Do nhầm lẫn, trên mạng có một bài phỏng vấn Nabokov ghi là tôi dịch. Chuyện nhầm lẫn kiểu này tôi đã gặp vài lần. Cho đến giờ, thứ duy nhất liên quan đến Nabokov mà tôi từng dịch là đoạn đầu hồi ký Speak, Memory dưới đây.
Cái nôi đung đưa phía trên một vực thẳm, và lương tri dạy
cho ta rằng sự tồn tại của ta chỉ là chút ánh sáng ngắn ngủi le lói qua cái khe
kẹp giữa hai vĩnh cửu bóng tối. Dẫu cho chúng có là một cặp song sinh giống hệt
nhau, thì theo lẽ thường con người vẫn bình thản hơn lúc nhìn vực thẳm trước
khi sinh so với lúc nhìn vực thẳm anh ta đang tiến tới (ở tốc độ bốn nghìn năm
trăm cú đập tim một giờ). Tuy nhiên, tôi biết một thằng bé mắc chứng ám ảnh sợ
thời gian bị lên cơn hoảng hốt khi lần đầu tiên xem những đoạn băng video do người
nhà nó quay cách vài tuần trước khi nó ra đời. Nó thấy một thế giới gần như
không có chút biến đổi nào - vẫn ngôi nhà ấy, vẫn những con người ấy - và rồi
nhận ra ở đó nó không hề tồn tại và chẳng ai khóc thương cho sự vắng mặt của
nó. Nó thoáng thấy mẹ nó đứng vẫy tay từ một cửa sổ tầng trên, và cử chỉ bất
thường này khiến nó phát hoảng, vì cứ như thể đó là một lời chào vĩnh biệt đầy
bí ẩn. Nhưng nó sợ nhất lúc thấy một cái xe nôi cho trẻ sơ sinh mới cứng nằm đó
dưới hàng hiên, với cái vẻ tự mãn, ngạo mạn của một cỗ quan tài; cỗ quan tài
trống trơn, thế nhưng cứ như thể đến cả xương cốt của nó cũng rã rời trong dòng
thời gian chảy ngược.
Những huyễn tưởng kiểu ấy không xa lạ với những người còn
trẻ. Thế nhưng, để nói điều này theo một cách khác, những gì ở khởi nguồn và
những gì ở chung cục đều thường xuyên mang chút dáng dấp của tuổi thiếu niên -
có lẽ trừ phi chúng được dẫn dắt bởi một thứ tôn giáo đáng kính và nghiêm cẩn.
Tự nhiên trông chờ rằng một người trưởng thành đầy đủ phải chấp nhận hai khoảng
hư vô tối đen ở phía trước và ở phía sau, một cách hờ hững giống như khi anh ta
chấp nhận những cảnh tượng lạ kỳ ở khoảng giữa. Trí tưởng tượng, khoái thú tột
bậc của những người bất tử và những người chưa trưởng thành, phải bị giới hạn
lại. Muốn tận hưởng cuộc đời thì ta không được hưởng thụ nó thái quá.
Tôi nổi loạn chống lại tình trạng này. Tôi cảm thấy nỗi
thôi thúc phải thực hiện cuộc nổi loạn ấy ở bên ngoài con người mình, phải chặn
lối tự nhiên. Trí óc tôi không ngừng nỗ lực phi thường để nhìn cho ra những tia
sáng cá nhân dù là yếu ớt nhất trong cái bóng tối phi nhân xưng nằm ở cả hai
phía của cuộc đời tôi. Bóng tối này chỉ đơn thuần được tạo ra bởi những bức
tường thời gian chia cách tôi và những nắm đấm trầy xước của tôi khỏi thế giới
tự do phi thời gian, đó là niềm tin mà tôi sẵn sàng vui sướng chia sẻ với kẻ
man dã tô vẽ lên mình một cách lòe loẹt nhất. Trong tâm tưởng - cái tâm tưởng
mỗi lúc một vô vọng mà mờ nhạt thêm trên đường đi - tôi trở ngược về những vùng
xa xôi nơi tôi dọ dẫm tìm một cửa mở bí mật, chỉ để phát hiện ra rằng nhà tù
thời gian có dạng cầu và không hề có lối ra. Ngoại trừ tự sát, tôi đã thử hết
mọi thứ. Tôi từng vứt bỏ căn cước riêng của mình nhằm cải trang thành một bóng
ma đúng nghĩa rồi đột nhập vào những vương quốc từng tồn tại trước khi tôi được
hoài thai. Trong óc mình tôi từng chịu đựng sự đồng hành hạ cấp của các bà tiểu
thuyết gia thời Victoria rồi những ông đại tá về vườn nhớ rằng mình đã, ở các
kiếp trước, là sứ điệp nô lệ trên một con đường La Mã hoặc nhà thông thái dưới
bóng rặng liễu Lhasa. Tôi từng lục lọi trong những giấc mơ xưa cũ nhất của mình
để truy lùng chìa khóa và manh mối - và cho phép tôi nói ngay rằng tôi gạt bỏ
hoàn toàn cái thế giới của Freud, thô thiển, kém cỏi, về bản chất đầy tính chất
Trung cổ, với sự truy tìm hau háu các biểu tượng tính dục của nó (khá là giống việc
đi tìm những dấu vết của Bacon trong các tác phẩm của Shakespeare) và những phôi
thai bé nhỏ rất hăng hái của cái thế giới ấy cứ từ trong ổ trú ngụ tự nhiên mà
rình mò cuộc đời tình ái của bố mẹ chúng.
(đoạn về Shakespeare và Bacon dường như Nabokov muốn nói tới câu chuyện nhiều người cho rằng Francis Bacon mới là tác giả thực của nhiều tác phẩm xưa nay vẫn được cho là của Shakespeare)
No comments:
Post a Comment