Jan 8, 2012

Bùi Giáng không điên không tỉnh

Trong thơ của miền Nam trước 1975, người ta hay xếp Bùi Giáng cạnh Phạm Công Thiện, nhưng theo tôi người cần đặt cạnh Bùi Giáng là Thanh Tâm Tuyền, để thấy rằng thơ miền Nam hồi đó có những antipode đến mức thế nào. Ở đây không chỉ là chuyện tự do tư tưởng cho phép nảy sinh và nuôi dưỡng sự đa dạng, mà còn là chuyện các khả thể của thơ đã được một số người đẩy đi nhiều hướng, xa hết mức. Giờ đây nhìn lại, đó là điều căn bản khác giữa thơ miền Nam và thơ miền Bắc. Thơ miền Bắc thời ấy cũng rất đông đảo và không ít người tài năng, nhưng hoàn toàn khác, có thể là vì không có chuyện đi về những cực điểm khác nhau.

Và thêm nữa, các đối cực ấy lại hiểu nhau sâu sắc: bài viết quan trọng nhất về Bùi Giáng cho tới giờ hẳn vẫn là bài của Thanh Tâm Tuyền, và ngược lại, Bùi Giáng cũng đặc biệt coi trọng tài năng của Thanh Tâm Tuyền.

-----------

Nản nhất là gặp phải những nhà thơ khi nhắc tới là nhất nhất phải tuân theo một sơ đồ định sẵn, như Huy Cận thì sầu, Xuân Diệu thì ríu rít, Vũ Hoàng Chương thì mây khói, Bùi Giáng thì điên. Cũng thật nản khi bàn tới Bùi Giáng nhất định người ta cứ phải quay cuồng trong “Hằng thể”, “Cố quận”, “Quy hồi”, “Tồn lưu”, “Yếu tính”, “Phiêu bồng”, “Ẩn ngữ”, vân vân và vân vân, trong khi thơ Bùi Giáng hoàn toàn có thể là một cõi đơn giản nhất, cõi của “Năm xưa châu chấu mang tên chuồn chuồn”, và để đi vào đó thì những từ ngữ giản dị nhất cũng hữu hiệu ngang bằng ngôn từ uyên áo dị kỳ nhất. Hoặc chẳng ngôn từ nào là cần thiết cả.

Người ta có nói gì về sự điên của Bùi Giáng, rằng đó là điên đẹp, điên lớn (nghe cũng thích), thì với tôi ông vẫn không điên. Không điên nhưng cũng không tỉnh. Mà là một sự ở giữa, một sự cân bằng nào đó không thể gọi tên, nhưng cân bằng đích thực. Ta rất khó nói người điên có cân bằng hay không, và rất có khả năng người điên dễ đạt tới mức cân bằng hơn người tỉnh, còn Bùi Giáng bình thản trong sự xa lạ và mênh mông: “Vào trong cõi bờ nào bát ngát, trung niên thy sỹ cũng tự biến mình làm người khách lạ mênh mông”. Người tỉnh chắc chắn không rộng lượng, người điên chưa chắc đã rộng lượng, nhưng người cân bằng thì rộng lượng, nên Bùi Giáng bảo “độc giả hãy hồn nhiên bỏ chân xuống ngày tháng, xuống ngã ba, hình thành bước đi cho những con đường ngã bốn, ngã năm ngã sáu ngã bảy. Thế là tốt lắm”. Nhìn ra ở ý nghĩ này một nguồn gốc Heidegger (Những con đường không dẫn về đâu) thì cũng được, cũng hay, nhưng không nhất thiết. Và cõi Bùi Giáng nhất quyết là khác cõi Thanh Tâm Tuyền, người tuyên bố: “Ở đây tôi là hoàng đế đầy đủ quyền uy”.

Bởi Bùi Giáng không giống người khác ở chỗ: những người khác họ đến một cõi, họ xin lấy một chỗ cho mình, hoặc giả họ cướp lấy, rồi mở rộng, bành trướng, còn Bùi Giáng thì ngay từ đầu đã tạo ra một cõi riêng, cái cõi ấy hay được miêu tả là mênh mông, phiêu bồng, rộng như sa mạc, rộn ràng phong phú, nhưng hoàn toàn cũng có thể nghĩ là một cõi đơn sơ, đạm bạc, và nhỏ bé. Dù có thế nào, thì cõi đó cũng là một cõi thoải mái bậc nhất mà độc giả của thơ có thể tìm ra, cái cõi mà Bùi Giáng xây dựng nên bằng Thơ Việt Nam, có điểm thêm chút “tư tưởng hiện đại” nhưng chủ yếu vẫn là Thơ Việt Nam, cụm từ mà ông dùng nhiều lần, nhưng được phát ngôn từ ông, nó không còn mang cái tính chất chật chội khó chịu của các quan điểm quốc gia chủ nghĩa.

Thơ Việt Nam của Bùi Giáng có Nguyễn Du oai vệ, có những thần tượng mà không bao giờ ông hạn chế lời khen tuyệt mù: Huy Cận, Ngân Giang, Hồ Dzếnh (mà có lúc ông nhất định gọi là Hồ Xuân Dzếnh), và nhất là thơ lục bát. Bùi Giáng là người có tuyên dương thơ lục bát theo cách thức hiển hách nhất: “lục bát Việt Nam là cõi thi ca hoằng viễn nhất”, và trên cuộc tiếp sức vĩnh viễn của lục bát Việt Nam (của những Nguyễn Du, Nguyễn Bính, Hồ Dzếnh, và, biết đâu, cả Nguyễn Thế Hoàng Linh) Bùi Giáng là một vận động viên có nước chạy trông đủng đỉnh nhưng thật ra tốc độ và phong thái đều tuyệt vời.

Nhưng cõi thơ của Bùi Giáng, nằm bên trong (hay nói đúng hơn là bên lề, một bên lề thật thoải mái dễ chịu) Thơ Việt Nam, cũng có những phép tắc nhất định, đảm bảo cho nó không rơi hẳn vào địa hạt sự điên mà cứ ở lại mấp mé bên rìa, không phải theo kiểu “Bây giờ tôi dại tôi điên/Chắp tay tôi lạy cả miền không gian” (Hàn Mặc Tử). Ở trong đó, chữ nào cũng được phép ở bên cạnh một chữ khác, nhưng nhìn cho kỹ thì cũng không hoàn toàn như vậy, vẫn có những ngôi cao ghế ngự cho một số từ, một số cách phát ngôn. Ở trong bình luận thơ, mà Bùi Giáng gọi là Đi vào cõi thơ, hay Thi ca tư tưởng, rồi Ngày tháng ngao du, đầy ắp những khen ngợi, những vinh danh nhiều khi cuống cuồng: “Thanh Tâm Tuyền như một vị tướng lãnh gan lì, sử dụng một loại võ công chỉ riêng một mình ông đạt tới quai nhai cảnh giới” hay “thơ Huy Cận quả có như là cõi miền huyền bí nhất của tinh thể Đông Phương”, rồi “Phải quên mấy bài lục bát của ông Hồ Dzếnh thì mới còn can đảm làm thơ”. Thế nhưng, cũng không chỉ toàn là lời khen: sự cân bằng của cõi ấy được đảm bảo bằng việc Bùi Giáng chê Chế Lan Viên điên vờ, nói về Tản Đà: “Thơ của tiên sinh làm, chẳng có chi xuất sắc”, rồi “Thơ Nguyễn Công Trứ là một con zéro. Thơ Cao Bá Quát là một con zéro rưỡi”.

Những màn chuyển hóa điên-tỉnh của Bùi Giáng gợi ra ở Thanh Tâm Tuyền cảm giác về một sự “rỡn đầy thảm họa” (trong bài viết quan trọng “Bùi Giáng, một hồn thơ bị vây khổn” hồi 1973), một nghịch lý tất yếu để đạt tới chỗ cân bằng: bên cạnh những câu như “Sáng nay bao tử mơ mòng/Cà phê bên nọ cháo lòng bên kia” thì cũng lại có những câu kiểu “Anh nằm xuống để nhìn lên cho thỏa/Anh thấy lòng mở rộng đón trời xanh”, có lúc trong Đi vào cõi thơ hay Thi ca tư tưởng Bùi Giáng nói rỡn chơi về Vũ Hoàng Chương, nhưng ông cũng lại viết về tập Rừng Phong của Vũ thi sĩ theo đúng thể thức phê bình gia chuyên nghiệp: “Hình như tác giả Rừng Phong đã can đảm thành thật nói được cái gì mà từ lâu chúng ta không dám. Tác giả đã thành thật nói, cũng như đã thành thật sống”, rồi “Cái say của Vũ Hoàng Chương là cái say của người muốn sống tỉnh, lòng còn hoài vọng lý tưởng giữa thực tế buồn thương” (tạp chí Văn số chuyên đề Vũ Hoàng Chương, 1970).

Những nghịch lý đơn sơ đó, Bùi Giáng cũng từng viết ra rành rọt trong “Viết lại Nam hoa kinh” với số 7: “Suốt năm khắc khoải loay hoay mà tự cho mình thanh thoát phiêu bồng, ấy là đạo vậy” rồi số 13: “Chán chường thi ca, mà cứ làm thơ hoài, ấy là đạo vậy”.

Rồi sau rốt là cái nghịch lý theo đó Bùi Giáng khi thì được coi là nhà thơ trác tuyệt lúc lại bị xem là người lảm nhảm tự lặp lại mình đến phát ngán. Sự tự lặp lại này là hiển nhiên, ai cũng thấy, nhưng với tôi, đó là một sự lặp lại đương nhiên của một cõi thơ muốn là cân bằng (và đơn giản): “tà huy” nhắc đi nhắc lại đến kiệt cùng, nó sẽ không còn là “tà huy” bất ngờ, chói lọi, sáng lòe, gây choáng váng âm u của Ôn Như nữa, vì “tà huy” mà Bùi Giáng muốn là một thứ bình thường trong tầm tay với, tưởng như có thể ngồi bên cạnh ta mà trò chuyện chứ không cao xa nỗi gì.

Con người ấy, theo một chuyển biến vật lý hay hóa học kỳ lạ nào đó, sau những trải nghiệm ngặt nghèo kinh hoàng của cõi đời, đã tới được một cõi cân bằng nhỏ bé nằm đâu đó ở chốn thơ ca, để mà khẳng định rằng: Thơ vô tận vui.

-----------
"tà huy" nổi tiếng nhất của Bùi Giáng: "Em về giũ áo mù sa/Trút quần phong nhụy cho tà huy bay", còn "tà huy" của Ôn Như Nguyễn Gia Thiều: "Cầu thệ thủy ngồi phơi cổ độ/Rừng thu phong đứng rũ tà huy"


về Bùi Giáng, xem thêm ở kia

23 comments:

  1. Hay thật! giọng thật là khinh khoái;p Nhờ bài này mình sẽ đỡ phân vân hơn khi đọc BG :))

    ReplyDelete
  2. Oh... One of "Những quả bầu của Seibei" is here, small and beautiful :-)

    ReplyDelete
  3. ông Nguyễn Quốc Trụ là một người mát nặng khi ông ấy chuyên môn tưởng người khác lấy ảnh hưởng từ TV của ông. Ông già thiệt vô duyên

    ReplyDelete
  4. hì, có gì đâu, Mr Tin Văn khoái chí và vui vẻ thôi, tôi cũng lấy cảm hứng từ trang TV thật mà, nhưng là đoạn đầu trước dòng gạch mà tôi mới viết hôm qua, còn bài chính tôi viết xong từ trước khi Mr Tin Văn "tưởng niệm Bùi Giáng"

    nếu gọi là cảm hứng thực thụ thì đó là cái oxymore của Thanh Tâm Tuyền: "rỡn đầy thảm họa"; tôi chỉ làm một việc là nghĩ tại sao TTT lại viết vậy về BG thôi :)

    ReplyDelete
  5. Mượn ý người ra ý mình, là chuyện rất thường, có gì mà mát?
    NQT

    ReplyDelete
  6. Cái còm của NQT có trước cái reply của NL
    NQT

    ReplyDelete
  7. Bác Ano không nên nói như thế. Bác Tin Văn là một trong số ít người có tình yêu văn chương vô tư. Bác không thích thì đừng vào trang của bác ấy, sao lại nói người ta vô duyên.

    ReplyDelete
  8. "của những Nguyễn Du, Nguyễn Bính, Hồ Dzếnh, và, biết đâu, cả Nguyễn Thế Hoàng Linh" ===> sao còn phải do dự về NTHL ?

    ReplyDelete
  9. Bào này đọc thấy quen quen, nội dung không có gì mới so với những bài đã viết về Bùi giáng.

    ReplyDelete
  10. Cậu ấm: hì, ai cảm thấy khẳng định được thì cứ khẳng định thôi :p

    ReplyDelete
  11. Bác Trụ nói linh tinh có cái trật cái đúng. Bác ấy búa BBT Da Màu không rành tiếng Việt cũng đúng. Ai đời bà chủ bút Đinh Từ Bích Thúy biên trên báo Da Màu dạy dỗ mọi người là "Công" (trong Công Dung Ngôn Hạnh) là Duyên, nên dịch ra tiếng Anh là "GRACE". Trời đất !!! "Công" dịch ra là "Grace" sao được. "Công" dịch đúng nhất là "Work" hay "Work Ethic" thì còn được. Dịch sai bét thế mà không ai lên tiếng. Hay lên tiếng mà bà chủ không cho đăng ??

    ReplyDelete
  12. "Chúng tôi đứng ở cuối vườn. Bấy giờ gió thổi mạnh, cành lá xào xạc ở phía trên đầu. Đám phi lao ngập ngừng chuyển mình, nửa muốn phụ họa gió, nửa muốn kéo dài giấc ngủ im lìm buổi trưa. H. cùng đứa em đánh đu ở phía trước. Hàng cây che khuất tầm nhìn của tôi. Mỗi lần chiếc đu trở lui về phía sau, thân hình người con gái lại hiện ra giữa hai thân cây phi lao, rồi lại mất đi một cách đều đặn. Tiếng cười giòn, nhẹ và ấm vọng tới chỗ chúng tôi. Rồi gió thổi mạnh làm át đi tất cả; trong gió có những con vật bé li ti, những chiếc lá cây, và những hạt cát. Tôi dựa lưng vào thân cây phi lao, và bỗng nhận ra đời sống vô vị, buồn nản của mình, một đời sống không có gì để nhớ, hoặc để chờ: tôi chờ những lần chiếc đu trở lui về phía sau và cố nén cơn ho thường lệ buổi chiều. Tôi nghĩ tới những lần tự nhiên thức giấc trong đêm khuya, mọi người đều yên ngủ, tôi lặng lẽ nghe tôi nặng nề thở và mệt nhọc sống."
    http://www.tanvien.net/sangtac/st_da_trang.html

    Over half century later, we still feel "đời sống vô vị, buồn nản của mình, một đời sống không có gì để nhớ, hoặc để chờ..."?
    We can't find in Nabokov's Lolita this bitter note. He needs some Vodka while Mr.TinVan got it ;-)

    A Balance of Life only can be found in "Thơ vô tận vui" but somehow also in ... "nha.c vô tận buo^n`"??

    ReplyDelete
  13. Cách đây không lâu tôi trở về thăm Sài Gòn và... Việt Nam, đúng 40 năm sau lần đi cuối. Cảm giác vừa ngột ngạt vừa đau đớn trước những cái nhố nhăng (tất cả nhà thờ đều tráng xi-măng lại và sơn mầu hồng!). Nhưng đó chỉ là cảnh chí, nhưng con người Sài Gòn thì lại lịch lãm hơn cả 40 năm về trước, tạo ra sự tương phản rõ rệt giữa cảnh vật và con người. Hẳn là sống trong hoàn cảnh chênh vênh đó, vấn đề "hiện sinh" của mỗi con người là tìm ra sự cân bằng cho mình - như NL nói đến bên trên về thơ BG. Nhưng thực tế - trong đời sống thường nhật hay trong thơ văn - cân bằng không đạt được bằng sự theo một đường thẳng tắp như hình học hai chiều Euclid. Để tạo sự cần bằng nhất thiết vẫn phải vịn vào hai cực, nhưng không nghiêng hẳn vào cực nào. Thơ BG cũng tràn đầy thế đi thế đứng giữa hai cực tỉnh và điên, nghiêm trang và đừa bỡn. Điên trong tỉnh táo, đùa bỡn trong nghiêm trang. Đó là điều khiến đa số người đọc ông, theo bản năng bình thường, đã hoang mang vì mong muốn thấy một điều gì "chắc ăn như bắp". Đa số độc giả miền Nam lúc đó đều thích thơ Nguyên Sa, Tô Thùy Yên, Mai Trung Tĩnh... nhưng phải lắc đầu... chào thua ông Bùi Giáng...

    Nhưng đó chỉ mới là một khía cạnh, khía cạnh giản dị của thơ BG. Và cũng không liên hệ đến lời bình trứ danh của TTT về GB, "hồn thơ bị vây khổn". Đối với nai chưa quen với ngôn ngữ đầy ẩn dụ (và ẩn nấp) của TTT, thì còn lâu mới hiểu ông muốn nói gì, hoặc có nghĩ ra cũng chưa dám chắc là mình đúng. Tôi cũng không dám chắc, như theo những gì tôi biết, thì văn chương TTT bề ngoài hiện đại đấy nhưng thật ra là một thứ "cổ (hay tử) ngữ", như chữ Ai Cập thời Cleopatra, gần hơn như những bản tin các điệp viên gửi về sở nhà, muốn hiểu phải cần "chìa khóa" (một thứ mechanism tự vệ của những người cầm bút "serieux"). Tóm lại, "nói dzậy nhưng không phải dzậy"...

    Nhưng "cứ lần theo lối đoạn trường mà đi" thì ta có thể đặt câu hỏi giản dị: BG bị ai hay cái gì "vây khổn"? Ông BG là một trong những người tự do nhất ở Sài Gòn ngày đó, không hề bận bịu vợ con, cơm áo, ăn mặc, xã hội ý hệ... hay chủ bút, chính quyền... Nhà thương điên ông cũng vào hay ra lúc nào cũng được... ngay cả thơ ông thích làm thì làm, không thì thôi... nhiều lắm ông bị con nít tròng ghẹo tí đỉnh là cùng. Thế nhưng nhìn ông ngoài đời, không ai có thể nói là ông thoải mái sung sướng! Vậy cái gì "vây khổn", làm khổ ông? Chỉ có thể là chính ông, hay đúng hơn là cái "passion" (hiểu trong cả hai nghĩa, "đam mê" và "khổ hình") ông mang trong người. Cái passion đó khiến cho hình hai ông khô đét như một bộ xương khô. Những nhà tu khổ hạnh mà tôi gặp trong đời trông vẫn còn "mầu mỡ" hơn BG! Thơ của ông cũng chỉ ánh lên một chút cái passion của ông. Nếu ví passion của BG với lửa - ngọn lửa đã thiêu nhà thơ từng ngày - thì thơ của ông chỉ là củi đốt để giữ ngọn lửa đó cháy mãi. Ngọn lửa mà ông không thể để tắt, vì lúc đó ông cũng sẽ tàn rụi...

    Dĩ nhiên, ngoài chính BG ra khó ai có thể tưởng tượng ra cái thế giới passionnée của BG, do đó cũng không thể diễn tả bằng lời! Ta chỉ biết, những bài thơ mê tỉnh tỉnh mê của BG bao giờ cũng có bóng dáng cô Thúy Kiều (thường dưới những tên hiệu khác nhau MM, BB, Kim Cương, Ni Cô Trí Hải... cũng chỉ là một cách phòng thủ tự vệ khác). Phần những những câu thơ "để đời" của BG lẩn quất trong những câu thơ triết lý khó hiểu đều nóng bỏng "nỗi chết không rời" (passion) của ông...

    ... Anh về là hé mở môi hồng
    Và mở hé môi không hồng một lúc...

    hay

    ... Còn hai con mắt thương người một con...

    TB. Bùi Giáng có hai "đệ tử" (không chính thức) là Phạm Công Thiện và Trịnh Công Sơn. PCT chỉ học lóm được vài chiêu võ triết học, rồi ra đời múa lung tung, khiến võ lâm kinh hãi, một nửa phục một nửa ghét; TCS củ mỉ cù mì hơn, mang dáng vẻ "chân truyền" hơn, do đó cũng thành công hơn. Ông thầy nào cũng thường học trò ngoan ngoãn...

    ReplyDelete
    Replies
    1. tức là 2007? :p

      bây giờ thì tôi nhận ra thêm: ở Bùi Giáng có một năng lực thẩm thơ cao viễn vô cùng, ví dụ như BG chê tái chê hồi thơ của Tản Đà :)))

      Delete
    2. Tôi về nước một lần, Tết 1972... ra đi trước Mùa Hè Lửa Đỏ :D

      Delete
    3. BG là "thiên tài" ngôn ngữ, đi trước những người cùng thời quá xa. Có lẽ ông mà người Việt duy nhất biết đọc W.Shakespeare, M.Heidegger (nhưng chê JPS). BG là người Việt đầu tiên hiểu được liên hệ máu mủ giữa thơ và triết học như người Đức nào cũng hiểu...
      Các tác phẩm dịch thuật Miền Nam 1955-75 đều có giá trị cao, nhưng dịch phẩm của BG cao hơn hẳn hầu hết các đồng nghiệp (có lẽ chỉ có Phùng Khánh - Trí Hải có thể so sánh với ông). Khung Cửa Hẹp, Hoàng Tử Bé, Cõi Người Ta... của ông phải là mẫu mực cho chuyển dịch sanh tiếng Việt những tác phẩm văn chương "thuần túy". Chúng gói trọn triết lý của nguyên tác trong ngôn ngữ thuần Việt...

      Delete
    4. Trần thị Bảo VânOct 3, 2013, 8:02:00 PM

      Bác Lâm Vũ ơi, bác ghé mắt, đọc tham khảo thử bài này...xem sao:

      "...Việc ghi nhận một cách quá vô tư, thiếu tìm hiểu, không so sánh với nguyên tác tiếng Anh (vì không biết tiếng Anh, và dù có biết tiếng Anh cũng không biết gì về “cổ ngữ văn học Anh”) để đánh giá nghiêm túc chất lượng nhằm thưởng lãm kỳ công “dịch thuật” chuyển tải nội hàm ngôn ngữ của Bùi Giáng, lại tự động đưa các “công trình” trên vào danh mục “dịch thuật” e rằng đã xúc phạm giễu cợt Ông, không thực sự dành cho Ông sự tôn kính đủ đầy. Tôi khẳng định: Bùi Giáng dù cho có là “hiện tượng kỳ thú” của kho tàng văn học sử Sài Gòn trước 1975, Ông vẫn chưa bao giờ là dịch giả của những tác phẩm của Shakespeare..."

      http://hoanghuuphuocvietnam.wordpress.com/2013/09/17/toi-va-bui-giang/

      Delete
    5. Hơi lâu mới vào lại blog NL, thấy lời chị BV nhắn. Chủ yếu ông Hoàng Hữu Phước bảo BG không "dịch" Shakespeare, tôi thì viết "Có lẽ ông là người Việt duy nhất BIẾT ĐỌC W.Shakespeare, M.Heidegger". Ngoài ra, trong bài, ông HHP cũng chủ yếu chỉ nói về mình chứ có phê phán gì văn, thơ hay tư tưởng của BG đâu? Còn lại thì kể chuyện cà kê, để cuối cùng kết luận một câu vô hưởng vô phạt: "Đó là cái may lớn nhất của Bùi Giáng Tiên Sinh, người nhìn tạo vật bằng đôi mắt của Van Gogh và vẩy bút thành thơ bằng đôi tay của Picasso." (đây là kiểu "nói lối" của PCT, nghe có vẻ giông giống BG, nhưng thật ra khác xa: BG nói chuyện có vẻ lung tung nhưng thật ra thường không lạc đề).
      TB. Thật ra tôi cũng chẳng phải là "chuyên viên BG", hồi nhỏ có bỏ ra vài tháng để đọc sách của ông, thấy thích lắm, nhưng nhiều người quen thì chê. Ông anh bảo: Đọc làm gì thứ đó, đọc về khoa học có lợi hơn không? Một thằng bạn thì bảo: Cậu không biết chứ, thiên hạ lập ra cả cái hội tôn vinh BG đấy! Tôi thì chỉ thích khen!

      Delete
  14. Đoạn "Những màn chuyển hóa điên-tỉnh", anh sửa lại "khổn" trong "một hồn thơ bị vây..." đi ạ

    ReplyDelete
  15. khổn mới đúng, có nhiều version chép lại sửa thành "khốn", vậy thì không khác gì sửa "vói" của Bùi Giáng thành "với"

    ReplyDelete
    Replies
    1. Cảm ơn anh ạ, em đã hiểu “vây khổn” khác “vây khốn” rồi ^^

      Delete
  16. Vậy mà em nghĩ tiếng Việt chỉ có "khốn", không có "khổn". Còn vói và với thì khác nhau xa, nên sửa lại sai là đúng rồi vì "với" thì lấy gần, còn "vói" thì lấy xa

    ReplyDelete
  17. Tiếng Việt của chúng ta thật là voi vỏi vòi voi või vọi vói.

    ReplyDelete