-------------
Thấy đã được an ủi một chút, anh quay người lại. Klara đang
đứng trước mặt anh, nói: “Anh thực sự không thích ở đây với chúng tôi phải
không? Anh không thể cảm thấy thoải mái hơn một chút à? Đi theo tôi, tôi sẽ thử
cách cuối cùng.”
Cô đưa anh đi qua căn phòng, ra tới cửa. Hai ông kia đang ngồi
ở một cái bàn kê dẹp sang bên, trên đó có những cái cốc cao đựng thứ đồ uống
hơi sủi bọt, thứ mà Karl không biết và những muốn nếm thử. Ông Green chống một
khuỷu tay lên bàn và gí mặt sát hết mức vào ông Pollunder; nếu không biết ông
Pollunder thì có thể dễ dàng nghĩ ở đây người ta đang bàn luận về một tội ác
nào đó chứ không phải chuyện làm ăn. Ông Pollunder đưa ánh mắt thân ái tiễn
Karl ra đến cửa, nhưng ông Green, mặc dù thường thì người ta sẽ vô ý thức hướng
cái nhìn theo ánh mắt người ngồi đối diện, chẳng buồn liếc nhìn Karl, đối với
Karl thái độ này muốn thể hiện sự cả quyết của ông Green, rằng cả Karl và ông
ta đều sẽ phải xử lý mọi chuyện theo khả năng riêng của mỗi người, mối liên hệ
xã hội nhất thiết phải có giữa họ sẽ được thiết lập vào thời điểm chiến thắng
hoặc suy sụp của người này hoặc người kia.
“Nếu ông ta nghĩ thế,” Karl tự nhủ, “thì ông ta đúng là bị
điên. Mình chẳng hề đòi hỏi điều gì ở ông ta, và mình chỉ muốn ông ta để mình
yên.”
Vừa ra đến hành lang thì anh chợt nảy ra ý nghĩ hẳn mình đã
bất lịch sự bởi vì, cứ chăm chăm nhìn Green, anh đã gần như để cho Klara lôi ra
khỏi phòng. Bởi vậy anh chỉ còn ngoan ngoãn bước đi bên cạnh cô. Trong các hành
lang trước tiên anh tưởng như mình đang mơ vì cứ hai mươi bước anh lại thấy một
anh hầu đứng nghiêm chào, ăn vận thật cầu kỳ và hai tay cầm một giá nến.
“Hệ thống điện mới mẻ chỉ mới có trong phòng ăn,” Klara giải
thích. “Chúng tôi mới mua ngôi nhà này gần đây và chúng tôi đã cải tạo nó hoàn
toàn, cải tạo hết mức mà người ta có thể thứ kiến trúc quái gở của một ngôi nhà
cũ kỹ.”
“Tức là ngay cả bên Mỹ,” Karl nói, “cũng có các ngôi nhà cũ
à?”
“Tất nhiên rồi,” Klara cười, đáp, rồi kéo anh đi tiếp. “Anh
có những hình dung thật kỳ cục về nước Mỹ đấy.”
“Cô không được chế giễu tôi,” anh nói, giọng tức tối. Dẫu
sao thì anh cũng biết cả châu Âu lẫn nước Mỹ, còn cô thì chỉ biết mỗi nước Mỹ.
Đi qua một cánh cửa, cô lấy tay đẩy nó mở ra và nói, vẫn
không dừng lại: “Anh sẽ ngủ ở đây.”
Lẽ dĩ nhiên Karl muốn xem phòng mình ngay lập tức, nhưng
Klara sốt ruột, gần như to tiếng, giải thích với anh rằng việc ấy để sau, còn
bây giờ phải đi theo cô đã. Họ co kéo nhau một lúc trong hành lang, lúc thì tiến
lên, lúc thì lùi lại, rồi Karl tự nhủ dẫu sao cũng chẳng có gì buộc anh cứ phải
nghe lời Klara; anh bèn vùng khỏi cô rồi bước vào phòng. Bóng tối đáng ngạc
nhiên ở bên ngoài cửa sổ căn phòng bắt nguồn từ một ngọn cây đang đu đưa. Có tiếng
chim hót. Trong bản thân căn phòng, nơi ánh trăng còn chưa rọi vào, không thể
nhìn thấy gì. Karl thấy tiếc vì đã không mang theo cái đèn pin mà ông cậu đã
cho anh. Đèn pin sẽ thật hữu ích trong ngôi nhà này; nếu có chúng, người ta có
thể cho đám người hầu đi ngủ. Anh ngồi lên bệ cửa sổ để nhìn ngắm và lắng nghe
những gì diễn ra bên ngoài. Một con chim hoảng hốt như thể đang bay quáng quàng
trong tán lá của cái cây cổ thụ. Tiếng còi một đoàn tàu ngoại ô New York vang
lên đâu đó. Ngoài ra không có tiếng động nào khác.
Nhưng chỉ như vậy được không lâu, vì Klara đã đi vào. Rõ
ràng là tức tối, cô kêu lên: “Thế nào thế này?” hai tay đập lên váy. Thoạt tiên
Karl không đáp, đợi đến khi nào cô lịch sự hơn. Nhưng cô đã bước nhanh về phía
anh và hét lên: “Nào, anh có muốn đi theo tôi không hả?” Rồi, hoặc cố tình hoặc
bị tác động bởi nỗi phấn khích, cô tống vào ngực anh một cú rõ mạnh khiến anh
suýt ngã nhào từ cửa sổ nếu vào phút cuối cùng hai chân anh không kịp trì xuống
sàn nhà, lùi xa khỏi bệ cửa sổ.
“Thiếu điều thì tôi ngã lộn cổ rồi đấy!” anh nói, giọng
trách móc.
“Thật tiếc vì đã không như thế. Tại sao anh lại tỏ ra khó chịu
đến vậy? Tôi sẽ đẩy anh ngã ra ngoài cửa sổ.”
Quả thật cô đã ôm choàng lấy anh và, trong cơn hoảng hốt,
anh quên gồng mình lên, cô vác anh ra gần đến cửa sổ; cô tập thể thao nên tay rất
khỏe. Nhưng khi ấy anh đã hoàn hồn, anh lắc hông thoát ra và đến lượt mình nắm
lấy cổ tay cô.
“Á! anh làm tôi đau đấy!” cô hét lên.
Nhưng lúc này Karl nghĩ mình không nên thả cô ra. Anh để cho
cô bước đi thoải mái, nhưng đi theo cô, không rời khỏi cô nữa. Vả lại rất dễ
tóm lấy cô với cái váy bó sát thân người này.
“Để tôi yên,” cô thì thầm, khuôn mặt đỏ lựng của cô ghé lại
sát mặt anh, “để tôi yên, tôi sẽ cho anh một thứ rất đẹp.” “Tại sao cô ta lại
thở như thế?” Karl nghĩ, mình không thể làm cô ấy đau được, mình đâu có ấn mạnh,”
và anh tiếp tục giữ lấy cô. Nhưng đột nhiên, sau một lúc đứng im lặng không chú
ý, anh cảm thấy sức mạnh của cô quay trở lại và cô vùng thoát ra, cô giữ lấy phần
phía trên của người anh bằng một động tác thành thục, khóa hai chân anh lại một
miếng võ hoàn toàn xa lạ với Karl và, lấy lại hơi, đẩy anh áp vào tường với một
sự điêu luyện tuyệt vời. Ở đó có một cái trường kỷ, cô đẩy Karl nằm xuống đó, rồi
nói với anh, mà không cúi người xuống thấp quá: “Giờ thì cứ thử nhúc nhích xem
nào.”
“Đồ ác miêu, cô là đồ ác miêu,” anh hét lên trong sự hỗn độn
của các cảm giác - điên giận và tủi hổ - mà anh đang cảm thấy. “Cô là đồ ác
miêu, cô điên rồi.”
“Nói năng cho cẩn thận nhé,” cô đáp, đặt một tay lên cổ anh.
Cô bắt đầu siết mạnh đến nỗi anh chỉ còn có thể tìm cách hớp lấy chút không khí
trong khi cô đưa tay kia vuốt lên má anh, rút nó ra và nâng nó lên mỗi lúc một
cao hơn, đe dọa bất cứ lúc nào cũng có thể hạ xuống thành một cái tát.
“Anh sẽ nói gì,” cô hỏi, “nếu để trừng phạt anh vì cư xử thô
lỗ với phụ nữ tôi tống cổ anh về nhà cùng một cú tát thật đích đáng? Có lẽ như
vậy sẽ có ích cho anh trong toàn bộ sự nghiệp tương lai mặc dù nó sẽ chẳng phải
là một kỷ niệm đẹp đâu. Tôi thấy tiếc cho anh; anh khá là điển trai và, nếu anh
từng học môn jiu-jitsu, có khả năng anh đã đánh đòn được tôi. Thế nhưng, thế
nhưng, tôi lại đang có một ham muốn hoàn toàn điên rồ là được tát anh, giờ đây
khi anh đang nằm như thế này. Chắc hẳn rồi tôi sẽ phải hối tiếc; nhưng nếu tôi
làm thế, hãy biết ngay từ bây giờ rằng điều đó hoàn toàn không phải do tôi mong
muốn. Bởi vì tất nhiên tôi sẽ không vừa lòng với chỉ một cái tát; tôi sẽ vả vào
hai má anh cho đến khi chúng sưng lên. Có lẽ anh là một người ga lăng - tôi rất
muốn tin vậy - anh sẽ không muốn sống nữa với những cái tát ấy và anh sẽ tự làm
mình biến mất. Nhưng tại sao anh lại cư xử tồi tệ như vậy với tôi? Anh không
thích tôi à? Được vào phòng tôi thì không đáng mong muốn à? Này! Vừa rồi tôi đã
suýt tặng cho anh một cái tát chỉ vì không để ý đấy. Nếu hôm nay anh thoát thân
được, về sau hãy cố mà cư xử bớt thô lỗ nhé. Tôi không phải cậu anh để mà anh
có thể thách thức tôi tùy thích. Vả lại tôi xin lưu ý anh rằng, nếu tôi thả anh
ra mà không tát anh, anh không được nghĩ rằng hoàn cảnh của anh vẫn giữ nguyên
xét từ quan điểm danh dự so với nếu thực sự anh phải nhận một cái tát. Tuy
nhiên, nếu anh tin được, tôi thực sự thích vuốt ve anh cơ. Mack sẽ nói gì đây
khi tôi kể cho anh ấy toàn bộ câu chuyện này?”
Nhắc đến cái tên Mack xong, cô thả Karl ra, trong mớ sương
mù bùng nhùng của đầu óc, anh thấy Mack như một vị cứu tinh. Anh vẫn cảm thấy
bàn tay của Klara trên cổ, nên vặn vẹo người thêm một lúc, rồi nằm im.
Cô ra lệnh cho anh đứng dậy, anh không đáp lại cũng không
nhúc nhích. Cô thắp một ngọn nến ở đâu đó, căn phòng sáng lên, những đường dích
dắc xanh lơ hiện ra trên trần, nhưng Karl, vẫn nằm gối đầu lên cái gối dựa sofa
đúng y như khi Klara đẩy anh xuống, không cựa quậy đến một li. Klara đi đi lại
lại trong phòng, cái váy sột soạt quanh hai chân, cô dừng lại một lúc lâu, chắc
là gần cửa sổ.
“Hết dỗi chưa?” anh nghe tiếng cô hỏi.
Anh thấy hết sức nặng nề vì không được yên ổn trong căn
phòng mà ông Pollunder đã dành cho anh. Cô gái kia cứ nán lại để đi tới đi lui,
dừng lại, nói, và anh thấy chán ngán một cách khủng khiếp. Ngủ thật nhanh rồi
chuồn khỏi đây, đó là tất tật những gì anh muốn. Thậm chí anh còn chẳng cần đến
cái giường nữa, anh cứ nằm lại đó trên cái trường kỷ này. Anh chỉ rình đợi lúc
cô đi khỏi để nhảy ra chỗ cánh cửa, khóa chặt nó lại và rồi lại nhảy lên trường
kỷ. Anh có một ham muốn lớn lao là duỗi người ra và ngáp, nhưng anh không muốn
làm vậy trước mặt Klara. Thế nên anh cứ nằm đó, chăm chăm nhìn lên trần nhà, cảm
thấy mặt mình càng lúc càng thêm đông cứng lại, và có một con ruồi cứ bay luẩn
quẩn quanh trước mắt anh, mà không biết chính xác đó là gì.
Klara lại tiến lại gần, cúi xuống sao cho có thể bắt gặp ánh
mắt anh và, nếu không quay đi, anh buộc phải nhìn cô.
“Giờ thì tôi đi đây,” cô nói. “Có thể một lúc nữa anh sẽ muốn
đến chỗ tôi. Cửa phòng tôi là cửa thứ tư tính từ đây, cùng bên hành lang. Anh
đi qua ba cánh cửa, cửa tiếp theo đó là đến. Tôi sẽ không xuống phòng khách nữa
đâu, kể từ lúc này tôi ở lại trong phòng. Nhưng anh đã làm tôi mệt khủng khiếp.
Tôi sẽ không thực sự đợi anh, nhưng nếu anh muốn đến thì cứ đến. Hãy nhớ rằng
anh đã hứa chơi đàn piano cho tôi nghe. Nhưng có thể tôi đã hạ gục anh rồi và
anh không thể cựa quậy được nữa, nếu thế thì cứ ở lại đây mà ngủ đi. Tôi sẽ
không nói lời nào với bố tôi về cuộc cãi cọ giữa chúng ta lúc nãy; tôi nói điều
này phòng khi anh thấy lo lắng. Nói đoạn, mặc dù vừa nói là rất mệt, cô ra khỏi
phòng bằng hai bước nhảy.
Ngay lập tức Karl ngồi bật dậy, tư thế nằm đã trở nên không
thể chịu nổi. Để vận động một chút, anh đi ra cửa và nhìn hành lang. Nhưng sao
mà tối thế! Anh sung sướng khóa cửa và quay lại gần cái bàn trong ánh sáng ngọn
nến. Anh đã quyết định sẽ không nán lại nơi này, đi xuống gặp ông Pollunder, thẳng
thắn kể cho ông ta biết Klara đã làm gì với anh - anh không hề thấy nặng nề gì
chuyện phải thú nhận thất bại của mình - và đề nghị, lý do trên đã là quá đủ,
được phép về nhà, bằng ô tô hoặc đi bộ. Nếu ông Pollunder có phản đối gì về việc
anh đòi về ngay lập tức, Karl sẽ xin ông sai một người hầu lái xe đưa anh đến
khách sạn gần đây nhất. Đây không phải cách thức người ta sử dụng đối với một
chủ nhà đáng mến, nhưng người ta còn hiếm khi đối xử với khách mời giống Klara
vừa xong hơn. Cô cứ tưởng đâu mình tỏ ra lịch thiệp với lời hứa tạm thời không
nói gì với ông Pollunder và thế thôi đã là quá quắt lắm rồi. Vậy có phải Karl
đã bị lôi vào một cuộc đấu vật, để rồi anh có phải nhục nhã vì bị đốn xuống đất
bởi tay một cô gái chắc hẳn đã dành phần lớn cuộc đời mình để học các tư thế
võ? Có lẽ cô đã học từ Mack. Cô có thể kể cho Mack tất tật những gì mà cô muốn,
chắc chắn Mack sẽ nhìn nhận sáng suốt, Karl biết thế, mặc dù chắc chẳng bao giờ
anh biết rõ được. Nhưng anh cũng biết rằng nếu Mack dạy cho anh, anh cũng có thể
tiến bộ được như Klara; vậy thì một ngày nào đó anh sẽ quay lại đây, rất có khả
năng là không được mời, thoạt tiên dĩ nhiên sẽ bắt đầu bằng việc xem xét nơi
này, hiểu biết chính xác địa hình chính là một trong những lợi thế lớn của
Klara, túm lấy cái cô Klara kia và nện lưng cô xuống cái trường kỷ nơi cô đã
ném anh xuống hôm nay.
Lúc này, vấn đề chỉ là tìm đường xuống phòng khách và tìm lại
cái mũ chắc anh đã để đâu mất. Anh sẽ cầm ngọn nến theo, nhưng, ngay cả khi có
ánh sáng, cũng không dễ tìm ra đường. Chẳng hạn, anh không biết phòng mình có ở
cùng tầng với phòng khách không. Klara đã kéo anh suốt dọc đường tợn đến mức
anh đã không thể nhìn xem mình đi qua những đâu. Ông Green và những người hầu cầm
giá nến cũng đã khiến anh sao lãng; nói tóm lại giờ đây thậm chí anh còn chẳng
biết họ đã lên một tầng, hai tầng, hay không lên tầng nào. Cứ nhìn quanh mà xét
thì căn phòng chắc phải khá cao và đó là điều khiến anh nghĩ họ đã đi lên cầu
thang; nhưng anh cũng đã phải đi lên cầu thang để tới chỗ cửa ngôi nhà; tại sao
phần này của tòa nhà lại không nhô lên cao giống như phần đầu tiên cơ chứ? Giá
kể mà nhìn thấy dẫu là bất kỳ đâu ít nhất một ánh sáng lọt vào, nghe thấy dù chỉ
một giọng nói, dẫu xa xôi, nhỏ đến đâu cũng được!
Cái đồng hồ bỏ túi của anh, món quà tặng của ông cậu, chỉ mười
một giờ, anh cầm ngọn nến lên và đi ra hành lang. Anh để cửa mở với mục đích trở
lại căn phòng trong trường hợp không tìm được đường và, tệ hại nhất, từ căn
phòng này mà tìm ra cánh cửa phòng Klara. Để chắc chắn hơn, anh kê một cái ghế
chặn ngang ngăn nó đóng lại. Trong hành lang một luồng gió quỷ quái bắt đầu thổi
tới - lẽ dĩ nhiên Karl rẽ sang trái, tức là ngược hướng với cánh cửa phòng
Klara - nó rất nhẹ nhưng dẫu sao cũng có thể làm tắt nến, thế nên anh phải dùng
tay che chắn và thậm chí còn phải thường xuyên dừng lại để ánh lửa dựng thẳng dậy.
Đó là một cuốc đi khó nhọc và con đường như thể dài gấp đôi. Karl đi được một
thôi dài mà chẳng thấy có cánh cửa nào; chẳng thể hiểu nổi đằng sau những bức
tường vô tận này có gì nữa. Và rồi, đột nhiên, toàn thấy cửa là cửa và anh tìm
cách mở vài cái trong số chúng nhưng tất cả đều đóng và thuộc những căn phòng
dĩ nhiên không có người. Đây là một sự lãng phí không gian ghê gớm; Karl không
thể ngăn mình nghĩ đến các khu phố phía Đông New York mà ông cậu đã hứa sẽ chỉ
cho anh, ở đó, ông nói, kể cả căn phòng nhỏ nhất cũng là nơi trú ngụ của nhiều
gia đình, tổ ấm chỉ là một góc nơi lũ trẻ con quây quần quanh bố mẹ chúng.
Trong khi ở đây có đến ngần ấy phòng trống chỉ tồn tại để vang vọng trống rỗng
khi ta gõ cửa. Với Karl, ông Pollunder bị đám bạn bè giả dối đánh lừa, yêu con
gái đến phát điên và do vậy đã hỏng hẳn. Chắc chắn cậu anh đã đánh giá đúng
tình hình và chỉ vì nguyên tắc không bao giờ gây ảnh hưởng đến cách đánh giá của
Karl nên mới có chuyến đi này và có việc anh phải lang thang trong các hành
lang. Karl muốn nói thẳng điều đó với ông cậu vào ngày mai, bởi vì theo cùng
nguyên tắc, chắc cậu anh cũng sẽ, bình thản và vui sướng, lắng nghe đánh giá của
đứa cháu về ông. Và rồi có lẽ nguyên tắc này là điều duy nhất mà Karl thấy
không thích ở cậu mình; tuy nhiên điều đó không phải là tuyệt đối.
Đột nhiên bức tường chạy dọc một bên của hành lang không còn
nữa, thay vào đó là một hàng hiên đá hoa cương lạnh giá. Karl đặt ngọn nến xuống
bên cạnh và thận trọng thò đầu qua lan can. Một sự trống rỗng tối đen ập vào mặt
anh. Nếu đây là sảnh vào của ngôi nhà - ánh nến làm hiện ra một mảnh vòm trần -
thì tại sao lúc trước họ không vào bằng lối này? Cái không gian thật rộng và
sâu hoắm này dùng để làm gì? Cứ như thể đang đứng ở hành lang trên của một nhà
thờ. Karl gần như thấy tiếc vì đã không thể ở lại ngôi nhà này cho đến ngày mai,
anh những muốn được ông Pollunder dẫn đi thăm thú khắp nơi trong ánh sáng ban
ngày và được ông giới thiệu cho mọi chốn.
Vả lại hàng lan can không dài; ngay sau đó lại nối tiếp hành
lang im ỉm. Ở một chỗ ngoặt anh lao sầm vào bức tường và chỉ nhờ cầm ngọn nến rất
cẩn thận anh mới không làm nó rơi và bị tắt. Vì hành lang mãi mà không chịu kết
thúc, chẳng cửa sổ nào cho phép nhìn ra bên ngoài và không có gì chuyển động
phía trên cũng như phía dưới, Karl nghĩ mình đang đi vòng vòng và anh đã hy vọng
lại nhìn thấy cửa phòng mình, nhưng cả nó lẫn hàng lan can đều không trở lại.
Cho tới lúc ấy anh vẫn tự ngăn mình hét to lên, vì anh không muốn gây tiếng ồn ở
nhà người lạ vào một cái giờ muộn màng như thế này, nhưng rốt cuộc anh cũng nhận
ra việc đó chẳng có gì là xấu trong một ngôi nhà không ánh sáng và anh đã định
hét lên “Xin chào” về phía cả hai phía của hành lang, thì đúng lúc ấy anh nhìn
thấy từ hướng anh vừa đi qua có một đốm sáng nhỏ đang tiến lại gần. Mãi lúc này
anh mới có thể ước lượng được chiều dài của dãy hành lang chạy thẳng kia; đây
là pháo đài chứ không thể là một ngôi nhà được. Niềm vui của Karl khi nhìn thấy
ánh sáng cứu mạng này lớn đến nỗi anh quên biến mọi sự thận trọng và chạy bổ về
phía nó, được vài bước thì ngọn nến tắt phụt. Anh cũng chẳng để ý vì không cần
đến nó nữa; một người hầu tiến lại gần, với một cái đèn, hẳn ông ta sẽ chỉ đường
cho anh.
“Anh là ai?” người hầu hỏi, đưa cái đèn lên trước mặt Karl,
làm như vậy ông ta cũng soi sáng luôn khuôn mặt mình. Các đường nét của ông ta
có vẻ cứng nhắc vì một bộ râu trắng dài mãi đến đoạn ngực mới bắt đầu cuộn lại
thành búi. “Chắc đây phải là một người hầu rất trung thành thì người ta mới cho
phép để râu dài đến thế!” Karl nghĩ, anh chằm chằm nhìn cả chiều rộng và chiều
dài của bộ râu, không hề cảm thấy bối rối vì bản thân mình cũng đang bị dò xét.
Vả lại anh đáp ngay rằng anh là một người khách của ông Pollunder từ phòng mình
đi ra để xuống phòng ăn nhưng không tìm được đường.
“À! đúng,” người hầu nói, “chúng tôi còn chưa có điện.”
“Tôi biết,” Karl nói.
“Anh có muốn châm nến vào cái đèn của tôi không?” người hầu
hỏi.
“Cám ơn, rất sẵn lòng,” Karl nói, và anh làm vậy.
“Trong hành lang này gió lùa kinh lắm,” người hầu nói, “rất
dễ làm tắt nến, vì thế nên tôi mới cầm đèn theo.”
“Đúng rồi, đèn thì tiện hơn,” Karl nói.
“Vảy nến dây đầy ra người anh rồi kia,” người hầu nói, giơ
đèn lên soi vào bộ com lê của Karl.
“Tôi không thấy đấy,” Karl kêu lên, hết sức phiền lòng, bởi
vì đây là bộ com lê đen mà ông cậu từng nói là hợp với anh hơn cả. Anh nhớ lại
cuộc cãi cọ vừa rồi, hẳn nó không thể góp phần cải thiện tình hình quần áo của
anh. Người hầu chu đáo sửa chữa các tổn hại trong chừng mực sự vội vã cho phép
ông ta; Karl liên tục quay người trước ông ta, chỉ cho ông ta chỗ này chỗ kia
còn một vảy nến, ông ta ngoan ngoãn cạy nó đi.
“Tại sao gió lùa thế?” Karl hỏi khi họ đã bước đi trở lại.
“Là vì còn phải xây dựng nhiều lắm,” người hầu đáp, “người
ta đã bắt đầu từ lâu rồi, nhưng tiến hành quá chậm. Bây giờ công nhân xây dựng
lại còn đình công nữa, có lẽ anh đã nghe phong thanh. Xây dựng thế này gặp nhiều
phiền nhiễu lắm. Người ta lại còn vừa mở vài chỗ thông lớn mà chưa xây bít lại,
chúng làm gió lùa khắp nhà. Nếu không lấy bông nhét vào tai thì tôi sẽ chẳng thể
nào mà chịu nổi.”
“Tức là tôi phải nói to hơn à?” Karl hỏi.
“Không, giọng của anh rất rõ,” người hầu đáp. “Nhưng, để nói
thêm về công việc xây dựng, nhất là ở đây, gần cái nhà thờ kia, sau này chắc sẽ
phải ngăn cách nó khỏi phần còn lại của ngôi nhà, gió lùa thật là không chịu nổi.”
“Hàng lan can mà ta đi qua trên hành lang nhìn xuống một nhà
thờ à?”
“Đúng.”
“Tôi đã nghĩ thế ngay mà,” Karl nói.
“Nó lạ lắm đấy,” người hầu nói; “không có nó thì chắc hẳn
anh Mack đã chẳng bao giờ mua ngôi nhà.”
“Mack?” Karl hỏi, “tôi cứ nghĩ ngôi nhà này thuộc về ông
Pollunder chứ!”
“Chắc rồi,” người hầu đáp, “nhưng anh Mack mới là người
chính yếu đằng sau vụ mua bán. Anh không biết anh Mack à?”
“Ồ! có chứ,” Karl đáp. “Nhưng thế thì anh ta là như thế nào
với ông Pollunder?”
“Là chồng chưa cưới của tiểu thư,” người hầu đáp.
“Cái đó thì không, tôi không hề biết!” Karl nói, dừng bước.
“Anh ngạc nhiên đến mức đấy cơ à?” người hầu hỏi.
“Tôi chỉ tìm cách làm quen với ý nghĩ ấy. Nếu không biết các
chi tiết như vậy ta dễ phạm phải những sai lầm tệ hại lắm,” Karl đáp.
“Tôi thấy ngạc nhiên vì người ta chưa nói gì với anh,” người
hầu nói.
“Đúng, đúng vậy,” Karl nói, cảm thấy phật ý.
“Chắc họ nghĩ là anh biết rồi,” người hầu nói, “chuyện không
mới đâu. Vả lại, chúng ta tới nơi rồi.” Và ông ta mở một cánh cửa, đằng sau đó
là một cầu thang dẫn thẳng xuống cánh cửa ở cuối phòng khách, vẫn được chiếu
sáng một cách rực rỡ.
Trước khi Karl bước vào căn phòng từ đó vẫn vẳng ra, như hai
tiếng trước, giọng của ông Green và của ông Pollunder, người hầu nói: “Nếu anh
muốn, tôi sẽ đợi anh ở đây để dẫn anh về phòng. Lúc nào cũng rất khó tìm đường
vào buổi tối đầu tiên.”
“Tôi sẽ không quay lại đó,” Karl nói mà không biết tại sao
câu này lại làm anh thấy buồn.
“Sẽ không khủng khiếp đến thế đâu!” người hầu nói, giọng có
chút hạ cố, mỉm cười và vỗ vỗ lên cánh tay anh. Chắc ông ta nghĩ Karl muốn ở dưới
phòng ăn cả đêm để nói chuyện và nhậu nhẹt với hai ông kia. Lúc này Karl không
muốn tâm sự gì cả, thêm nữa anh nghĩ rằng người hầu này, người mà anh thích nhất
trong cả ngôi nhà, sau đó có thể sẽ chỉ cho anh đường về New York, thế nên anh
bảo ông ta: “Nếu ông muốn đợi tôi ở đây thì ông thật là tốt và tôi vui lòng chấp
nhận. Dẫu sao thì một lúc nữa thôi tôi sẽ ra và lúc ấy tôi sẽ nói mình muốn làm
gì. Tôi nghĩ sẽ cần ông giúp đỡ đấy.” “Vâng,” người hầu đáp. Ông ta đặt cái đèn
xuống đất, bên cạnh mình, và ngồi xuống một cái bệ nhỏ bỏ không, chắc hẳn vì
công việc cải tạo ngôi nhà. “Tôi sẽ đợi ở đây. Để ngọn nến của anh lại cho
tôi,” ông ta nói thêm khi thấy Karl định bước vào phòng với cây nến vẫn cháy cầm
trên tay.
“Tôi đãng trí quá!” Karl nói, đưa ngọn nến cho người hầu,
ông ta chỉ cúi đầu xuống, chẳng biết ông ta làm thế vì vô ý hay đơn giản là vì
ông ta đang vuốt râu.
Karl mở cửa, nó kêu lạo xạo rất to; đó không phải là lỗi của
anh vì cánh cửa chỉ được làm bằng một tấm gương, nó gần như bị vỡ khi cửa mở ra
và chỉ được ổ khóa giữ lấy. Karl, rất muốn bước vào thật kín đáo, hoảng hốt
buông tay thả nắm đấm cửa. Không quay đầu lại anh vẫn nhận thấy người hầu, đã rời
khỏi cái bệ của mình, cẩn thận đóng cửa lại mà không gây ra chút ồn ã nào.
“Xin thứ lỗi vì đã làm phiền các ông,” anh nói với hai ông
kia, lúc này họ đang ngạc nhiên nhìn anh. Cùng lúc, anh đưa mắt nhìn khắp phòng
để thử tìm nhanh cái mũ. Không thấy nó ở đâu, cái bàn hoàn toàn trống trơn; có
lẽ người ta đã mang mũ xuống bếp mất rồi, thế thì phiền thật.
“Anh đã để Klara lại đâu thế?” ông Pollunder hỏi. Sự xuất hiện
đột ngột này dường như không hề làm ông ta thấy khó chịu, vì ông ta ngay lập tức
đổi tư thế trong ghế phô tơi để quay hẳn mặt về phía Karl. Ông Green thì làm ra
vẻ thờ ơ, rút từ trong túi ra một cái ví, cái ví này là một con quái vật nếu
xét về kích cỡ và độ dày, và như thể tìm kiếm trong các ngăn một thứ gì đó,
nhưng cũng đọc bất kỳ thứ gì lôi ra được.
‘Tôi có một lời cầu khẩn cần nói với ông, và tôi không muốn
ông nghĩ xấu về điều đó,” Karl nói, vội vã tiến về phía ông Pollunder và đặt một
tay lên tay dựa ghế nhằm được ở thật gần ông ta.
“Cầu khẩn thuộc dạng nào?” ông Pollunder hỏi, nhìn Karl với
ánh mắt thể hiện một sự thẳng thắn không chút e dè. “Lẽ dĩ nhiên là tôi cho
phép anh rồi.” Lấy tay ôm choàng lấy người Karl, ông ta kéo anh đứng vào giữa
hai chân mình. Karl cứ để mặc ông ta làm thế mặc dù anh cảm thấy nhìn chung
mình đã đủ lớn, không nên bị đối xử theo cách thức ấy. Nhưng lời cầu khẩn của
anh lẽ dĩ nhiên trở nên khó nói ra hơn hẳn.
“Anh cảm thấy thế nào ở chỗ chúng tôi?” ông Pollunder hỏi.
“Anh có nghĩ giống chúng tôi rằng ở nông thôn ta cảm thấy như thể được giải
thoát khi từ thành phố đến không? Nhìn chung,” do người Karl đang đứng chắn,
ông ta ném về phía ông Green một cái liếc xéo mà ta không thể hiểu sai ý nghĩa,
“nhìn chung tối nào tôi cũng có cảm giác ấy.”
“Ông ta nói,” Karl nghĩ, “như thể chẳng biết gì về những
hành lang bất tận kia, về cái nhà thờ, về những căn phòng trống và bóng tối bao
phủ khắp mọi nơi.”
“Nào,” ông Pollunder nói, “lời yêu cầu!” Và ông ta thân thiện
lắc người Karl, anh đứng đực đó không nói gì.
“Tôi xin ông,” Karl nói, không thể tránh - dẫu có nói nhỏ hết
cỡ - để Green đang ngồi kia nghe thấy tất cả, anh rất muốn khi có mặt ông ta
không nói gì về lời đề nghị này, nó có thể bị hiểu như một sự xúc phạm tới ông
Pollunder, “tôi xin ông, hãy để tôi về nhà trong đêm nay.”
Rồi, vì điều tồi tệ nhất đã xả được rồi, phần còn lại trở
nên nhanh gọn và, không hề nói dối chút nào, anh nhắc tới những việc mà trong
thâm tâm anh đã hoàn toàn không nghĩ đến từ trước. “Tôi muốn về nhà bằng mọi
giá. Tôi sẽ vui lòng quay trở lại vào một dịp khác, thưa ông Pollunder, vì tôi
thấy nơi ở của ông thật tuyệt. Nhưng hôm nay tôi không thể ở lại đây. Ông cũng
biết là cậu tôi đã không sẵn lòng cho phép tôi đi. Chắc hẳn ông ấy có những lý
do xác đáng, cũng như trong mọi việc mà ông ấy làm nhưng tôi đã cả gan chống lại
hiểu biết vượt trội của ông ấy, buộc ông ấy phải cho phép tôi đi. Tôi đã chỉ
đơn giản là lạm dụng tình yêu của ông ấy dành cho tôi. Tại sao chuyến đi này lại
làm ông ấy phải suy nghĩ thì không liên quan đến ở đây, tôi chỉ biết chắc rằng
trong sự do dự của ông ấy không có gì có thể làm tổn thương ông, thưa ông
Pollunder, ông là bạn thân nhất của ông ấy, trong số mọi người bạn khác. Chẳng
ai khác trong số các bạn của cậu tôi có thể sánh được với ông, còn xa mới sánh
được. Đấy cũng là, mặc dù không hề đủ, lời biện hộ duy nhất cho sự không nghe lời
của tôi. Có lẽ ông không hiểu chính xác mối quan hệ của tôi với cậu tôi, vậy
nên tôi sẽ chỉ nêu lên những gì rõ ràng nhất. Chừng nào việc học tiếng Anh của
tôi còn chưa xong xuôi và tôi còn chưa có kinh nghiệm thực tiễn đủ cho công việc
kinh doanh, tôi sẽ vẫn phải chịu phụ thuộc vào lòng tốt của cậu tôi, cái đó thì
thật ra tôi có quyền được hưởng với tư cách họ hàng. Ông không được nghĩ rằng
tôi đã có thể kiếm miếng ăn một cách trung thực - và Chúa ngăn cản tôi làm thế
theo một cách khác! Thật không may, những gì tôi đã học quá nặng về lý thuyết.
Tôi đã bỏ bốn năm để học tại một trường trung học bên châu Âu, ở đó tôi chỉ là
một học sinh trung bình: như thế thì còn ở chưa đạt đến mức chẳng có gì khi cần
phải kiếm sống, bởi vì các trường trung học của chúng tôi rất lạc hậu trong
chương trình học. Chắc tôi sẽ làm ông cười nếu kể cho ông nghe xem tôi đã học
những gì. Khi người ta muốn học lên cao hơn, thì phải học cho hết trung học rồi
sau đó theo các bài giảng ở đại học, tất tật hẳn sẽ được cân bằng và rốt cuộc
người ta sẽ có được một sự đào tạo thích hợp cho phép thực hiện điều gì đó và
khiến ta trở nên quyết tâm trong việc kiếm sống. Nhưng thật không may là tôi đã
bị bứng đi khỏi sự học hành liên tục ấy từ sớm, đôi khi tôi nghĩ mình chẳng biết
gì, mà dẫu sao những gì tôi có thể biết cũng sẽ chẳng đủ dùng ở Mỹ. Hiện nay tại
đất nước tôi người ta đang xây dựng đây đó những trường trung học kiểu mới, ở
đó người ta giảng dạy các thứ ngôn ngữ hiện đại và có lẽ cả môn khoa học thương
mại nữa, nhưng khi tôi rời trường tiểu học thì chúng còn chưa tồn tại. Bố tôi từng
muốn cho tôi học tiếng Anh, nhưng trước hết, tôi đã không thể dự đoán nỗi bất hạnh
ụp xuống đầu tôi, cũng không biết mình sẽ cần biết tiếng Anh; sau đó tôi bị buộc
phải học rất nhiều cho trường trung học, thành thử tôi gần như chẳng còn chút
thời gian nào cho những thứ khác. Tôi nhắc lại tất tật những điều này để cho
ông thấy tôi phụ thuộc vào cậu tôi tới mức nào và tôi chịu ơn ông ấy ra sao. Chắc
ông sẽ vui lòng đồng ý với tôi rằng trong hoàn cảnh như thế tôi không thể tự
cho phép mình làm bất kỳ điều nhỏ nhặt nào đi ngược lại ý muốn của ông ấy, mặc
cho ông ấy chẳng mấy để lộ điều đó ra. Vì vậy, để sửa chữa - dẫu cho chẳng được
bao nhiêu - lỗi lầm tôi đã gây ra cho ông ấy, tôi phải về nhà ngay bây giờ.
Trong suốt bài diễn văn dài của Karl, ông Pollunder lắng
nghe hết sức chăm chú; thường xuyên, nhất là khi có nhắc tới ông cậu, ông ta ôm
siết Karl vào mình, mặc dù chỉ nhè nhẹ, và nhìn chằm chằm Green, vẫn tiếp tục
lo toan cho cái ví, như là đang chờ đợi điều gì đó. Nhưng Karl, trong lúc nói,
càng ý thức rõ về hoàn cảnh của mình đối với ông cậu, anh càng trở nên sốt ruột,
và một cách vô ý anh tìm cách thoát ra khỏi vòng tay ông Pollunder, mọi thứ ở
đây đều áp bức anh; con đường dẫn về nhà ông cậu đi qua cánh cửa gắn kính, cầu
thang, lối đi, những con đường, những khu ngoại ô và phố chính với anh như thể
là một thực thể không thể chia cắt, nằm đó trống rỗng, mềm mại, chuẩn bị sẵn
cho anh và lớn tiếng gọi giục anh. Lòng tốt của ông Pollunder và sự đen tối của
ông Green biến mất đi vào một khoảng xa vời mơ hồ, và anh chỉ còn yêu cầu ở căn
phòng ngập khói này sự cho phép đi khỏi. Chắc hẳn anh cảm thấy với ông
Pollunder thế là xong rồi, và với ông Green anh đã sẵn sàng chiến đấu; thế
nhưng ở anh tràn ngập cảm giác mọi thứ xung quanh đều là nỗi sợ hãi mơ hồ, những
cú đẩy của nó làm mờ mắt anh.
Anh lùi lại một bước và khi ấy gần như đứng chính giữa ông
Green và ông Pollunder. “Ông có muốn nói với cậu ấy điều gì không?” ông
Pollunder hỏi ông Green, cầm lấy tay ông ta như thể để cầu xin.
“Tôi không thấy mình có thể nói gì với anh ta,” ông Green
tuyên bố, rốt cuộc ông ta đã rút ra từ trong túi một bức thư và đặt nó lên bàn.
“Anh ta thật đáng khen khi muốn quay về nhà ông cậu và, như
tất tật những gì mà ta có thể hình dung, cuộc trở về này hẳn sẽ gây cho cậu anh
ta một niềm vui to lớn. Trừ phi sự thiếu ngoan ngoãn của anh ta còn chưa làm
cho ông ấy tức giận, cả điều này cũng là có thể. Lẽ dĩ nhiên, trong trường hợp
đó, tốt hơn hết là nên ở lại đây. Thật khó mà nói một điều gì cụ thể; cả hai
chúng ta đều là bạn của ông cậu anh ta, khó mà tìm ra mức độ khác biệt giữa
tình cảm của tôi với ông ấy và tình bạn của ông Pollunder đây, nhưng chúng ta
không thể nhìn tận vào sâu trong tâm hồn ông ấy, nhất là với khoảng cách vời vợi
đang ngăn cách chúng ta với New York.”
“Thưa ông Green,” Karl nói, vận hết nỗ lực để tiến lại gần
ông Green, “tôi đọc thấy trong những lời của ông rằng ông cũng nghĩ tốt hơn hết
là nên trở về ngay lập tức.”
“Tôi hoàn toàn không nói điều đó,” ông Green tuyên bố và lại
đắm mình vào suy tưởng với bức thư mà ông ta đang dùng hai ngón tay vuốt dọc
các mép. Có vẻ bằng cách ấy
ông ta muốn chỉ ra rằng ông Pollunder đã hỏi ông ta và ông ta đã trả lời, nhưng
với Karl thì ông ta chẳng có việc gì để làm hết.
Tuy nhiên ông Pollunder đã tiến về phía Karl và nhẹ nhàng
kéo anh ra xa khỏi ông Green, đến bên khung một cửa sổ lớn. “Anh Roßmann thân mến,”
ông ta vừa nói vừa ghé sát vào tai Karl - và ông ta đưa chiếc mùi soa lên chùi
mặt, dừng lại ở mũi để xì - “đừng nghĩ là tôi muốn giữ anh lại đây chống lại ý
muốn của anh. Không có chuyện ấy đâu. Lẽ dĩ nhiên tôi không thể đưa xe ô tô cho
anh dùng: nó ở xa đây, trong một ga ra công cộng, bởi vì tôi vẫn chưa có thời
gian xây một cái ga ra tại nhà, ở đây mọi thứ đều đang xây dựng. Người tài xế
cũng không ngủ ở nhà, mà cạnh ga ra, tôi cũng chẳng biết rõ là ở đâu nữa. Và cuối
cùng hợp đồng thuê anh ta không đòi hỏi anh ta phải ở đây vào lúc này, anh ta
chỉ cần lái chiếc xe đến đây đúng giờ vào sáng mai thôi. Nhưng chẳng gì trong tất
tật những chuyện ấy có thể ngăn cản anh quay trở về ngay lập tức, bởi vì nếu
anh cứ khăng khăng như vậy, tôi sẽ đưa ngay anh ra đến bến tàu điện ngầm gần nhất;
thật không may nó lại ở quá xa đây đến nỗi anh sẽ chẳng thể về đến nhà sớm hơn
nhiều so với nếu sáng mai anh dùng xe của tôi, bởi vì chúng tôi sẽ khởi hành từ
đây vào lúc bảy giờ.
“Dẫu thế thì tôi cũng vẫn muốn, thưa ông Pollunder,” Karl
đáp, “đi bằng chuyến tàu điện ngầm sắp tới. Tôi chưa hề nghĩ đến nó đấy. Ông vừa
nói là tôi sẽ về sớm hơn so với đi ô tô.”
“Phải, nhưng khác biệt sẽ rất nhỏ thôi.”
“Có thế đi nữa, có thế đi nữa, thưa ông Pollunder,” Karl
nói, “thì tôi vẫn luôn luôn muốn được quay trở lại nơi đây với kỷ niệm về lòng
hiếu khách của ông, lẽ dĩ nhiên là giả dụ ông còn muốn mời tôi sau thái độ của
tôi hôm nay. Có lẽ tốt hơn hết là tôi nên nói ngay tại sao tôi lại coi việc về
sớm phút nào hay phút nấy để gặp cậu tôi lại quan trọng đến thế.” Và, như thể đã
nhận được sự cho phép đi khỏi đây, anh nói thêm: “Dẫu sao thì cũng đừng đi cùng
tôi. Không cần đâu. Ngoài cửa có một người hầu, ông ta sẽ vui lòng dẫn tôi ra bến
tàu điện ngầm. Nhưng tôi còn phải tìm cái mũ nữa.” Và, nói đoạn, anh đi ngang
căn phòng để vội vã xem thử lần cuối cùng xem có thấy mũ của mình ở đâu không.
“Một cái mũ cát két thì có được không?” ông Green nói và rút
từ trong túi ra một cái. “Biết đâu cái này anh lại đội vừa đấy.”
Karl, sửng sốt, đứng khựng lại và nói: “Dẫu sao thì tôi cũng
sẽ không lấy mũ cát két của ông! Tôi hoàn toàn có thể đầu trần mà đi. Tôi chẳng
cần gì hết.”
“Không phải mũ cát két của tôi đâu, cầm lấy đi.”
“Vậy thì cám ơn ông,” Karl nói để kết thúc chuyện cho nhanh,
và cầm lấy cái mũ cát két. Anh đội nó lên đầu, rồi cười, bởi vì nó vừa khít đầu
anh; anh lại cầm nó trên tay và ngắm nghía, nhưng không thể tìm thấy có gì đặc
biệt; đó là một cái mũ cát két hoàn toàn mới. “Nó vừa lắm”, anh nói.
“Thế đấy, nó vừa lắm!” Green nói, đập tay xuống bàn.
Karl đang đi ra cửa để đến chỗ người hầu thì ông Green đứng
dậy, duỗi người như một người vừa ăn quá nhiều và đã nghỉ ngơi thật lâu, đấm mạnh
lên ngực và nói bằng cái giọng vừa có tính chất mệnh lệnh vừa như là lời
khuyên: “Trước khi đi thì anh cũng phải chào từ biệt cô Klara chứ.”
“Phải thế đấy,” ông Pollunder nói, ông ta cũng đứng dậy. Căn
cứ vào giọng nói thì có thể thấy những lời này không xuất phát từ đáy lòng, ông
ta để hai bàn tay mềm oặt rơi xuống dọc đường chỉ chiếc quần của mình và không
ngừng cài rồi lại cởi cúc cái áo vest, nó rất ngắn, theo mốt hồi này; nó chỉ
dài xuống đến hông, khiến cho những ông nào bụng to như ông Pollunder mặc rất
không hợp. Vả lại, khi thấy ông ta đứng cạnh ông Green, người ta có cảm giác rõ
rệt là sự phương phi này không hề lành mạnh, xét toàn thể cái lưng hơi gù, bụng
thì có vẻ mềm và sệ, một gánh nặng đích thực, khuôn mặt thì phờ phạc và nhăn
nhúm. Ông Green, đang đứng, có lẽ còn béo hơn cả ông bạn mình, nhưng sự đồ sộ
này đồng nghĩa với một sự béo bụng thích hợp với các bộ phận trợ đỡ lẫn nhau;
hai chân đứng nghiêm, đầu thật thẳng, hơi lúc lắc một chút, trông ông ta thật
giống một người chăm tập thể dục, một nhà lãnh đạo đích thực.
“Nào đi đi,” ông Green nói, “đến chỗ cô Klara đi. Chắc chắn
việc này sẽ làm anh vui đấy, và nó cũng thích hợp với thời gian biểu của tôi.
Tôi phải nói với anh, điều này là thật đấy, trước khi anh đi, một điều rất thú
vị chắc có thể là then chốt đối với cuộc trở về của anh. Thật không may, theo lệnh
trên, tôi bị buộc không được nói gì với anh trước nửa đêm. Anh có thể hình dung
bản thân tôi cũng thấy bực vì điều đó lắm; nó ảnh hưởng đến giấc ngủ của tôi,
nhưng tôi phải thực hiện mệnh lệnh. Bây giờ đang là mười một giờ mười lăm phút;
thế nên tôi vẫn còn thời gian để nói xong công chuyện với ông Pollunder, trong
lúc đó sự có mặt của anh chỉ có thể làm phiền chúng tôi, còn anh, anh có thể có
một lúc vui thú với cô Klara. Đúng mười hai giờ, anh hãy tới đây, anh sẽ được
biết điều cần thiết.”
No comments:
Post a Comment