Showing posts with label jean-paul-sartre. Show all posts
Showing posts with label jean-paul-sartre. Show all posts

Apr 1, 2017

Mất mật khẩu

Sẽ đặc biệt nhàm chán khi cứ nhắc đi nhắc lại rằng Céline tiên tri rất nhiều điều. Vì ngay từ đầu, Đi đến cùng đêm đã nói gần như mọi thứ, rằng cuộc đời con người là chuyến đi, nhưng đó là một chuyến đi có đặc điểm là diễn ra trên một triền dốc, và cái triền ấy không hướng lên, mà hướng xuống. Sau đó, đến Chết trả góp (Mort à crédit): sống thì là đi xuống mãi, nhưng chết, ngay cả chết, cũng không phải là giải thoát, làm gì có giải thoát hay cứu rỗi khi mà chết, nghĩa là chết nhiều lần, chết đi chết lại, và chỉ có chết mới tạo ra lòng tin (crédit), có lòng tin thì mới được phép "mua chịu", "mua trả góp". Tài sản duy nhất mà con người sở hữu chính là cái chết của hắn, nhưng ngay thứ tài sản này cũng nực cười vô cùng.

Oct 6, 2016

Michel Foucault (ii)

Bốn khái niệm nằm ở trung tâm các suy nghĩ của Michel Foucault: discours tức định ngôn, énoncé, archive và archéologie. Tất nhiên, còn phải kể đến chẳng hạn phoọc-ma-xi-ông (formation), strate (vỉa, tầng), dispositif hay sujet, nhưng vào lúc này ta tạm chỉ khoanh vùng bốn thứ kể trên.

Aug 20, 2016

phải tuyệt đối đáng ghét

Céline (không đi ông, và cũng chẳng túi xách, giày dép, quần áo), dựng lên, trên con đường dẫn vào thế giới của mình, vô số chướng ngại vật: vô vàn dấu ba chấm khó chịu mới chỉ là một chuyện nho nhỏ, cái thứ ngôn ngữ tưởng chừng không thể đưa vào văn chương ấy, ngôn ngữ của ngoài chợ, trên những phố nhỏ nhếch nhác của những khu không đẹp; và nhất là, một chướng ngại vật khủng khiếp: sự đáng ghét; nhưng đó cũng chính là lòng nhân đạo của Céline, nếu như mà đối với Céline ta vẫn có thể nói đến lòng "nhân đạo"; những chướng ngại vật đó đã rất nhiều lần ngăn cản tôi, qua được cái này thì lại xuất hiện cái khác, nhiều vô kể, nhưng ý nghĩa của "đêm" có lẽ chính là như vậy, đi trong đêm, có bao giờ nhìn thấy cái gì đâu

Jan 10, 2016

Trần Đức Thảo

Đợi mãi không thấy đâu, suốt từ năm ngoái qua năm nay (xem ở đây), tôi chán rồi. Tôi sẽ nói trước luôn, và sẽ không trở lại chuyện này nữa.

Tôi chỉ nói đúng một điều duy nhất: ý nghĩa sự tồn tại của Trần Đức Thảo.

Nov 20, 2012

Một thế giới đực

Cũng như trong thế giới Anh-Mỹ, thêm một bản dịch văn học Mỹ Latinh sang tiếng Việt là một chiến công. Bên đó, New Directions và New Letters đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc đưa các nhà văn như Cesar Aira, Roberto Bolaño đến tay độc giả. Ở Việt Nam, không có nhiều tác phẩm văn chương Mỹ Latinh được dịch từ nguyên ngữ.

Thành phố và lũ chó (Mario Vargas Llosa) được dịch từ tiếng Tây Ban Nha và là một cuốn tiểu thuyết đậm đặc "đực tính". Thế giới Latinh, kể cả Mỹ Latinh, luôn luôn nặng tính đực, nhưng hiếm khi nào cái đực tính ấy rõ ràng, đặc quánh, tràn trề như ở một số tiểu thuyết, trong đó có Thành phố và lũ chó. Tác phẩm đầu tay của Vargas Llosa là nơi ông phô bày đặc tính này một cách hào phóng hơn hết, nhưng lại đậm màu khắc kỷ của một môi trường kỷ luật nghiêm ngặt (một trường thiếu sinh quân toàn nam sinh, nghiệt ngã đến từng chi tiết ngủ dậy đánh răng xếp hàng).

Trong Thành phố và lũ chó đã có đầy đủ các yếu tố kỹ thuật viết văn sau này sẽ đưa Vargas Llosa lên hàng bậc thầy văn chương thế giới. Cho đến gần cuối cùng, tôi vẫn bị tác giả đánh lừa ở một vài chi tiết, mặc dù đã hết sức cẩn thận và ý thức rất rõ về cách bài binh bố trận chữ nghĩa và phương thức trần thuật ở văn chương Vargas Llosa.

Và nhất là đực tính trong cuốn tiểu thuyết, nhiều lúc đến mức gây khó thở, hơn nhiều so với Dì Hulia và nhà văn quèn, hơn nhiều cả so với Trò chuyện trong quán Catedral.

Và cũng đặc biệt gần với Jean-Paul Sartre. Nhờ đọc Thành phố và lũ chó tôi mới biết câu "Tôi sẽ đập vỡ mặt kẻ nào bảo tuổi hai mươi là cái tuổi đẹp nhất" là của Paul Nizan chứ không phải của Robert Brasillach như xưa nay vẫn nghĩ. Nizan là bạn thân của Sartre từ bé, trông rất giống nhau, cũng bé nhỏ gầy gò, nhưng chết sớm, đặc biệt giống Sartre ở khuôn mặt, và giống hơn nữa là cũng lác (có điều Sartre và Nizan lác ngược bên nhau).

Cũng như dịch giả Nguyễn Khánh Long, dịch giả Lê Xuân Quỳnh cũng mới qua đời. Bản dịch Thành phố và lũ chó này tuy đã xong xuôi nhưng chưa hẳn là đã hoàn chỉnh. Anh Cao Đăng và tôi đã cố gắng chu toàn việc sửa chữa cho bản dịch.

Đây là bài viết về một bản dịch khác của Lê Xuân Quỳnh.

Mar 29, 2011

Barthes: Hai phê bình

Bài này Roland Barthes viết năm 1963 trên Modern Languages Notes, cùng loạt bài về "phê bình", ở Việt Nam hình như La Khắc Hòa đã dịch bài "Qu'est-ce que la critique?" (Phê bình là gì?), đăng TLS cùng năm với bài "Les deux critiques" này. Loạt bài này đều được lấy lại in trong Essais critiques. Cứ tằng tằng thế này khéo chả mấy mà tôi xơi hết cả quyển Essais critiques :d Có nhà xuất bản nào mặn hông?



Hiện nay ở Pháp đang có hai phê bình tồn tại song song với nhau: một phê bình mà ta sẽ gọi, để đơn giản hóa, là học thuật, chủ yếu là thực hành một phương pháp thực chứng thừa hưởng từ Lanson, và một phê bình diễn giải, với các đại diện, rất khác biệt với nhau, bởi họ là J.-P. Sartre, G. Bachelard, L. Goldmann, G. Poulet, J. Starobinski, J.-P. Weber, R. Girard, J.-P. Richard [Poulet, Starobinski và Richard thì tôi đã nói đến lần trước, còn René Girard thì từ từ mình sẽ trình bày học thuyết về nhân học cái ác của ông í :p], có một điểm chung là cách tiếp cận tác phẩm văn chương của họ có thể được gán vào, dù ít dù nhiều, nhưng thế nào thì cũng là có ý thức, với một trong những ý hệ lớn của lúc này, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa Marx, tâm phân học, hiện tượng học, chính bởi vậy mà người ta cũng có thể gọi phê bình này là phê bình ý hệ, để đối lập lại với loại phê bình thứ nhất, loại phê bình từ chối mọi ý hệ và chỉ tự tuyên bố một phương pháp thực chứng. Giữa hai phê bình này, dĩ nhiên là có các kết nối: một mặt, phê bình ý hệ trong phần lớn thời gian được các giáo sư thực hiện, vì ở Pháp, ai cũng biết, do các nguyên nhân thuộc truyền thống và nghề nghiệp, vị thế trí thức dễ dàng bị lẫn lộn với vị thế học thuật [đại học]; và mặt khác, Đại học rồi cũng đã công nhận phê bình diễn giải, bởi một số tác phẩm trong số đó là các luận án tiến sĩ (quả là được bảo vệ dễ dàng hơn trước các hội đồng triết học so với các hội đồng văn học). Tuy nhiên, chưa nói đến đối đầu, sự phân tách giữa hai phê bình là có thực. Tại sao?

May 6, 2010

Đi tới cái phổ quát

Lần này quyết định không nói vo mà viết ra đàng hoàng, nhưng bài viết này đúng là dùng để bổ trợ cho phần nói, chứ không hoàn chỉnh, nhất là đoạn cuối. Coi như là phần concept thuần túy, chưa gọt rũa gì cả.

-------------

Không biết độc giả của Kundera nói chung có giống như tôi, để ý đến các tên riêng trong tác phẩm của ông hay không, kể cả tên địa danh lẫn tên người, nhất là tên người. Khi đọc nhiều Kundera, tôi nhận ra một điểm hết sức lý thú: có một chiến lược về đặt tên và sử dụng tên riêng nhất định, không tường minh lắm nhưng vẫn hiện ra nếu ta chịu khó tìm. Hiện tượng này sẽ được tôi phân tích từ mấy khía cạnh: thứ nhất là đặc điểm chung trong tên riêng ở tác phẩm của Kundera, và tên riêng nằm trong hoạt động sửa đổi đầy ý thức của nhà văn.

Aug 3, 2009

Sống để kể lại

Khi đọc Tự thú (Confessions) của Jean-Jacques Rousseau, cuốn tiểu thuyết-tự truyện đầu tiên trong lịch sử văn học, người ta nghĩ tự truyện phải được viết giống như cách của Rousseau. Khi đọc Chữ (Les Mots) của Jean-Paul Sartre, người ta lại nghĩ hẳn đó mới là lối viết tự truyện hay hơn cả. Nhưng khi đọc đến Sống để kể lại (Vivir para contarla) của G. Garcia Marquez, dường như tự truyện còn có một lối khác nữa, vẫn còn khả năng khác để đi theo.

Khi Garcia Marquez viết Trăm năm cô đơn vào năm 1967, ông viết cuốn tiểu thuyết của đời mình, còn khi ông viết Sống để kể lại, ông viết cuốn tiểu thuyết về đời mình. Khó nói được là giữa thế giới Macondo trong tưởng tượng của chàng thanh niên Garcia Marquez và thế giới thật, trải từ Barranquilla, Aracataca, Sucre cho đến Bogota của ông già Garcia Marquez, thế giới nào hấp dẫn hơn. Trăm năm cô đơn ghi danh đất nước Colombia vào bản đồ văn học thế giới, còn Sống để kể lại ghi tên Garcia Marquez với tư cách một con người lên lịch sử nhỏ của gia đình và lịch sử lớn của đất nước. Ngoài ra, cuốn tự truyện không hoàn toàn tách biệt khỏi hệ thống tiểu thuyết của Garcia Marquez; quả thực ông lấy con người ông ra làm đối tượng để mổ xẻ, để tìm hiểu, và cả để cười cợt, không những thế ông còn phân nhỏ cuộc đời mình thành những mảnh thời gian, nghĩa là ông vẫn trung thành thực hành cái kỹ thuật xử lý thời gian đã từng đưa ông lên hàng nhà văn lớn nhất của thế giới, chứ không hề tuyến tính như những cuốn hồi ký nhàm chán khác, lỗi lầm mà ngay nhiều nhà văn nổi tiếng cũng từng phạm phải.

Jul 14, 2009

Papa cũng đi ăn mảnh

Thường thì sau khi chết các nhà văn (nhất là lớn, nhỏ ai mà quan tâm) mới bắt đầu trở nên rộn ràng. Tờ The Guardian ở đoạn cuối bài này liệt kê một số vụ việc mới đây, liên quan tới một số người như George Orwell hoặc André Malraux. Tất nhiên toàn là những chuyện mang tính tiêu cực, nhất là thường xuyên dính dáng đến những thứ tài liệu mới được công bố.

The Guardian có vẻ bỏ qua hai nhà văn tên tuổi khác: Kundera và Auden. Kundera từng bị cáo buộc chỉ điểm theo giấy tờ của công an mật Tiệp Khắc, còn Auden làm thơ ca ngợi Stalin. Vụ Kundera có vẻ không còn ai nói đến nữa.

Nhân vật chính lần này là Ernest Hemingway. Theo quyển sách vừa xuất bản Spies: The Rise and Fall of the KGB in America (Yale University Press) của ba tác giả John Earl Haynes, Harvey Klehr and Alexander Vassiliev, Ernest Hemingway bắt đầu được KGB tuyển làm nhân viên cho mình vào năm 1941. Không những thế, Hemingway còn tự đề nghị được phục vụ. Năm 1941 là ngay trước khi Hemingway sang Trung Quốc, tại đó ông gặp Tưởng Giới Thạch (công khai) và Chu Ân Lai (bí mật).

Nhân vật đáng chú ý trong ba tác giả kể trên là người mang họ Nga: Vassiliev; đó là một cựu sĩ quan KGB, đã xâm nhập được kho hồ sơ thời Stalin.

Tuy nhiên theo cuốn sách, câu chuyện không có gì là ly kỳ cả: sau vài năm không thấy Hemingway cung cấp được tài liệu chính trị gì quan trọng, KGB đánh giá ông là loại "điệp viên tài tử" (dilettante spy) và rốt cuộc gạch tên khỏi danh sách. The Guardian chỉ nhẹ nhàng nói là Hemingway chắc "lose some of his lustre".

Có thể Papa thiếu tiền hoặc thấy thiếu cảm giác mạnh nên định phiêu lưu một chuyến chăng?

+ Còn ở đây khi các bạn nói đến chuyện đích danh với tên thật sao mà mình thấy funny thế (chú ý các comment).

+ Frederic Raphael mà viết lách như thế này bằng tiếng Việt chắc bị dân tình chửi chết cha vì cứ tương từ ngữ ngoại nhập vào. Không trong sáng tiếng Anh và không thuần thục tinh thần dân tộc, đã thế lại cứ chơi trò elite: viết tiếng Anh thế này có chết không cơ chứ: "just the kind of remark to nettle the bien-pensants", "Le Lièvre de Patagonie leaps from episode to episode of a vie mouvementée" hay là "during the plus beaux jours of Saint Germain-des-Prés", từ tiếng Anh thì cũng lại toàn chơi gốc Pháp, như là "rancour" chẳng hạn. Hê hê nhưng personally thì tôi thấy đọc rất dễ hiểu.

Bài này điểm quyển hồi ký mang tên Le Lièvre de Patagonie, của nhân vật nói tên ra là đã thấy oách rồi: Claude Lanzmann. Quyển này là quyển tôi đang chờ đợi nhất, mà không biết đồng chí đang cầm bỗng dưng lưu lạc đâu mất dấu vết. "Into the Wild" chăng :) Phần câu khách của bài (bài điểm sách thường có một hoặc nhiều yếu tố câu khách) là khi Raphael viết về Lanzmann hồi trẻ: