới post bản sửa bài phỏng vấn Karlheinz Stierle ở đường link cuối trên đây, trong đó có bình luận từng nhận xét của Vi Văn Tuyên.
ReplyDeleteLần này, Vi Văn Tuyên chuyển từ "Theo tôi, câu trên nên dịch như vầy" sang câu cả quyết và đanh thép hơn: "Câu trên phải dịch như vầy". Thế nhưng, tuyệt đại đa số "phải dịch như vầy" của Vi Văn Tuyên không hợp lý.
Vi Văn Tuyên có một chỗ sai quan trọng là không hiểu nghĩa từ "sobriété" (số 1).
Đọc cái post mới nhất của tay Võ gì đó "người Việt sống ở Tây Âu" thì thấy hết còn trông mong được cái giề vào Tiền Vệ nữa. Mấy chú em ý kẹt quá, hết nước rồi, thành thử rác cũng vứt lên lun, miễn có người chui vô coi, có hit là được. Ô hô, cám cảnh...
ReplyDeleteTôi mới post bản sửa bài phỏng vấn Sylvère Lotringer ở link cuối trên đây.
ReplyDelete16. «Si par culture littéraire» vous entendez les études littéraires en général et particulièrement l’étude de la littérature dans l’institution scolaire, je pense que la poétique a plutôt contribué à leur enrichissement, à la seule réserve que m’inspirent parfois certaines formes prises par sa vulgarisation intempestive – je veux dire administrée sans égard pour les capacités de compréhension et le (forcément) mince ‘bagage’ littéraire du jeune public...»
ReplyDeleteCVD : «Nếu ông hiểu “văn hóa văn học” là các nghiên cứu văn học nói chung và nói riêng là nghiên cứu về văn chương trong trường học , thì tôi nghĩ thi pháp đã đóng góp khá lớn vào sự phong phú của nó, với duy nhất sự e dè mà đôi khi tôi cảm thấy khi chứng kiến một số hình thức được tạo lập từ sự phổ biến quá mạnh mẽ của nó – tôi muốn nói là nó bị nằm dưới sự quản lý mà không có chút để ý nào tới năng lực hiểu và “hành trang” văn chương (dĩ nhiên là) mỏng của giới trẻ...»
VVT : «Nếu ông hiểu “văn hóa văn học” là nghiên cứu văn học nói chung và nói riêng là việc học văn chương trong trường phổ thông , thì tôi nghĩ thi pháp học đã, nói cho chính xác , đóng góp vào sự phong phú của chúng, tôi chỉ ngần ngại khi đôi lúc chứng kiến một số hình thức gây ra do việc thi pháp học bị dung tục vô lối – tôi muốn nói là nó bị nhồi nhét quá tải so với khả năng hiểu và “hành trang” văn chương (dĩ nhiên) mỏng của giới trẻ... ».
LH
16. --) Ôi giời ơi, « thi pháp học » mà ghép với « dung tục vô lối » nghe thật kinh khủng, ông Genette VVT làm dân nghiên cứu văn học sốc nặng mất. Điều này gợi nhớ cho tôi một câu thơ của Nguyễn Khuyến « ‘Nho’ đối với ‘xỏ’ lão này không ưa ». Chính là VVT « dung tục vô lối » thì có ! « Vulgarisation » nghĩa là « phổ biến cho (đại chúng) dễ hiểu », ông ạ!
ReplyDeleteCVD thì cũng có nhầm đôi chút nghĩa của «administrer », ở đây có nghĩa là « donner » (thường người ta nói administrer/donner un médicament).
Còn « les études » và « l’étude » thì cũng thường thôi, khác nhau đôi chút không đáng kể, vì cùng một gốc nghĩa « Travail intellectuel afin d'apprendre ou de comprendre » (hoạt động trí óc để học và hiểu). Thường người ta dùng « l’étude » khi sau nó có bổ ngữ danh từ (complément du nom), chứ không có ảnh hưởng gì đến nghĩa cả. VVT phân biệt hai từ này ở đây là có ý miệt thị học sinh phổ thông không biết « nghiên cứu ». Ấy là suy bụng ta ra bụng người.
« Trường học » và « trường phổ thông » ở đây không có gì khác nhau cả.
« Tôi chỉ ngần ngại khi đôi lúc chứng kiến » là dịch rất dở, làm biến dạng cả ý rất hay là « sự dè dặt mà (một số hình thức) đã gợi cảm hứng cho tôi/ làm cho tôi cảm thấy ». CVD dịch rất ổn.
« Nhồi nhét quá tải » ở đây thì đơn giản là dịch sai. Lưu ý chữ « intempestive » nghĩa là « không hợp thời, không đúng lúc », ý Genette nói là bắt học sinh học những thứ không phù hợp (quá khó) đối với chúng, chứ không phải học nhiều quá, quá tải.
« Plutôt » ở đây có thể dịch là « có thể nói là », « pour mieux dire », thể hiện thái độ dè dặt, dịch « nói cho chính xác » là phản nghĩa.
LH
17. «Le théorique a-t-il été solidaire d’une littérature dite réflexive ou autoréflexive ?»
ReplyDeleteCVD : «Cái lý thuyết có gắn liền với một thứ văn chương được gọi là suy tư hay tự suy tư không?»
VVT : «Lý thuyết có gắn liền với một thứ văn chương gọi là suy tư, hay cụ thể hơn suy-tư-về-chính-nó hay không?»
--) « Cụ thể hơn » là VVT dịch chữ nào đấy ạ? Đừng có tự tiện thêm lời vào miệng người khác như thế chứ ?
« Tự suy tư » nghĩa là suy tư về chính nó chứ còn gì nữa ?
LH
18. «...la poétique d’Aristote a certainement été « solidaire », et même tributaire , de (...) la ‘littérature’ de son temps, celle de Boileau de la sienne, celle de Hegel de la sienne...»
ReplyDeleteCVD : «... thi pháp của Aristote chắc chắn từng “gắn liền”, thậm chí là thuộc tính của (...) “văn chương” thời của ông, thi pháp của Boileau với văn chương của ông, thi pháp của Hegel với văn chương của ông ...»
VVT : «... thi pháp học của Aristote chắn chắn đã ‘gắn kết’, và thậm chí phụ thuộc, với (...) «văn chương» thời Aristote, thi pháp học của Boileau gắn kết với văn chương thời Boileau , thi pháp học của Hegel gắn kết với văn chương thời Hegel ... »
LH
18. Hihihihi, tôi đã hiểu vì sao ông VVT cứ kêu gào mãi về vụ « thi pháp » và « thi pháp học » rổi. Đọc đến đây tôi mới biết rõ chàng hiểu về hai từ này như thế nào. Thôi để tôi định nghĩa lại cho ông rõ nè : Poétique 1. Qui concerne la poesie. Ouvrage poetique. Style poetique. Langage poetique) ; 2. Ensemble de conceptions de la poesie propre a un poete a une ecole... 3. (par extension) : Ensemble coherent de principes esthetiques. Nghĩa là : 1. Liên quan tới thơ ca. Một tác phẩm thơ ca. Văn phong thơ. Ngôn ngữ thơ ; 2. Tập hợp những quan niệm về thơ riêng của một thi sĩ hay một trường phái…; 3. (nghĩa rộng) Tập hợp chặt chẽ hài hòa những nguyên tắc nghệ thuật.
ReplyDeleteNhư vậy ông VVT thấy là từ « poétique » trong tiếng Pháp có nghĩa rất rộng, và bao gồm tất cả những nghĩa mà ông phân biệt, và rộng hơn nữa là cho mọi ngành nghệ thuật, chứ không phải chỉ cho thơ văn, chính vì vậy mà cách phân biệt cứng nhắc của ông tưởng là đúng thành ra rất dở. Điều đó cho thấy ông còn rất mù mờ về định nghĩa « thi pháp (học) ». Còn nói về Aristote, chính ra phải dịch là « thi pháp » vì « thi pháp học » còn có nghĩa cả một ngành khoa học, một hệ thống lý thuyết, còn « Poétique » của Aristote đúng hơn là một « discours » (tư tưởng) về nghệ thuật, thơ và bi kịch.
Ngoài ra « thi pháp » hoàn toàn có thể hiểu là « suy nghĩ, quan niệm về thơ ca, văn chương ».
CVD có sai, vì chữ « littérature » trong câu này có bổ ngữ « de son temps », cho nên «celle » là lấy lại toàn bộ nhóm này, chứ không chỉ một từ "littérature". Tôi sẽ thích dịch là « mang thuộc tính » hơn là « là thuộc tính».
LH
Mà sao bạn LH không viết hẳ một bài nghiêm chỉnh đối thoại với ông VVT trên Tiền vệ nhỉ?
ReplyDeleteBạn cứ nhát gừng ở đây thì thật khó theo dõi và không nhiều người biết.
19. «Mais je manque du recul nécessaire pour dire de quelles formes littéraires ‘notre’ poétique a été, est ou sera perçue comme solidaire ou en relation de continuité. La ‘mienne’ – si je puis personnaliser tout à trac, et sans y impliquer qui que ce soit, un questionnaire qui m’y invite implicitement , a bien été assez largement de l’ordre du ‘jeu’, ou de ce que j’appelle volontiers, avec Claude Lévi-Strauss, un ‘bricolage’ , c’est-à-dire une pratique seconde (...) entée sur cette matière première que constituent les œuvres littéraires...»
ReplyDeleteCVD : «Nhưng tôi chưa có đủ độ lùi cần thiết để nói thi pháp “của chúng tôi” từng, đang hoặc sẽ gắn liền với những hình thức văn chương nào, hay nếu không phải gắn liền thì là có mối quan hệ tiếp nối. Thi pháp “của tôi” – cho phép tôi, nếu được sử dụng biện pháp nhân cách hóa cho câu hỏi mà tôi phải trả lời , không định ngụ ý gì hết cả – về một phần rất lớn thuộc phạm vi “trò chơi”, hoặc là cái mà tôi sẵn sàng gọi, giống như Claude Lévi-Strauss, là một “sắp xếp lặt vặt” [bricolage], nghĩa là một thực hành thứ cấp (...) ăn khớp vào với cái chất liệu đầu tiên mà tác phẩm văn chương tạo ra ...»
VVT : «Nhưng tôi chưa có độ lùi cần thiết để nói thi pháp học “của chúng tôi” từng, đang hoặc sẽ gắn liền hay tiếp nối những hình thức văn chương nào. Thi pháp học “của tôi” – cho phép tôi được cá nhân hóa những câu hỏi ngầm đặt ra cho tôi, mà không nghĩ ngợi cũng như không ám chỉ ai – đã phần nhiều thuộc về phạm vi “trò chơi”, hay cái mà tôi sẵn sàng gọi, như Claude Lévi-Strauss, là một “trò thủ công” [bricolage], nghĩa là một sự thực hành ở mức thứ hai (...) gắn vào chất liệu đầu tiên là tác phẩm văn chương ...»
LH
19. --) Ông VVT, ông quên chuyện « thi pháp » và « thi pháp học » đi cho tôi nhờ có được không ?
ReplyDeleteCâu này rắc rối chính là vì Genette diễn đạt lòng vòng. Chính ông ấy cũng thanh minh là mình phát biểu về « thi pháp » với tư cách cá nhân, một cách « tout à trac », tức là nói đại ý, ứng khẩu đại ý.
Về « personnaliser » và « qui que ce soit » CVD sai, về những cái còn lại, VVT sai, đặc biệt là chữ « second », mời VVT tra lại tự điển, từ này vừa có nghĩa thứ hai vừa ngụ ý không phải là thuộc hạng nhất (chính yếu nhất). CVD dịch « thứ cấp » là rất chính xác. Các nhà nghiên cứu văn học luôn khiêm tốn nhận rằng vị trí của họ luôn đứng thứ hai so với sáng tác văn học. Đây cũng là ý của Genette.
« Constituer » dịch là « là » nghe rất yếu. Để phân tích xong bài này tôi sẽ nói điểm yếu của VVT là ở chỗ nào để ông ấy sáng mắt ra.
LH
19 (suite)
ReplyDeleteCâu này tôi sẽ dịch lại như sau : « Nhưng tôi chưa có đủ độ lùi cần thiết để nói thi pháp “của chúng tôi” từng, đang hoặc sẽ gắn liền, hoặc có mối quan hệ tiếp nối, với những hình thức văn chương nào. Thi pháp của tôi – nếu tôi có thể cá nhân hóa một cách đại khái, và không ngụ ý đến bất kỳ ai [ghi chú của LH : tức là ông ấy phát biểu quan điểm cá nhân với tư cách cá nhân chứ không liên đới đến những nhà nghiên cứu khác], (để trả lời) một hệ thống câu hỏi được ngầm đặt ra cho tôi – (Thi pháp của tôi) phần khá lớn đã thuộc về phạm vi/khuôn khổ môn chơi, hoặc thuộc về cái mà tôi sẵn sàng gọi, cùng với C. Lévi-Strauss, là một « sự lắp ghép (lặt vặt)», nghĩa là một thực hành thứ cấp được gắn vào nguyên liệu được tạo thành từ các tác phẩm văn học. »
LH
Tôi lại phải tạm dừng ở đây.
ReplyDeleteLH
Bạn LH và NL xem hộ lại chỗ từ "identifier" được dịch là "đồng hóa" với. Theo Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê-1997) "đồng hóa" được giải nghĩa là: "Làm thay đổi bản chất cho giống như của mình. VD Chính sách đồng hóa dân tộc đối với một thuộc địa. Từ mượn đã được đồng hóa." Tôi chưa bao giờ thấy từ "identifier" được hiểu theo nghĩa này.
ReplyDeleteTừ điển Pháp-Việt Đào Duy Anh ghi nghĩa chính của "identifier": làm thành đồng nhất, đồng hóa.
ReplyDeleteTôi mới post bản sửa bài Vincent Kaufmann phỏng vấn Élizabeth Roudinesco ở đường link cuối ở trên đây.
ReplyDeleteĐọc lại bài này mới nhớ ra nhân vật Henri Deluy của "Action poétique" mà Roudinesco nhắc tới ở đầu bài tôi đã gặp ở Hà Nội cách đây chừng chục năm. Đó cũng là lần đầu tiên tôi gặp Hoàng Cầm.
"Mà sao bạn LH không viết hẳn một bài nghiêm chỉnh đối thoại với ông VVT trên Tiền vệ nhỉ?
ReplyDeleteBạn cứ nhát gừng ở đây thì thật khó theo dõi và không nhiều người biết."
Tienve với ở đây chưa biết nơi nào đông người xem hơn í ;)
Bravo bác Lan Hương (ở đây) :))
Hề hề, có lẽ ở đây có nhiều ban ẩn danh, bạn LH, bạn CVD nên lượng độc giả nhiều hơn ở chỗ của Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Ngọc Tuấn chăng?
ReplyDeleteTôi đồng ý với bạn NL là ở đây "vulgarisation" phải hiểu theo nghĩa "phổ biến". Nhưng tôi ngạc nhiên là bạn LH trong trường hợp này lại từ bỏ phương pháp từ nguyên của bạn vì nghĩa gốc Latin của "vulgarisation" là "vulgaris", "volgus" hay "vulgus" rất gần với gốc Hán 庸俗 của "dung tục".:)
ReplyDeleteVulgaire : Etymologie : Provenç. volgar, vulgar ; espagn. vulgar ; ital. volgare ; du latin, vulgaris, qui vient de vulgus, foule populaire ; comp. sanscr. varga, troupe, multitude. L'ancienne langue disait vulgal, et, à l'adverbe, vulgaument.
ReplyDeleteTiếng latin "vulgus", foule populaire, nghĩa là "đám đông dân chúng", (ắt hẳn là dung tục, hihi, nhưng đó là suy luận).
Vậy phương pháp từ nguyên của tôi vẫn ổn chứ ạ ?
Hôm nay tôi bận việc nên không biết có tiếp tục bài phân tích được không.
Bonne journée, et à la prochaine,
LH
Tôi mới post bản sửa bài Vincent Kaufmann phỏng vấn Michel Pierssens ở đường link cuối trên đây.
ReplyDelete20. « en en trahissant peut-être l’intention »
ReplyDeleteCVD : « qua đó mà có thể làm lộ ý hướng của nó »
VVT : « có thể là tôi phản lại ý tưởng của nó »
--) Câu này làm tôi lúng túng, vì nó mang cả hai nghĩa trên đây, vậy muốn dịch cho đúng phải xem ngữ cảnh. Vậy mà ngữ cảnh ở đây không đủ để cho tôi suy luận. Nếu phải quyết định, thì tôi thấy rằng đây là lần đầu tiên VVT dịch kiểu CVD (nghĩa là mot à mot), mà CVD lại dịch kiểu VVT (nghĩa là dịch thoát với nghĩa mọi người đều biết), nên tôi cho là CÓ THỂ VVT đúng, nhưng tôi không chắc chút nào cả, tôi cần phải được xem cả đoạn văn bằng tiếng Pháp. Tôi cũng không thích dịch « intention » là « ý tưởng », vì mất nghĩa étymologique của nó là intendere nghĩa là « hướng tới ». Vậy tôi thích « ý hướng » của CVD hơn.
LH
Về ý kiến một bạn trên đây về từ « đồng hóa », thì trong định nghĩa « identifier » có cho từ đồng nghĩa của nó là « assimiler » (đồng hóa) đấy. Và nếu bạn tra từ « assimiler » thì sẽ thấy có rất nhiều nghĩa tương tự « identifier », ngoài ra nghĩa étymologique của « assimiler » lại là ad similis, nghĩa là « semblable à » (giống với). Vậy có lẽ trong tiếng Việt chữ « đồng hóa » được bạn hiểu theo nghĩa lịch sử xã hội rất hẹp, chứ thực ra nó có nhiều nghĩa rộng hơn.
ReplyDeleteLH
Về vấn đề VVT
ReplyDelete1. VVT dùng tự điển như một công cụ hỗ trợ mà không rõ cấu tạo của nó. Tương tự như các cô thư ký dùng tin học (khác với kỹ sư tin học hay nhà nghiên cứu tin học). Thực ra tự điển được xây dựng một cách có hệ thống, chứ không phải là chỉ đơn giản là liệt kê nghĩa từ. Tự điển phải cho ta thấy được nghĩa từ nguyên (khởi đầu) và sự tiến triển của nó cho đến nghĩa thông dụng hiện nay, và sự tiến triển đó thường theo một logic rất chặt chẽ. Vậy ngay cả khi đã biết nghĩa của từ rồi (với vô số từ đồng nghĩa của nó), ta nên luôn luôn kiểm tra lại nghĩa từ nguyên (nếu có thể).
2. VVT thiếu sự nhạy cảm với từ ngữ, và có thể là thiếu nhạy cảm nói chung, cứ xem cách hành văn của ông ấy là đủ biết. Có thể ông ấy thiên về lý trí quá, vì nghiên cứu lý thuyết văn học nhiều mà chểnh mảng phần đọc tác phẩm. Vậy mà nghiên cứu bao giờ cũng phải nhường bước cho sáng tác, và không ai dám dạy cho các nghệ sĩ cách sáng tạo cả. Tôi tin rằng chính tư duy cảm xúc (sự nhạy cảm) sẽ đưa chúng ta đi rất xa, tạo những bước đột phá, chứ không phải tư duy lý trí. Vậy thì tôi nghĩ ông VVT nên đọc nhiều tác phẩm hơn, đặc biệt là bi kịch, vì Aristote cho rằng bi kịch thanh lọc những cảm xúc trong tâm hồn (catharsis).
LH
Tôi lại đọc bài phê bình của ông Hà Thúc Lang, không có gì mới so với VVT. Tất cả những lời bình và đề nghị dịch thuật của ông ấy đều rất lôi thôi, CVD hầu hết vẫn dịch đúng và hay (CVD có sự nhạy cảm về từ ngữ mà cả hai ông kia đều thiếu, vì toàn dùng lý trí để suy luận văn chương nên nghe rất kỳ cục). CVD cũng sai đôi chút nơi này nơi khác không đáng kể, trừ ở số 11, câu « J'aurais pu m'en douter», « Lẽ ra tôi đã phải ngờ đến điểu đó ». Còn câu dịch của HTL « Lẽ ra tôi có thể đoán được điều này từ trước” thì nghe thô thiển chứ chẳng tinh tế gì.
ReplyDeleteVậy thôi tôi không phân tích bài của ông HTL nữa, mời ông ấy cứ mở tự điển từ nguyên ra mà tra, và làm giống như tôi khuyên ông VVT, tức là đọc nhiều tác phẩm văn học vào.
Có lý thuyết cho rằng người dịch giống như người lái đò đưa khách qua sông. Tôi cho rằng CVD như một con đò quen, người chèo đò biết chèo chống lại thuộc dòng nước. Nếu ai muốn đi đò to, anh lái đò lại đẹp trai, thì cứ ngồi bên bờ sông mà chờ. Còn VVT và HTL thì giống như hai chiếc thuyền thúng, ai biết bơi mà lại can đảm thì cứ leo lên, chắc cũng tới được bờ bên kia.
Này Nhị Linh đừng có « kiểm duyệt » comment này của tôi kẻo tôi sẽ giận không phát biểu ý kiến nữa.
LH
Cám ơn bác LH. Tôi rất cảm kích vì bác bỏ thời gian đọc kỹ từng chỗ. Qua các nhận xét của bác, tôi có thể thấy rằng trình độ tiếng Pháp của bác rất cao, hiểu sâu ngôn ngữ. Công việc của tôi thực sự nhiều lúc rất cần ý kiến của những người chuyên hẳn về ngôn ngữ như bác, nhất là khi bác sẵn sàng phê phán tôi một cách thẳng thắn khi thấy rõ là tôi sai.
ReplyDeleteSau này mong bác đôi khi chỉ giáo thêm cho. Vụ việc này tôi sẽ không đả động nữa. Cuộc đời còn nhiều việc quan trọng và hay ho để làm lắm. Chúc bác sức khỏe và niềm vui công việc.
Hihi, không dám, không dám! Tôi rất vui nếu giúp ích được cho bác và các bạn học tiếng Pháp.
ReplyDeleteTôi cũng chúc bác luôn vui mạnh, nghiên cứu chăm, dịch khỏe!
LH
Oh where is... NSC? in another name? :-)
ReplyDeleteTôi mà có cô vợ như LH thì sướng quá, làm gì cổ cũng bênh, nhưng ở nhà chắc đánh nhau suốt ngày, hehe
ReplyDelete