vì có vẻ như khi dùng từ "project" thì mọi chuyện không được suôn sẻ cho lắm (ví dụ, xem ởkia), cho nên lần này tôi chuyển sang dùng "projet" - à mà cũng không hẳn, vì như ởkia thì cũng đâu quá tệ; chẳng biết đâu mà lần
Trong mục các nhân vật văn chương nước ngoài ở Việt Nam (xem ởkia, và theo các đường link trở ngược về trước), Guy de Maupassant mới thực sự là trường hợp hấp dẫn, một trong những gì kích thích mạnh nhất. Tôi đã đến được với một kiểm kê tương đối sát sạt mọi thứ gì của Maupassant từng xuất hiện ở Việt Nam, tính đến từng truyện ngắn nhỏ. Như vậy là đủ để làm cả một luận án tiến sĩ - thậm chí còn hơi quá so với đòi hỏi. Chính vì thế, tôi thấy cần phải có một toàn tập Maupassant: một bộ sách đầy đủ mọi truyện ngắn, trong tiếng Việt. Maupassant là con người của truyện ngắn, hãy hình dung nhìn chung có khoảng 300 truyện, ấy là một khối khổng lồ. Tiểu thuyết không đáng quan tâm lắm (dẫu thế nào, Maupassant đâu phải Flaubert - thêm nữa, trong tiếng Việt, tiểu thuyết Maupassant lại tương đối không quá bị hụt). Nhưng tôi thấy Chroniques của Maupassant lại đặc biệt quan trọng - có lẽ tôi sẽ tiến hành song song nouvelles cùng chroniques.
Tương quan giữa Maupassant và tôi không hề yên ổn. Tất nhiên tôi có đọc Maupassant, đọc nhiều là khác; tôi đọc Une vie từ rất sớm. Nhưng tôi nghĩ tôi giống Roland Barthes (không phải để vơ vào đâu, hay nói đúng hơn, không phải par ricochet - à mà nghĩ thế nào cũng được), tức là Barthes của Le Degré zéro de l'écriture, trong đó ví dụ về văn chương tệ hại (thương mại, dễ dãi, etc.) là văn chương Maupassant.
Nhưng Barthes đã thay đổi (như Barthes từng nói, trong một bài phỏng vấn: "j'évolue" - ấy là nói chung, chứ thay đổi ở Barthes có thể đi theo rất nhiều hướng khác nhau). Chừng như Barthes đã đọc lại Maupassant, sau Le Degré không ít thời gian, và hiểu ra mình đã nhầm lẫn như thế nào - kết quả của cái đó là một lời tựa tuyệt đẹp cho một ấn bản in tác phẩm Maupassant (tôi sẽ đến với nó một cách cụ thể sau). Văn chương Maupassant không hề đơn giản.
Tôi cũng vậy. Khi quyết định đọc truyện ngắn Maupassant trong toàn thể, cách đây vài năm, tôi hiểu ra là quá dễ để nghĩ đó là một văn chương dễ dãi - bởi vì nó không như vậy. Nhưng các truyện ngắn của Maupassant cần được nhìn nhận trong tổng thể của chúng.
Vì vậy cho nên, bắt đầu thôi.
Dự án (projet) về toàn tập truyện ngắn Maupassant gần đây đã bị một cơ sở xuất bản Việt Nam từ chối. Tôi nghĩ đó chính là một may mắn lớn, cho Maupassant cũng như cho chúng ta.
Đốc tờ Héraclius Gloss
- Maupassant
I. Đốc tờ Héraclius
Gloss ra sao, về mặt tinh thần
Ấy là một người rất uyên bác, đốc tờ Héraclius Gloss. Dẫu
chưa từng bao giờ một cuốn sách nhỏ nhất ký tên ông xuất hiện tại các hiệu sách
của thành phố, thì mọi cư dân của đô thành thông thái Balançon đều xem đốc tờ
Héraclius là một người rất uyên bác.
Cách nào và về cái gì mà ông là đốc tờ? Hẳn không ai nói được.
Người ta chỉ biết rằng bố của ông và ông của ông từng được những người đồng
hương gọi là đốc tờ. Ông đã nhận truyền thừa danh hiệu từ họ, cùng lúc với họ của
họ và tài sản của họ; trong gia đình họ là đốc tờ từ cha đến con, giống như, từ
cha đến con, họ tên là Héraclius Gloss.
Thêm nữa, mặc dù chẳng hề sở hữu tờ đíp lôm nào được ký và đối
ký bởi mọi thành viên của trường đại học xuất chúng nào đó, đốc tờ Héraclius
đâu vì thế mà kém phần là một con người rất mực cao vời và rất mực uyên bác. Chỉ
cần nhìn bốn mươi giá chất đầy sách phủ kín bốn vách ca bi nê rộng thênh thang
của ông là đã đủ tin rằng chưa bao giờ có đốc tờ nào uyên thâm hơn từng làm rạng
danh đô thành Balançon. Rốt cuộc, mỗi lần nào có ai nhắc đến ông trước mặt ngài
trưởng khoa hay ngài hiệu trưởng là người ta lại luôn luôn thấy họ mỉm cười đầy
bí ẩn. Thậm chí người ta còn kể rằng một hôm ngài hiệu trưởng từng có một bài
ngợi ca ông rất dữ bằng tiếng Latin trước mặt Đức ông Giám mục; chứng nhân kể lại
chuyện này lại còn trích dẫn làm bằng, không thể cãi, mấy lời này mà anh ta đã
nghe được:
Parturiunt montes,
nascitur ridiculus mus.
Chưa hết, ngài trưởng khoa và ngài hiệu trưởng tối Chủ nhật
nào cũng dùng bữa ở nhà ông; vậy nên hẳn chẳng ai dám đặt nghi ngờ về chuyện đốc
tờ Héraclius Gloss có phải một người rất uyên bác hay không.
II. Đốc tờ Héraclius
Gloss ra sao, về mặt thể chất
Nếu đúng, như một số triết gia bảo, rằng có một sự hài hòa
hoàn hảo giữa tinh thần và thể chất nơi một con người, và người ta có thể đọc
trên các đường của khuôn mặt những nét chính yếu của tính cách, thì đốc tờ
Héraclius đã không được sinh ra để cung cấp một phản bác cho nhận định ấy. Ông
thấp, lanh lẹ và bồn chồn. Ở ông có một cái gì của chuột, của chồn và của chó
baxet, tức ông thuộc về họ của những kẻ hay tìm kiếm, những kẻ gặm nhấm, những
kẻ săn lùng và những kẻ không biết mệt mỏi. Nhìn ông, người ta không sao hình
dung được rằng tất tật các học thuyết mà ông từng nghiên cứu có thể đi vào cái
đầu nhỏ tí kia, nhưng người ta tưởng tượng, thay vì thế, là chắc chính ông xâm
nhập khoa học và sống trong đó, sột soạt nó như một con chuột trong một quyển
sách lớn. Cái đặc biệt hơn cả của ông là sự mỏng lét ngoạn mục của thân hình
ông; bạn của ông, ngài trưởng khoa, nói, có lẽ chẳng phải không có lý, rằng chắc
ông đã bị bỏ quên suốt nhiều thế kỷ, kẹp vào giữa những trang của một quyển sách khổ
in-folio, bên cạnh một bông hoa hồng cùng một bông vi-ô-lét, bởi lúc nào ông
cũng rất điệu và xức nước hoa. Nhất là khuôn mặt ông, có dáng diệu của một lưỡi
dao lam đến mức hai gọng cái kính vàng của ông, vượt vô chừng mực hai bên thái
dương của ông, trông khá là giống một cái trục căng buồm lớn trên cột chính một
con tàu. “Nếu chẳng phải là đốc tờ Héraclius uyên bác, đôi khi ngài hiệu trưởng
trường đại học Balançon nói, thì chắc chắn ông ấy hoàn toàn có thể trở thành một
con dao rọc giấy hảo hạng.”
Ông mang tóc giả, ăn vận chải chuốt, không bao giờ ốm, yêu
thú vật, không ghét người và sùng mộ những cái xiên thịt chim caille [chim này
rất hiện diện trong các truyện của Maupassant].
III. Đốc tờ Héraclius
dùng mười hai tiếng ban ngày làm những gì
Sau đó thì đốc tờ dùng bữa trưa. Rồi, ngay khi uống cà phê xong, và ông uống nó chỉ một hơi, không bao giờ buông thả bản thân vào những lơ mơ gà gật của sự tiêu hóa đã khởi đầu tại bàn ăn, ông vận lên mình chiếc rơ đanh gốt lớn rồi đi. Và mỗi ngày, sau khi đi qua trước trường đại học, và chỉnh giờ trên chiếc đồng hồ quả quýt Louis XV của mình theo đồng hồ to của trường, ông biến mất vào ngõ Bồ Câu Già, từ đó ông chỉ chui ra để về nhà ăn tối.
Vậy đốc tờ Héraclius Gloss làm gì tại ngõ Bồ Câu Già? Những gì mà ông làm ở đó, Chúa ơi!… ông tìm ở đó sự thật triết học - và sau đây là bằng cách nào.
Nơi ngõ nhỏ kia, tăm tối và bẩn, tất tật chủ hiệu sách của
Balançon tụ hội. Chắc phải cần đến nhiều năm thì mới có thể đọc hết, dẫu chỉ là
nhan đề mọi quyển sách bất ngờ, chất đống từ hầm lên tới tầng áp mái, tại năm
mươi nhà xập xệ tạo nên ngõ Bồ Câu Già.
Đốc tờ Héraclius coi cái ngõ, nhà cửa, các chủ hiệu và những
quyển sách như là sở hữu riêng của ông.
Thường xảy ra chuyện, ông lái đồ lạc xoong nào đó, vào lúc
lên giường đi ngủ, nghe thấy có tiếng lịch kịch trên tầng áp mái, và rón rén đi
lên, vũ trang một thanh kiếm lưỡi sùi khổng lồ thuộc thời xa xưa, ông ta nhìn
thấy… đốc tờ Héraclitus Gloss - nửa thân mình chôn dưới các đống sách, trên tay
cầm một mẩu nến đang tan ra chảy vào những ngón tay ông, còn tay kia thì lật giở
một bản thảo cổ kính từ đó có lẽ ông hy vọng sẽ vọt trào sự thật. Và ông đốc
tờ khốn khổ hết sức sửng sốt khi biết chuông ngoài tháp đã điểm chín giờ từ
lâu, và ông sẽ phải ăn một bữa tối đáng ghét.
Đấy là bởi ông tìm kiếm nghiêm túc lắm, đốc tờ Héraclius!
Ông biết cặn kẽ tất tật các triết học cổ cũng như hiện đại; ông từng nghiên cứu
các giáo phái Ấn Độ cùng những tôn giáo người mọi châu Phi; không có tộc người
nhỏ bé đến mức nào giữa những người man rợ miền Bắc hay những người dã man miền
Nam mà ông chưa thăm dò các tín ngưỡng! Than ôi! Than ôi! càng nghiên cứu, càng
tìm, càng sục, càng suy tư, thì ông lại càng thêm phần thiếu chắc chắn: “Bạn
ơi, một tối nọ ông nói với ngài hiệu trưởng, sao mà sung sướng, hơn chúng ta
nhiều, những Colomb lao mình qua các biển để đi tìm một thế giới mới; bọn họ chỉ
cần cứ thế đi về phía trước mà thôi. Những khó khăn chặn họ lại đều chỉ phát xuất
từ các trở ngại vật chất mà một con người quả cảm luôn luôn vượt qua được;
trong khi chúng ta, cứ không ngừng trôi nổi trên đại dương của những điều không
chắc, đột nhiên bị lôi kéo bởi một giả thuyết giống một con tàu bởi gió
aquilon, thế là bỗng chúng ta gặp, hệt cơn gió ngược, một học thuyết đối nghịch,
nó đưa chúng ta trở lại, chẳng kèm chút hy vọng nào, bến cảng khởi hành ban đầu.”
Một đêm kia, ông triết lý với ngài trưởng khoa, ông nói:
“Người ta thật có lý, bạn ơi, khi bảo sự thật thì ở dưới một cái giếng… Những
cái xô cứ liên tiếp được thả xuống để vớt nó nhưng lúc nào cũng chỉ có thể lấy
lên được nước lã… Tôi xin mời anh đoán, ông láu lỉnh nói thêm, tôi viết từ Sô [seau cái xô và sot bọn xuẩn, đồng
âm] thế nào.”
Đó là trò chơi chữ duy nhất người ta từng được nghe ông phát
ra.
IV. Đốc tờ Héraclius
dùng mười hai tiếng ban đêm làm những gì
Khi đốc tờ Héraclius về đến nhà, buổi tối, thông thường ông
béo hơn nhiều so với lúc đi. Ấy là bởi mọi túi quần túi áo của ông, và ông có
mười tám túi cả thảy, nhét đầy những quyển sách triết học cổ, mà ông vừa mua ở
ngõ Bồ Câu Già; và ông hiệu trưởng ranh mãnh bảo, nếu có nhà hóa học nào phân
tích ông vào thời điểm đó, chắc hẳn ông ta sẽ thấy rằng giấy cũ chiếm hai phần
ba cấu tạo của đốc tờ.
Bảy giờ, Héraclius Gloss ngồi vào bàn, và vừa ăn ông vừa lướt
qua những quyển sách cũ mà ông vừa tự biến mình thành người chiếm hữu.
Tám giờ rưỡi thì đốc tờ uy nghiêm đứng dậy, đó không còn là
con người nhỏ bé nhậm lẹ và lanh lợi như ông từng suốt cả ngày, mà là nhà tư tưởng
nghiêm trang với vầng trán nhăn lại dưới trọng lượng những suy tư tót vời, giống
một phu khuân vác dưới một khối quá nặng phải gánh. Sau khi tung cho bà quản
gia một câu oai vệ “tôi không tiếp ai” ông biến mất vào phòng ca bi nê. Vào đến
đó là ông ngồi ngay xuống trước bàn làm việc chất đầy sách và… ông nghĩ. Một cảnh
tượng mới lạ thường làm sao cho người nào, lúc ấy, nhìn được vào suy nghĩ của đốc
tờ! !… Cuộc diễu gớm ghiếc của các Vị Thần trái ngược nhau nhất và các tín ngưỡng
tản mát nhất, sự giao nhau đầy huyền ảo của những học thuyết cùng giả thuyết. Ấy
giống như một đấu trường nơi mọi triết học lao sầm vào nhau trong một cuộc thi
thố khổng lồ. Ông trộn, ông nối, ông hòa thuyết duy linh phương Đông cũ kỹ vào
với vật chất luận Đức, đạo đức của các Tông Đồ với đạo đức của Épicure. Ông thử
các kết hợp những học thuyết giống người ta thử, trong phòng thí nghiệm, các kết
hợp hóa học, nhưng chẳng bao giờ thấy sôi lên trên bề mặt cái sự thật được mong
muốn nhường kia - và ngài hiệu trưởng bạn tốt của ông ủng hộ rằng sự thật triết
học vĩnh viễn được trông chờ đó thì rất giống một hòn đá triết học… ngáng đường.
Đến nửa đêm, đốc tờ đi ngủ - và những giấc mơ trong cơn ngủ
của ông cũng chính là những giấc mơ của ông khi thức.
V. Như thế nào mà ngài
trưởng khoa trông đợi mọi điều từ thuyết chiết trung, đốc tờ từ khải ngộ còn
ngài hiệu trưởng, từ tiêu hóa
Một tối nọ, ngài trưởng khoa, ngài hiệu trưởng và ông họp
nhau trong ca bi nê rộng lớn của ông, họ có một cuộc tranh luận thuộc hàng những
gì hấp dẫn nhất.
Một tiếng sau, khi họ ra khỏi nhà Héraclius uyên bác, đột nhiên hiệu trưởng phá lên cười và nói: “Cái ông đốc tờ khốn khổ kia! nếu sự thật hiện ra với ông ấy như người phụ nữ được yêu, thì ông ấy sẽ là người bị đánh lừa nhiều nhất mà trái đất từng có bao giờ mang trên mình.” Và một tên xỉn đang cố mò về nhà ngã bổ chửng vì kinh hãi trước tiếng cười hùng hậu của trưởng khoa như tiếng trầm thật sâu đệm theo chất giọng kim cao vống của hiệu trưởng.
VI. Như thế nào mà
con đường đi Damas của đốc tờ lại nằm ở ngõ Bồ Câu Già, và làm sao sự thật sáng
bừng lên dưới hình thức một bản thảo về luân hồi thuyết
Ngày 17 tháng Ba năm hồng ân một nghìn bảy trăm - bao nhiêu
đó - đốc tờ thức dậy, thấy mình bừng bừng sốt. Trong đêm, ông đã nhiều lần thấy
khi mơ một người đàn ông da trắng cao lớn, ăn vận kiểu cổ xưa đưa ngón tay chạm
vào trán ông, và phát ra những lời không sao hiểu nổi, và giấc mộng ấy với
Héraclius uyên bác dường là một cảnh báo rất nhiều ý nghĩa. Nó là cảnh báo về
cái gì?… và nó có ý nghĩa ở đâu?… đốc tờ không biết rõ lắm, thế nhưng ông đợi
điều gì đó.
Sau bữa trưa như thường lệ ông đi tới ngõ Bồ Câu Già và bước
vào, đúng lúc giữa trưa điểm chuông, số 31, cửa hiệu của Nicolas Bricolet, bán
trang phục, lái buôn đồ gỗ cổ, chủ tiệm sách và chuyên sửa giày cổ, tức là thợ
vá giày, vào những khi không có gì làm. Đốc tờ, như được một cảm hứng xui giục,
leo ngay lên tầng áp mái, đặt tay lên giá thứ ba một cái tủ Louis XIII và rút từ
đó ra một bản thảo viết tay dày bằng da dê tên là:
MƯỜI
TÁM LẦN CHUYỂN KIẾP CỦA TÔI.
CÂU
CHUYỆN VỀ NHỮNG TỒN TẠI CỦA TÔI TỪ NĂM 184
THUỘC
KỶ GỌI LÀ KI-TÔ
“Bản thảo này, chứa đựng câu chuyện trung thành về những chuyến tôi đầu thai, đã được tôi bắt đầu viết tại thành đô La Mã vào năm CLXXXIV thuộc kỷ nguyên Ki-tô, như trên đây đã nói.
“Tôi ký tên viết lời giải thích này dành để soi sáng cho những con người về các xen kẽ trong sự xuất hiện trở lại của linh hồn, hôm nay, ngày 16 tháng Tư năm 1748, tại thành phố Balançon nơi những oái oăm của số phận tôi đã ném tôi vào.
“Đối với bất kỳ ai được rọi sáng và bận tâm về các vấn đề triết học sẽ chỉ cần đặt ánh mắt xuống những trang này là đủ để ánh sáng sẽ tỏa rạng trong anh ta theo lối chói lói nhất.
“Tôi sẽ, để được như vậy, tóm tắt trong vài dòng phần chính
yếu câu chuyện của tôi, mà người ta sẽ có thể đọc ở dưới, chỉ cần biết tiếng
Latin, tiếng Hy Lạp, tiếng Đức, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Pháp; vì,
vào các thời kỳ khác nhau trong những xuất hiện trở lại dưới hình thức con người
của tôi, tôi đã sống ở chỗ những dân tộc khác nhau đó. Rồi tôi sẽ giải thích bằng
chuỗi ý nào, bằng những cẩn trọng tâm lý học nào và bằng các phương tiện thuộc
thuật ghi nhớ nào, mà tôi đã không thể sai trệch đến với những kết luận thuộc
luân hồi thuyết.
“Năm 184, tôi sống ở Rome và tôi là triết gia. Một hôm đang
đi dạo trên Via Appia thì tôi nảy ra ý rằng Pythagore có thể đã giống như bình
minh hẵng còn dùng dằng của một ngày lớn lao sắp sinh ra. Kể từ khoảnh khắc ấy
tôi chỉ có độc một ham muốn, một mục đích, một mối bận tâm thường hằng: nhớ lại
quá khứ của tôi. Hỡi ôi! tất tật nỗ lực của tôi đều vô vọng, chẳng gì đến với
tôi từ những tồn tại trước.
“Thế nhưng một ngày kia do tình cờ tôi nhìn thấy trên bệ một
bức tượng Jupiter đặt nơi sân trong nhà tôi, vài nét mà tôi đã khắc vào từ hồi
còn trẻ và đột nhiên chúng nhắc tôi về một sự kiện đã quên từ lâu. Cái đó giống
như một tia sáng; và tôi hiểu rằng nếu vài năm, thậm chí chỉ một đêm, là đủ để
xóa đi một kỷ niệm, thì lại càng hơn thế nữa, những chuyện đã hoàn thành trong
các tồn tại trước, trên đó đã lướt qua cơn mộng mị lớn những cuộc đời trung
gian và thuộc thú vật, phải biến mất khỏi ký ức chúng ta.
“Thế là tôi bèn khắc câu chuyện của tôi lên các tấm bảng đá,
hy vọng số phận rồi đây sẽ đặt nó dưới mắt tôi, và đối với tôi nó sẽ giống như
những chữ tìm thấy lại trên bệ pho tượng.
“Điều tôi mong muốn đã được hiện thực hóa. Một thế kỷ sau,
khi tôi đang là kiến trúc sư, người ta giao cho tôi phá một ngôi nhà cũ để xây
một cung điện vào chỗ trước đây của nó.
“Đám công nhân mà tôi chỉ huy, một hôm, mang tới cho tôi một
phiến đá vỡ phủ đầy chữ viết mà họ đã tìm được trong lúc đào móng. Tôi bắt tay
vào giải mã nó - và khi đọc cuộc đời của cái người đã vạch những ký hiệu kia,
trong giây phút vụt trở lại với tôi như những luồng sáng đi rất nhanh từ một
quá khứ đã quên. Dần dà ánh sáng lớn bừng lên trong tâm hồn tôi, tôi hiểu, tôi
nhớ lại. Phiến đá, ấy chính tôi đã khắc lên nó!
“Nhưng trong quãng giãn cách một thế kỷ đó tôi đã làm những
gì? tôi đã là gì? dưới hình thức nào tôi đã chịu đau đớn? chẳng gì có thể nói
cho tôi điều đó.
“Tuy nhiên một ngày kia tôi đã có một dấu chỉ, nhưng nó yếu
và rối tung đến mức hẳn tôi sẽ không dám nói ra. Một ông già vốn dĩ là hàng xóm
của tôi kể cho tôi là người ta đã cười rất nhiều tại Rome, năm mươi năm về trước
(đúng chín tháng trước khi tôi sinh ra) về một phiêu lưu xảy tới với nguyên lão
nghị viên Marcus Antonius Cornélius Lipa. Vợ ông, xinh đẹp, và cũng rất trụy lạc,
người ta kể, đã mua ở chỗ đám lái buôn Phénicien một con khỉ to mà bà ta rất
yêu. Nguyên lão Cornélius Lipa ghen với tình cảm mà một nửa của ông ta dành cho
con thú bốn tay mang bộ mặt người đó nên giết nó đi. Nghe câu chuyện ấy tôi có
một tri giác rất mù mờ, rằng con khỉ đó chính là tôi, rằng dưới hình thức kia
tôi đã chịu đựng thật lâu như kỷ niệm về một sự sa đọa. Nhưng tôi chẳng tìm ra
được gì thật sáng sủa và cụ thể. Tuy nhiên tôi đã được dẫn tới chỗ thiết lập giả
thuyết ấy, ít nhất thì nó cũng khả dĩ lắm.
“Hình thức thú vật là một hình phạt áp đặt cho linh hồn do
những tội ác đã phạm dưới hình thức người. Kỷ niệm về các tồn tại cao hơn được
trao cho con thú nhằm trừng phạt nó thông qua cảm giác về sự sa đọa của nó.
“Chỉ linh hồn được thanh tẩy nhờ nỗi đau đớn mới có thể lấy
lại hình thức con người, khi đó nó đánh mất ký ức về các thời kỳ thú mà nó đã
đi qua vì nó đã được tái sinh và nhận thức ấy đối với nó hẳn sẽ là một đau đớn
không đáng phải chịu. Do vậy con người phải bảo vệ và tôn trọng con vật như người
ta tôn trọng một kẻ tội phạm đang đền tội và cũng là để những người khác bảo vệ
mình lúc, đến lượt anh ta, anh ta xuất hiện trở lại dưới hình thức này. Điều đó
khá gần với câu sau đây của đạo đức Ki-tô: “Đừng làm với người khác những gì mi
không muốn người ta làm với mi.”
“Người ta sẽ thấy, qua câu chuyện về những kiếp luân hồi của
tôi, bằng cách nào tôi đã có hạnh phúc tìm lại được các ký ức nơi mỗi tồn tại của
tôi; bằng cách nào tôi lại viết thêm lần nữa câu chuyện này trên những tấm bảng
kim loại, rồi trên giấy papyrus Ai Cập, và cuối cùng, rất lâu về sau, trên da
dê Đức mà ngày hôm nay tôi vẫn còn dùng.
“Tôi còn cần phải rút ra kết luật triết học về học thuyết
này.
“Mọi triết học đều đã dừng lại trước vấn đề không thể giải
quyết của phần số linh hồn. Các giáo thuyết Ki-tô giờ đây chiếm thế thượng
phong giảng rằng Chúa sẽ tập hợp những người công chính tại một thiên đường, và
gửi những kẻ độc ác xuống địa ngục, ở đó bọn họ bị thiêu cùng quỷ.
“Nhưng lương tri hiện đại không còn tin vào Chúa với khuôn mặt
trưởng lão ấp dưới cặp cánh của mình những linh hồn người tốt giống một con gà
mái với lũ gà con của nó; và thêm nữa lý trí nói ngược lại các giáo thuyết
Ki-tô.
“Vì thiên đường chẳng thể ở đâu và địa ngục chẳng thể ở đâu:
“Bởi không gian vô tận là nơi sống của những thế giới tương
tự với thế giới của chúng ta;
“Bởi bằng cách lấy các thế hệ đã cứ thế tiếp nối nhau kể từ
khởi thủy của trái đất này nhân với các thế hệ từng nhung nhúc tại những thế giới
vô số kể có người ở giống thế giới chúng ta, hẳn ta sẽ có một số lượng linh hồn
siêu nhiên và bất khả, vì số nhân là vô tận, đến mức Chúa hẳn nhất định sẽ phát
điên, dẫu cho đầu của Chúa có vững chãi tới đâu, và Quỷ hẳn cũng sẽ thế, điều
này dẫn đến một rối loạn rất phiền;
“Bởi, số lượng linh hồn người công chính vốn dĩ vô tận, cũng
như số lượng linh hồn bọn độc ác và cũng như không gian, cho nên sẽ phải có một
thiên đường vô tận và một địa ngục vô tận, điều đó đồng nghĩa với chuyện sau
đây: thiên đường hẳn phải ở khắp mọi nơi, địa ngục cũng ở khắp mọi nơi, tức là
chẳng đâu hết.
“Thế nhưng lý trí không đi ngược lại lòng tin thuộc luân hồi
thuyết:
“Linh hồn chuyển từ rắn sang lợn, từ lợn sang chim, từ chim
sang chó, rốt cuộc tới khỉ và tới người. Rồi luôn luôn nó lại bắt đầu ở mỗi lỗi
mới bị phạm, cho đến lúc đạt tới mức đỉnh của sự thanh tẩy trái đất, điều này
làm cho nó được di lên một thế giới cao hơn. Bằng cách ấy nó không ngừng chuyển
từ thú sang thú và từ tầng cầu này sang tầng cầu khác, đi từ cái kém hoàn hảo
hơn cả đến cái hoàn hảo hơn cả để rồi rốt cuộc tới hành tinh của hạnh phúc tối
hậu từ đó một lỗi mới lại có thể đẩy bắn nó đến những vùng của đau đớn tối cao
nơi nó lại bắt đầu các cuộc đầu thai của mình.
“Như vậy vòng tròn, hình tượng vũ trụ và định mệnh, chứa đựng
những oái oăm các tồn tại của chúng ta cũng giống như nó điều hành những tiến
hóa của các thế giới.”
VII. Như thế nào mà
người ta có thể diễn giải theo hai cách cùng một câu thơ của Corneille
Đốc tờ Héraclius đọc xong tài liệu dị thường ấy là người ông
cứng đờ lại vì lạ - rồi ông mua nó mà không mặc cả, mất toi số tiền mười hai đồng
mười một xu, vì chủ tiệm cứ nằng nặc bảo đó là một bản thảo Hebrew tìm được
trong khu đào bới khảo cổ tại Pompéi.
Trong vòng bốn ngày và bốn đêm, đốc tờ không rời ca bi nê của
ông, và nhờ lòng kiên nhẫn cũng như các loại từ điển, ông đọc được lối chập chờn
thời kỳ Đức và thời kỳ Tây Ban Nha của bản thảo; vì tuy biết tiếng Hy Lạp, tiếng
Latin và một chút tiếng Ý nhưng ông lại gần như hoàn toàn không biết tiếng Đức
và tiếng Tây Ban Nha. Rốt cuộc, vì sợ mắc phải những hiểu sai thô thiển nhất,
ông nhờ hiệu trưởng bạn mình, vốn dĩ rất rành hai thứ tiếng đó, đọc lại giúp
ông bản dịch. Hiệu trưởng rất vui lòng làm việc ấy; nhưng ông để trôi qua ba
ngày tròn thì mới có thể nghiêm túc thực hiện công việc, vì bị lên cơn, mỗi lần
nào ông đọc lướt qua phiên bản của đốc tờ, cười dài và dữ đến mức tận hai lần
thiếu điều ông đã lăn ra ngất xỉu. Khi người ta hỏi ông nguyên do cho cơn hí lạ
lùng ấy: “Nguyên do, ông đáp, trước hết có ba: 1o khuôn mặt quá mức
hài của đồng nghiệp quý Héraclius của tôi; 2o bản dịch quá mức hài của
ông ấy, nó giống bản gốc đại khái cũng như một cây đàn guitar giống cối xay
gió; và, 3o cuối cùng, bản thân bản gốc là điều buồn cười nhất có thể
tưởng tượng ra.”
Ôi ngài hiệu trưởng! chẳng gì có thể thuyết phục được ông. Mặt
trời có đích thân đến đốt cháy bộ râu cùng mái tóc của ông thì chắc ông vẫn coi
đó là một ngọn nến!
Về phần đốc tờ Héraclius Gloss, tôi khỏi cần phải nói rằng
ông rạng ngời, được thắp sáng, được chuyển hóa - ông cứ nhắc đi nhắc lại suốt,
hệt Pauline:
Je vois, je sens, je
crois, je suis désabusé
và, lần nào hiệu trưởng cũng ngắt lời ông để nêu nhận xét rằng
“désabusé” phải viết thành hai từ, có “s” ở cuối:
Je vois, je sens, je crois, je suis des abusés.
[tự google xem như thế nào, tại sao lại buồn cười nhé, ngại
giải thích quá - câu này lấy từ Polyeucte,
tuy nhiên trong câu gốc “désabusé” không phải ở giống đực mà giống cái, và nhất
là không phải “je sens” mà “je sais”: nhiều khả năng Maupassant không thuộc thơ
Corneille lắm, chữ tác thành chữ tộ]
VIII. Như thế nào mà,
vì cùng nguyên nhân mà người có thể bảo hoàng hơn vua và ngoan đạo hơn giáo
hoàng, người ta lại cũng có thể trở nên sùng kính luân hồi thuyết hơn cả
Pythagore
Niềm vui của kẻ đắm tàu có là thế nào lúc, sau khi đã lang
thang nhiều ngày dài và nhiều đêm dài trên biển mênh mông, trơ trọi trên một
chiếc bè mảnh, không cột, chẳng buồm, không la bàn và không hy vọng, đột nhiên
trông thấy bờ xiết bao mong đợi, thì niềm vui đó cũng chẳng là gì bên cạnh niệm
vui tràn lên đốc tờ Héraclius Gloss vào lúc, sau khi đã lâu tới vậy trôi nổi dập
vùi trong sóng lừng của các triết học, trên chiếc bè của những sự không chắc chắn,
rốt cuộc ông đã tiến vào, thắng lợi và được rọi sáng, bến cảng của luân hồi.
Sự thật của học thuyết ấy đã tác động mạnh lên ông đến độ chỉ
một nhát ông bao quát lấy toàn bộ nó, cho đến tận những hệ quả cực điểm của nó.
Ở đây đối với ông chẳng gì là tối tăm và, chỉ trong vài ngày, nhờ suy tư và
tính toán thật nhiều, ông đã xác định chắc chắn được thời kỳ cụ thể nơi một con
người, chết vào năm này năm kia, sẽ xuất hiện trở lại trên trái đất. Ông biết,
với sai số rất nhỏ, niên đại của tất tật những đầu thai của một linh hồn vào
các sinh thể thấp hơn và, tùy theo tổng mức giả định thiện và ác đã hoàn thành
trong thời kỳ vừa xong của cuộc sống người, ông có thể chỉ ra thời điểm linh hồn
đó nhập vào cơ thể một con rắn, một con lợn, một con ngựa thồ, một con bò, một
con chó, một con voi hay một con khỉ. Những xuất hiện trở lại của cùng một linh
hồn trong vỏ bọc cao hơn tiếp nối nhau, với các quãng giãn cách đều đặn, dẫu
cho những lỗi lầm trước đó có là như thế nào.
Như vậy, mức độ của sự trừng phạt, luôn luôn tỉ lệ thuận với
mức độ phạm tội, đồng nghĩa, hoàn toàn không phải với độ dài hay ngắn của cuộc
lưu đày dưới các hình thức thú, mà với kỳ lưu trú dài hay vắn mà linh hồn đó có
trong lớp da của một con vật đáng tởm. Thang bậc của lũ thú khởi đầu tại những
mức độ dưới bằng rắn hay lợn để kết thúc bằng khỉ “vốn dĩ là một con người
nhưng không biết nói” đốc tờ nói; - hiệu trưởng bạn quý của ông lúc nào cũng trả
lời lại, rằng, dùng đúng lập luận ấy, Héraclius Gloss không là gì khác ngoài một
con khỉ biết nói.
IX. Mề đay và mặt
trái
Ông cho con chó của mình ngồi vào bàn bên cạnh ông, với nó ông có các cuộc mặt đối mặt nghiêm trang bên lò sưởi - tìm cách bắt chợt nơi con mắt của con thú ngây thơ kia bí ẩn các tồn tại trước.
Tuy nhiên ông nhìn thấy hai chấm đen trong hạnh phúc lớn lao của mình: ấy là ngài trưởng khoa và ngài hiệu trưởng.
Trưởng khoa nhún vai đến tợn mỗi lần nào Héraclius tìm cách
cải ông sang học thuyết luân hồi, còn hiệu trưởng quây chặt hành hạ ông bằng những
lời đùa cợt lệch lạc nhất. Nhất là cái này thì không thể tha thứ. Ngay khi đốc
tờ trình bày tín ngưỡng của ông, hiệu trưởng quỷ quái liền chạy bổ theo; ông giả
dạng môn đệ đang lắng nghe lời một vị tông đồ vĩ đại, và ông tưởng tượng ra, đối
với mọi con người xung quanh họ, các phả hệ thú vật kỳ khôi nhất: “Như vậy, ông
nói, père Labonde, ông kéo chuông nhà thờ, ngay từ lần đầu thai thứ nhất, chắc
đã không thể là gì khác ngoài một quả dưa”, - và kể từ bấy thêm nữa ông ta đã rất
ít thay đổi, chỉ làm mỗi một việc là sáng và tối rung cho kêu cái chuông dưới
đó ông ta đã lớn lên. Ông bảo, trưởng tu Rosencroix, trợ tá giám mục của
Sainte-Eulalie, khỏi phải nghi ngờ từng là một chú quạ hay mổ hạt cứng, vì từ
đó ông ta vẫn còn lưu giữ bộ cánh đen cùng các quyền hạn. Rồi, hoán đổi các vai
theo cách thức ỡm ờ nhất, ông khẳng định rằng maître Bocaille, nhà bào chế, chỉ
là một con dang bị truất hạ, bởi ông ta bị buộc phải dùng tới một loại dụng cụ
để lọc lấy phương thuốc hết sức đơn giản mà, theo Hérodote, loài chim thiêng tự
mình làm ra chỉ với cái mỏ dài của nó.
X. Như thế nào mà một
tay hề xiếc té ra lại có thể mưu trí hơn một đốc tờ uyên bác
Dẫu có thế, đốc tờ Héraclius vẫn không nản chí, tiếp tục chuỗi
các khám phá của ông. Kể từ nay con thú nào đối với ông cũng mang một biểu
nghĩa bí hiểm: ông ngừng nhìn thấy con vật, mà chỉ còn ngắm con người đang tự
thanh tẩy bản thân bên dưới cái lốt kia, và ông đoán những lỗi đã qua, chỉ căn
cứ vào dáng vẻ của lớp da sự chuộc tội.
Một bữa, đang đi dạo bộ trên quảng trường của Balançon thì
ông trông thấy một túp nhà lớn bằng gỗ từ đó phát ra những tiếng hú hét khủng
khiếp, trong khi trên bục sân khấu một chú hề bẩn rệu rã mời chào công chúng đến
xem nhà thuần phục thú khủng khiếp apache Tomahawk hay Sấm Rền trình diễn.
Héraclius cảm thấy xúc động, ông trả mười xăng tim tiền vé và bước vào. Ôi Thần
Vận Mệnh bảo trợ cho những tinh thần lớn! Chỉ mới vào bên trong túp nhà ấy thôi
ông đã thấy một cái lồng to tướng trên viết hai từ sau đây, đột nhiên chúng
sáng lòe lên trước cặp mắt quáng của ông: “Người rừng.” Đốc tờ đột ngột nhận thấy
sự run đầy căng thẳng của những rung chuyển thuộc tinh thần và, nhũn đầu gối vì
xúc cảm, ông tiến lại gần. Ông nom thấy một con khỉ khổng lồ đang bình thản ngồi
bệt, hai chân bắt chữ ngũ theo kiểu người Thổ và, trước cái mẫu tuyệt diệu của
con người tại kỳ chuyển kiếp sau chót của anh ta ấy, Héraclius Gloss, mặt nhợt
nhạt vì mừng vui, chìm sâu vào một suy tưởng hùng mạnh. Sau vài phút, người rừng,
chắc hẳn đoán ra được mối cảm thông khôn cưỡng vừa đột nhiên bừng nở nơi trái
tim thị dân đang trân trối nhìn mình, hướng về người anh em đã được tái sinh
kia một cú nhăn mặt đáng kinh hãi đến nỗi đốc tờ cảm thấy tóc trên đầu mình dựng
ngược hết cả lên. Rồi, sau khi làm một cú vọt đi huyền ảo, tuyệt đối chẳng hề
tương thích với phẩm giá của một con người, thậm chí tuyệt đối sa đọa, công dân
bốn tay lên một cơn hí lộng thuộc dạng kệch cỡm hơn cả vào bộ râu của đốc tờ.
Tuy nhiên đốc tờ hoàn toàn không thấy có gì phải bợn, sự vui vẻ ở nạn nhân kia
của những lầm lạc xa xưa; ngược lại ông thấy tại đó thêm một sự giống với loài
người, một khả năng lớn hơn về tình quyến thuộc, và nỗi hiếu kỳ khoa học của
ông trở nên mãnh liệt tới mức ông quyết định mua với bất kỳ giá nào bậc thầy
nhăn mặt kia để thỏa thích mà nghiên cứu. Vinh dự biết bao cho ông! thắng lợi lớn
biết bao cho học thuyết vĩ đại! nếu rốt cuộc ông cũng bước được vào liên hệ với
phần thú của nhân loại, hiểu được con khỉ khốn khổ kia và làm cho nó hiểu được
ông.
Lẽ dĩ nhiên ông chủ gánh xiếc ca ngợi với ông hết sức nhiệt
liệt về người khách trọ; ấy chính là con thú thông minh nhất, dịu dàng nhất, biết
điều nhất, khả ái nhất mà ông ta từng gặp trong suốt sự nghiệp nuôi thú dữ rất
dài của mình; và, nhằm tăng thêm sức nặng cho những gì ông ta nói, ông ta tiến
lại gần các song sắt và thò tay vào, bàn tay ấy, con khỉ cắn ngay lập tức, theo
cách thức của một lời đùa. Cũng lẽ dĩ nhiên, ông ta đòi một cái giá cắt cổ mà
Héraclius trả luôn không mặc cả mảy may. Rồi, theo sau hai phu khuân vác oằn
mình dưới cái lồng to tướng, đốc tờ ca khúc khải hoàn đi về nhà.
XI. Ở đây được chỉ ra
rằng Héraclius Gloss chẳng hề được miễn khỏi mọi điểm yếu của giống mạnh
Nhưng càng gần đến nhà, ông càng bước chậm lại, vì tâm trí
ông náo động lên một vấn đề còn khó hơn nhưng là khó cách khác, so với vấn đề sự
thật triết học; và vấn đề ấy được phát biểu như sau đối với đốc tờ thiếu may mắn:
“Phải dùng mưu mẹo nào đây thì mình mới có thể giấu được cô hầu Honorine của
mình việc đưa vào dưới mái nhà mình bản phác thảo người này?” A, đấy là bởi
Héraclius khốn khổ vốn dĩ đầy gan dạ đương đầu với những nhún vai đáng ngại của
ngài trưởng khoa cùng những đùa cợt khủng khiếp của ngài hiệu trưởng, lại còn
xa mới can đảm giống thế trước những bùng nổ của cô hầu Honorine. Vậy tại sao đốc
tờ lại e sợ nhiều đến thế, trước người phụ nữ hẵng còn trẻ trung và dễ mến kia,
có vẻ hết sức lanh lợi và vô cùng tận tâm với các lợi ích của ông chủ? Tại sao?
Hãy hỏi tại sao Hercule lại lao tới phủ phục dưới chân Omphale, tại sao Samson để
cho Dalila cướp mất đi sức mạnh cùng lòng can đảm của chàng, vốn dĩ nằm nơi mái
tóc chàng, theo như những gì Thánh Kinh dạy cho chúng ta.
Than ôi! một ngày kia, đốc tờ đang đưa đi dạo trên các cánh
đồng niềm tuyệt vọng của một mối say mê bị phản bội (vì chẳng phải không lý do
mà ngài trưởng khoa cùng ngài hiệu trưởng từng lôi Héraclius mà đùa tợn đến vậy,
cái buổi tối họ cùng nhau đi về), thì gặp nơi góc một hàng giậu, một đứa bé gái
chăn cừu. Con người uyên bác, vốn dĩ còn chưa phải lúc nào cũng chỉ chuyên nhất
tìm kiếm sự thật triết học và vả lại còn chưa ngờ tới bí ẩn vĩ đại của luân hồi,
thay vì chỉ quan tâm đến lũ cừu, như lẽ ra chắc chắn ông đã làm, nếu biết những
gì mình không biết, hỡi ôi! khởi đầu trò chuyện với con bé đang giữ chúng. Ông
mau chóng nhận nó vào làm người hầu và một sự yếu đuối đầu tiên liền cho phép
những yếu đuối tiếp sau. Chính ông chỉ trong vòng một thời gian ngắn là người
đã trở thành con cừu của nữ nhân mục đồng đó, và người ta thì thầm nói với nhau
rằng nếu, như nhân vật của Thánh Kinh, Dalila thôn dã này cắt mất tóc của người
đàn ông khốn khổ quá mức cả tin, thì làm vậy rồi cô vẫn không cướp đi được từ vầng
trán ông mọi sự trang trí.
Than ôi! điều ông đã dự tính được hiện thực hóa và thậm chí
còn vượt quá những nỗi ngại của ông; chỉ vừa mới nhìn thấy cư dân của rừng, bị
nhốt trong ngôi nhà chằng các sợi dây thép của hắn, là Honorine đã lên một cơn
cuồng nộ rất không đúng chỗ và, sau khi giáng lên ông chủ đang khiếp hãi một trận
mưa rào những tính ngữ nghe rất gớm, cô quay sang ném cơn giận dữ của mình vào
người khách không đợi mà tới kia. Nhưng kẻ này, chắc hẳn bởi không có cùng những
nguyên do với đốc tờ để gượng nhẹ một cô quản gia láo lếu như thế, bắt đầu hét,
hú, giậm chân bình bịch, nghiến răng; nó bám dính vào các song sắt nhà tù của
nó với một cơn thịnh nộ khủng khiếp kèm với các cử chỉ thô thục về phía một con
người mà nó nhìn thấy lần đầu tiên, đến nỗi con người đó phải chuồn vội, và như
một chiến binh bị thua trận, xuống bếp tự nhốt mình vào đó.
Bằng cách ấy, trở thành ông chủ của chiến địa và mừng vui
trước sự chi viện bất ngờ mà người đồng hành thông minh của ông vừa mang tới
cho ông, Héraclius cho mang nó vào phòng ca bi nê của ông, nơi ông đặt cái lồng
cùng cư dân của nó, trước bàn của ông bên lò sưởi.
XII. Như thế nào, mà
người thuần hóa thú và đốc tờ chẳng hề là từ đồng nghĩa
Thế là khởi sự một cuộc trao đổi các ánh mắt thuộc hàng nhiều
ý nghĩa hơn cả giữa hai cá thể ở cùng nhau; và ngày nào, suốt một tuần liền, đốc
tờ cũng dành nhiều giờ dài để nói chuyện bằng mắt (ít nhất ông tưởng vậy) với
chủ thể hấp dẫn mà ông vừa kiếm về. Nhưng cái đó không đủ; điều mà Héraclius muốn
là nghiên cứu con thú một cách tự do, bắt chợt những bí mật của nó, những ham
muốn của nó, những ý nghĩ của nó, để mặc cho nó đi lại tùy thích, và nhờ ngày
ngày ở gần cuộc sống riêng mà thấy nó khôi phục các thói quen đã quên mất, và bằng
cách ấy nhận ra, căn cứ vào những dấu hiệu chắc chắn, kỷ niệm về một tồn tại
trước kia. Nhưng để được như thế người khách trọ của ông cần phải được tự do, tức
là phải mở lồng. Thế nhưng việc đó chẳng hề khiến người ta yên tâm chút nào. Đốc
tờ có cố công thử ảnh hưởng của thôi miên cũng như ảnh hưởng của những cái bánh
ngọt cùng đống hạt, thì con thú bốn tay vẫn cứ lao mình vào các ma nớp đáng lo
ngại đối với cặp mắt của Héraclius, mỗi lần nào ông hơi lại gần những song sắt quá.
Rốt cuộc một hôm, không thể cưỡng nổi ham muốn đang hành hạ mình, đột nhiên ông
bước tới, xoay chìa trong ổ, mở rộng cửa ra và, hổn hển vì xúc động, bước lui
vài bước, chờ sự kiện, vả lại nó cũng không bắt phải đợi lâu.
Con khỉ sửng sốt thoạt tiên do dự, rồi, chỉ bằng một cú nhảy, nó đã ra bên ngoài, một cú nữa, lên cái bàn mà, chỉ chưa cần đến một giây, nó đã làm nháo nhào hết giấy má cùng sách, rồi với cú nhảy thứ ba, nó nằm gọn trong vòng tay đốc tờ, và những chứng nhận cho tình cảm của nó dữ dội đến mức, nếu Héraclius không mang bộ tóc giả, thì hẳn những sợi tóc cuối cùng của ông cầm chắc đã nằm lại giữa những ngón tay người anh em đáng ngại của ông. Nhưng nếu con khỉ khéo léo, thì đốc tờ cũng đâu kém phần: ông nhảy vọt sang phải, rồi sang trái, lướt đi như một con lươn vào dưới gầm bàn, vượt qua đám phô tơi như một chú chó săn thỏ và, vẫn bị bám sát, rốt cuộc tới được chỗ cánh cửa, mà ông đột ngột đóng lại sau lưng; thế là, hào hển, giống một con ngựa đua vừa cán đích, ông dựa lưng vào tường cho khỏi ngã.
Suốt phần còn lại của ngày hôm đó Héraclius Gloss đờ người ra; ông cảm thấy bên trong mình như thể có một cuộc sụp đổ, nhưng điều khiến ông bận tâm hơn cả là ông tuyệt đối không biết bằng cách nào mà người khách kém nhìn xa trông rộng kia cùng ông có thể thoát ra khỏi vị thế của mỗi bên. Ông mang một cái ghế đến gần cánh cửa không thể vượt và dùng lỗ khóa làm đài quan sát. Thế là ông thấy, ôi tuyệt!!! ôi sao sung sướng khó ngờ!!! kẻ thắng trận phè phỡn nằm phưỡn trong một cái phô tơi và giơ hai chân ra sưởi ấm. Trong cơn vui mừng ban đầu, thiếu điều đốc tờ đã đi vào phòng, nhưng nghĩ kỹ hơn ông ngừng lại và, như thể được rọi chiếu bởi một ánh sáng đột nhiên, ông tự nhủ rằng hẳn sự đói sẽ làm được điều mà sự dịu dàng đã chẳng thể làm. Lần này sự kiện cho thấy là ông đúng, con khỉ đói quá đành đầu hàng; vả lại bởi đó là một con khỉ đực tốt tính, sự hòa giải là hoàn toàn và, kể từ hôm đó, đốc tờ và nó chung sống như hai người bạn lâu ngày.
Con khỉ sửng sốt thoạt tiên do dự, rồi, chỉ bằng một cú nhảy, nó đã ra bên ngoài, một cú nữa, lên cái bàn mà, chỉ chưa cần đến một giây, nó đã làm nháo nhào hết giấy má cùng sách, rồi với cú nhảy thứ ba, nó nằm gọn trong vòng tay đốc tờ, và những chứng nhận cho tình cảm của nó dữ dội đến mức, nếu Héraclius không mang bộ tóc giả, thì hẳn những sợi tóc cuối cùng của ông cầm chắc đã nằm lại giữa những ngón tay người anh em đáng ngại của ông. Nhưng nếu con khỉ khéo léo, thì đốc tờ cũng đâu kém phần: ông nhảy vọt sang phải, rồi sang trái, lướt đi như một con lươn vào dưới gầm bàn, vượt qua đám phô tơi như một chú chó săn thỏ và, vẫn bị bám sát, rốt cuộc tới được chỗ cánh cửa, mà ông đột ngột đóng lại sau lưng; thế là, hào hển, giống một con ngựa đua vừa cán đích, ông dựa lưng vào tường cho khỏi ngã.
Suốt phần còn lại của ngày hôm đó Héraclius Gloss đờ người ra; ông cảm thấy bên trong mình như thể có một cuộc sụp đổ, nhưng điều khiến ông bận tâm hơn cả là ông tuyệt đối không biết bằng cách nào mà người khách kém nhìn xa trông rộng kia cùng ông có thể thoát ra khỏi vị thế của mỗi bên. Ông mang một cái ghế đến gần cánh cửa không thể vượt và dùng lỗ khóa làm đài quan sát. Thế là ông thấy, ôi tuyệt!!! ôi sao sung sướng khó ngờ!!! kẻ thắng trận phè phỡn nằm phưỡn trong một cái phô tơi và giơ hai chân ra sưởi ấm. Trong cơn vui mừng ban đầu, thiếu điều đốc tờ đã đi vào phòng, nhưng nghĩ kỹ hơn ông ngừng lại và, như thể được rọi chiếu bởi một ánh sáng đột nhiên, ông tự nhủ rằng hẳn sự đói sẽ làm được điều mà sự dịu dàng đã chẳng thể làm. Lần này sự kiện cho thấy là ông đúng, con khỉ đói quá đành đầu hàng; vả lại bởi đó là một con khỉ đực tốt tính, sự hòa giải là hoàn toàn và, kể từ hôm đó, đốc tờ và nó chung sống như hai người bạn lâu ngày.
XIII. Như thế nào mà
đốc tờ Héraclius Gloss ở chính xác vào cùng chỗ của đức vua Henri Đệ tứ tốt bụng,
Bệ Hạ từng nghe hai thầy cãi biện hộ và cho cả đôi bên đều đúng
Một thời gian sau cái ngày đáng nhớ ấy, một trận mưa dữ dội
ngăn cản đốc tờ Héraclius xuống khu vườn của ông như ông vẫn có thói quen. Ngay
từ sáng ông ngồi trong phòng ca bi nê và khởi sự nhìn nhận, lối triết học, con
khỉ của ông, nó đang chồm chỗm trên một cái tủ nhỏ, giải trí bằng trò ném giấy
vo viên vào con chó Pythagore nằm trước lò sưởi. Đốc tờ nghiên cứu những thang
bậc đi lên cùng diễn tiến của trí năng nơi các con người bị truất hạ kia, và so
sánh mức độ tinh tế của hai con thú đang ở đó trước mặt ông. “Ở chó, ông tự nhủ,
bản năng vẫn còn chế ngự trong khi ở khỉ lập luận chiếm thế thượng phong. Một
thì đánh hơi, nghe, tri nhận bằng các cơ phận tuyệt vời của nó, một nửa trí
năng của nó đã ở đó rồi, còn con kia thì kết hợp và suy nghĩ.” Đúng lúc đó con
khỉ, lên cơn sốt ruột vì sự hờ hững và bất động của kẻ thù nó, cứ bình thản nằm
đó, đầu gục lên hai cẳng trước, chỉ thỉnh thoảng ngẩng đầu lên về phía kẻ gây hấn
vắt vẻo cao quá, bèn quyết định tới gần thám thính xem sao. Nó nhẹ nhàng nhảy
khỏi cái tủ và tiến lên, rất êm, êm đến nỗi người ta tuyệt đối chỉ nghe thấy tiếng
tí tách của lửa cùng tiếng tíc tắc đồng hồ treo tường đang dường tạo một tiếng ồn
rất lớn trong sự im lặng khổng lồ của phòng ca bi nê. Rồi, bằng một chuyển động
rất nhanh và bất ngờ, nó dùng hai tay tóm lấy cái đuôi có chùm lông của
Pythagore thiếu may mắn. Nhưng con kia, vẫn bất động, đã dõi theo từng cử động
của con vật bốn tay: vẻ bình thản của nó chỉ là một cái bẫy nhằm thu hút đối thủ
của nó lại gần, cho tới lúc ấy con kia vẫn ở chỗ không thể tấn công, và đúng
vào lúc thầy khỉ, sung sướng với cái trò của nó, túm lấy cái bộ phận phụ tức là
đuôi của con chó, nó liền nhảy bật lên và trước khi con kia kịp chạy trốn, ngoạm
vào cái miệng mạnh mẽ chó săn của mình phần trên người đối thủ, mà người ta hay
gọi đầy e lệ là đùi gigot, ở lũ cừu. Không thể biết trận đua tranh sẽ kết thúc
ra sao nếu Héraclius không can thiệp; nhưng khi đã tái thiết được hòa bình, thì
ông tự hỏi trong lúc ngồi xuống trở lại, thở không ra hơi, hay là, nhìn nhận thật
cẩn thận, con chó của ông đã chẳng cho thấy nhân dịp ấy là nó khôn lanh hơn so
với con thú được gọi là “ma lanh tuyệt vời”; và ông cứ thế chìm đắm trong một nỗi
băn khoăn sâu thẳm.
XIV. Bằng cách nào mà
Héraclius thiếu điều thì đã chén một xiên toàn những quý bà xinh đẹp thời quá
khứ
Vì đã tới giờ cho bữa trưa, đốc tờ bước vào phòng ăn, ngồi
xuống trước bàn, cài khăn ăn vào áo rơ đanh gốt, mở ra đặt bên cạnh bản thảo viết
tay quý giá, và đã sắp đưa lên miệng một miếng cánh chim caille nhỏ rất béo và
rất ngậy thì bỗng, liếc mắt xuống quyển sách thánh, vài dòng mà ánh mắt ông đậu
phải lóe sáng lên trước ông còn khủng khiếp hơn là ba cái từ lừng danh đột
nhiên được viết bởi một bàn tay xa lạ trên bức tường phòng tiệc của một vị vua
nổi tiếng tên là Balthazar!
Đây là những gì mà đốc tờ trông thấy:
“… Vậy nên mi hãy tránh mọi thứ đồ ăn từng có sự sống, vì ăn
thịt thú vật chính là ăn thịt đồng loại của mình, và ta coi kẻ nào, đã được thấm
nhuần sự thật luân hồi thuyết vĩ đại, giết và ăn những con thú, vốn dĩ không là
gì khác ngoài những con người dưới các hình thức thấp hơn của họ, cũng phạm tội
ngang mức với kẻ chuyên ăn thịt người hung dữ ăn thịt kẻ thù thua trận của hắn.”
Và trên bàn, đặt cạnh nhau, được giữ bằng một kim nhỏ bằng bạc,
là nửa chục chim caille, tươi và núc ních, đang phả vào không khí mùi ngon lành
của chúng.
Cuộc chiến thật khủng khiếp giữa tinh thần và cái bụng,
nhưng, chúng ta hãy nói điều này vì vinh quang của Héraclius, nó chỉ ngắn thôi.
Con người khốn khổ, đờ ra, sợ không thể kháng cự lâu trước cám dỗ hãi hùng kia,
bấm chuông gọi cô hầu và, giọng tan nát, ra lệnh ngay lập tức mang cái món kinh
tởm kia đi, rồi kể từ nay chỉ dọn cho ông trứng, sữa cùng la ghim. Honorine suýt
ngã ngửa ra đằng sau lúc nghe thấy những lời đáng kinh ngạc ấy, cô định phản đối,
nhưng trước ánh mắt đăm đăm của ông chủ, cô chuồn vội, cùng đám thức ăn biết
bay đã bị kết án, tuy nhiên được an ủi nhờ cái ý nghĩ dễ chịu, rằng nhìn chung,
cái mất đi với một người thì không mất đi với mọi người.
“Chim caille! chim caille! lũ chim caille có thể từng là gì
trong một cuộc đời khác nhỉ?” Héraclius tội nghiệp tự hỏi, trong khi buồn bã ăn
một cái súp lơ tuyệt vời trộn kem, đối với ông hôm đó nó dở như hạch; - con người
nào từng đủ mức trang nhã, tế nhị và xuất sắc để có thể chui được vào cơ thể những
con vật nhỏ hết sức điệu đà và xinh xẻo kia? - a, chắc chắn đó chỉ có thể là các
nàng tình nhân bé nhỏ khả ái của những thế kỷ vừa qua… và đốc tờ còn tái mặt
thêm nữa lúc ông nghĩ rằng từ gần ba mươi năm nay ông đã ngày ngày ngốn, vào bữa
trưa, chừng nửa chục quý bà xinh đẹp của thời quá khứ.
XV. Bằng cách nào mà
ngài hiệu trưởng diễn giải những chỉ thị của Chúa
Buổi tối cùng cái ngày bất hạnh ấy, ngài trưởng khoa [chắc
phải đổi hết thành “khoa trưởng”] và ngài hiệu trưởng đến nhà nói chuyện trong
vòng một hay hai tiếng đồng hồ, tại phòng ca bi nê của Héraclius. Đốc tờ kể
ngay cho họ về nỗi bấn ông đang mắc phải và chỉ ra cho họ biết bằng cách nào lũ
chim caille cùng những con vật dùng để ăn khác đối với ông đã trở nên bị cấm ngặt
cũng như giăm bông đối với một người Do Thái.
Ngài trưởng khoa, chắc hẳn đã ăn tối tệ hại, khi đó đánh mất
toàn bộ chừng mực, buông lời báng bổ một cách khủng khiếp tới nỗi ông đốc tờ khốn
khổ vốn dĩ kính trọng ông ta lắm, tuy vẫn than phiền suốt về sự mù quáng của
ông ta, chẳng còn biết phải trốn vào đâu nữa. Về phần ngài hiệu trưởng, ông
hoàn toàn tán thành những mối đắn đo của Héraclius, thậm chí còn bày ra thêm rằng,
một môn đệ của Pythagore mà lại đi ăn thịt thú vật thì rất có thể cũng sẽ ăn sườn
bố mình rán với nấm hoặc ăn chân ông cụ tổ nhồi rau dưa, cái đó tuyệt đối trái
ngược với tinh thần của mọi tôn giáo, rồi ông lại còn trích, để làm chỗ dựa cho
những gì mình nói, lời răn thứ tư của Chúa những người Ki-tô:
“Tes père et mère honoreras
Afin de vivre longuement.
“Thật đúng, ông nói thêm, cái chuyện đối với tôi đây, vốn dĩ
không phải là người theo đạo, thay vì để mặc cho mình chết đói, tôi thà sửa đổi
tí ti mệnh lệnh của Chúa, hay thậm chí đổi nó bằng câu sau đây:
Père et mère dévoreras
Afin de vivre longement.”
XVI. Bằng cách nào mà
lần thứ 42 đọc bản thảo đã rọi một ánh sáng mới vào tâm trí của đốc tờ
Cũng giống một người giàu có thể mỗi ngày dũi lấy trong tài
sản to lớn của mình các khoái lạc mới cùng những sung sướng mới, đốc tờ
Héraclius, chủ nhân của bản thảo viết tay quý vô chừng kia, có được các khám
phá đáng kinh ngạc ở đó, mỗi lần nào ông đọc lại nó.
Như chúng ta đã thấy từ trước, đốc tờ có thể biết, với rất ít sai lệch, vào thời nào một người đã chết sẽ xong xuôi những cuộc đầu thai và xuất hiện trở lại dưới hình thức ban đầu; thế nên bỗng ông bị giáng một cú mạnh khi nghĩ rằng tác giả của tập bản thảo biết đâu có thể đã chiếm lại được chỗ của mình nơi nhân loại.
Thế là, cũng rừng rực sốt như một nhà giả kim nghĩ mình sắp tìm ra hòn đá triết học đến nơi rồi, ông lao vào các tính toán tỉ mỉ nhất để thiết lập xác suất cho giả định đó, và sau nhiều tiếng đồng hồ làm việc không ngơi, cùng những kết hợp thuộc luân hồi thuyết vô cùng uyên bác, ông đi được tới chỗ tin rằng người ấy hẳn phải sống cùng thời với ông, hoặc, ít nhất, sắp tái sinh với cuộc sống thuộc lý trí. Héraclius, quả thật, bởi không sở hữu tài liệu nào gia dĩ chỉ được cho ông niên đại cụ thể cái chết của nhà luân hồi vĩ đại, không sao mà định thật rõ được thời điểm trở lại của người ấy.
Vừa thoáng thấy khả năng tìm lại được cái con người kia, vốn
dĩ đối với ông còn hơn là một con người, hơn một triết gia, gần như hơn một vị
Chúa, ông liền cảm thấy một trong các xúc cảm sâu sắc ấy, mà người ta hay có những
lúc đột nhiên biết được rằng một ông bố mà người ta cứ tưởng chết lâu rồi hóa
ra còn sống nhăn và đang ở ngay gần. Ông thánh ẩn sĩ từng cả đời tự nuôi mớm bản
thân bằng tình yêu và kỷ niệm về Đức Ki-tô, khi đột ngột hiểu ra rằng Chúa của
ông sắp hiện ra trước ông hẳn cũng chẳng thể nào thấy bị đảo lộn đến như đốc tờ
Héraclius Gloss, vào lúc ông đã chắc chắn là rồi một ngày mình có thể gặp tác
giả tập bản thảo viết tay của ông.
XVII. Bằng cách nào đốc
tờ Héraclius Gloss tiến hành, để tìm lại tác giả tập bản thảo
Vài hôm sau, độc giả tờ Ngôi
sao Balançon sửng sốt thấy, ở trang bốn của báo, lời rao sau đây:
“Pythagore - Rome, năm 184 - Ký ức tìm lại được trên bệ một bức tượng Jupiter -
Triết gia - Kiến trúc sư - Lính - Thợ - Thầy tu - Nhà hình học - Bác sĩ - Nhà
thơ - Thủy thủ - v.v… Hãy suy niệm và hãy nhớ lại. Câu chuyện đời anh đang nằm
trong tay tôi.
“Hãy viết thư về hòm thư lưu tại Balançon, đề H.G.”
Đốc tờ không hề ngờ vào việc, nếu cái người mà ông thèm muốn
xiết bao đọc được thông báo kia, không thể hiểu nổi đối với mọi người khác, hẳn
người ấy sẽ ngay tắp lự nắm bắt được nghĩa bị che giấu và sẽ tự tìm đến ông. Thế
là ngày ngày, trước khi ngồi vào bàn, ông ra bưu điện hỏi xem có bức thư nào
cho H.G. không; và lúc đẩy cánh cửa ở trên viết dòng chữ: “Bưu điện. Phục vụ
thư, thông tin, tem”, chắc chắn ông xúc động hơn một người tình sắp mở lá thư đầu
tiên của nàng người yêu.
Hỡi ôi, ngày nối ngày trôi và cứ thế giống nhau tới mức tuyệt
vọng; nhân viên bưu điện sáng nào cũng có cùng câu trả lời cho đốc tờ và, hằng
sáng, ông về nhà, buồn bã hơn và nản chí hơn. Thế nhưng bởi người dân Balançon,
cũng như mọi dân chúng trên đời, thì tinh tế, thiếu kín đáo, hay nói xấu và hau
háu tin tức, đã mau chóng nối được lời rao đáng sửng sốt đăng trên tờ Ngôi sao Balançon với những chuyến viếng
thăm ngày ngày của đốc tờ đến chỗ Bưu Điện. Thế là họ tự hỏi bí mật nào đây có
thể được giấu ở trong đó, và khởi sự thẽ thọt với nhau.
XVIII. Ở đây, đốc tờ
Héraclius Gloss sững sờ nhận ra tác giả của bản thảo
Một đêm, vì không sao ngủ nổi, đốc tờ nhỏm dậy vào khoảng giữa
một và hai giờ sáng để đi đọc một đoạn mà ông nghĩ mình còn chưa hiểu lắm. Ông
xỏ giày vào chân và mở cửa phòng, nhẹ nhàng hết sức để không quấy động giấc ngủ
của tật tật những thứ hạng người-thú đang ăn năn hối cải dưới mái nhà ông. Thế
nhưng, dẫu các điều kiện trước đây của các con thú sung sướng đó có là như thế
nào, thì chắc chắn chưa từng bao giờ chúng được hưởng một sự yên bình và một hạnh
phúc hoàn hảo đến như thế, bởi chúng tìm được nơi ngôi nhà hiếu khách này đồ ăn
ngon, chỗ ở tốt, và thậm chí cả những gì còn lại nữa, vì con người tuyệt hảo
kia có trái tim giàu cảm thông lắm. Ông tới được, vẫn không gây ra tiếng động
nào dẫu nhỏ đến đâu, ngưỡng cửa phòng ca bi nê và bước vào. A, chắc chắn,
Héraclius rất can đảm, ông không sợ ma cũng như những hiện hình; nhưng dẫu lòng
can đảo của một con người có là như thế nào đi nữa, thì vẫn có những hãi hùng bắn
thủng, giống các viên đạn đại bác, những lòng can đảm bất khuất nhất, và đốc tờ
đứng sững ở đó, nhợt ra, khủng khiếp, mắt dại đi, tóc dựng ngược trên đầu, răng
va lập cập và run rẩy từ đầu xuống chân bởi một cơn rung kinh khiếp trước cảnh
tượng không sao hiểu nổi đang bày ra trước ông.
Ngọn đèn làm việc của ông được thắp trên bàn và, trước lò sưởi
của ông, lưng quay ra cánh cửa mà ông vừa đi vào, ông nhìn thấy… đốc tờ
Héraclius Gloss đang chăm chú đọc tập bản thảo của ông. Chẳng thể có mối nghi
ngờ nào hết… Ấy chính là ông… Người đó khoác trên mình cái áo choàng dài mặc
trong nhà của ông, bằng lụa có hình những bông hoa lớn và, trên đầu, là cái mũ
bon nê Hy Lạp của ông, bằng nhung đen thêu vàng. Đốc tờ hiểu rằng nếu chính ông
nhưng lại khác kia ngoái đầu lại, nếu hai Héraclius nhìn thẳng vào nhau, thì
bên nào, khoảnh khắc đó, run lên trong mình hẳn sẽ ngã xuống như bị sét đánh
trước bản sao. Nhưng đúng lúc ấy, vì quá căng thẳng nên quặn cả người, hai tay
ông buông lỏng ra, và vậy là đĩa nến ông đang cầm rơi xuống lăn mạnh trên sàn
nhà. - Tiếng động rất dữ ấy khiến ông nhảy dựng lên khủng khiếp. Người kia đột
ngột quay đầu lại và đốc tờ đang hãi hùng nhận ra… con khỉ của ông. Trong vài
giây các ý nghĩ của ông xoáy cuồng trong óc ông như những lá rụng bị cơn lốc cuốn.
Rồi đột nhiên ông bị xâm chiếm bởi niềm vui hăng nhất từng có bao giờ ông cảm
thấy, vì ông đã hiểu rằng tác giả đó, được trông đợi, được mong muốn như Đấng Cứu
Thế bởi những người Do Thái, đang ở ngay trước mặt ông - chính là con khỉ của
ông. Ông vội lao tới, phát điên vì sung sướng, quàng tay ôm chầm lấy sinh vật
được kính ngưỡng, và hôn nó với một sự nhiệt thành to lớn mà chưa từng bao giờ
có cô tình nhân được yêu chiều nào được hưởng theo lối say mê nhường ấy từ tình
nhân của cô ta. Rồi ông ngồi xuống đối diện với nó, bên kia lò sưởi và, cho đến
tận sáng bạch, ông thành kính chiêm ngưỡng nó.
XIX. Bằng cách nào đốc
tờ bị rơi vào sự lựa chọn thuộc hàng khủng khiếp nhất
Nhưng cũng giống những ngày đẹp nhất của mùa hè đôi khi đột
nhiên bị khuấy động do một cơn giông đáng sợ, niềm hạnh phúc lớn lao của đốc tờ
bỗng bị xuyên ngang bởi gợi ý thuộc loại ghê gớm hơn cả. Quả là ông đã tìm lại
được người mà ông tìm, nhưng than ôi! đó chỉ là một con khỉ. Chắc hẳn họ hiểu
được nhau, nhưng đâu có nói chuyện được với nhau: đốc tờ rơi từ trên trời xuống
đất trở lại. Vĩnh biệt những cuộc trò chuyện dài kia, mà ông hy vọng rút được
thật nhiều lợi ích, vĩnh biệt cuộc thập tự chinh thật đẹp chống lại sự mê tín
mà cùng nhau họ tiến hành, đó. Bởi, chỉ một mình, đốc tờ không sở hữu những thứ
vũ khí đủ để quật ngã con rắn nhiều đầu của vô tri. Ông cần một con người, một
vị tông đồ, một người nghe xưng tội, một kẻ tuẫn đạo - các vai trò ấy, một con
khỉ, hỡi ôi, đâu có khả năng đảm nhiệm. - Làm gì đây? [cứ như Lênin, à
Tchernychevsky thì đúng hơn]
Một giọng nói khủng khiếp hét lên trong tai ông: “Giết nó
đi.”
Héraclius run lên. Trong một giây, ông tính toán rằng nếu giết
nó, linh hồn thoát ra hẳn sẽ ngay lập tức chui vào cơ thể một đứa trẻ sắp sinh.
Rằng sẽ phải để cho nó ít nhất hai mươi năm để nó đến được tuổi trưởng thành.
Khi đó đốc tờ sẽ bảy mươi. Tuy nhiên cái đó là khả dĩ. Nhưng vậy thì cách nào
đây để ông tìm lại con người ấy? Rồi tôn giáo của ông ngăn cấm tiêu diệt mọi
sinh vật sống nếu không đó sẽ là một vụ giết chóc: và linh hồn của ông,
Héraclius, sau khi ông chết đi hẳn sẽ phải đi vào cơ thể một con thú dữ như
chuyện vẫn thường xảy ra với bọn sát nhân. - Quan trọng gì? hẳn ông sẽ trở
thành nạn nhân của khoa học - và của lòng tin nữa! Ông vớ lấy một thanh mã tấu
Thổ lớn treo trên một giá vũ khí, và đã định chém xuống, giống Abraham trên núi
[chuyện này được phân tích bởi chính Kierkegaard, tất nhiên trong Sợ và Run], thì một ý nghĩ vụt tới chặn tay
ông lại… Nếu cuộc sám hối của cái con người kia còn chưa kết thúc, và nếu, thay
vì chỗ chuyển qua cơ thể một đứa trẻ, linh hồn anh ta lại lần thứ hai trở lại
trong cơ thể một con khỉ thì sao? Điều này là có thể, thậm chí rất có cơ - gần
như chắc chắn là đằng khác. Qua đó mà phạm một tội ác vô ích, đốc tờ cầm chắc sẽ
phải chịu một trừng phạt khủng khiếp mà chẳng hề mang lại lợi lộc gì cho đồng
loại của ông. Người cứng đờ, ông thả mình rơi phịch xuống ghế. Những xúc cảm lặp
đi lặp lại đó khiến ông kiệt sức, và thế là ông ngất đi.
XX. Ở đây đốc tờ có một
cuộc nói chuyện nhỏ với cô hầu
XXI. Bằng cách nào mà
được chứng minh, rằng chỉ cần một người bạn thân ái rất mực là đã đủ để trút đi
những sầu muộn nặng nề nhất
Đúng như đốc tờ đã nói, từ ngày hôm ấy con khỉ thực sự trở
thành chủ nhà, và Héraclius tự biến mình thành kẻ gia nhân thấp hèn của con vật
cao quý kia. Ông ngắm nhìn nó suốt nhiều tiếng liền với một sự dịu dàng bất tận;
ông ân cần săn đón như một người đang yêu; ông nói với nó, về mọi thứ, đủ cả
quyển từ điển toàn những mẫu câu êm ái; bắt tay nó như người ta vẫn hay bắt tay
một người bạn; vừa nhìn nó chăm chăm vừa nói chuyện với nó; giải thích các điểm
có thể gây khó hiểu trong những câu nói của mình; bọc lấy cuộc đời con thú ấy
vào trong những săn sóc dịu nhất và thuộc vào các chăm lo tuyệt hảo nhất.
Và con khỉ cứ để mặc mọi sự, bình thản như một Chúa nhận về
sự vinh danh của con nhang đệ tử.
Cũng như mọi tinh thần lớn sống đơn độc bởi vì sự cao vời của
họ cô lập họ ở phía trên mức chung của sự xuẩn ngốc dân chúng, cho đến lúc đó
Héraclius từng cảm thấy trơ trọi. Chỉ có một mình trong những công việc, chỉ có
một mình trong những niềm hy vọng, chỉ có một mình trong những tranh đấu và những
suy sụp, rốt cuộc chỉ có một mình trong khám phá của mình và trong thắng lợi của
mình. Ông vẫn chưa áp đặt được học thuyết của mình lên đám đông, thậm chí ông
còn chưa thể thuyết phục hai người bạn thân nhất của ông, ngài hiệu trưởng cùng
ngài trưởng khoa. Nhưng kể từ cái ngày đốc tờ khám phá nơi con khỉ của ông triết
gia vĩ đại mà ông vốn thường hay mơ thấy đến vậy, ông cảm thấy bớt cô lẻ hơn.
Tin chắc rằng con thú chỉ bị tước mất sự nói năng do sự trừng
phạt các lỗi đã qua của nó và, cũng bởi đòn trừng phạt ấy, trong nó ngập tràn kỷ
niệm về những tồn tại trước, Héraclius khởi sự yêu cuồng nhiệt bạn đồng hành của
ông và thấy mình được an ủi nhờ tình cảm âu yếm ấy, khỏi tất tật các nỗi khốn
cùng giáng xuống ông.
Từ ít lâu, quả thật, cuộc sống trở nên buồn hơn đối với đốc
tờ. Ngài trưởng khoa và ngài hiệu trưởng đến thăm ông thưa hơn nhiều và điều
này tạo ra một trống rỗng to lớn quanh ông. Thậm chí họ đã ngừng tới ăn tỗi mỗi
Chủ nhật, kể từ lúc ông cấm dọn ra bàn mọi thực phẩm từng có sự sống. Thay đổi
trong chế độ của ông, đối với ông cũng là một tước bỏ to lớn, có lắm lúc, điều
này mang những tỉ lệ của một nỗi buồn đúng nghĩa. Ông, người xưa kia từng sốt
ruột đến vậy mà đợi cái giờ xiết bao êm ả của bữa trưa, giờ gần như ông e ngại
nó. Buồn rầu, ông đi vào phòng ăn, biết rõ rằng mình chẳng còn gì dễ chịu để
trông đợi nữa và ông không ngừng bị ám bởi kỷ niệm về những xiên chim caille,
nó đè nặng lên ông như một sám hối, than ôi! chẳng hề là sám hối bởi đã chén đẫy
cái món đó, mà đúng hơn, niềm tuyệt vọng vì đã vĩnh viễn cự tuyệt nó rồi.
XXII. Ở đây đốc tờ
phát hiện thấy con khỉ của ông còn giống ông hơn so với mức mà ông nghĩ
Một sáng nọ, đốc tờ Héraclius bị đánh thức bởi một sự ồn ào
bất thường; ông nhảy vọt ra khỏi giường, quáng quàng mặc quần áo rồi chạy về
phía bếp nơi ông nghe thấy những tiếng hét cùng những tiếng giậm chân lạ lùng.
Từ lâu trong tâm trí đã nung nấu những dự dồ trả thù đen tối
nhất chống lại kẻ đột nhập cướp đi mất khỏi tay cô tình âu yếm của ông chủ cô, Honorine
tráo trở, vốn biết rõ các sở thích cùng những món khoái khẩu của những con vật ấy,
đã, nhờ một mưu mẹo nào đó, trói thật chắc được con khỉ khốn khổ vào chân cái
bàn trong bếp. Rồi, khi đã chắc chắn được rằng nó bị buộc chặt cứng, cô lui ra
đầu kia của căn hộ và, vui sướng chìa cho nó xem món ngon có sức kích thích nỗi
thèm muốn ở nó mạnh hơn cả, cô bắt nó phải chịu một màn cực hình Tantale kinh
khiếp mà hẳn dưới địa ngục người ta chỉ dùng để trừng phạt những kẻ từng phạm
vô cùng nhiều tội; và cô quản gia quái thai ngâm giấm cười như nắc nẻ và tưởng
tượng ra các trò tinh xảo của tra tấn mà chỉ một phụ nữ mới có khả năng hình
dung nổi. Người-khỉ kia quằn quại đầy thịnh nộ trước cái món ngon lành đang được
chìa ra từ xa, và cơn điên giận vì cảm thấy mình bị trói vào chân cái bàn lớn
khiến cho nó thực thi những nhăn nhó gớm ghiếc, chúng lại càng làm tăng lên gấp
đôi niềm vui nơi kẻ đao phủ cám dỗ.
Rốt cuộc, đúng vào cái lúc đốc tờ, ông chủ hay ghen, hiện ra
trên ngưỡng cửa, nạn nhân của cuộc đón lõng hãi hùng kia, nhờ một nỗ lực ghê rợn,
giật đứt được những sợi dây đang giữ nó, và nếu không có sự can thiệp dữ dội của
Héraclius lòng đầy phẫn nộ, chỉ Chúa mới biết Tantale bốn tay mới mẻ này sẽ lấy
những gì để mà đánh chén cho thỏa thuê.
XXIII. Bằng cách nào
đốc tờ nhận ra, con khỉ của ông đã lừa ông thật thê thảm
Lần này cơn giận vượt lên trên lòng kính trọng, nên đốc tờ,
túm chặt lấy cổ họng con khỉ-triết gia, lôi nó vào trong phòng ca bi nê và cho
nó một trận tẩn kinh khiếp nhất từng có bao giờ hàng xương sống của một luân hồi
gia phải hứng chịu.
Khi cánh tay mỏi nhừ của Héraclius nới một chút khỏi họng của
con vật khốn khổ, chỉ phạm tội là có những sở thích quá giống với các sở thích
của người anh em bậc cao hơn của nó, nó liền vùng ra khỏi vòng ôm của ông chủ tức
tối, nhảy vọt qua bàn, nắm lấy, trên một quyển sách, hộp đựng thuốc lá lớn của
đốc tờ và cứ để mở nắp ném thẳng vào mặt chủ sở hữu. Ông chỉ kịp nhắm mắt lại để
tránh cơn lốc sợi thuốc lá hẳn sẽ làm ông bị mù, nhưng khi ông mở mắt ra, tên tội
phạm đã biến mất, mang theo với nó tập bản thảo vốn dĩ nó được cho là tác giả.
Trước cả khi tập bản thảo chạm vào người đốc tờ, ông đã ngã chổng vó lên trời, tê liệt vì xúc động mạnh. Lúc nhỏm dậy, ông không có đủ sức để mà trả thù sự gây hấn mới ấy, ông nặng nề trở vào trong phòng ca bi nê và nhận thấy, chẳng phải là không sung sướng, chỉ mất tổng cộng có ba trang.
XXIV. Eurêka
Ngài trưởng khoa cùng ngài hiệu trưởng tới thăm khiến ông được
kéo ra khỏi trạng thái ủ dột. Họ trò chuyện trong vòng một hay hai tiếng mà
không nhắc một lời tới luân hồi thuyết; nhưng vào lúc hai người bạn sắp đi khỏi,
Héraclius không thể kìm giữ lâu hơn được nữa. Trong khi ngài trưởng khoa choàng
lên người cái áo choàng lớn bằng da gấu, ông kéo người ấy, mà ông ít e ngại
hơi, ra một chỗ và kể nỗi bất hạnh của mình. Ông cho biết bằng cách nào ông từng
tưởng tìm ra được tác giả tập bản thảo của ông, bằng cách nào mà ông đã bị lừa,
bằng cách nào con khỉ tệ hại của ông đã chơi ông theo cách thức thấp hèn nhất,
bằng cách nào ông bị rơi vào cảnh bị bỏ rơi và tuyệt vọng. Và trước sự sụp đổ
các ảo tưởng của mình Héraclius bật khóc. Hiệu trưởng, đầy xúc động, cầm lấy
tay ông; ông đã sắp cất lời thì giọng trầm của trưởng khoa ầm vang: “Ơ này, đến
đây nào, hiệu trưởng” ngoài phòng sảnh. Thế là ông, ôm lấy đốc tờ thiếu may mắn
một lần cuối, mỉm cười dịu dàng mà bảo ông, giống người ta vẫn hay làm để an ủi
một đứa trẻ hư: “Kìa, bình tĩnh đi, bạn ơi, ai biết đâu, có lẽ chính anh mới là
tác giả của tập bản thảo ấy chứ.”
Rồi ông lao mình vào bóng tối ngoài phố, để lại Héraclius
ngây độn trên bậu cửa.
Đốc tờ chầm chậm leo trở lại lên phòng ca bi nê, cứ chốc lại
lẩm bẩm qua kẽ răng: “Có lẽ mình là tác giả tập bản thảo kia.” Ông đọc lại thật
chăm chú cách thức tài liệu ấy được tìm thấy vào mỗi lần tác giả của nó xuất hiện
trở lại; rồi ông nhớ chính mình đã tìm ra nó như thế nào. Giấc mộng đêm ngay
trước cái ngày sung sướng đó giống như một báo hiệu từ trời, cảm xúc của ông
lúc đi vào ngõ Bồ Câu Già, tất tật quay trở lại với ông thật sáng sủa, rõ ràng,
rạng ngời. Thế là ông nhỏm người thẳng dậy, dang hai tay như một người vừa ngộ
và kêu lên giọng lanh lảnh: “Chính là tôi, chính là tôi.” Một luồng run rẩy chạy
khắp nhà ông, Pythagore sủa ăng ẳng dữ dội, lũ thú bị quấy động đột ngột tỉnh dậy
và khởi sự náo nhiệt lên như thể con nào cũng, bằng ngôn ngữ riêng của nó, những
muốn chào mừng cuộc hồi sinh vĩ đại của nhà tiên tri thuộc luân hồi thuyết. Rồi,
trong một cơn xúc động siêu nhiên, Héraclius ngồi xuống, mở trang cuối cùng của
quyển thánh kinh mới ấy ra, và đầy thành kính, ông viết tiếp vào đó, câu chuyện
cuộc đời ông.
XXV. Ego sum qui sum
Kể từ ngày hôm ấy Héraclius Gloss thấy xâm chiếm mình một niềm
kiêu ngạo khổng lồ. Giống Đấng Cứu Thế đi trước Đức Chúa Cha, ông là truyền
nhân trực hệ từ Pythagore, hay nói đúng hơn, chính ông là Pythagore, do xưa kia
từng sống trong cơ thể triết gia đó. Như vậy, phả hệ của ông thách thức những
khu phố của các gia đình phong kiến hiển hách nhất. Ông bọc vào trong một niềm
khinh bỉ ngạo nghễ mọi kẻ vĩ đại của nhân loại, những thành tích lớn nhất của họ,
với ông thật nhỏ mọn nếu đặt bên cạnh các thành tích của riêng ông, và ông tự
cô lập trong một sự vươn cao trác tuyệt ở giữa các thế giới và giữa các con vật;
ông là sự luân hồi và nhà ông trở thành ngôi đền cho nó.
Ông đã cấm cô hầu cùng người làm vườn không được giết lũ vật
có tiếng là hay gây hại. Sâu cùng sên nhung nhúc trong vườn nhà ông và, dưới
hình thức bọn nhện lớn với những cái cẳng mượt, các người phàm ci-devant đưa đi
dạo chơi sự chuyển hóa gớm ghiếc của chúng, trên những bức tường phòng ca bi nê
của ông; điều này khiến ông hiệu trưởng tệ hại nói rằng nếu tất tật đám cựu ăn
chực, đã được biến hình theo cách thức riêng của mình, hẹn nhau tụ hội trên cái
đầu của ông đốc tờ quá mức nhạy cảm, thì ông sẽ tránh gây chiến với những thứ tầm
gửi khốn khổ bị hạ cấp ấy. Chỉ duy nhất một điều gây rối loạn cho Héraclius
trong đợt bừng nổ tuyệt vời, ấy là cứ không ngừng phải chứng kiến lũ vật ăn thịt
lẫn nhau, nhện thì rình ruồi bay ngang, chim mang lũ nhện đi, mèo chén chim,
còn con chó Pythagore của ông lại sung sướng bóp cổ mọi con mèo nào lỡ ở trong
tầm răng của nó.
Từ sáng đến tối ông dõi theo bước đi chậm và tiến về trước của
luân hồi, qua mọi bậc của thang thú vật. Ông có những khải ngộ đột nhiên khi ngắm
chim sẻ lích chích nơi máng nước; kiến, các kẻ lao động cần mẫn vĩnh cửu và đầy
sáng suốt ấy, tạo cho ông những mềm lòng to lớn; ông nhận thấy nơi chúng mọi kẻ
ăn không ngồi rồi và vô tích sự, đám người, để sám hối thói biếng nhác cùng nỗi
ơ hờ đã qua của bọn họ, bị kết án phải thực hiện cái công việc cần mẫn không ngớt
kia. Ông dành hàng giờ, mũi cắm xuống cỏ mà chiêm ngưỡng chúng, và ông ngây ngất
trước sự sâu sắc của mình.
Rồi, giống Nabuchodonosor, ông bò bốn cẳng, lăn lộn cùng con
chó của mình trong bụi, sống với lũ thú của ông, phơi bụng ra cùng chúng. Đối với
ông con người dần dà biến mất khỏi sáng tạo, và ông sớm chỉ còn thấy ở đó toàn
những con vật. Thế là ông ngắm chúng, ông cảm thấy rõ rằng ông là anh em của
chúng; ông chỉ còn trò chuyện với chúng và những khi, vì tình cờ, buộc lòng phải
nói với những con người, thì ông thấy mình tê liệt như đang ở giữa những kẻ xa
lạ và trong lòng nổi phẫn nộ về sự ngu xuẩn của đồng loại.
XXVI. Điều người ta
nói quanh công toa của Mme Labotte, bán hoa quả, tại 26, phố de la
Maraîcherie
Cô Victoire, cordon bleu [chef giỏi] của ngài khoa trưởng tại
trường đại học Balançon, bà Gertrude, người hầu của ngài hiệu trưởng cũng của đại
học ấy và cô Anastasie, quản gia của ông trưởng tu Beaufleury, cha xứ của
Sainte-Eulalie, ấy là nhóm kín đáng kính trọng họp lại với nhau một sáng thứ
Năm nọ, quanh công toa của Madame Labotte, bán hoa quả, số 26, phố de la
Maraîcherie.
Những quý bà đó, tay trái xách giỏ mua đồ, đầu đội một chiếc
bon nê trắng đặt thật điệu lên tóc, điểm trang tươi đẹp với những đăng ten cùng
nếp với diềm, với dải dây buông thòng sau lưng, chăm chú lắng nghe cô
Anastasie, cô kể cho họ như thế nào mà mới hôm qua thôi, ông trưởng tu Beaufleury
đã trục quỷ một phụ nữ tội nghiệp bị tận năm con quỷ ám.
Đột nhiên cô Honorine, quản gia của đốc tờ Héraclius, bước
vào như một cơn gió, cô ngã phịch xuống một cái ghế, ngạt thở bởi một mối xúc cảm
dữ dội, rồi, chừng đã thấy tất cả mọi người đủ tò mò, to giọng: “Không, đúng là
đã quá rồi, người ta cứ việc thích nói gì thì nói: tôi sẽ không ở lại trong cái
nhà đó nữa.” Rồi, đưa hai tay lên che mặt, cô khóc nức lên. Sau một phút cô lại
tiếp, đã bình tĩnh lại một chút: “Mà cũng không phải lỗi của con người khốn khổ
đó, nếu ông ấy phát điên. - Ai cơ? Madame Labotte hỏi. - Ông chủ tôi chứ ai, đốc
tờ Héraclius, cô Honorine đáp. - Vậy ra ông trưởng khoa nói chủ cô mất trí là
đúng hả? cô Victoire tra hỏi. - Tôi nghĩ vậy mà! cô Anastasie kêu lên, hôm trước
cha xứ khẳng định với ông trưởng tu Rosencroix rằng đốc tờ Héraclius là một người
bị đọa đúng nghĩa; rằng ông ấy yêu lũ thú vật, noi gương một tay Pythagore nào
đó, dường như ấy là một tên đồi bại không kém đáng ghê tởm hơn Luther. - Có gì
mới không, cô Gertrude ngắt lời, đã xảy ra chuyện gì? - Các chị có tưởng tượng
được không, Honorine lại nói, đưa vạt tạp dề lên lau nước mắt, ông chủ tội nghiệp
của tôi từ sáu tháng nay lên cơn điên với thú vật và chắc ông ấy sẽ tống tôi ra
khỏi cửa nếu thấy tôi giết một con ruồi, mà tôi ở nhà ông ấy được gần mười năm
rồi còn gì. Thật tốt khi yêu quý thú vật, nhưng tuy nhiên chúng được tạo ra cho
chúng ta chứ, còn đốc tờ thì chẳng còn nhìn đến người nữa cơ, ông ấy chỉ nhìn
thấy những con thú, ông ấy nghĩ mình được tạo ra và sinh ra trên đời để phục vụ
chúng, ông ấy nói chuyện với chúng như với những con người có lý trí và có thể
nói ông ấy nghe thấy từ bên trong chúng một giọng nói đáp lời ông ấy. Rốt cuộc,
tối hôm qua, vì nhận ra lũ chuột ăn mất đồ thực phẩm của tôi, tôi bèn đặt một
cái bẫy trong tủ buýp phê. Sáng nay, thấy có một con chuột dính bẫy, tôi bèn gọi
con mèo và sắp quẳng cho nó cái thứ sâu mọt kia thì ông chủ chạy vào như kẻ rồ
dại, ông ấy giật cái bẫy khỏi tay tôi rồi thả con chuột ngay vào giữa đồ ăn của
tôi, rồi, vì tôi nổi giận, ông ấy liền quay sang và đối xử với tôi còn tệ hơn một
con mẹ chuyên nhặt rác.” Một sự im lặng to lớn kéo dài vài giây, rồi cô
Honorine nói tiếp: “Dẫu thế nào thì tôi cũng không trách gì con người tội nghiệp
đó, ông ấy bị điên.”
Hai tiếng sau, câu chuyện con chuột của đốc tờ đã đi vòng
quanh những cái bếp của Balançon. Đến trưa, nó trở thành giai thoại của bữa ăn
tại nhà các bậc trưởng giả thành phố. Tám giờ, ngài Chánh Tòa, vừa uống cà phê
vừa kể nó cho sáu ông tòa vừa ăn tối ở nhà ông, và những ông đó, trong các dáng
điệu đa dạng và nghiêm trang, vẻ mơ mộng lắng nghe, không hề mỉm cười, đầu gật
gật. Mười một giờ, ông quận trưởng đang tổ chức dạ tiệc tỏ ý lo lắng về chuyện
này trước sáu ma nơ canh cai trị, và khi ông hỏi ý kiến hiệu trưởng lúc ấy đang
đi hết nhóm này sang nhóm khác gieo rắc những lời độc ác của mình, cùng cái cà
vạt trắng, thì hiệu trưởng đáp như sau: “Xét cho cùng điều đó cho thấy, thưa
ngài quận trưởng, rằng nếu La Fontaine còn sống, hẳn ông ấy sẽ làm một bài ngụ
ngôn mới tên là “Con chuột của triết gia”, và chắc nó sẽ kết thúc bằng câu sau
đây:
La plus bête des deux
n’est pas celui qu’on pense.
[nhại La Fontaine, bài “Le meunier, son fils et l’âne”, câu
“Le plus Âne des trois n’est pas celui qu’on pense”; muốn nói cái kẻ ngu nhất lại
không phải đứa mà ai cũng nghĩ]
XXVII. Như thế nào,
mà đốc tờ Héraclius chẳng hề nghĩ giống con cá heo, sau khi cứu một con khỉ khỏi
chết đuối,
… L’y replonge et va chercher
Quelqu’homme afin de le sauver.
[tiếp tục ám chỉ đến La Fontaine: trên đây là hai câu cuối
bài “Le singe et le dauphin” - tàu đắm, cá heo cứu người khỏi chết đuối, một
con khỉ bị tưởng nhầm là người nên cũng được cứu, vào đến gần bờ thì chuyện vỡ
lở, cá heo bèn quẳng con khỉ xuống nước để mặc cho ai thích cứu thì đi mà cứu]
Khi, hôm sau, Héraclius ra khỏi nhà, ông nhận thấy ai cũng
nhìn ông đi qua vẻ hiếu kỳ và người ta lại còn ngoái đầu để nhìn ông. Sự chú ý
mà ông là đối tượng thoạt tiên khiến ông ngạc nhiên; ông tìm nguyên nhân cho điều
đó, và nghĩ rằng học thuyết của ông có lẽ đã được phát tán mà ông không hay, và
vào lúc này ông đã được những đồng bào của mình hiểu. Thế là một niềm dịu dàng
đột nhiên nảy sinh ở ông, hướng tới những người trưởng giả kia, nơi họ ông đã
nhìn thấy các môn đệ đầy nhiệt hứng, và ông khởi sự vừa mỉm cười vừa chào bên
phải, bên trái như một ông hoàng giữa dân chúng của mình. Những tiếng thì thào
đuổi theo ông, đối với ông giống một thì thầm chất chứa ngợi khen và ông tỏa rạng
nỗi khoan khoái khi nghĩ tới nỗi bối rối sắp tới của hiệu trưởng cùng trưởng
khoa.
Cứ như vậy, ông đến bờ ke sông Brille. Cách vài bước, một nhóm trẻ con đang đùa nghịch và vừa cười ré vừa ném đá xuống nước trong lúc đám chèo thuyền hút tẩu dưới nắng như thể quan tâm tới trò chơi của mấy thằng bé kia lắm. Héraclius lại gần, rồi đột nhiên bước lùi như một người vừa phải lĩnh một cú mạnh vào giữa ngực. Cách bờ mười mét, hết hụp xuống lại ngoi lên, một con mèo con đang chết đuối dưới sông. Con thú nhỏ bé khốn khổ không ngừng nỗ lực trong tuyệt vọng để bơi vào bờ, nhưng cứ mỗi lần nó nhô được đầu lên khỏi mặt nước, tức thì một hòn đá của một trong mấy thằng ranh đang vui đùa trước cơn hấp hối đó lại làm nó biến mất đi. Lũ nhóc độc ác thi đua về độ khéo và khích bác lẫn nhau, và khi một cú ném đáp trúng con vật thảm hại, trên ke liền nổ ra một tràng cười cùng những tiếng giậm chân vui tươi. Đột nhiên một viên sỏi có cạnh sắc đập tin vào giữa trán con thú và một vệt máu chảy ra trên bộ lông trắng. Thế là giữa đám đao phủ bùng lên một cơn cuồng những tiếng hét và tiếng vỗ tay, nhưng đột nhiên nó biến thành một cơn hoảng ghê người. Nhợt cả ra, run lên vì giận, đẩy ngã mọi thứ gì hiện ra trước mặt, vung vẩy chân tay loạn xạ đấm đá, đốc tờ đã lao vào giữa đám ầm ĩ như một con chó sói giữa một đàn cừu. Nỗi hãi thật lớn và cuộc chạy trốn chóng vánh đến mức một trong lũ nhóc, sợ quá, lao xuống sông và mất hút. Héraclius vội cởi áo rơ đanh gốt, tháo giày và, tới lượt mình, nhảy xuống. Người ta thấy ông bơi thật dữ một lúc, túm lấy con mèo con đúng vào lúc nó chìm đi, rồi đầy vẻ chiến thắng quay trở lại trên bờ. Rồi ông ngồi lên một cái ụ, lau chùi, hôn, vuốt ve con vật bé nhỏ mà ông vừa giật khỏi tay cái chết, và âu yếm ôm lấy nó như một đứa con trai, chẳng buồn để tâm tới thằng bé đang được hai tay chèo thuyền đưa vào, thờ ơ với sự náo loạn đằng sau ông, ông rảo bước đi về nhà, quên bẵng giày cùng áo trên bờ sông.
Cứ như vậy, ông đến bờ ke sông Brille. Cách vài bước, một nhóm trẻ con đang đùa nghịch và vừa cười ré vừa ném đá xuống nước trong lúc đám chèo thuyền hút tẩu dưới nắng như thể quan tâm tới trò chơi của mấy thằng bé kia lắm. Héraclius lại gần, rồi đột nhiên bước lùi như một người vừa phải lĩnh một cú mạnh vào giữa ngực. Cách bờ mười mét, hết hụp xuống lại ngoi lên, một con mèo con đang chết đuối dưới sông. Con thú nhỏ bé khốn khổ không ngừng nỗ lực trong tuyệt vọng để bơi vào bờ, nhưng cứ mỗi lần nó nhô được đầu lên khỏi mặt nước, tức thì một hòn đá của một trong mấy thằng ranh đang vui đùa trước cơn hấp hối đó lại làm nó biến mất đi. Lũ nhóc độc ác thi đua về độ khéo và khích bác lẫn nhau, và khi một cú ném đáp trúng con vật thảm hại, trên ke liền nổ ra một tràng cười cùng những tiếng giậm chân vui tươi. Đột nhiên một viên sỏi có cạnh sắc đập tin vào giữa trán con thú và một vệt máu chảy ra trên bộ lông trắng. Thế là giữa đám đao phủ bùng lên một cơn cuồng những tiếng hét và tiếng vỗ tay, nhưng đột nhiên nó biến thành một cơn hoảng ghê người. Nhợt cả ra, run lên vì giận, đẩy ngã mọi thứ gì hiện ra trước mặt, vung vẩy chân tay loạn xạ đấm đá, đốc tờ đã lao vào giữa đám ầm ĩ như một con chó sói giữa một đàn cừu. Nỗi hãi thật lớn và cuộc chạy trốn chóng vánh đến mức một trong lũ nhóc, sợ quá, lao xuống sông và mất hút. Héraclius vội cởi áo rơ đanh gốt, tháo giày và, tới lượt mình, nhảy xuống. Người ta thấy ông bơi thật dữ một lúc, túm lấy con mèo con đúng vào lúc nó chìm đi, rồi đầy vẻ chiến thắng quay trở lại trên bờ. Rồi ông ngồi lên một cái ụ, lau chùi, hôn, vuốt ve con vật bé nhỏ mà ông vừa giật khỏi tay cái chết, và âu yếm ôm lấy nó như một đứa con trai, chẳng buồn để tâm tới thằng bé đang được hai tay chèo thuyền đưa vào, thờ ơ với sự náo loạn đằng sau ông, ông rảo bước đi về nhà, quên bẵng giày cùng áo trên bờ sông.
XXVIII
Câu chuyện này thưa độc
giả sẽ cho bạn thấy rằng,
Chừng người ta muốn
giúp đồng loại tránh những cú ném,
Chừng người ta nghĩ cứu
một con mèo thì hơn là cứu một con người,
Thì hẳn các hàng xóm
người ta sẽ làm nổi cơn tức giận,
Làm thế nào mọi con đường
đều có thể dẫn tới Rome,
Còn luân hồi thì đến
nhà thương điên.
Ngôi
sao Balançon
Hai tiếng sau, một đám người đông đảo la hét ồn ào tụ lại
trước các cửa sổ nhà đốc tờ Héraclius Gloss. Rất chóng, một trận mưa các hòn đá
đập vỡ những cửa kính và đám đông đã sắp phá cửa ra vào thì cảnh binh xuất hiện
ở đầu phố. Dần dà tất cả bình tĩnh lại; rốt cuộc đám người tản đi; nhưng cho đến
hôm sau, có hai cảnh binh đứng gác trước nhà của đốc tờ. Còn ông đã qua buổi tối
trong một nỗi náo động lạ thường. Ông tự giải thích cơn bùng nổ của dân chúng bằng
những trò xấu chơi mà các linh mục ngấm ngầm xúi giục chống lại ông, và bằng sự
bùng phát của lòng căm ghét mà kỳ đăng quang của một tôn giáo mới nào cũng gây
ra, giữa lũ môn đồ của tôn giáo cũ. Nhiệt tâm của ông lớn đến mức tuẫn đạo và
ông cảm thấy mình sẵn sàng khai nhận lòng tin riêng trước đám đao phủ. Ông cho
đưa vào phòng ca bi nê của mình tất cả bọn con thú mà nó có thể chứa, và mặt trời
lên bắt gặp ông đang thiêm thiếp ở giữa con chó của ông, một con dê cùng một
chú cừu, ôm chặt trên ngực con mèo con mà ông đã cứu sống.
Một cú đập mạnh giộng vào cửa đánh thức ông, và Honorine dẫn
một ông trông rất nghiêm nghị vào, theo sau là hai nhân viên trật tự. Không xa
phía sau họ, lấp ló bác sĩ của sở cẩm. Ông nghiêm nghị tự giới thiệu mình là
chánh cẩm cảnh sát và hết sức lịch thiệp mời Héraclius đi theo; ông nghe lời, hết
sức xúc động. Một cỗ xe đợi sẵn ngoài cửa, người ta cho ông lên đó. Rồi, ngồi
bên cạnh ông cẩm, đối diện là bác sĩ cùng một nhân viên, người còn lại thì lên
ngồi cạnh xà ích, Héraclius thấy họ đi theo phố Do Thái, quảng trường Tòa Đô
Chính, đại lộ Nàng Pucelle [tức là Jeanne d’Arc] rồi rốt cuộc dừng lại trước một
tòa nhà lớn có dáng vẻ u tối trên cửa viết dòng chữ “Trại Điên”. Đột nhiên ông
ngộ ra cái bẫy khủng khiếp mình đã rơi vào; ông hiểu độ thiện xảo đáng sợ nơi
những kẻ thù của ông và, dồn hết sức lực, ông cố lao ra ngoài phố; hai bàn tay
mạnh mẽ làm ông ngã trở lại xuống ghế. Thế là một trận chiến khủng khiếp khởi sự,
giữa ông và ba người đang giữ ông; ông cựa quậy, oằn oại, đập, cắn, hú hét vì tức
tối; sau rốt ông cảm thấy mình bị quật ngã, bị trói lại thật chắc rồi bị mang
vào ngôi nhà tồi tệ, cửa lớn đóng lại sau lưng ông với một tiếng động hung ác.
Người ta đưa ông vào một xà lim hẹp có dáng vẻ kỳ khôi. Lò
sưởi, cửa sổ cùng gương đều được gắn song sắt bảo vệ rất vững chắc, giường và
cái ghế duy nhất thì gắn chặt xuống sàn bằng dây xích sắt. Không một thứ đồ gỗ
nào tại đó có thể nhấc lên và dịch chuyển bởi tù nhân. Thêm nữa, sự kiện cho thấy
rằng các cẩn trọng ấy không hề thừa. Vừa thấy mình ở cái nơi hoàn toàn mới đối
với ông là đốc tờ nổi xung lên ngay. Ông tìm cách đập phá mấy thứ đạc, giật
song sắt và đập vỡ những ô kính. Thấy rằng mình không thể làm được, ông bèn lăn
ra đất, cất lên những tiếng hét khiếp đảm tới nỗi hai người đàn ông vận bờ lu
và đội một dạng mũ cát két đồng phục đột nhiên chạy vào, theo chân là một ông
cao lớn đầu hói và ăn vận toàn đen. Theo một ra hiệu của nhân vật đó, hai người
đàn ông nhảy bổ lên Héraclius và, chỉ trong giây lát, mặc cho ông áo camisole người
điên; rồi họ nhìn ông đồ đen. Ông ta nhìn đốc tờ một lúc rồi quay sang mấy bộ hạ:
“Vào phòng tắm”, ông ta nói. Thế là Héraclius bị đưa vào một căn phòng lớn lạnh
toát chính giữa có một cái bồn không nước. Ông bị lột hết quần áo, vẫn không ngừng
la hét, rồi bị đặt vào bồn tắm; và trước khi kịp có thời gian nhận biết, ông đã
bị tuyệt đối ngạt thở bởi cuộc phun kinh hoàng nhất của thứ nước lạnh giá chưa
từng bao giờ rơi xuống vai một người phàm, ngay cả tại những vùng gần địa cực
hơn cả. Héraclius đột ngột bặt tiếng. Ông đồ đen vẫn nhìn ông; ông ta nghiêm
trang bắt mạch ông rồi nói: “Thêm một lần.” Lần thứ hai nước lại phun từ trên
trần xuống và đốc tờ gục xuống, run lẩy bẩy, họng nghẹn lại, ngạt hơi nơi đáy bồn
tắm giá băng. Sau đó ông được nhấc lên, quấn vào chăn ấm sực và được đặt nằm
lên cái giường trong xà lim, ở đó ông ngủ ba mươi lăm tiếng liền, say như chết.
Hôm sau ông tỉnh dậy, mạch ổn và đầu nhẹ. Ông suy nghĩ một hồi
về tình thế của mình, rồi khởi sự đọc tập bản thảo mà ông đã cẩn thận mang
theo. Ông đồ đen sớm vào. Người ta mang tới một cái bàn dọn sẵn đồ ăn và họ ngồi
đối diện nhau dùng bữa. Đốc tờ, vốn dĩ còn chưa quên cú tắm rửa hôm trước, tỏ
ra hết sức bình thản và lịch sự; chẳng nói một lời về chủ đề chắc hẳn sẽ khiến
ông lại phải trải qua chuyến phiêu lưu tệ hại tương tự, ông nói chuyện thật lâu
theo cách thức hấp dẫn nhất và gắng sức chứng tỏ cho chủ nhà của ông rằng ông
lành mạnh về tâm trí cũng như bảy nhà thông thái Hy Lạp.
Lúc rời khỏi đó, ông đồ đen đề nghị Héraclius đi dạo một
vòng trong khu vườn của bệnh viện. Đó là một cái sân vuông lớn trồng đầy cây.
Chừng năm chục cá thể người đang dạo bộ ở đó; một số cười, hét và lảm nhảm, những
người khác thì nghiêm trang và sầu muộn.
Trước hết đốc tờ để ý một người đàn ông cao lớn mang bộ râu
dài cùng mái tóc trắng, bước đi một mình, đầu cúi gằm. Dẫu không biết là tại
sao, số phận của người ấy khiến ông quan tâm và, cùng lúc, người lạ, ngẩng đầu
lên, chăm chăm nhìn Héraclius. Rồi họ đi về phía nhau và kính cẩn chào nhau. Thế
rồi cuộc trò chuyện khởi sự. Đốc tờ biết rằng người đồng hành của ông tên là
Dagobert Félorme, là giáo sư sinh ngữ tại trường collège Balançon. Ông không nhận
thấy có gì vẹo vọ trong đầu óc người ấy và đang tự hỏi điều gì đã có thể dẫn
ông vào một nơi như thế này, thì người kia, đột nhiên ngừng nói, cầm lấy tay
ông và, siết thật mạnh, hạ giọng hỏi: “Ông có tin vào luân hồi chăng?” Đốc tờ lảo
đảo, ấp úng; ánh mắt họ giao nhau và trong vài giây hai người cứ đứng đó mà ngắm
nhau. Rốt cuộc xúc cảm chiến thắng Héraclius, những giọt nước mắt trào ra - ông
dang rộng vòng tay và họ ôm lấy nhau. Thế là những lời tâm sự bắt đầu và họ
chóng nhận ra rằng họ được soi chiếu bởi cùng ánh sáng, tắm đẫm cùng học thuyết.
Chẳng có lấy một điểm nào mà ý tưởng của họ không gặp nhau. Nhưng đốc tờ càng
nhận ra sự giống trong suy nghĩ đáng kinh ngạc đó, thì ông càng cảm thấy một nỗi
khó ở đặc biệt xâm chiếm mình; ông thấy dường, người lạ càng lớn lên trong mắt
ông, thì chính ông lại càng nhỏ đi trong nhìn nhận của chính ông. Lòng ghen cắn
xé trong lòng ông.
Đột nhiên người kia kêu lên: “Luân hồi, ấy là tôi; chính tôi
đã khám phá luật tiến hóa của các linh hồn, chính tôi đã thăm dò các phần số con
người. Chính tôi từng là Pythagore.” Đốc tờ dừng khựng lại, mặt nhợt hơn khăn
liệm. “Xin thứ lỗi, ông nói, Pythagore, ấy là tôi.” Và họ lại nhìn nhau. Người
kia tiếp: “Tôi đã lần lượt là triết gia, kiến trúc sư, lính, công nhân, thầy
tu, nhà hình học, bác sĩ, nhà thơ và thủy thủ. - Tôi cũng thế, Héraclius đáp. -
Tôi đã viết câu chuyện đời tôi bằng tiếng Latin, tiếng Hy Lạp, tiếng Đức, tiếng
Ý, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Pháp”, người lạ hét lên. Héraclius đáp ngay: “Tôi
cũng thế.” Họ dừng lại và ánh mắt họ giao nhau, nhọn hoắt như những mũi kiếm. “Năm
184, người kia gào lên, tôi sống ở Rome và tôi là triết gia.” Thế là đốc tờ,
còn run hơn một cái lá trong gió cơn giông, rút từ túi áo ra tài liệu quý và
chìa nó ra như một thứ vũ khí dưới mũi đối thủ. Ông ta nhảy bật về sau. “Bản thảo
của tôi”, ông ta hú lên; rồi ông ta chìa tay ra định cầm lấy nó. “Nó là của
tôi”, Héraclius gầm lên và, với một tốc độ rất đáng kinh ngạc, ông giơ đối tượng
tranh chấp lên cao quá đầu, chuyển nó từ tay này sang tay kia sau lưng, khiến
nó thực hiện những chuyển động ngoạn mục nhất nhằm không để cho cuộc truy đuổi
điên cuồng của địch thủ thu được kết quả. Kẻ kia nghiến răng, giậm chân và rống
lên: “Đồ ăn cắp! Đồ ăn cắp! Đồ ăn cắp!” Cuối cùng ông ta cũng, nhờ một động tác
nhanh cũng ngang bằng với khéo, túm được một đầu tập giấy mà Héraclius định hất
đi. Trong vòng vài giây hai bên cùng ra sức kéo với một cơn giận và một sức mạnh
tương tự, rồi, vì không bên nào chịu nhường, bản thảo, đang là gạch nối thể chất
giữa họ, kết thúc trận đấu theo lối cũng thông thái hệt như đức vua Salomon quá
cố hẳn có thể làm, nó tự chia đôi ra thành hai phần bằng nhau, điều này cho
phép đôi bên tranh chấp mau chóng bỏ đi ngồi cách nhau mười bước, bên nào cũng
khư khư cầm lấy một nửa chiến thắng của mình trong bàn tay nắm thật chặt.
Họ chẳng hề đứng dậy, nhưng lại khởi sự nhòm ngó nhau, hệt
hai thế lực cạnh tranh, sau khi đã ước lượng sức lực nhau, do dự trong việc lại
đâm bổ vào nện nhau lần nữa.
Dagobert Félorme là người cất lời gây hấn trước. “Chứng cứ
cho thấy tôi là tác giả tập bản thảo này, ông ta nói, là tôi biết nó trước
anh.” Héraclius không đáp.
Người kia tiếp: “Chứng cứ cho thấy tôi là tác giả tập bản thảo
này là tôi có thể đọc nó cho anh nghe từ đầu đến cuối bằng bảy thứ tiếng dùng để
viết nó.”
Héraclius không đáp. Ông đang suy tưởng rất sâu sắc. Một cuộc
cách mạng đang diễn ra bên trong ông. Nghi ngờ là không thể, chiến thắng nằm lại
nơi địch thủ của ông; nhưng tác giả kia, mà ông từng dùng hết lòng mong mỏi gọi
đến giờ đây khiến ông phẫn nộ như một vị thần giả hiệu. Ấy là bởi, vì bản thân
ông chỉ còn là một ông thần bị tước sở hữu, ông nổi loạn chống thần linh. Chừng
còn không tin mình là tác giả của tập bản thảo ông đã mong muốn đến điên cuồng
được gặp người ấy; nhưng kể từ cái ngày ông tự nhủ: “Chính ta đã làm cái đó,
luân hồi, đó chính là ta”, thì ông không còn có thể đồng ý để cho ai đó chiếm mất
chỗ. Tương tự những người thà đốt nhà mình đi còn hơn thấy nó được ở bởi một kẻ
khác, kể từ khi một người xa lạ trèo lên ngồi chễm chệ trên ban thờ mà ông đã tự
dựng, thì ông đốt đi ngôi đền cùng Chúa, ông đốt luôn luân hồi. Vì vậy, sau một
quãng im lặng dài, ông nói, giọng chậm và trầm: “Anh điên.” Nghe thấy thế, đối
thủ của ông liền lao tới như một kẻ rồ và một trận vật mới chuẩn bị khởi sự, khủng
khiếp hơn trận thứ nhất, nếu những người gác không chạy bổ đến và đưa hai nhà cải
cách chiến tranh tôn giáo về lại chỗ của mỗi người.
Trong gần một tháng, đốc tờ chẳng hề rời khỏi phòng; ông qua
những ngày của mình đơn độc, hai tay ôm đầu, nhập thần một cách sâu sắc. Ngài
trưởng khoa và ngài hiệu trưởng thỉnh thoảng tới thăm ông và, thật dịu dàng,
dùng đến các so sánh khéo kéo cùng những ám chỉ tế nhị, trợ sức cho cái công việc
đang được tiến hành trong tâm trí ông. Họ cho ông biết bằng cách nào một kẻ tên
Dagobert Félorme, giáo sư sinh ngữ tại trường collège của Balançon, đã phát
điên trong lúc viết một khảo luận triết học về học thuyết Pythagore, Aristote
và Platon, khảo luận mà ông ta tưởng tượng ra rằng mình đã bắt đầu viết dưới
triều hoàng đế Commode.
Rốt cuộc, một buổi sáng đẹp trời, đốc tờ, đã quay trở lại với
chính mình, Héraclius của những ngày tươi đẹp, mau mắn bắt tay hai người bạn và
thông báo với họ rằng ông đã chối bỏ vĩnh viễn luân hồi, chối bỏ những kỳ sám hối
thú vật cũng như những đầu thai của ông, và ông đấm ngực công nhận nhầm lẫn của
mình.
Tám hôm sau những cánh cửa của bệnh viện mở ra trước mặt
ông.
XXIX. Bằng cách nào
đôi khi người ta rơi từ Charybde sang Scylla
Rời khỏi ngôi nhà định mệnh, đốc tờ dừng chân chốc lát trên
ngưỡng cửa mà hít cho đầy phổi không khí tự do thoáng đãng. Rồi, lấy lại
dáng dấp nhậm lẹ của trước kia, ông lên đường đi về nhà mình. Ông đi được năm
phút thì một thằng bé, trông thấy ông, đột nhiên huýt một tiếng sáo thật dài,
ngay lập tức đáp lại là một tiếng huýt giống thế cất lên từ một phố bên cạnh.
Ông nhóc thứ hai chạy tới liền, và thằng đầu tiên, chỉ Héraclius cho bạn, vận hết
sức lực hét: “Ki… kìa lão mê thú mới sổng trại điên”, và cả hai, tiếp bước sau
lưng đốc tờ, khởi sự bắt chước thật tài tình mọi tiếng kêu của những loài vật
được biết đến. Chừng một chục ranh con khác mau chóng nhập bọn với hai thằng đầu
tiên và tạo ra cho cựu luân hồi gia một đám hộ vệ cũng ồn ào y như khó chịu. Một
trong số chúng đi mười bước trước đốc tờ, thay cho lá cờ cầm trên tay một cán
chổi ở đầu buộc bộ lông thỏ chắc hẳn vớ được nơi góc phố; ba đứa khác đi ngay
sau, giả dạng quân đánh trống, rồi đến ông đốc tờ sợ sệt, co mình lại trong cái
áo rơ đanh gốt rộng, mũ sụp xuống tận mắt, thật giống một vị tướng giữa đội
quân của mình. Sau ông toán nhãi con chạy, nhảy tưng tưng, trồng chuối, gào, ré,
sủa, meo meo, hí, gầm, ò ó o, và tưởng tượng ra cả nghìn điều vui tươi khác,
trước sự thích thú lớn lao của các trưởng giả hiện ra nơi cửa nhà họ.
Héraclius, ngây ra, mỗi lúc một cố rảo bước nhanh thêm. Đột nhiên một con chó
đang lảng vảng gần đó chạy tới cọ vào chân ông. Một luồng sóng của giận dữ dâng
lên trong óc đốc tờ và ông chơi cho con thú khốn khổ mà trước đây ông từng cưng
nựng một cú đá khủng khiếp đến độ nó vừa tru lên vì đau vừa bỏ chạy. Một tràng
vỗ tay hoan hô kinh khiếp nổ ra quanh Héraclius, ông đã mất cả trí, bắt đầu dồn
hết sức để chạy, vẫn bị bám sát bởi đám tùy tùng náo nhiệt.
Đám người lướt qua như một cơn lốc trên những phố chính của thành phố và dồn ép nhau lại trước nhà của đốc tờ; còn ông, thấy cửa đang mở hé, lao ngay vào và đóng nó lại sau lưng, rồi, vẫn chạy, ông leo lên phòng ca bi nê, ở đó ông được đón tiếp bởi con khỉ của ông, nó thè ngay lưỡi ra ra dạng chào mừng. Cảnh tượng ấy làm ông bước giật ngược về sau như thể một bóng ma đang đứng đó trước mắt ông. Con khỉ của ông, ấy chính là kỷ niệm sống về tất tật những nỗi bất hạnh của ông, một trong những nguyên nhân cho chứng điên của ông, cho các nhục nhã cùng sự xâm phạm mà ông vừa phải gánh chịu. Ông túm lấy một cái ghế gỗ sồi nằm trong tầm tay và, chỉ một cú, đập vỡ toang đầu con thú bốn tay thảm hại, nó rũ xuống như tàu lá dưới chân kẻ giết nó. Rồi, lòng nhẹ nhõm nhờ cuộc hành hình, ông thả phịch người xuống một cái phô tơi và cởi cúc áo rơ đanh gốt.
Đúng lúc ấy Honorine hiện ra và thiếu điều ngất xỉu vì vui, khi thấy Héraclius. Trong nỗi phấn chấn, cô nhào vào ôm cổ ông chúa của cô và hôn lên hai má ông, vậy là quên mất khoảng cách phân chia, trong mắt mọi người, giữa ông chủ và cô hầu; cái đó thì, người ta bảo, trước kia đốc tờ hay làm gương cho cô noi.
Đôi khi trong đêm, một con chó lảng vảng quanh những
bức tường tru lên, làm run rẩy trên giường của họ Héraclius và Dagobert: ấy là
con Pythagore trung thành, nó, nhờ phép mầu mà thoát khỏi cuộc trả thù của ông
chủ, đã lần theo dấu vết ông tới tận ngưỡng cửa nhà mới của ông, và tìm cách mở
cửa cái ngôi nhà ấy, nơi chỉ con người được quyền vào.
Đám người lướt qua như một cơn lốc trên những phố chính của thành phố và dồn ép nhau lại trước nhà của đốc tờ; còn ông, thấy cửa đang mở hé, lao ngay vào và đóng nó lại sau lưng, rồi, vẫn chạy, ông leo lên phòng ca bi nê, ở đó ông được đón tiếp bởi con khỉ của ông, nó thè ngay lưỡi ra ra dạng chào mừng. Cảnh tượng ấy làm ông bước giật ngược về sau như thể một bóng ma đang đứng đó trước mắt ông. Con khỉ của ông, ấy chính là kỷ niệm sống về tất tật những nỗi bất hạnh của ông, một trong những nguyên nhân cho chứng điên của ông, cho các nhục nhã cùng sự xâm phạm mà ông vừa phải gánh chịu. Ông túm lấy một cái ghế gỗ sồi nằm trong tầm tay và, chỉ một cú, đập vỡ toang đầu con thú bốn tay thảm hại, nó rũ xuống như tàu lá dưới chân kẻ giết nó. Rồi, lòng nhẹ nhõm nhờ cuộc hành hình, ông thả phịch người xuống một cái phô tơi và cởi cúc áo rơ đanh gốt.
Đúng lúc ấy Honorine hiện ra và thiếu điều ngất xỉu vì vui, khi thấy Héraclius. Trong nỗi phấn chấn, cô nhào vào ôm cổ ông chúa của cô và hôn lên hai má ông, vậy là quên mất khoảng cách phân chia, trong mắt mọi người, giữa ông chủ và cô hầu; cái đó thì, người ta bảo, trước kia đốc tờ hay làm gương cho cô noi.
Tuy nhiên băng đảng nhóc con vẫn chưa tản đi và tiếp tục,
trước cửa, một cơn huyên náo khủng khiếp đến nỗi Héraclius, sốt ruột quá, bỏ ra
vườn.
Một cảnh tượng gớm ghiếc khiến ông choáng váng.
Honorine, vốn dĩ thực tâm yêu ông chủ tuy rất phiền lòng vì
sự điên của ông, đã muốn tạo cho ông một bất ngờ dễ chịu chừng ông được về nhà.
Cô đã trông coi như một người mẹ lên tồn tại của tất tật những con thú trước
đây từng được tập hợp lại tại chỗ này, thành thử, nhờ khả năng sinh đẻ lớn rất
chung nơi mọi giống thú, khu vườn lúc đó bày ra một cảnh tượng giống với cảnh
tượng hẳn sẽ phải có, khi nước Hồng Thủy rút đi, bên trong Con Thuyền ở đó Noé
tập hợp mọi loài vật sống. Ấy là một mớ hỗn độn, một nhung nhúc những thú và
thú, dưới đó, cây cối, đá, cỏ và đất biến mất đi. Các cành oằn xuống dưới trọng
lượng hàng trung đoàn chim, trong khi bên dưới chó, mèo, dê, cừu, gà, vịt và gà
tây lăn lộn trong bụi. Không khí tràn ngập những ồn ào đa dạng, tuyệt đối giống
với tiếng mà đám trẻ ranh đang tạo ra ở phía bên kia nhà.
Trước cái cảnh đó, Héraclius không còn tự kiềm chế được nữa.
Ông lao vào một cái mai bị bỏ quên dựa vào tường và, giống các chiến binh lừng
danh mà Homère kể những chiến công, nhảy, khi lên trước lúc về sau, đập sang phải
và sang trái, trong lòng thì điên giận, bọt mép sùi ra, ông tiến hành một cuộc
thảm sát đáng sợ tất tật những người bạn vô hại của ông. Bọn gà hãi qua bay tứ
tung trên tường, mèo thì leo lên cây. Chẳng con nào được hưởng ân xá trước ông;
đó là một hỗn loạn không bút nào tả xiết. Và rồi, lúc trên mặt đất đã lỏng chỏng
xác chết, rốt cuộc ông ngã xuống vì mệt và, như một viên tướng chiến thắng, ngủ
thiếp đi trên cảnh nồi da nấu thịt.
Hôm sau, cơn sốt đã hạ, ông muốn thử đi một vòng quanh thành
phố. Nhưng chỉ mới vừa bước qua bậu cửa nhà ông thôi là tức thì lũ nhóc rình sẵn
ở góc các phố đã lại bám sát gót ông, hét lên: “U u u, lão mê thú, lão bạn của
thú!” và chúng lại tái khởi những tiếng hét của ngày hôm trước với vô số kể các
biến tấu.
Đốc tờ vội về nhà. Cơn thịnh nộ làm ông chết ngạt và, vì
không thể làm gì những con người, ở ông phát sinh một niềm căm hận không thể giải
trừ và ông tiến hành một cuộc chiến khốc liệt với mọi giống loài thú. Ngay khi
đó, ông chỉ có độc một ham muốn, một mục đích, một mối bận tâm thường hằng: giết
thú. Ông rình chúng suốt từ sáng chí tối, giăng những cái lưới trong vườn để bắt
chim, những cái bẫy nơi các máng xối nhằm bóp cổ bọn mèo sống quanh. Cửa nhà
ông lúc nào cũng mở hé bày ra những miếng thịt ngon lành dụ dỗ lũ chó đi ngang,
và đột nhiên đóng lại ngay khi nào một nạn nhân thiếu thận trọng không kháng cự
nổi trước đó. Những phàn nàn mau chóng dậy lên từ tứ phía quanh ông. Ông chánh
cẩm cảnh sát nhiều lần đích thân đến hạ lệnh bắt ông phải ngừng cuộc chiến
tranh khốc liệt đó lại. Ông bị kiện liên hồi; nhưng chẳng gì chặn được cuộc trả
thù của ông. Rốt cuộc sự phẫn nộ dâng cao. Thêm một náo loạn nổ ra trong thành
phố, và chắc hẳn lẽ ra ông đã bị đám đông hành hình nếu không có sự can thiệp của
lực lượng vũ trang. Mọi bác sĩ ở Balançon đều được triệu tập đến Sở Cẩm, và đồng
lòng như một tuyên bố rằng đốc tờ Héraclius Gloss điên. Lần thứ hai, ông đi
ngang thành phố giữa hai nhân viên cảnh sát và thấy khép lại sau lưng mình cánh
cửa nặng nề của ngôi nhà trên ghi dòng chữ: “Nhà thương Điên”.
XXX. Như thế nào, mà
câu thành ngữ “càng điên càng hay cười” không phải lúc nào cũng đúng một cách
chuẩn xác
Hôm sau, ông xuống sân bệnh viện, và người đầu tiên hiện ra
trước mắt ông là tác giả của tập bản thảo luân hồi thuyết. Hai kẻ thù bước về
phía nhau, dùng ánh mắt ước lượng đối phương. Một vòng tròn người hình thành
quanh họ. Dagobert Félorme kêu lên: “Đây là kẻ từng muốn ăn trộm tác phẩm của
cuộc đời tôi, ăn cắp vinh quang khám phá của tôi.” Tiếng thì thầm chạy suốt đám
đông. Héraclius đáp: “Đây là kẻ bảo rằng những con thú là người và những con
người là thú.” Rồi cả hai bên cùng bắt đầu nói, dần dà họ khiêu khích lẫn nhau
và, cũng giống lần trước, lao bổ vào nhau. Các khán giả can họ ra.
Kể từ ngày hôm đó, với một sự bướng bỉnh cùng một lòng nhẫn
nại tuyệt vời, mỗi bên tìm mọi cách thu nhận đệ tử và, không lâu sau đó, toàn bệnh
viện bị chia thành hai đảng đối nghịch, đầy hào hứng, khốc liệt, và không thể
hòa giải, đến mức một luân hồi gia không thể bắt gặp một trong số các đối thủ
mà một trận đấu khủng khiếp không nổ ra. Nhằm tránh các cuộc chạm trán đẫm máu,
ông giám đốc buộc lòng phải quy định những giờ đi dạo dành riêng cho mỗi phe, bởi
chưa bao giờ có sự căm ghét nào kiên trì hơn từng thôi thúc hai giáo phái đối lập
như thế, kể từ cuộc cãi cọ lừng danh giữa Guelfes và Gibelins. Thêm nữa, nhờ biện
pháp thận trọng ấy, thủ lĩnh của hai nhóm đối nghịch sống sung sướng, được yêu
quý, được các môn đệ lắng nghe, được nghe lời và được kính ngưỡng.
NB. đã tiếp tục:
+ "1/3"
+ "F & C"
+ "tiền"
+ "paradis"
+ "giọng rõ"
+ "tiếng Việt abc"
+ "nouveau riche buông và nouveau riche ngẩng"
Nhiệt liệt chúc mừng triệu view lần thứ n, tung bông tung hoa, haha. Trong giây phút này bạn nghĩ đến ai?
ReplyDeletevậy là giã biệt rồi à
ReplyDeletethật ra lần này có cả hai từ projet và project :D
ReplyDeletenhân dã nhân dã
ReplyDeleteta hiểu ý bác này nói gì rồi haha
Deletenhư lào?
ReplyDeletenúi ko đến thì Mohamed đến. chỉ là lại một chuyện thời độ :)
ReplyDelete"do you have to let it linger?
ReplyDeletetiếp tục