George Orwell: “Xuyên suốt trong lịch sử, hết cuộc cách mạng
này đến cuộc cách mạng khác - dù thường vẫn đem lại giải thoát tạm thời, như
người ốm trở mình trên giường - rốt cuộc chỉ là thay thầy đổi chủ…” Những khoảnh
khắc lóe sáng trí tuệ như thế này trong sự nghiệp tác giả Chuyện ở nông trại đơn giản là vô cùng nhiều; trí tuệ ấy đơn giản
là liên tục sáng suốt đến rợn người. Năm 1969, George Steiner khi viết về
Orwell trên The New Yorker, đã ngay lập
tức trích dẫn một câu lạnh gáy: “saints should always be judged guilty until
they are proved innocent” (trong một tiểu luận về Gandhi). Hai trí tuệ lớn ấy
đã tìm được rất nhiều lối để thông hiểu nhau.
Trước một nhà văn sáng suốt và trí tuệ, công việc diễn giải
không hề đơn giản, thành ra một mặt George Orwell rất hấp dẫn các nhà diễn giải,
nhưng mặt khác các nhà diễn giải Orwell lại hay “như người ốm trở mình trên giường”.
Tiểu luận dưới đây của dịch giả An Lý về chính tác phẩm mình
dịch là một nỗ lực rất lớn để thoát khỏi sự “trở mình trên giường” luẩn quẩn mãi
không thôi.
Nhưng trước hết, tiếp tục một “vệt” sách trước đây; quyển
sách này một thời từng rất nổi tiếng:
Chuyện ở nông trại nhìn từ mặt
đất
An Lý
Mở: Nhiều hơn ngụ
ngôn
Chuyện ở nông trại là cuốn sách đáng được đọc nhiều
hơn một lần, trước hết để tỏ lòng biết ơn Orwell đã cố công viết ngắn. (1984, trái lại, là một cơn ác mộng không
chỉ cho nhân vật.) Nhưng nếu lần đọc thứ 2+ ấy không phải giữa lúc bạn bè trà
dư tửu hậu, vừa đọc vừa vỗ đùi đánh đét khen thằng cha này viết tài, kể chuyện
con vật cứ y như chuyện con người - nghĩa là không phải lấy cái đinh Orwell vắt
những ý nghĩ làm sẵn của mình, mà đọc khi một mình đối diện tác phẩm, và nhân
thể đối diện lại những ý nghĩ làm sẵn của mình, thì rất nên, rất nên hoãn lại lần
2+ ấy tới khi đọc xong Tưởng niệm Catalonia. Cuốn sách (cũng mỏng) này,
mà tôi đã giới thiệu vắn tắt trong bài viết về George Orwell, là đỉnh cao phong
cách bút ký của ông: sắc sảo, lôi cuốn, một bức tranh hiện thực với nhiều chi
tiết đắt; quan trọng hơn, nó chứa hầu hết những hạt giống tình cảm và sự kiện
làm nên Chuyện ở nông trại sau này. Trong lúc chờ một bản dịch tiếng Việt
hoàn chỉnh ra mắt, tôi có trích dịch nửa sau chương 11 (Phụ lục 2 trong các ấn
bản mới) nói về “cuộc chiến tuyên truyền” bôi nhọ POUM (Đảng Công nhân Thống nhất
Mác xít) của PUSC và “báo chí Cộng sản”; đoạn này đề cập đến đề tài hết sức biết
rồi khổ lắm nói mãi, là “nhãn hiệu” trong đấu đá đảng phái, nhưng cũng là vấn đề
không bao giờ cũ, tuy hay bị người ta quên.
Nhưng Chuyện ở nông trại thì là một cuốn tiểu thuyết, và do vậy càng nên đọc hơn một lần. Không
trình bày bằng lập luận rạch ròi như Tưởng niệm Catalonia, mà bằng hình
tượng và cốt truyện, thứ ngôn ngữ đáng sợ của giới nhà văn, Chuyện ở nông trại
muốn dịch sang thứ ngôn ngữ hiểu được của người thường chúng ta, nhất thiết cần
diễn giải; và điều lạ lùng là quyển sách mỏng như vậy mà cũng ít người tự mình
đọc lấy, mà chỉ đọc qua người khác diễn giải thay. (Có phải vì thế mà Orwell
thường được xuất khẩu qua Animal Farm - và 1984, một sản phẩm còn
đánh đố người đọc hơn nữa - mà ít khi qua những bài luận trực diện?)
Một điều bất lợi nữa, là Chuyện ở nông trại thường được
miêu tả là “truyện ngụ ngôn”. “Truyện cổ tích” có thể được đọc vì câu chuyện;
“truyện ngụ ngôn” chỉ được đọc vì cái mô ran cuối truyện; “truyện ngụ ngôn xã hội/chính
trị”, tệ hơn nữa, thường chỉ được coi là bản tóm tắt cái sự vụ (nhiều khi là xì
căng đan) trong thực tế, chứ không có giá trị tự thân. Và thái độ tiếp nhận của
người đọc với “truyện ngụ ngôn” thường dễ dãi: một khi giải mã ra hệ quy chiếu
với cái “thực tế” đó rồi, người ta xếp bút, coi như đã bắt nhốt được cái raison d’être của câu chuyện. Hàng bao
nhiêu thế hệ người đọc lười biếng đã hài lòng chép các công thức: Ông Cả :=
Marx È Lenin, Nã Phá Luân :=
Stalin, Tuyết Cầu := Trotsky, 9 x chó := NKVD, tự hào thấy trình độ thưởng thức
của mình ngang tầm SparkNotes, mà không thấy câu hỏi vẫn còn nguyên đó: vậy
thì sao? Nhưng câu hỏi này với họ cũng không quan trọng, vì ngay cả với “thực
tế” đó, họ cũng đã có người làm sẵn cho mình câu trả lời.
Như thế cũng là bất công, vì xây dựng Chuyện ở nông trại
thành một cuốn tiểu thuyết là cách Orwell dựng lại một quá trình phát triển, và
không phải dựng lại trên những nét sơ giản để phục vụ kết luận làm sẵn nào đó.
Michael Levenson viết về ba tiểu thuyết tiền Thế chiến 2 đã nhấn mạnh ý thức
thiết kế một thế giới nội văn bản phức tạp của Orwell: “Khi ông miêu tả sức mạnh
của chủ nghĩa hiện đại - điển hình là Ulysses của James Joyce - là ở chỗ
chế ra rất nhiều chi tiết để làm thành một ‘mô hình phức hợp khổng lồ’, là ông
cũng đang thừa nhận mình quan tâm đến những minh họa cho một mô hình, không chỉ
nhằm tạo ra một tổng thể mỹ học, mà là một kiến trúc nhằm tái hiện một chỉnh thể
xã hội.”1 Nhận xét này đúng với cả các bút ký, tất nhiên cả 1984,
và cả Chuyện ở nông trại - dù ngắn. Với một Trại Súc Vật chi tiết về mặt
địa lý (có thể vẽ bản đồ như Ulysses), với một dàn nhân vật đầy đủ tính
đại diện, Chuyện ở nông trại không gò ép sự kiện theo khuôn mẫu ngoài đời,
mà để sự kiện tự phát triển logic theo kết quả tương tác của những tính cách đó
trong những hoàn cảnh đó: việc các kết quả này (gần như) trùng hợp với những kết
quả ngoài đời chỉ nói lên sức mạnh của mô hình chỉnh thể.
Chính đấy là nguồn gốc sự trường tồn của cuốn sách đối với
những người đọc khác, trong những bối cảnh khác, cách xa nước Nga mấy chục năm
đầu thế kỷ 20. Không phải Stalin hay Trotsky, mà chính lợn và cừu đã gây chấn động
sâu sắc cho cô bé lên chín Margaret Atwood mà 40 năm sau sẽ viết cuốn “1984 từ góc nhìn của Julia”2.
Không phải hội nghị Yalta được những người đọc sau này nghĩ đến, mà là những
câu chuyện diễn ra quanh họ ở Uganda, Ai Cập, Ukraina, Trung Quốc, Việt Nam.
Nhưng sức mạnh của cuốn sách là ở tính chỉnh thể, mà những người đọc nào nôn
nóng muốn tìm trong một tác giả lớn sự biện minh cho những suy nghĩ sẵn của
mình, quá thường đọc Orwell ăn xổi.
Trong bài viết này, tôi sẽ cố gắng đọc lại Chuyện ở nông
trại từ những điều cơ bản, thoát khỏi ảnh hưởng của thế giới bên ngoài nông
trại. Mọi liên hệ tới thế giới đó, hoặc tới các phát biểu khác của Orwell, sẽ
nhằm so sánh và mở rộng, chứ không nhằm lý giải thay (hoặc tệ hơn nữa là nhằm
chê bai Orwell bỏ rơi mất động cơ này sự kiện kia, hay trách Orwell đánh đồng
các tư tưởng khác nhau vào cùng một hình tượng - như rất nhiều bài viết đã
làm). Và những người đọc nào buồn cười mà cho rằng nỗi đau khổ của ngựa với gà
là vô nghĩa, rằng chiến tranh chỉ là chiến tranh khi lợn là mặt nạ của “người”,
những người ấy cũng rất dễ quên rằng câu chuyện hết sức cụ thể này không chỉ áp
dụng được cho một mảng lịch sử cụ thể.
1. Chuyện của nông trại,
chuyện của ai?
Biến cố chính trong cuốn sách là gì? Rất dễ trả lời “sự nắm
quyền của đàn lợn”, nhưng không đơn giản có vậy. Đàn lợn đã đứng vào vị trí
lãnh đạo tinh thần từ bài nói chuyện của Ông Cả ở chương 1, lãnh đạo đường lối
từ sau khi Khởi nghĩa thành công trong chương 2; nếu chỉ nói chuyện đàn lợn nắm
quyền, 8 chương còn lại có thể coi như thừa. Hơn nữa ở những chương đầu, dưới sự
điều hành của đàn lợn, Trại Súc Vật vẫn sống và làm lụng trong niềm tin và hy vọng.
Có thể trả lời cụ thể hơn “sự lạm dụng quyền lực của đàn lợn”, nhưng đó thì
không phải là một “biến cố”. Sự lạm dụng quyền lực đã tồn tại từ trước, dưới thời
Jones. Nếu sự việc diễn ra chỉ là đàn lợn làm đảo chính lật đổ Jones, với sự
giúp đỡ của lũ chó chẳng hạn, thì thực tế cũng không khác gì nếu Pilkington hay
Frederick cướp Trại Nông Trang từ tay Jones, rồi bỏ bê như Rừng Cáo, hay ngược
đãi như Đồng Chôm. Đấy vẫn có thể là một câu chuyện hay, về vũ lực và thời cơ,
âm mưu và thủ đoạn, à la Alexandre
Dumas père, nhưng đấy sẽ không phải là câu chuyện này; đấy chỉ
đơn thuần là một ví dụ nữa cho quy luật Orwell đã nhận xét, “Xuyên suốt trong lịch
sử, hết cuộc cách mạng này đến cuộc cách mạng khác - dù thường vẫn đem lại giải
thoát tạm thời, như người ốm trở mình trên giường - rốt cuộc chỉ là thay thầy đổi
chủ, vì không lần nào có nỗ lực trừ tiệt gốc cái bản năng chạy theo quyền lực:
hoặc, nếu có ai nỗ lực làm điều đó, thì chỉ là vị thánh, vị ẩn sĩ, những kẻ lo
cứu rỗi lấy linh hồn riêng mà ngoảnh mặt lại với cộng đồng.” (“Catastrophic
Gradualism”, 1945)3
Hầu hết những cách đọc Chuyện ở nông trại đều chỉ xoay quanh “bản năng chạy
theo quyền lực”, với những hành tung ly kỳ hấp dẫn của đàn lợn (hoặc một số ít
hơn tập trung vào “ẩn sĩ lừa” Benjamin). Đàn lợn được họ xem như nhân tố duy nhất
thúc đẩy sự phát triển của lịch sử trại, cả tốt lẫn xấu; kết luận của họ, chính
là điều T. S. Eliot đã e ngại khi từ chối in cuốn sách ở Faber & Faber: rằng
suy cho cùng đấy vẫn là nhóm duy nhất đủ trình độ để mà nắm quyền, và chỉ cần đạo
đức hóa đàn lợn là mọi việc sẽ xuôi chèo mát mái. Cách giải quyết này không phải
không có tiếng vọng trong những suy nghĩ của Orwell. Trong “Charles Dickens”
(1939), ông từng nhận xét, giải pháp xã hội ưa thích nhất của Dickens là cho
các lão Scrooge hồi tâm chuyển ý: “Tất cả những gì ông nói được rốt lại chỉ là:
‘Hãy cư xử đứng đắn’, mà như tôi đã đề cập lúc trước, điều đó không hẳn nông cạn
như thoạt nghe.”
Nhưng nếu chỉ tập trung vào những vua triết gia thất bại,
người đọc không thể lý giải được cái tình cảm cứ rõ dần trong những chương về
sau và bén ngọt trong khẩu hiệu cuối “Mọi con vật đều bình đẳng, nhưng một số
con vật bình đẳng hơn những con khác” (tr153)4. (Tình cảm đó là gì,
thì cũng tùy người: phần lớn có lẽ đau buồn, nhưng một số có thể hả hê.) Nếu chỉ
nhìn nhận cuộc tranh quyền đoạt vị giữa những Stalin và những Trotsky, người đọc
sẽ quên mất cuộc ẩu đả ấy diễn ra trên lưng những Ivanov và Smith. Nếu coi đàn
lợn là chủ thể duy nhất của lịch sử trại, đấy là phủ nhận ý nghĩa cuốn sách như
một nỗ lực để dân đen lên tiếng, như một cuốn mini People’s History of the
United Animals.
Vì câu chuyện ở nông trại là câu chuyện về một lời hứa bị phụ
bạc, và số phận kể trong đó là số phận của cả trại súc vật - mà đàn lợn chỉ là
một phần, và rất nhiều khi còn đứng bên ngoài. Cuốn sách là thí nghiệm duy nhất
trong số tiểu thuyết Orwell sử dụng nhân vật chính không phải một cá nhân, mà
là một tập thể (1984 trở lại mô hình cá nhân vs thế giới của chủ nghĩa
hiện đại); giống như “chúng tôi” trong các bút ký Down and Out in Paris and
London hay Homage to Catalonia, trong Chuyện ở nông trại thường
xuyên sử dụng cách nói “lũ súc vật cảm thấy…”, “chúng nghĩ…”. Nhân vật tập thể
này, mà sau trở thành rất phổ biến trong văn học kháng chiến, văn học chống thực
dân châu Phi, Á và Mỹ Latinh, có lẽ không quen thuộc với truyền thống tiếp nhận
của mỹ học phương Tây; và rất nhiều người đọc có lẽ đã lướt qua mà coi “chúng”
chỉ là một khối quần chúng không có bộ mặt, như một thứ tài nguyên lỏng của lịch
sử, thụ động chờ những lợn tài năng nắn dòng.
Nhưng nếu đọc kỹ, sẽ nhận thấy Orwell luôn luôn tả các sự kiện
từ điểm nhìn của “lũ súc
vật”, chứ không phải của Mồm Loa hay Nã Phá Luân. (Tất cả những hành vi của đàn
lợn trong nhà, chúng đều được biết qua “tin đồn” hay qua những tuyên bố trong
buổi họp.) Độ vênh giữa hiểu biết của lũ súc vật và phán đoán của người đọc
chính là nguồn gốc nảy sinh cái pathos trong những cảnh như Đấu Sĩ bị bắt và
két uýt ky được gửi đến sau đó. Thêm nữa, Orwell còn chú ý miêu tả nội tâm
lũ súc vật, đôi khi qua đại diện là Đấu Sĩ hoặc Cỏ Ba Lá: “Ý nghĩ ấy khiến
chúng say lòng” (tr28), “Bất kể chuyện gì xảy ra, nó cũng sẽ trung thành, cần
cù, làm theo đúng các chỉ thị được giao, tuân thủ quyền lãnh đạo của Nã Phá
Luân. Nhưng dù thế, đây vẫn không phải thứ mà vì nó Cỏ Ba Lá cùng các con vật
khác đã hy vọng và lao khổ.” (tr102). Đáng chú ý, Nã Phá Luân và Mồm Loa không
bao giờ được miêu tả đang “nghĩ” hay đang “cảm thấy”, hay đang tâm sự riêng với
bạn bè; Mollie lười biếng hay con mèo trốn việc cũng vậy. Một cách hệ thống, cuốn
sách tranh thủ sự đồng cảm và cộng cảm của người đọc cho nhân vật tập thể của
mình, một điều không thể nhận ra được nếu chỉ đọc tóm tắt cốt truyện trên
Wikipedia.
Chủ thể tâm lý này vẫn cứ là chủ thể hành động trong chuỗi sự
kiện. Đây không phải nơi để bình luận lý thuyết Mác xít về mối quan hệ giữa
lãnh tụ và quần chúng, nhưng khó tưởng tượng được đàn lợn sẽ khởi nghĩa thành
công nếu không có “sừng húc vó nện” (tr25), hay đánh bại các đợt xâm lược nếu
không có lực lượng ngỗng cừu. Thêm nữa, nội dung chiến đấu trong cuốn sách chỉ
chiếm một khối lượng nhỏ so với nội dung lao động. So với Dickens mà ông
từng chê “thiếu hụt trầm trọng… là ở chỗ ông không hề có lý tưởng về làm việc”
(“Charles Dickens”), Orwell mô tả một cách tỉ mỉ công cuộc xây dựng Trại Súc Vật,
với sự am hiểu và trìu mến đối với việc nhà nông còn thấy trong thư từ nhật ký
khi sống ở Suffolk, hay ở đảo Jura sau này. Và tập thể trại thú là nhân vật
chính trong công cuộc ấy. Nhìn từ trên xuống, chỉ thấy đàn lợn chỉ đạo một khối
lao động vô danh; nhìn từ dưới lên, mới thấy Khởi nghĩa không “chạy” được nếu
không phải “Ngay đến gà vịt cũng bươn bải cả ngày trong nắng, dùng mỏ gắp từng
cọng cỏ khô tí xíu” (tr35); đến lượt mình, việc đó cũng không thể có nếu không
phải từng thành viên đã tiếp thu mục tiêu chung của trại thành mục tiêu của
riêng mình, “Tôi sẽ gắng sức hơn nữa”.
Có nhận thức được nhân vật chính là tập thể súc vật trại, mới
hiểu tại sao hồi kết lại là sự thất hứa: vì lời hứa là dành cho chúng, hứa một tương lai xán lạn cho chúng. Và có nhận thức
được vai trò của chúng trong số phận của trại, mới khỏi quy hồi kết đó về một
mình đàn lợn: làm như thế là một cách tiện lợi để chối bỏ trách nhiệm của các
“súc vật hạng dưới” thông qua hành động hoặc bất hành động. Chính lòng tin và sự
ngây ngô của tập thể đã tạo điều kiện cho quyền lực tha hóa lộng hành, đấy là một
điều cơ bản cần được nhấn mạnh trước khi bước vào những phân tích tiếp theo.
2. Chủng tộc tốt, dân
tộc tốt
Trại Súc Vật hình thành dựa trên các nguyên tắc của Súc vật
Chủ nghĩa, đi từ bài nói chuyện của Ông Cả, tới Bảy Điều Răn, tới phiên bản cực
giản là “Bốn chân tốt, hai chân xấu”. Phiên bản cực giản này đã nêu lên căn bản
trong lý thuyết của Ông Cả: lý thuyết đó nhìn nhận thế giới trong thế nhị phân
giữa Người và Thú. Những phân tích Ông Cả nêu ra đều rõ ràng và hệ thống: sức
lao động, con cái, thân thể…; nhưng kết luận rút ra từ đó thì lại sai: “Tất cả
chỉ rút gọn trong một chữ: ‘Người’.” (tr10)
Thứ nhất, kết luận này đã đánh tráo khác biệt về chủng tộc
thay cho khác biệt về vị thế. Đối kháng giữa Jones và lũ súc vật nằm ở quan hệ
bóc lột của Jones đối với chúng, chứ không ở tự thân bản chất Người của Jones
và Thú của lũ súc vật. Đây là một khái quát vội vã, từ một nhận định biểu kiến
đơn lẻ, mặc dù trong phạm vi quan sát hạn hẹp của lũ súc vật, đó có vẻ là quy
luật duy nhất, tất yếu. Cũng chính ngụy lý logic ấy là nguyên nhân hầu hết các
hiện tượng kỳ thị chủng tộc trong thế giới ngoại văn bản: người Do Thái ở châu
Âu thế kỷ 18-19, người Hồi giáo ở Mỹ thế kỷ 20-21, người Bangladesh ở
Singapore, người Việt Nam ở Đài Loan, v.v
Thứ hai, vì thế, lũ súc vật không ý thức được rằng ở nơi
khác, trong một hoàn cảnh khác, một kẻ Người vẫn có thể là một đối tượng bị bóc
lột đồng cảnh ngộ. Độc giả được nhắc trực diện điều này trong cuộc chén chú
chén anh cuối sách giữa phe chủ trại và phe lợn chủ: “Nếu các vị phải đối phó với
súc vật hạng dưới, thì chúng tôi phải đối phó với giai cấp hạng dưới!” (tr157),
đối với Pilkington chỉ là một câu bông lơn, nhưng với Orwell là một nhận xét
khá chua. Nhưng rải rác trong truyện đã có những chi tiết gợi đến thang bậc quyền
lợi nội bộ Người: chống lại lũ súc vật không phải Jones cùng các con trai, hay
bạn hữu, mà là Jones cùng “kẻ ăn người làm”; và trong Trận Chuồng Bò, thương
vong nặng nhất phía Người là một “tay bồi ngựa”, ở nấc thang cuối cùng trong xã
hội nông thôn. Chi tiết này vọng lại Trận Cối Xay khi Đấu Sĩ trọng thương, bò
và cừu chết, còn Nã Phá Luân “bị đạn bắn sứt mất chót đuôi” (tr119); nó cũng vọng
lại lý luận của Quốc tế 1 và 2 rằng trong Thế chiến, giai cấp cùng đinh chết trận
để bảo vệ quyền lợi của giai cấp chủ.
Thứ ba, mặt khác, khi đã khẳng định “bất cứ thứ gì đi bốn
chân, hay có cánh, đều là bằng hữu” (Điều Răn Thứ Hai), lũ súc vật không hình
dung được những lúc “bốn chân” không phải là bằng hữu: chúng lúng túng
khi đối xử với các “đồng chí hoang”, chúng nài nỉ cặp ngựa kéo xe đừng đưa Đấu
Sĩ đến lò mổ. Trên hết, chúng không ý thức được chuyên quyền bạo ngược có thể nảy
sinh chính trong hàng ngũ mình - và do đó không hề cảnh giác trước sự lạm quyền
từng bước của đàn lợn. Đến cuối truyện, chúng - và người đọc - mới nhận ra ranh
giới “Người và Thú” không dứt khoát như chúng tưởng: “Lũ súc vật ngoài cửa nhìn
từ lợn sang người, từ người sang lợn, lại từ lợn sang người, nhưng đến lúc ấy
đã không còn phân biệt được ai là ai.” (tr161)
Nhận thức kỳ thị dựa trên bề ngoài này dẫn đến định hướng
hành động cũng dừng lại ở bề ngoài.
Các Điều Răn 3-5 của Súc vật Chủ nghĩa:
1. Không con vật nào được mặc quần áo.
2. Không con vật nào được ngủ trên giường.
3. Không con vật nào được uống bia rượu. (tr31)
không những cụ thể chi ly đến buồn cười, mà đáng nói hơn,
không quy định hành vi đạo đức như “Ngươi không được ngoại tình. Ngươi không được
trộm cắp. … Ngươi không được ham muốn… bất cứ vật gì của người ta” (Cựu ước, Xuất
hành 20:14-17) hay “Yêu tổ quốc, yêu đồng bào. Học tập tốt, lao động tốt…” mà đều
là những hành vi sinh hoạt đời thường, và tất cả đều mang tính biểu tượng.
Khác với khi lũ súc vật phá phách buồng yên cương, “Dây cương, đai mũi, miếng
che mắt cùng bao mõm thức ăn tủi nhục, đều được ném cả vào đống lửa đốt rác
trong sân” (tr27), những biểu tượng trong Điều Răn không gắn liền với việc bóc
lột và áp chế, mà hoàn toàn là những đặc điểm bề ngoài, mà theo lũ súc vật, đã
tạo nên “tính Người”. Coi những đặc tính chủng tộc là bất biến, Bảy Điều Răn
che lấp mất bản chất kinh tế của vấn đề, và cũng đánh lạc hướng phán xét khỏi
những hành động cụ thể.
Đến đây lại đặt ra câu hỏi: vậy khi mô tả đàn lợn vi phạm dần
dần các Điều Răn mà chuyển vào nhà, mặc quần áo…, có phải Orwell đã lặp lại
cùng sai lầm đó hay không? Nhưng đây cũng lại là thứ chính trị biểu tượng trong
tác phẩm. Orwell không đả kích bản thân việc mô phỏng hành động của con người -
không kết tội nhà cối xay, máy hơi nước, việc học chữ, không đòi trả súc vật về
đời nguyên thủy, làm Thú hoang Cao quý. Đàn lợn không xấu vì mặc áo hay đứng
hai chân, mà vì chúng làm thế nhằm xác định đẳng
cấp tách rời lũ “súc vật hạng dưới”; chúng không xấu vì trao đổi buôn bán,
mà vì dùng cách đó gia tăng quyền lực cho mình. Trong đoạn kết qua điểm nhìn của
lũ súc vật ngoài cửa sổ trông vào, Orwell không cho lợn biến thành người
một cách kỳ ảo, mà cố ý mập mờ: “có gì kia dường như đang tan chảy, đang thay đổi?”
(tr160), và tới câu kết, đàn lợn đã “người hóa” trong nhận thức của lũ súc vật,
trong lúc vẫn nguyên là lợn. (Phim hoạt hình Animal Farm năm 1954
ít ra cũng hiểu đúng chi tiết này.)
Nhị phân Người/Thú ban đầu, theo diễn tiến tác phẩm, dần dà
thu hẹp thành nhị phân Trại/ngoài Trại. “Trại Súc Vật muôn năm!” trở thành khẩu
hiệu duy nhất sau khi ý tưởng Khởi nghĩa không ngừng đã bị trục xuất cùng với
Tuyết Cầu; chủ nghĩa chủng tộc đã chuyển sang hình thức chủ nghĩa dân tộc. “Trại
Súc Vật” như một biểu tượng đã được đề bạt lên, lớn hơn tập thể súc vật, lớn
hơn cả từng cá nhân đơn lẻ. Trại không tồn tại để đem lại hạnh phúc cho từng cá
nhân nữa, mà các cá nhân tồn tại vì Trại, thông qua Trại: “Chúng cũng chẳng bao
giờ bỏ mất, dù trong giây lát, niềm tự hào hãnh diện được là cư dân Trại Súc Vật.
Đây vẫn là nơi duy nhất trong toàn hạt - kể cả toàn nước Anh! - do súc vật sở hữu
và quản lý.” (tr149) Và, theo một quỹ đạo quá thường gặp trong thế giới ngoài
nông trại, chủ nghĩa dân tộc khi từ ngọn cờ kêu gọi giải phóng trở thành mục
đích tự thân, đã bỏ rơi mất những nội hàm tốt đẹp ban đầu: “Không hiểu sao
trang trại dường như đã giàu lên mà không làm súc vật trong trại giàu thêm - tất
nhiên trừ lợn và chó” (tr147).
Nhưng muốn duy trì cái ảo tưởng cá nhân tồn tại thông qua Trại
ấy, giữa hiện thực chứa những xung khắc liên miên giữa Nã Phá Luân và Tuyết Cầu,
giữa mỗi chính sách mới đưa ra và sự chưng hửng bứt rứt của lũ súc vật, cần phải
nhờ chính tính nhị phân trong/ngoài mà duy trì khối thống nhất toàn trại. Và “lời
kêu gọi thống nhất nghe giống hệt tiếng kêu xung trận vẫn thường dẫn đầu mỗi
dân tộc lao vào chiến tranh; tuy thế, không ai phát hiện ra trong cái công cụ
phổ quát, vĩnh cửu làm nên thống nhất ấy mầm mống của chiến tranh phổ quát và
vĩnh cửu.”5
3. Chiến tranh vĩnh cửu
và đền thờ sự Ghét
Ban đầu tất cả đều chỉ là “mầm mống”. Bản thân thế nhị phân
trong/ngoài không xấu; hầu như mỗi cộng đồng đều bắt đầu tự ý thức về mình như
vậy, nhận ra mình bằng cách đứng tách ra khỏi khối hỗn độn bao quanh. Với những
cộng đồng nhỏ hoặc ở vào tình thế chênh vênh đe dọa sự tồn tại của cộng đồng, để
đẩy mạnh quá trình kết tinh thành một thực thể, thế nhị phân này thường được
hình dung có tính đối kháng, dù thực hoặc phóng đại: bên ngoài lúc nào cũng chực
tiêu diệt bên trong, nhu cầu cố kết của bên trong càng cấp bách hơn bao giờ hết.
Ba Điều Răn chỉ đạo hành động dẫn ở trên, ngoài chuyện gói gọn
trong “tính Người”, tất cả đều mang ý nghĩa tiêu cực, phủ định. Trong cả Bảy Điều
Răn, mệnh đề quan trọng nhất lại có phần mơ hồ và bị đẩy xuống sau cùng “Mọi
con vật đều bình đẳng”. Không có hình mẫu Trại tích cực nào, càng không có
chương trình xây dựng hình mẫu đó. Bảy Điều Răn phản ánh niềm lạc quan có tính
utopia nhưng tiêu cực của Ông Cả: “Chỉ cần loại bỏ Người là mọi sản phẩm từ lao
động của ta đều sẽ thuộc về ta. Gần như tức thì ta sẽ được tự do và giàu có.”
(tr13); vọng âm câu này còn gặp trong những chiêm nghiệm về sau của Orwell: “Tất
cả tư tưởng phái tả, dù khoa học hay utopia, đều được hình thành bởi những người
hoàn toàn không có triển vọng giành được quyền lực ngay trước mắt. … Vẫn còn lại
trong ký ức nhiều người đang sống đây cái thời các lực lượng tả còn đang chiến
đấu với một thứ độc tài dường như bất khả chiến bại; khi ấy thật dễ tưởng rằng
chỉ cần tên độc tài cụ thể kia - tức là chủ nghĩa tư bản - bị lật đổ, là Chủ
nghĩa xã hội lập tức sẽ theo sau.” (“Writers and Leviathan”, 1948)6.
“Loại bỏ Người” trở thành đường lối cụ thể trước mắt duy nhất cho lũ súc vật,
trong tin tưởng về cái tương lai đến liền sau đó.
Đường lối này rất có ý nghĩa trong thời kỳ đầu, khi lũ súc vật
mới thoát khỏi ách áp bức của “Jones và đồng bọn”. Đường lối này vẫn còn quan
trọng trong giai đoạn tiếp theo, khi Jones và đồng bọn tấn công hòng chiếm lại
Trại Súc Vật: đây là chiến tranh, và chiến tranh là một “tình thế ngoại biệt”
(Giorgio Agamben). Chiến tranh là khi Tuyết Cầu có thể nói át nỗi ăn năn của Đấu
Sĩ khi tưởng mình đã giết chết tay bồi ngựa: “Đồng chí, không được ủy mị!...
Con người chỉ tốt khi nằm chết.” (tr52) Khó khăn là ở việc biết khi nào thì chiến
tranh dừng lại, hòa bình và tái thiết bắt đầu.
Ở Trại Súc Vật, đến tận khi Khởi nghĩa đã qua, Trận Chuồng
Bò đã thắng, cái bóng chiến tranh vẫn còn lởn vởn. Con người, Kẻ Thù mẫu gốc, vẫn
được duy trì làm một ngoáo ộp không bao giờ ngừng đe dọa cộng đồng. “Hẳn nhiên
là các đồng chí không có ai muốn thấy Jones quay lại chứ?” (tr45) trở thành lý
lẽ chốt hạ cho mọi tranh luận; và sự sợ hãi căm ghét chân thành của cộng đồng với
kẻ thù đó trở thành vũ khí lớn nhất của quyền lực tha hóa chống lại chính cộng
đồng.
Trong tay quyền lực tha hóa, “Kẻ Thù” cũng trải qua sự phát
triển biện chứng của nó. Khi Jones không còn đủ đáng sợ, hoặc có nguy cơ phai
nhòa khỏi ký ức, những kẻ thù mới liên tục được phát minh thêm: Tuyết Cầu, kẻ
phản bội par excellence, bốn lợn trẻ, gà, ngỗng (và chắc cả Đấu Sĩ, nếu không
nhờ có bộ vó cứng). Một khi sự tồn tại của Trại cao hơn tồn tại của từng cá
nhân, thì mỗi cá nhân bị đẩy vào thế kẻ thù tiềm tàng của Trại: thật hiếm thấy
bài cộng đồng ca nào có câu gở như “Yêu còn chưa đủ, hại người sao đang”
(tr103) (nguyên bản: “Never through me shalt thou come to harm”). Bước phát triển
logic tiếp theo là mọi hy sinh về chính sách, ngay cả Điều Răn Thứ Sáu “Không
con vật nào được giết con vật khác”, đều có thể được tha thứ, nếu đấy là “vì Trại”.
Nhưng mặt khác, những kẻ thù ngoài và trong cộng đồng vẫn
liên hệ với nhau: Tuyết Cầu được coi là gián điệp của Jones, từ trước khi Khởi
nghĩa; các lợn trẻ và gà ngỗng là tay sai của Tuyết Cầu cài lại; và khi
Pilkington hoặc Frederick được chọn làm Kẻ thù Hôm nay, lại có tin đồn người đó
đang chứa chấp Tuyết Cầu. Cách làm này, một mặt giải quyết được mâu thuẫn logic
với mệnh đề “Bốn chân tốt, hai chân xấu” - kẻ phản bội bị rút phép thông công
khỏi cộng đồng, không còn được hưởng sự khoan hồng của cộng đồng - vừa khẳng định
mục tiêu ban đầu vẫn chưa hề đạt được. Kẻ thù trực tiếp có thể thay hình đổi dạng,
nhưng vẫn là Kẻ Thù cũ; cuộc Khởi nghĩa đã thành công về mặt quân sự, nhưng vẫn
tiếp diễn trong đời sống hằng ngày; tình thế chiến tranh chưa bao giờ chấm dứt,
không có triển vọng chấm dứt sớm, kéo dài vô tận về tương lai; và cùng với nó,
lời hứa về cuộc sống bình thường, thịnh vượng cũng bị hoãn lại vô tận.
Một tiện lợi nữa là mọi tiêu cực hay lệch lạc xảy ra trong cộng
đồng, cũng như những “kẻ phản bội”, đều được trục xuất khỏi cộng đồng về lý
thuyết, gán cho Kẻ Thù: cối xay sập là do Tuyết Cầu phá hoại, lúa mì đầy cỏ là
do Tuyết Cầu trộn hạt, bất đồng chính kiến của đám gà lợn đều do khiêu khích của
Tuyết Cầu. Và bất kể thứ gì cũng đều có thể cáo buộc cho Kẻ Thù, dù ghê rợn hoặc
phi lý đến đâu: “một con cừu thú nhận đã tè vào hồ nước ăn” (tr99), “tối tối [Frederick]
mua vui bằng cách buộc mảnh dao cạo gãy vào cựa gà rồi thả cho chúng chọi nhau”
(tr111). Kẻ Thù thích hợp để hứng mọi thứ tội lỗi, vì nó là một thứ quái vật
[monster], nó không “xấu” theo nghĩa đạo đức, mà bản thân nó là hiện thân của
cái ác; nó ở ngoài lý tính, không hoạt động trên cùng những logic mà Chúng Ta
hoạt động. Từ đó, không cần hiểu nó, không cần biết những lý do dẫn đến hành động
của nó; không bao giờ đám gia súc đặt câu hỏi: “Vì sao Tuyết Cầu làm thế?”, do
đó càng không bao giờ đi đến được câu hỏi: “Có đúng là Tuyết Cầu làm thế?”.
Không chỉ là vấn đề tuyên truyền hay đe dọa, lũ súc vật chấp nhận không chất vấn
những cáo buộc của Nã Phá Luân và Mồm Loa vì đó là một nhu cầu tâm lý có thực;
những gì xấu xa về Kẻ Thù đều đòi hỏi được tin (đẩy tới mức cực đoan sẽ là
không muốn thấy Kẻ Thù hối cải hay tiến bộ): “Mỗi con vật đều uất trào máu khi
nghe cảnh hành hạ đồng chí mình, đôi lúc chúng còn sôi lên đòi ban lệnh cho kéo
cả đàn sang tấn công Trại Đồng Chôm, đuổi cổ hết bọn người, giải phóng toàn thể
gia súc” (tr112). Cái Ghét trở thành vị thần ngự trị cao ngất, điều khiển hoạt
động của toàn Trại Súc Vật; và khi tự nguyện phụng sự vị thần đó, lũ súc vật đã
tự trao mình vào tay những kẻ tự phong mình là tư tế.
(Ngược lại với Kẻ Thù thuần nhất, bất biến, bẩm sinh tà ác,
Chúng Ta lại là những sinh vật phức tạp, mềm dẻo, lý trí; mỗi hành xử của Chúng
Ta đều hợp lý, đều là phản ứng trước những điều kiện cụ thể; kể cả nếu mỗi bước
Chúng Ta một chệch xa khỏi những lý tưởng ban đầu, đấy cũng là do những nguyên
nhân cụ thể; và chỉ cần vượt qua được những nguyên nhân đó: chỉ cần đợi mùa hè
khó khăn qua, chỉ cần đợi mùa đông khó khăn qua, chỉ cần đợi cối xay hoàn tất…,
những lý tưởng ban đầu sẽ được khôi phục. Đổ tội cho Kẻ Thù và bào chữa cho
Chúng Ta là hai mặt song song của một phản xạ tự vệ cộng đồng.)
Nói vậy không có nghĩa cái Ghét trở thành vị thần duy nhất của
Trại Súc Vật. Cho đến ngay trước khi đàn lợn công khai thừa nhận việc đảo ngược
hoàn toàn lý tưởng, “một số con vật bình đẳng hơn những con khác”, vứt bỏ các
biện pháp tâm lý không còn cần đến để thao túng cộng đồng, thì căm thù và yêu
thương vẫn là hai nguyên lý tranh chấp nhau chi phối các súc vật trại. Nguyên
lý căm thù do Nã Phá Luân bồi đắp, tập trung vào Kẻ Thù, vào quá khứ, lấy chiến
tranh vĩnh cửu thay cho cách mạng không ngừng, là nguyên lý thống soái trong
không gian công của trại; trong cõi riêng tư của từng con vật, đấy là nguyên lý
Ông Cả đã gieo xuống, hướng tới Trại Súc Vật utopia trong tương lai: “Rồi sẽ có
lúc ngày ấy đến: có thể không đến ngay, có thể những con vật hiện nay sẽ không
con nào còn sống mà chứng kiến, nhưng ngày ấy vẫn sẽ đến” (tr149). Lũ súc vật
muốn sống trong tương lai, nhưng đám lợn điều hành không để yên cho chúng sống;
vĩnh viễn quy chiếu lại mối thù hận khởi thủy, vĩnh viễn kẹt lại trong lời nguyền
đã có thể bước qua từ lâu, chúng không ngừng nối dài cuộc chiến tranh quá khứ,
ngăn chặn giấc mơ về tương lai - và cũng che mờ luôn cả con mắt tỉnh táo nhìn
thực tế hiện tại.
4. Sự trống rỗng của
lý thuyết
Con mắt nhìn hiện tại nhìn qua lăng kính nào? Chủ yếu là
lăng kính Bảy Điều Răn. Sau khi phân tích hiện thực trong bài nói chuyện của
Ông Cả đã đúc kết thành đường lối hành động trong Bảy Điều Răn, những Điều Răn
này đã trở thành bộ luật, thành khuôn vàng thước ngọc để mỗi hiện tượng trong
trại dựa vào đó phân đúng sai. Những băn khoăn xao xuyến của lũ súc vật trước mỗi
động thái mới, khi đem so với các Điều Răn (đã chỉnh sửa) đều tự tiêu biến,
“Nhưng giờ thì chúng thấy không phải Điều Răn đã bị vi phạm, vì rõ ràng là có
lý do chính đáng khi xử tử những kẻ phản bội về hùa với Tuyết Cầu.” (tr106)
Mánh khóe sửa điều răn khét tiếng của đàn lợn cho thấy khác
biệt về thái độ giữa đàn lợn “khôn ngoan” và đám “súc vật hạng dưới” chất phác:
Đối với lũ súc vật, Bảy Điều Răn là bất biến và vĩnh cửu; đối với đàn lợn cầm
quyền, Bảy Điều Răn được tùy tiện sửa đổi, không thông qua và không thông báo với
tập thể trại, để phục vụ mục đích trước mắt của chúng. Nhưng sự khác biệt đó chỉ
là về nội dung; điều cả hai bên đều thống nhất không chất vấn là tuân theo Bảy
Điều Răn là tất yếu. Trong không gian công, Bảy Điều Răn vẫn giữ vị trí một thứ
lời thánh phán. Chính vì thế nó còn được dùng làm công cụ - và đàn lợn còn cảm
thấy cần sửa đổi, trước khi bãi bỏ hoàn toàn tính tất yếu của các Điều Răn, xóa
tan ảo tưởng về pháp quyền bình đẳng - cùng với hai chị em ruột, “Như thế là
trái với tinh thần Súc vật Chủ nghĩa” và “Nã Phá Luân lúc nào cũng đúng”.
Hiện tượng này gắn liền với khởi đầu của cuộc Khởi nghĩa - một
khởi đầu mà chúng ta, những độc giả ở thế kỷ 21, không thể nhận ra là độc đáo,
làm cho Chuyện ở nông trại trở thành một cuốn sách chỉ có thể viết ở thế
kỷ 20: giữa một tập thể nói chung không có đặc quyền đặc lợi, vì bị bóc lột
ngang nhau, Khởi nghĩa Súc vật được nung nấu không phải bởi bộ phận mạnh nhất,
mà bởi bộ phận thông minh nhất, và sau khi kết thúc, cũng bộ phận này đã trám
ngay vào vị trí lãnh đạo, mà tính chính đáng không dựa vào dòng máu, vào thiên
mệnh, vào vũ lực hay sở hữu tài sản, mà vào vai trò nắm giữ tư tưởng. Nếu phần
lớn các cuộc thay đổi ngôi vị lớn trong lịch sử các thế kỷ trước diễn ra do sự
lớn mạnh về kinh tế hay xã hội của giai cấp mới đã thách thức quyền lực già cỗi
của giai cấp cũ, còn tư tưởng theo sau để hợp lý hóa nhà cầm quyền mới, thì ở
Trại Súc Vật, tư tưởng đi trước chỉ đạo hành động; cuộc Khởi nghĩa mong muốn viết
cho mình cuốn Bildungsroman, một cử chỉ từ thời Jesus rời núi chưa thấy
xuất hiện trở lại. Nhưng cũng như Thiên Chúa giáo đã dần rơi rụng mất thông điệp
bình đẳng và giải phóng khi hóa thạch trong những thiết chế và những cuộc thánh
chiến, Súc vật Chủ nghĩa dần dần lôi kéo trở lại các biện pháp “truyền thống”:
vũ lực (bầy chó), dòng dõi (càng thể hiện rõ ở thế hệ lợn con), kinh tế (cả nội
lẫn ngoại thương)… một khi bản thân tư tưởng không còn đủ cai trị.
Càng về sau trong câu chuyện, hố sâu phân tách giữa lý thuyết
và thực tế càng ngoác rộng. Lũ súc vật sống dưới mặt đất không thể hiểu Nã Phá
Luân và Mồm Loa giờ chỉ còn quan tâm đến bình diện thuần túy lý thuyết: đàn lợn
vẫn theo đuổi cuộc chiến tư tưởng ban đầu, và vì chiến tranh là tình thế ngoại
biệt, tất cả các chiến thuật đều có thể được chấp nhận: viết lại quá khứ, làm
giả số liệu, miễn là nhờ thế mà Chúng Ta chiến thắng - về lý thuyết. Lý thuyết
trở thành trống rỗng, không có nội dung, người ta có thể viết bất kỳ cái gì vào
đó; tất cả diễn giải đều tùy ý, dù trắng hay đen: “Chẳng phải chúng ta vừa tống
cổ quân thù khỏi đất này - mảnh đất thiêng của Trại Súc Vật ư? - Vậy là ta chỉ
giành lại những gì ta đã có. - Đó chính là chiến thắng của ta đấy” (tr120-21).
Cũng vì vậy, đền thờ Trại Súc Vật dành cho sự Ghét chứ không
phải cho nỗi Sợ: nỗi Sợ bắt nguồn từ những kinh nghiệm thực, nhằm vào đối tượng
ngay bên mình (như cuối truyện lũ súc vật “không dám ngửng mặt khỏi đất, bụng
không hiểu nên khiếp hãi đàn lợn hơn hay đám khách người hơn” (tr154)), còn sự
Ghét dành cho, và đòi hỏi, cái trừu tượng, đòi hỏi một Kẻ Thù quái vật. Và nghịch
lý ở chỗ: những kẻ khôn ngoan biết nhìn quá cái cụ thể để thấy cái trừu tượng,
sẽ thấy đối tượng trước mắt là một (hóa thân của) Kẻ Thù; những tâm hồn chất
phác sẽ thấy Kẻ Thù đó chẳng qua là một cá nhân: “Tôi không muốn lấy mạng ai, cả
mạng người cũng vậy,” Đấu Sĩ “nước mắt giàn giụa” mà nói, trong khi Tuyết Cầu
tuyên bố “Chiến tranh là chiến tranh.” (tr52)
Sự đau lòng của Đấu Sĩ gợi lại ký ức của Orwell khi lần đến
bên chiến hào Franco rình bắn tỉa, gặp phải một gã “còn chưa mặc đồ xong và
đang vừa chạy vừa dùng cả hai tay xốc quần”: “Tôi sang đây là để bắn ‘tụi phát
xít’; nhưng một người đang xốc quần thì không phải là ‘tên phát xít’, hắn rành
rành là một người đồng loại, cũng giống như anh, và anh không thể thản nhiên mà
bắn hắn” (“Looking Back on the Spanish War”, 1942). Khoảnh khắc giật mình này
không hiếm gặp trong văn học về chiến tranh (dù phản chiến hay không), nhưng
khác với thông lệ, Orwell không đối lập “ta/địch” với “đồng loại” như một khái
niệm tự thân, nghĩa là lấy một lý thuyết đọ với một lý thuyết khác: ông nhấn mạnh
khoảnh khắc ấy tác động tới ông, thông
qua cảm nhận trực quan, mạnh mẽ hơn bất kỳ miêu tả, lý luận hay hùng
biện nào có thể tác động.
Vì thế, và đây cũng là một mô típ quen thuộc trong tiểu thuyết
và ký Orwell, lũ “súc vật hạng dưới” có một “lợi thế” mà đám lợn ngủ trong giường,
ăn liễn bát Crown Derby không có được: chúng đo lường thực tế trên chính da thịt
mình. Đấu Sĩ biết Trận Cối Xay là một thứ chiến thắng Pyrrhus không phải vì
tranh luận thắng Mồm Loa, mà vì “đầu gối nó còn đang chảy máu, một móng sắt sút
mất khiến móng toạc làm đôi, cẳng chân sau găm cả tá đạn” (tr121); lũ súc vật
không kiểm nghiệm những bảng số liệu của Mồm Loa bằng đối chiếu sổ sách, nhưng
vẫn biết “Chúng đói bụng triền miên, chúng ngủ trên nền rơm, chúng uống nước
trong hồ, chúng làm việc trên đồng; mùa đông thì chúng khổ sở vì rét mướt, còn
mùa hè thì vì ruồi nhặng” (tr149). Bộ phận trí thức lợn không phải lao động trước
và cũng không bao giờ lao động sau Khởi nghĩa; chúng có thể quên mất thực tế có
tồn tại để quan tâm đến bình diện thuần túy lý thuyết, vì chúng sống trong một
thực tế khác, một thực tế ấm êm hơn; những lý thuyết của chúng sẽ vỡ tan khi va
chạm vào hiện thực vật chất của lũ “súc vật hạng dưới”. Lũ súc vật trại, nếu để
mặc chúng tự quyết, sẽ tự hiểu “cái bụng đi trước linh hồn” (“Looking Back on
the Spanish War”); trong thực tế Khởi nghĩa nổ ra có tính tự phát, và do “đói
ăn đã đến hồi hết chịu nổi” (tr25) chứ không phải do hiệu triệu và kế hoạch của
Ông Cả. Thể chất của chúng là thứ sổ sách không thể làm giả được; không hùng biện
nào của Mồm Loa có thể biến hai mạng sườn xọp của Đấu Sĩ thành cái thân hình tạ
rưỡi của Nã Phá Luân.
Sống gần mặt đất nhất, lũ “súc vật hạng dưới” cũng là kho chứa
lương tri [common sense] bền bỉ nhất; giống như cách nói của Orwell về giai cấp
công nhân Tây Ban Nha trong Nội chiến, “không ai có thể vĩnh viễn mua chuộc
chúng” (“Looking Back on the Spanish War”): Đấu Sĩ không thể viết lại trí nhớ
mình về Tuyết Cầu trong Trận Chuồng Bò dễ dàng như Đảng Cộng sản Anh viết lại Mười
ngày rung chuyển thế giới (“The Freedom of the Press”), và đấy cũng là một
lý do quan trọng khiến Mồm Loa muốn thủ tiêu Đấu Sĩ. Nhưng trong một thế giới
thống trị bằng tư tưởng chứ không phải kinh nghiệm trực quan, giữa một cộng đồng
còn duy trì tính thống nhất ảo tưởng, bộ phận đại diện cho kinh nghiệm khi lúng
túng thấy bài học kinh nghiệm không khớp với lời dạy lý thuyết, sẽ lấy lại lý
giải của bộ phận được coi là nắm giữ tư tưởng: từ đó Nã Phá Luân lúc nào cũng
đúng, và đám gia súc hạng dưới lúc nào cũng trao đi quyền tự quyết của mình.
Cuối cùng, chúng chỉ còn lại tài sản ít ỏi là “tình thương
yêu”: tình thương yêu với các bạn bầu xung quanh, và với Trại Súc Vật hứa hẹn
trong tương lai, thể hiện cũng trong thế giới vật chất: Cỏ Ba Lá lo lắng cho
đôi phổi của Đấu Sĩ; Benjamin phẩy ruồi, trải nệm rơm êm cho bạn; lũ súc vật
“rúc vào nhau quanh Cỏ Ba Lá” (tr100) sau cuộc thanh trừng rùng rợn. Nhưng cái
nhóm sinh vật ngốc nghếch, tẻ nhạt, không có hạnh phúc đơn sơ nào hơn dậy sớm một
tiếng đi chở đá, không có ước mơ nho nhỏ nào hơn được về hưu học nốt bảng chữ
cái này, đã bị nhấn chìm trong những lộng hành của đàn lợn, cả trong văn bản, lẫn
trong con mắt hầu hết người đọc còn mải mê phân tích chế độ Trại trên lý thuyết.
Kết: Chuyện ngoài
nông trại
Đối với tôi Chuyện ở nông trại đặc biệt ở điểm ít được
người đọc khác coi là quan trọng: nó đã xây dựng được một nhân vật (tập thể)
đáng yêu, vốn tìm mòn mắt không thấy trong các tiểu thuyết Orwell mà gần hơn với
Tưởng niệm Catalonia hay Down and Out in Paris and London. Tuy đấy
không phải mẫu nhân vật ưa thích cho Hollywood: cần cù, trung hậu, nhân ái nói
chung không phải phẩm chất người ta tìm kiếm ở anh hùng. (Bộ phim hoạt hình
1954 kết thúc bằng cảnh lũ súc vật nhất tề nổi dậy lần nữa, Benjamin đứng
đầu, lật đổ đám lợn - đi theo vết xe đổ của rất nhiều phim dystopia dựng từ Brave
New World, 1984 (bản 1956),
Chuyện người tùy nữ, V for Vendetta - mà không đả động tới cái rồi
sau đó?) Và cuốn sách cũng cho thấy
một thứ có thể gọi là hạnh phúc, dù chết yểu - gợi lại kỷ niệm của Orwell về nền
“cộng sản thời chiến” đã thoáng gặp ở Catalonia và London.
Một thành công nữa là, như đã nói, Chuyện ở nông trại
dưới dạng tiểu thuyết đã mô tả một quá trình, điều mà viết lách báo chí của
Orwell không thuận lợi bằng. Orwell nhà báo hiểu sức mạnh của số liệu và dữ kiện;
Orwell nhà văn hiểu kinh nghiệm và cảm xúc con người không thể giản lược thành
số liệu và dữ kiện. Chuyện ở nông trại cho thấy diễn tiến của cả sự kiện
và tâm lý; nó nhắc ta nhớ không có gì bền vững, cả danh hiệu bên ngoài lẫn thực
chất bên trong: anh hùng hôm nay có thể thành tên phản bội ngày mai, và phe đối
lập hiện tại với những lý luận đẹp đẽ và những công phẫn cao thượng, rất có thể
chỉ có “thứ mè nheo vô trách nhiệm của những kẻ chưa bao giờ, và không nghĩ có
bao giờ sẽ lên nắm quyền lực” cùng “sự nông cạn tình cảm của những kẻ sống
trong thế giới ý tưởng mà chẳng mấy tiếp xúc với hiện thực vật chất” (“The Lion
and the Unicorn”, 1941) - hãy dè chừng khi đến lượt họ lên nắm quyền. Dậy thì
trong tâm lý nạn nhân, người ta dễ quên ở tuổi trưởng thành rằng mình có khả
năng thủ ác: suy cho cùng chính dân tộc đáng thương hại nhất đầu thế kỷ 20 đã
nhanh chóng trở thành tiểu bá giữa sa mạc Ả rập.
Không phải chính Orwell không bao giờ mắc phải “yêu/ghét
trên lý thuyết”. Trong The Road to Wigan Pier, ông đã tán đồng mệnh đề
khái quát “tôi không ghét Chủ nghĩa xã hội, nhưng tôi không ưa đám Xã hội chủ
nghĩa” (chương 11), thì từ sau Catalonia, ông lại thường tấn công chung chung
“Chủ nghĩa cộng sản”, tuy vẫn thừa nhận có “những người Cộng sản đáng kính trọng…
những công nhân nhà máy” - nhưng kèm theo câu “họ không thể luôn luôn riết róng
tuân theo ‘đường lối’ ” (“London Letter to the Partisan Review”,
11/1941), nghĩa là họ không phải “đồng chí tốt”, một lý lẽ rất bản chất luận.
Nhưng đáng nói, ông vẫn nhớ mối nguy tách rời lý thuyết với thực tế: một đoạn
ít được để ý trong Lời tựa bản in tiếng Ukraina cảnh báo người đọc ông chưa từng
đến Nga và mọi hiểu biết đều là gián tiếp: “Ngay cả nếu có khả năng, tôi cũng
không muốn can thiệp vào công việc nội bộ của đất nước Xô viết; tôi sẽ không buộc
tội Stalin và cộng sự chỉ vì những phương pháp dã man phi dân chủ của ông ta. Vẫn
hoàn toàn có khả năng, dù mang những ý định tốt đẹp nhất, họ cũng không thể
hành động khác đi trong điều kiện ở đó.”7 Điều ông đả kích, trái lại,
là việc sùng bái Nga vì tư tưởng bất chấp thực tế ở đó, cũng như việc nhập
khẩu trọn gói đường lối của Đảng Cộng sản Liên Xô vào Đảng Cộng sản các nước
khác với điều kiện khác hẳn.
Nhưng người đọc đời sau vẫn không ngừng vi phạm bài học có lẽ
là giá trị nhất trong các đóng góp của Orwell về mối nguy ấy, điển hình là
trong chuỗi tranh luận “Orwell sẽ nói gì?” luôn nảy ra mỗi khi chính trị thế giới
lại xuất hiện một điểm nóng bỏng. John Rodden đã lấy ví dụ với việc Mỹ tấn công
vào Việt Nam: Orwell sẽ ủng hộ, vì coi đó là bước đi đúng đắn trong “cuộc chiến
chống Chủ nghĩa cộng sản toàn cầu”? Hay sẽ phản đối, như vẫn phản đối mọi cuộc
phiêu lưu của chủ nghĩa thực dân, cũ hoặc mới, trên đường nô dịch các dân tộc
bé mọn?8 Duy có một điều hai phe tranh biện không nhận thấy, rằng ở
đây có quá nhiều tiền đề cần xác lập: “chủ nghĩa cộng sản” ở Việt Nam có mang
cùng nội hàm của từ đó ở Liên Xô và Đông Âu? quan hệ thực tế của Đảng Cộng sản
Đông Dương, với mục tiêu trước mắt là giải phóng dân tộc, với đường lối của Đảng
Cộng sản Liên Xô, mà chủ nghĩa dân tộc đã chớm biến thành chủ nghĩa đế quốc? nội
dung đích thực của những gì Mỹ đang làm dưới tên gọi “chiến tranh vì dân chủ”?...
Đấy sẽ là những câu hỏi Orwell giải quyết trước hết, chứ không phải nhảy vào
tranh cãi lý thuyết trên giả định tất cả đều nắm vững thực tế như nhau, và đều
hiểu như nhau về những khái niệm mang cùng tên.
Khi lấy Liên Xô của Stalin chứ không phải Đức quốc xã làm mô
hình cho tiểu thuyết “không phải ngụ ngôn” của mình, Orwell không chỉ lấp đầy một
thiếu hụt ông nhận thấy của không khí trí thức Anh đương đại “những chỉ trích
chế độ Xô viết từ phía tả đều khó khăn lắm mới được cho phép lên tiếng”
(“The Freedom of the Press”, nhan đề không được in của Chuyện ở nông trại9), mà còn thực hiện một lựa chọn
hợp lý về thời gian: mười đến ba mươi năm đã trôi qua kể từ những sự kiện
“nguyên mẫu” trong thế giới ngoài nông trại, đủ để người ta có thể nhìn lại và
đánh giá quá khứ một cách tương đối tỉnh táo khách quan hơn, không bị chi phối
bởi mục đích chính trị trước mắt và nhu cầu tranh thủ sự thông cảm (hoặc lòng
căm ghét) của người đọc. Vất vả chạy vạy cho cuốn sách được ra mắt, Orwell hẳn
cũng không ngờ Chiến tranh lạnh sẽ đến liền sau đó, thổi bùng danh tiếng ông chính
nhờ tranh thủ lòng căm ghét của người đọc. Và Nã Phá Luân, Mồm Loa cùng đám
lợn, mà ông đã chừa ra không miêu tả thế giới nội tâm, lại trở thành Kẻ Thù
quái vật mới phục vụ cho các cộng đồng ngoài nông trại.
Nhưng cuốn sách trước hết viết cho độc giả Anh, và cũng như
trong các bài chính luận, Orwell phân tích tình hình các nước khác là để cảnh
báo về con đường lựa chọn cho nước Anh. Khoảng cách với chỉnh thể xã hội mô tả
trong sách giúp người đọc nhận ra cái hạn chế, không chỉ của lòng tin mù quáng
và dốt nát của tập thể súc vật, mà còn cả cái triết lý rởm của ẩn sĩ lừa: “Cối
hay không cối, đời cũng vẫn một lối mà thôi” (tr61). Vẫn thường được coi là mặt
nạ tác giả, nhưng lừa Benjamin chỉ là một bản sao khiếm khuyết, cũng như
Warburton trong A Clergyman’s Daughter hay Gordon Comstock trong Keep
the Aspidistra Flying. Tê liệt vì lý thuyết, Benjamin cũng trao lại quyền tự
quyết cho cường quyền, và phải trả giá bằng cái chết của người bạn. Orwell thì
không: ông vẫn còn tin vào giá trị của lý tưởng và vẫn chiến đấu bằng ngòi bút.
Nhưng ông không suy nghiệm ra những luận cương phổ quát cho mọi dân tộc, mọi thời
đại, không đóng góp vào bộ sưu tập “những món chính thống nhỏ mọn bốc mùi”
(“Charles Dickens”); ông bắt vào những vấn đề thời sự và cụ thể, từ to tát như
bom nguyên tử, đến “nhỏ nhặt” như nhà ở và khối lượng công việc của người nội
trợ, về giá thuốc lá và mức sống trong trường nội trú nam sinh. (Trong thư từ
cá nhân, ông nói cả đến trồng khoai tây và chọn mác sữa bột cho con trai
Robert.) Giữa lúc Anh sắp bị Đức tấn công, giữa giới trí thức còn đang mải mê
bàn bạc về hòa bình chủ nghĩa, ông sung vào đội tự vệ và không ngần ngại tuyên
bố mình yêu nước; nhưng đấy cũng không phải chủ nghĩa dân tộc trống rỗng bài Kẻ
Thù, mà có nội dung tích cực: “Chúng ta không thể thắng cuộc chiến này nếu
không thực hiện Chủ nghĩa xã hội, mà cũng không thể thiết lập Chủ nghĩa xã hội
nếu không thắng cuộc chiến này.” (“The Lion and the Unicorn”)
Chính vì thế mà các độc giả Anh yêu mến George Orwell (trong
khi độc giả các nước khác có xu hướng tôn sùng ông, hoặc mạt sát): họ thấy ở
ông, không phải bậc thần tượng, mà là con người bình thường có lương tri, luôn
cố tránh biến thành một “trí thức”. Ông không “nói sự thực với quyền uy” như
các trí thức, mà ông nói với họ, với Đấu Sĩ và Cỏ Ba Lá, nhắc họ nhìn lại hiện
thực quanh mình. Vì suy cho cùng, chính tập thể những Đấu Sĩ và Cỏ Ba Lá mới có
thể điều hành và lao động cho quyền lợi của chính chúng, chứ không phải một
Pilkington hay Frederick từ ngoài phái đến, cũng không phải Benjamin hay bốn lợn
trẻ làm thêm một cuộc lật đổ Nã Phá Luân (và rồi sau đó?). Utopia không đến nhờ
một hay nhiều cuộc lật đổ, mà có thể Utopia cũng chẳng bao giờ đến: Trại Súc Vật
chỉ có thể được xây dựng hằng ngày, từng giờ khắc một, nhờ từng con vật làm
theo Đấu Sĩ kìm chân để khỏi bị đá tảng kéo lăn xuống dốc, mà ngày càng nhích
lên gần tới ước mơ chung.
1 Michael Levenson, “The fictional realist: novels of the
1930s”, The Cambridge Companion to George Orwell, John Rodden cb,
Cambridge: Cambridge UP 2007, tr66.
2 Margaret Atwood, “My hero: George Orwell”, The Guardian
18-1-2013 < http://www.guardian.co.uk/books/2013/jan/18/my-hero-george-orwell-atwood>,
truy cập 26-3-2013 4:40 chiều.
3 Trích dẫn các bài báo, tiểu luận… đều lấy từ bộ The Collected Essays, Journalism and Letters
of George Orwell, Sonia Orwell và Ian Angus biên soạn, Penguin 1971.
4 Trích dẫn tác phẩm lấy từ Chuyện ở nông trại, An Lý
dịch, Hà Nội: Hội nhà văn 2013.
5 Hannah Arendt, The Origins of Totalitarianism, San Diego: Harcourt, 1973, tr153.
6 Có thể xem
bản dịch hoàn chỉnh bài viết này của Phạm Nguyên Trường ở http://phamnguyentruong.blogspot.com/2011/06/george-orwell-nha-van-va-quai-vat.html,
nhưng có nhiều điểm tôi không hiểu giống cách dịch của Phạm Nguyên Trường.
“Utopia tiêu cực” (không phải dystopia) là khái quát của Nicholas Brown về đặc
điểm văn học giành độc lập các nước châu Phi: “Chừng nào utopia chỉ được hình
dung như là sự phủ định trừu tượng đối với hệ thống thực dân, thì tất cả mọi
người còn có thể thống nhất về chuyện đó, vì nó thiếu đi nội dung cụ thể - sự cấu
trúc lại triệt để các quan hệ sở hữu - chắc chắn sẽ gây ra chia rẽ và bất đồng.
Sự không cụ thể hóa này cũng không phải vô tình: trong lĩnh vực chính trị, nó
cho phép bộ phận tư sản dân tộc, dù không tỏ ra đối nghịch công khai, có thể
theo đuổi những mục tiêu riêng dưới vỏ bọc cách mạng.” (Utopian Generations: The Political Horizon of Twentieth-Century Literature,
Princeton: Princeton UP 2005, tr23)
7 Có thể xem bản dịch hoàn chỉnh của Phạm Nguyên Trường ở http://phamnguyentruong.blogspot.com/2013/02/george-orwell-trai-suc-vat.html.
8 “Orwell’s Century”, Think
Tank with Ben Wattenberg trên PBS 12/2/2004.
9 Có thể xem bản dịch đầy đủ của Phạm Nguyên Trường ở http://phamnguyentruong.blogspot.com/2013/03/george-orwell-tu-do-bao-chi.html.
Bài liên quan:
- Sách (XXII) Lại bất ngờ
- Chuyện ở nông trại bên Trung Quốc
- Chuyện ở nông trại bên Việt Nam
- Chuyện ở nông trại: Giới thiệu George Orwell
- Chuyện ở nông trại bên Trung Quốc
- Chuyện ở nông trại bên Việt Nam
- Chuyện ở nông trại: Giới thiệu George Orwell
Và đây rồi, khỏi cần nhờ đến mấy bạn lẽ ra mình chẳng cần nhờ cũng phải tự mà nghĩ ra, nhiều lúc nghĩ đúng là vãi với mấy bạn :p
These are genuinely great ideas in on the topic of blogging.
ReplyDeleteYou have touched some good points here. Any way keep up wrinting.
Appreciate this post. Let me try it out.
ReplyDeleteHello there, just became alert to your blog through
ReplyDeleteGoogle, and found that it's really informative. I am going to
watch out for brussels. I will appreciate if you continue
this in future. Many people will be benefited from
your writing. Cheers!
I'm amazed, I must say. Rarely do I come across a blog that's equally educative and entertaining,
ReplyDeleteand let me tell you, you've hit the nail on the head.
The issue is something not enough folks are speaking
intelligently about. I am very happy I stumbled across this during my hunt for something regarding this.
Pretty nice post. I just stumbled upon your weblog and
ReplyDeletewanted to say that I've truly enjoyed surfing around your blog posts.
After all I will be subscribing to your feed and I hope you write again soon!
I have learn some excellent stuff here. Definitely
ReplyDeletevalue bookmarking for revisiting. I wonder how a lot attempt
you put to make one of these excellent informative site.