Sep 18, 2017

Andersen: Con gái chúa tể đầm lầy

Con gái chúa tể đầm lầy là một trong những câu chuyện vĩ đại nhất của Hans Christian Andersen, và cũng là một trong từ ba đến năm truyện dài nhất mà Andersen từng viết. Trong các tập truyện của Andersen phổ biến trong tiếng Việt lâu nay, không có truyện này.

Phân tích bản "Andersen" phổ biến nhất trong tiếng Việt (chiếm khoảng một phần ba tổng số truyện của Andersen, cụ thể hơn là những truyện mà khi còn sống Andersen cho in vào các tập sách), tôi nghĩ là tôi có thể nhận ra ba đặc điểm chính trong các lựa chọn: 1) các truyện đặc biệt nổi tiếng (tuy nhiên, đây là một tiêu chí không dễ xác định, vả lại vào mỗi thời điều này lại có thay đổi) 2) các truyện dường như thích hợp với trẻ con và 3) các truyện ít yếu tố "local" (đặc biệt có rất ít truyện liên quan quá chặt chẽ đến Đan Mạch được chọn dịch sang tiếng Việt).

Cụ thể hơn nữa, trong số chừng trên dưới một chục tập sách mà Andersen cho in khi còn sống, các lựa chọn dịch thuật trong tiếng Việt chủ yếu tập trung vào ba tập đầu tiên, xét về niên đại là từ 1835 đến 1855. Tuy nhiên, những người dịch hẳn cũng có tiếp xúc với các tập truyện khác, vì một số (không nhiều) truyện được rút ra từ các tập về sau, thậm chí từ tập có niên đại rất muộn, 1872 (truyện "Bà cô nhức răng").

Vẫn còn lại khoảng hai phần ba tổng số truyện của Andersen rất ít được biết đến tại Việt Nam. Con gái chúa tể đầm lầy nằm trong tập truyện của giai đoạn 1858-1860. Bản dịch của tôi chủ yếu dựa trên bản tiếng Anh của H. P. Paull, được chỉnh lý vào đầu thế kỷ 20 bởi W. A. và J. K. Craigie, trong ấn bản của Wordsworth, cùng bản tiếng Pháp của Marc Auchet, 2005 (La Pochothèque/Le Livre de Poche).

Andersen là một trong những nhân vật rất quan trọng trong "bức tranh" của tôi về văn chương thế kỷ 19. Andersen đương nhiên có một ví trí rất riêng, nhưng vẫn có thể được nhìn trong sự đan xen, trong những tiếp xúc rất nhiều chiều với một số nhân vật khác, nhất là Dickens. Nhưng còn có, trong hình dung của tôi, nếu muốn đầy đủ ở một mức độ nhất định, Balzac, Flaubert, Baudelaire, rồi Edgar Poe. Và Dostoievski.

Tức là, câu chuyện về chủ nghĩa lãng mạn. Nhưng tại sao lại là chủ nghĩa lãng mạn? Đối với tôi, đó là khoảnh khắc của một cái gì đó rất nhiều ý nghĩa. Lãng mạn, trong sự thuần chất của nó, cũng như trong các "chi phái" của nó, đặc biệt là thực tại luận (réalisme/realism). Lãng mạn, ở bình diện chung nhất, là một sự tạo thành một cái gì đó, một cái gì đó vẫn chi phối cho đến tận chúng ta. Tôi sẽ gọi đó là câu chuyện của ý thức.

Chúng ta ở trong khuôn khổ nhiều thứ do những con người ấy thiết lập nên. Dickens là nhân tố quan trọng dẫn đến quan niệm về "tác quyền" như hiện nay; điều này đã mấy lần tôi nhắc đến. Không xa với đó, Balzac chính là người khởi xướng, đứng ra và tự tay viết thư ngỏ gửi các nhà xuất bản bên Bỉ để chống lại nạn in lậu. Đó mới chỉ là vài điều rất nhỏ, cho thấy chúng ta không hề xa cách với họ. Chúng ta nhìn, nghĩhiểu rất giống họ.

Andersen còn là nhân vật đặc biệt quan yếu đối với một nhân vật khác dĩ nhiên có vị trí khổng lồ trong câu chuyện chung về ý thức: đó là người đồng hương Kierkegaard. Và đối với Đan Mạch, hay còn rộng hơn, đối với Bắc Âu.

Khía cạnh "Đan Mạch" này, cùng khía cạnh tôn giáo của Andersen, vốn dĩ chưa mấy được nắm bắt tại Việt Nam, là một trong những điều tôi hướng đến ở lần quay trở lại với Andersen này.



Con gái chúa tể đầm lầy


Cò kể cho lũ con của chúng nghe rất nhiều câu chuyện, tất tật đều liên quan đến bãi lầy và đầm lầy, thông thường những chuyện ấy được điều chỉnh để phù hợp với độ tuổi và khả năng lĩnh hội; bọn cò bé nhất chỉ cần nghe “phù phù, phịt phịt, phà phà!” là đủ mê tơi, thấy vậy thôi đã quá tuyệt rồi, nhưng đám lớn thì muốn phải có một ý nghĩa sâu sắc hơn, hoặc dẫu thế nào thì cũng phải có cái gì đó liên quan đến gia đình chúng. Hai trong số những câu chuyện cổ xưa nhất và dài nhất từng được lưu giữ ở chỗ lũ cò, tất cả chúng ta đều biết một trong đó, câu chuyện về Moses, bị mẹ thả trôi theo dòng sông Nile, rồi được con gái nhà vua tìm thấy, được nuôi dạy tử tế và trở thành một con người vĩ đại, rồi về sau không ai biết ông được chôn cất ở đâu nữa. Chuyện đó thì ai cũng biết cả.

Chuyện kia thì còn chưa ai biết, có lẽ bởi vì gần như nó diễn ra tại chỗ của chúng tôi. Câu chuyện này được truyền từ mẹ cò này sang mẹ cò khác suốt trong vòng hàng nghìn năm, tất tật các mẹ đều kể nó, mẹ này lại kể hay hơn mẹ khác, và giờ đây, chúng tôi sẽ kể hay nhất.

Cặp vợ chồng cò đầu tiên mang câu chuyện tới, và cũng đóng ở trong đó một vai trò, mùa hè thì sống phía trên ngôi nhà gỗ của người Viking, tại vùng ao chuôm Wendsyssel; để thể hiện chút hiểu biết thì đó là huyện Hjørring, Bắc Jutland, về phía Skagen; nay vẫn còn một đầm lầy mênh mông, có được nhắc đến trong cuốn sách dùng để miêu tả huyện ấy. Trong đó ta đọc được rằng xưa kia ấy là đáy biển, nhưng nó đã nâng cao lên; nó trải rộng nhiều dặm ra xung quanh, vây lấy nó là những đồng cỏ ẩm ướt và loại đầm có đáy không ổn định, rồi thì than bùn, mâm xôi cùng các loại cây khẳng khiu; một màn sương mù gần như lúc nào cũng bay lơ lửng phía trên, và cách đây bảy mươi năm, vẫn còn có chó sói; nó thực sự xứng danh “đầm hoang” và người ta có thể hình dung dễ lạc đường ở đó đến thế nào và từng có nhiều đầm lầy cùng ao hồ như thế nào cách đây cả nghìn năm! Vào thời đó mọi thứ đều giống y xì như ta vẫn thấy ngày nay: sậy vẫn cao như thế, vẫn có cùng những loại lá dài thượt và các túp lông nâu ngả tím, cây dương có vỏ trắng và mịn, những chiếc lá cũng rủ xuống giống hiện tại, còn về phần những gì liên quan đến các sinh vật sống loanh quanh nơi này, ừ thì, ruồi vẫn mặc cái váy mỏng tang với đường cắt giống ngày nay, những màu mà cò thích nhất là trắng và đen, chân đi bít tất đỏ, nhưng con người, thời đó, lại hay vận những thứ trang phục khác hẳn so với hiện nay, nhưng ai ai hồi ấy, chủ hay nô lệ, thợ săn hay tùy tùng, dẫu có là ai, hễ cứ héo lánh đến chỗ có nền đất lảo đảo này, cũng gặp cùng chuyện giống như hiện tại, tức là họ ngã xuống đó, rồi thì cứ chìm mãi xuống cho tới nơi ở của chúa tể đầm lầy, theo tên gọi chung, ông ta trị vì dưới đó trong vương quốc đầm bãi rộng lớn. Ta cũng có thể gọi ông ta là chúa tể sa lầy, nhưng chúng tôi thích nói “chúa tể đầm lầy” hơn; vả lại, lũ cò cũng gọi ông ta như vậy. Người ta biết rất ít về sự cai trị của ông ta, nhưng hẳn như vậy thì tốt hơn.

Gần đầm lầy, ngay sát Limfjorden, có một ngôi nhà gỗ của người Viking, với hầm bằng đá, tòa tháp, tầng trệt và hai tầng phía trên; trên mái nhà, cò làm tổ, mẹ cò ấp trứng, và nó chắc chắn trứng sẽ nở thành con.

Một tối nọ, bố cò nấn ná ở bên ngoài lâu hơn thường lệ và khi về đến nhà, trông nó bù xù và có vẻ bấn loạn.

- Anh có một chuyện thực sự kinh hãi để kể cho em đây! nó nói với mẹ cò.

- Thôi đừng kể! mẹ cò đáp, anh không nhớ là em đang phải ấp trứng à, nghe chuyện nhỡ đâu em sợ quá, rồi trứng hỏng mất thì biết làm sao!

- Em phải biết! bố cò nói. Cô ấy đã đến đây, con gái của người chủ ngôi nhà chúng ta hay trú ngụ bên Ai Cập! Cô ấy đã cả gan đi tận đến đây! và cô ấy đã biến mất!

- Cái cô thuộc dòng giống tiên ấy hả! thế thì anh kể đi! Anh biết rõ là trong lúc ấp trứng em không chịu nổi chuyện phải chờ đợi rồi còn gì.

- Em biết không, mẹ nó! Dẫu thế nào thì cô ấy cũng đã tin lời ông bác sĩ, tức là đúng theo những gì em đã kể cho anh đó; cô ấy tin rằng bông hoa của đầm lầy nơi đây có thể cứu sống ông bố ốm đau của cô ấy và thế là cô ấy choàng lên người bộ lông thiên nga và đã bay đi cùng hai nàng công chúa khác cũng mang lông chim, năm nào bọn họ cũng đến phương Bắc này để tắm và phục hồi tuổi xuân! Cô ấy đã đến, và cô ấy đã biến mất!

- Anh đang lạc lối trong các chi tiết đấy! mẹ cò nêu nhận xét. Đám trứng có thể bị lạnh! Em không chịu được cảnh phải chờ đợi đoạn sau!

- Anh đã để ý! bố cò kể tiếp, và tối nay, anh đang dạo chơi trong đám sậy, cái nơi nền đất không bị lún quá mức ấy, thì ba con thiên nga bay tới, cách bay của chúng có cái gì đó đặc biệt khiến anh nghĩ: chú ý, đó không thực sự là những con thiên nga, mà chỉ là bộ lông chim thiên nga mà thôi! Giống như đánh hơi thấy ấy mà, mẹ nó ạ! em cũng giống anh, em biết ngay thế nào mới là đúng!

- Hẳn nhiên rồi, mẹ cò đáp, nhưng kể cho em về nàng công chúa đi: nghe mãi về mấy bộ lông thiên nga em chán quá!

- Tại đó, ngay chính giữa đầm lầy, em cũng hiểu rồi đấy, có một chỗ giống như cái hồ, bố cò kể tiếp, từ đây em có thể nhìn thấy một phần của nó nếu nhổm người lên; gần đám sậy và bãi lầy màu lục, có một gốc cây thật lớn; ba con thiên nga đậu lên đó, chúng đập đập cánh và nhìn ra xung quanh; một con tháo bộ lông thiên nga ra, và anh nhận ra nàng công chúa ở ngôi nhà chúng ta bên Ai Cập; rồi cô ấy ngồi xuống, trên người chỉ còn phủ bộ tóc dài đen nhánh; anh nghe cô ấy bảo hai người kia canh bộ lông thiên nga trong lúc cô ấy lặn xuống dưới nước để hái bông hoa mà cô ấy nghĩ mình đã trông thấy. Họ gật đầu và bay vọt lên, mang theo chiếc váy tức là bộ lông. Họ định làm gì thế nhỉ, anh nghĩ; chắc chắn cô ấy cũng tự hỏi điều đó và nhận được một câu trả lời thẳng thừng: họ bay lên không trung cùng bộ lông thiên nga của cô ấy: “Lặn xuống đi nào! họ kêu lên, mày sẽ không còn bay trong bộ lông thiên nga, mày sẽ không bao giờ còn nhìn thấy đất nước Ai Cập nữa! Hãy ở lại trong đầm hoang!” Rồi bọn họ xé tan bộ lông thiên nga thành trăm nghìn mảnh nhỏ, thành thử những chiếc lông bay tứ tung như bông tuyết! và hai con công chúa xấu xa kia bay đi mất!

- Tệ hại quá! mẹ cò nói, em không chịu nổi khi phải nghe chuyện này đâu! cho nên kể cho em điều gì xảy ra sau đó đi!

- Nàng công chúa than vãn và òa khóc! Những giọt nước mắt chảy xuống gốc cây và nó bắt đầu động cựa, bởi vì đó chính là chúa tể đầm lầy, cái người sống trong đầm ấy. Chính mắt anh nhìn thấy thân cây trở mình, và đó không còn là một gốc cây nữa, các cành dài thò ra như những cánh tay; đứa trẻ tội nghiệp kia, trước cảnh tượng ấy, sợ quá, chạy trốn vào chỗ đất lún, nhưng, ở chỗ đó, đến anh còn không đi nổi, nói gì đến cô ấy? Cô ấy chìm xuống ngay, và gốc cây cũng nghỉm xuống theo, chính ông ta kéo cô ấy đấy; hiện ra những bong bóng màu đen, và rồi chẳng còn gì nữa hết. Lúc này, cô ấy đã bị chôn vùi dưới đầm hoang, cô ấy sẽ chẳng bao giờ có thể mang bông hoa về nước Ai Cập. Nếu phải chứng kiến điều đó chắc em sẽ không chịu đựng nổi đâu, mẹ nó ạ!

- Lẽ ra anh không được kể cho em những chuyện như thế vào lúc này chứ! trứng có thể bị ảnh hưởng!… Chắc hẳn nàng công chúa sẽ thoát thân được thôi! chắc chắn nàng ấy sẽ được giúp đỡ! nếu đó là em hay anh, hay một con cò nào đó, hẳn mọi chuyện đã kết thúc rồi!

- Để anh đi thám thính hằng ngày! bố cò nói, và sau đó nó làm đúng như vậy.

Nhiều thời gian trôi qua.

Và rồi một hôm nó trông thấy một nhành mảnh màu lục vươn lên từ dưới đáy đầm, lúc đến ngang mặt nước thì một chiếc lá mọc ra và mỗi lúc một trở nên lớn hơn; ngay bên cạnh, một cái nụ xuất hiện, và khi bố cò, một sáng nọ, bay ngang qua đó, nụ hoa đã nở ra dưới những tia mặt trời rực rỡ, và ở chính giữa cái nụ, có một đứa bé con xinh xẻo, một bé gái, như vừa tắm rửa xong; trông nó thật giống nàng công chúa Ai Cập, đến nỗi thoạt tiên con cò cứ tưởng đâu đó là nàng, đã bị biến nhỏ đi, nhưng sau khi suy nghĩ hồi lâu, nó cho đây chắc là đứa con mà nàng công chúa sinh với chúa tể đầm lầy; chính vì thế mà đứa bé nằm trong một bông hoa súng.

“Dẫu sao thì nó cũng không thể ở lại đây, bố cò nghĩ, nhưng chỗ tổ của mình cũng không được, nhà mình đã đông quá mức rồi! nhưng mình vừa nảy ra một ý! Vợ của người Viking không có con, bà ấy vẫn hay nói là bà ấy muốn có một đứa, và người ta vẫn hay buộc tội mình là mang trẻ con đến, vậy thì tốt rồi, lần này mình sẽ làm chuyện ấy thật luôn! mình sẽ mang đứa bé đến chỗ vợ của người Viking; bà ấy sẽ rất vui mừng!”

Và con cò nhấc bé gái lên, bay đến ngôi nhà gỗ, lấy mỏ đục một cái lỗ ở cửa sổ, đặt đứa bé vào lòng vợ của người Viking, xong rồi nó quay về với mẹ cò và kể lại toàn bộ câu chuyện, lũ con cũng nghe luôn; chúng đã đủ lớn cho điều này.

- Em biết không, nàng công chúa không chết! cô ấy đã làm cho đứa bé nổi lên ở đây, và giờ thì nó đã có nơi có chỗ rồi!

- Em đã nói ngay từ đầu rồi còn gì! mẹ cò đáp, nhưng giờ thì ít nhất cũng phải nghĩ một chút đến nhà mình! cũng sắp đến lúc phải bay đi rồi; em bắt đầu thấy chộn rộn dưới cánh! Chim cu và họa mi đã lên đường, và em nghe thấy bọn cút nói rằng sắp có gió thuận! Nếu em không nhầm lẫn gì, lũ nhỏ nhà chúng ta sẽ rất khá trong kỳ luyện tập!

Ôi! vợ của người Viking mới vui làm sao khi buổi sáng tỉnh dậy và nhìn thấy đứa bé gái xinh xắn nằm trong lòng; bà hôn nó và vuốt ve nó, nhưng đứa bé hét lên khủng khiếp và quơ tay quờ chân rất dữ, nó không hề có vẻ sung sướng; nó khóc nhiều đến mức rốt cuộc cũng ngủ thiếp đi, và trong dáng điệu ấy, trông nó vô cùng xinh đẹp. Vợ của người Viking rất cao hứng, nhẹ nhõm và khỏe khoắn, đến mức bà có cảm giác chồng bà sắp về, cùng tất tật người của ông, một cách bất chợt, giống đứa bé, và nếu thế bà sẽ có rất nhiều việc phải làm, cũng như cả nhà, để mọi thứ được sẵn sàng. Người ta treo lên những tấm thảm dài nhiều màu mà bà đã tự tay dệt, cùng các cô hầu, trên đó có hình ảnh các vị thần của họ, Odin, Thor và Freia, các nô lệ phải cọ cho sáng bóng những tấm khiên cũ dùng làm đồ trang trí, người ta đặt những cái gối dựa lên các ghế dài và xếp sẵn củi khô vào lò, chính giữa phòng, để có thể đốt lửa lên ngay. Vợ của người Viking đích thân xắn tay vào việc, thành thử bà thấy đến là mệt, khi trời tối, và ngủ rất ngon.

Khi tỉnh dậy lúc trời gần sáng, bà hoảng hốt tột độ vì đứa bé gái đã biến đi đâu mất; bà nhảy bật dậy, châm lửa vào một cành thông và nhìn ra xung quanh, dưới chân bà, không có đứa bé gái, nhưng lại có một con ếch to đáng kinh tởm; bà hãi quá, vội vớ lấy một thanh sắt nặng, định giết con ếch, nhưng nó nhìn bà với cặp mắt lạ và buồn đến nỗi bà không thể nào vụt cây gậy xuống. Bà lại nhìn ra xung quanh, con ếch phát ra tiếng ộp oạp yếu ớt và than vãn khiến bà nhảy dựng lên; bà vọt từ giường tới chỗ cửa sổ, và vội mở toang nó; đúng lúc đó mặt trời hiện ra, chiếu các tia sáng lên cái giường, chỗ có con ếch, và cứ như thể đột nhiên cái mồm rộng ngoác của con quái vật thu nhỏ lại, trở nên bé xíu và hồng hồng, tứ chi thì dài ra và có dáng vẻ cân đối tươi tắn, chính là đứa bé gái nhỏ của bà đang nằm đó, xinh xẻo, chứ không phải một con ếch gớm ghiếc.

“Thế là như thế nào! bà nói, hay mình đang gặp ác mộng! chẳng phải là thiên thần nhỏ của mình đang nằm đây đấy ư?” rồi bà hôn nó và ôm chặt nó vào lòng, nhưng đứa bé cào và cắn bà giống như một con mèo hoang nhỏ.

Lãnh chúa Viking chưa về vào ngày hôm ấy, cũng như hôm sau đó, mặc dù đúng là ông đang trên đường, nhưng ông gặp phải gió ngược, nó thổi về phía Nam giúp thuận lợi cho lũ cò. Gió mà thuận cho người này thì sẽ ngược đối với kẻ khác.

Trong vòng hai ngày hai đêm, vợ của người Viking đã hiểu ra, đứa bé gái kia là như thế nào, có một thứ bùa chú khủng khiếp yểm lên nó. Ban ngày, nó tươi tắn như một thiên thần ánh sáng, nhưng tính cách nó độc ác và hoang dã, còn đêm đến, ngược hẳn lại, đó là một con ếch đáng ghê tởm, rất yên ắng và chỉ rên rỉ, cặp mắt ngập nỗi buồn; có hai bản tính, chúng lần lượt đổi chỗ nhau, cả ở bên ngoài lẫn bên trong; điều này là do đứa bé gái mà con cò mang tới ban ngày thì khoác lên mình dáng vẻ mẹ thật của nó, nhưng lúc ấy, nó lại có tính khí của bố; trong khi đó ban đêm, mối liên hệ huyết thống với ông ta thì hiển hiện thông qua hình dáng cơ thể, nhưng vào lúc này, tinh thần và trái tim của mẹ nó lại tỏa rạng trong nó. Ai có thể phá tan quyền năng quỷ quái này đây? Chuyện khiến vợ người Viking rất sợ, bà cũng thấy buồn, và thế nhưng, trái tim bà đã gắn bó với sinh thể khốn khổ kia, bà nghĩ không thể nói rõ mọi chuyện với chồng, chừng nào, mà cũng sắp rồi, ông về đến đây, bởi vì nếu không, theo đúng tập quán, chắc chắn ông sẽ quẳng đứa trẻ khốn khổ ra đường cái, để cho ai thích nhặt thì nhặt. Điều này, vợ của người Viking, vốn là người nhân hậu, không hề muốn, ông sẽ chỉ được nhìn thấy đứa bé vào ban ngày.

Một sáng nọ, những cánh cò kêu loạt xoạt phía trên mái nhà; hơn một trăm cặp cò đã đậu ở đó trong đêm sau đợt luyện tập lớn, và giờ đây, chúng bay đi về phương Nam.

- Tất cả đàn ông trai tráng đều đã sẵn sàng rồi! chúng hét lên, phụ nữ và trẻ con nữa!

- Mình nhẹ quá, lũ cò bé nói, người cứ dậm dựt, suốt xuống đến tận chân, cứ như là đang được chén đẫy lũ ếch tươi! được lên đường ra nước ngoài mới tuyệt vời làm sao!

- Hãy giữ nguyên hàng ngũ! bố cò và mẹ cò nói, và thôi quạc mỏ đi, kẻo đứt hơi đấy!

Và chúng bay vọt lên.

Cùng lúc đó, tiếng kèn vang lên trên truông rộng, lãnh chúa Viking đã cập bến cùng người của ông; họ trở về, đem theo rất nhiều chiến lợi phẩm từ bờ biển xứ Gaule, nơi người ta, cũng như bên Anh, hay sợ hãi hát rằng:

Hãy giúp chúng con thoát khỏi tay bọn Normand man rợ!

Ôi! trong pháo đài của người Viking, gần đầm hoang, không khí mới rộn ràng và hoạt náo làm sao. Người ta mang thùng rượu mật ong vào trong phòng, châm lửa và giết ngựa; sẽ có một bữa tiệc lớn. Ông thầy tu phụ trách hiến sinh tưới máu ngựa nóng lên đám nô lệ; lửa kêu tí tách, khói cuộn lại dưới mái nhà, bồ hóng từ trên xà rơi xuống thành giọt, nhưng người ta đã quá quen với chúng rồi. Có rất nhiều khách khứa, cần tặng cho họ những món quà thật đẹp, mọi mưu mô và sự xảo trá đều bị lãng quên; mọi người uống rượu, và ném vào mặt nhau những khúc xương gặm dở, đó là một dấu hiệu cho thấy sự cao hứng. Ca sĩ - một dạng vĩ cầm thủ, nhưng cũng là một chiến binh, từng đi cùng họ và biết rõ những gì mà anh ta hát - hát cho họ nghe một bài kể lại mọi chiến công của họ, cùng tất tật những gì đáng kể đã xảy đến với họ; đoạn nào cũng có chung điệp khúc: “Tài sản rồi tàn, anh em họ hàng rồi chết, ta rồi cũng sẽ chết, nhưng sẽ chẳng bao giờ một danh tiếng vinh quang chết đi!” và tất cả họ đập ầm ĩ lên khiên, dộng mặt bàn bằng dao hoặc khúc xương, ầm ĩ kinh khủng.

Vợ của người Viking ngồi trên cái ghế băng dài đặt ngang phòng tiệc, bà mặc chiếc váy lụa, đeo vòng tay vàng và những viên hổ phách thật lớn; bà mang trang phục rực rỡ nhất, và ca sĩ nhắc đến bà, cả bà nữa, trong bài hát của anh ta, anh ta nói đến kho báu lớn mà bà đã mang tới cho người chồng giàu có của bà, và ông rất vui lòng vì có đứa trẻ rạng ngời kia, ông đã chỉ nhìn thấy nó vào ban ngày, trong toàn bộ vẻ đẹp của nó; ông rất thích vẻ hoang dã ở nó; hẳn nó sẽ, ông nói, trở thành một trinh nữ đáng gờm tay mang khiên, mạnh mẽ như một chiến binh đích thực! Hẳn nó sẽ không nháy mắt lấy một cái khi một bàn tay lão luyện, chỉ vì muốn đùa, dùng thanh kiếm sắc lẹm phạt đứt lông mày nó.

Thùng rượu đã cạn, người ta mang một thùng mới vào, mọi người uống ồ ạt, đó là những người có tửu lượng rất cao. Thời ấy có một câu ngạn ngữ: “Gia súc còn biết lúc nào thôi ăn cỏ mà đi về, chứ một người ngu xuẩn chẳng bao giờ biết bụng hắn chứa được ngần nào.” Điều này, người ta biết rõ, nhưng bao giờ người ta chẳng biết thế này rồi lại làm thế kia! Người ta cũng biết rằng “người mà ta yêu quý sẽ trở nên nhàm chán khi ở quá lâu trong nhà!” nhưng dẫu có thế người ta vẫn ở lại đó, thịt và rượu mật ong quá ngon! Ai cũng rất vui; và đêm xuống, các nô lệ ngủ giữa đống tro ấm, gí ngón tay vào thứ bồ hóng nhờn mỡ rồi đưa lên miệng mút. Những phút giây mới tươi đẹp làm sao!

Một lần nữa, vẫn trong cùng năm ấy, người Viking lên đường đi xa, mặc dù mùa thu giông bão đã bắt đầu; ông cùng người của mình đi đến tận bờ biển Anh, đó chỉ là “bờ nước phía bên kia”, ông nói; vợ ông ở lại nhà cùng đứa bé gái, và chắc chắn là bà mẹ nuôi gần như yêu con ếch khốn khổ có cặp mắt êm dịu và những tiếng thở dài sâu thẳm còn nhiều hơn so với đứa trẻ xinh đẹp thích cào cấu và cắn xé.

Làn sương lạnh và ẩm của mùa thu, cái “thứ không có mồm” nhưng gặm nhấm những chiếc lá, phủ lên khu rừng cùng truông rộng, và “con chim không lông”, như cách họ gọi tuyết, tới ngay sau đó, mùa đông đang đến gần; lũ chim sẻ chiếm cứ tổ cò và tha hồ nhắc nhở đến những người chủ chính thức, vốn dĩ đang đi vắng; giờ đây, cặp vợ chồng cò cùng lũ con, chúng đang ở đâu?

*
*       *

Giờ, lũ cò đang ở bên nước Ai Cập, nơi mặt trời nóng ấm, giống như ở chỗ chúng tôi vào một ngày hè đẹp trời; me và keo nở hoa tứ tung, vầng trăng khuyết của Mohammed rạng rỡ trên các vòm tròn đền thờ lung linh; trên những tòa tháp cao, các cặp vợ chồng cò đậu lại và nghỉ ngơi sau chuyến đi dài; tụ thành từng đám đông đặc, tổ của chúng san sát vào nhau, trên những cây cột hùng mạnh và vòm cung đổ của đền thờ và những chốn bị lãng quên; cây chà là vươn thật cao cái mái bao bọc của nó, như thể muốn chắn mặt trời. Các kim tự tháp xỉn màu lờ mờ hiện ra như những cái bóng trong làn không khí trong vắt của sa mạc, nơi đà điểu cho thấy nó có thể chạy rất nhanh, và cũng là nơi sư tử, với cặp mắt lớn nghiêm trang của chúng, nhìn con nhân sư bằng đá hoa cương bị vùi một nửa xuống cát. Nước sông Nile đã rút, toàn bộ lòng sông lúc nhúc ếch nhái và, đối với gia đình nhà cò, đó là cảnh tượng đẹp nhất của đất nước. Lũ cò con cứ ngỡ đây là một ảo ảnh, vì chúng thấy ngoạn mục quá mức.

- Nơi đây là như thế này đấy, và trước nay vẫn thế, tại đất nước ấm áp của chúng ta! mẹ cò nói, và lũ con cảm thấy bụng bắt đầu réo lên.

- Chúng ta sẽ còn nhìn thấy những điều khác chứ? chúng hỏi, chúng ta có phải đi sâu thêm, thật sâu thêm nữa vào đất nước không?

- Chẳng có gì khác để nhìn đâu! mẹ cò đáp; hết vùng đất phì nhiêu này, sẽ chỉ còn toàn rừng hoang, ở đó cây cối ken sát vào nhau, các loại cây leo thân đầy gai nhọn thì quấn quít lấy nhau, chỉ độc voi với những cái chân nặng nề của nó có thể vạch đường đi mà thôi; rắn thì quá to cho chúng ta, còn lũ thằn lằn thì ranh lắm. Nếu vào sa mạc, các con sẽ bị cát bay vào mắt, đấy là nếu mọi chuyện ổn, bằng không, nếu chuyện tệ hại, các con sẽ lọt vào một cơn lốc xoáy của cát; tốt hơn hết là ở lại đây! ở đây có đầy ếch nhái và châu chấu! ta sẽ ở lại đây, và các con cũng vậy!

Thế là chúng ở lại đó; những con cò già ở trong tổ của chúng trên tháp cao, chúng nghỉ ngơi và dẫu có vậy thì cũng hết sức bận rộn với việc làm mượt bộ lông và cọ mỏ vào đôi bít tất đỏ; có những lúc chúng ngẩng cổ lên, rồi cúi gập người chào hỏi với vẻ trang trọng và nghển đầu lên, cùng vầng trán cao và đám lông mảnh, bóng, những cặp mắt nâu của chúng thì tỏa rạng trí tuệ. Những cò cái trẻ thì bước đi trong dáng vẻ trang trọng giữa đám sậy rậm rì, nghênh nghênh nhìn những cò cái trẻ khác, làm quen và cứ đi ba bước lại chén một con ếch, hoặc giả chúng ngậm một con rắn nhỏ lòng thòng từ mỏ, thích thật, chúng nghĩ, vị lại còn rất ngon nữa chứ. Cò đực trẻ trung thì loạn đả, táng cánh vào người nhau, rồi thì mổ nhau, có lúc làm đổ cả máu, và rồi con này đính hôn, con kia đính hôn, lũ đực trẻ và lũ cái trẻ, quả thật chính vì điều này mà chúng sống; và chúng làm một cái tổ, khởi sự loạn đả với nhau, bởi vì tại các đất nước ấm áp, mọi người đều rất dễ nổi nóng, nhưng mà vui, và đặc biệt đó là một niềm vui to lớn đối với những con cò già: khi đó là con của chúng, thì chúng thấy chuyện gì cũng là tốt hết! Ngày ngày, mặt trời lên, ngày ngày, có sẵn mọi thứ đồ ăn, vậy thì người ta có thể chỉ nghĩ đến khoái lạc… Nhưng trong tòa lâu đài đồ sộ, ở chỗ người chủ nhà Ai Cập, như chúng vẫn hay gọi, không hề có chỗ cho khoái lạc.

Vị lãnh chúa giàu có và hùng mạnh nằm thượt trên một cái trường kỷ, tay chân cứng đờ, ông nằm đó giống như một xác ướp, chính giữa căn phòng lớn với các bức tường sơn nhiều màu; người ta dễ nghĩ ông đang nằm trong một bông hoa tuy líp. Họ hàng và kẻ hầu người hạ vây quanh ông, ông chưa chết, nhưng cũng không thể nói ông còn thực sự sống; bông hoa đầm lầy của đất nước miền Bắc, thứ hẳn sẽ cứu ông, thứ phải được đi tìm và được hái bởi tay người yêu ông nhất, sẽ chẳng ai mang nó tới cho ông. Người con gái trẻ trung và rạng rỡ của ông, mang bộ lông thiên nga lên người, đã bay vượt những biển và đất, xa xôi về phía Bắc, sẽ chẳng bao giờ về nữa; “cô ấy đã chết và biến mất!” hai công nương thiên nga cho biết; bọn họ đã bịa ra cả một câu chuyện, nó như sau:

“Ba chúng tôi đang bay, rất cao trên trời, thì một thợ săn nhìn thấy chúng tôi, hắn rút mũi tên ra; nó bắn trúng vào cô bạn trẻ của chúng tôi, cô ấy rơi xuống, chính giữa cái hồ trong rừng, vừa rơi vừa chậm rãi hát để chào vĩnh biệt chúng tôi, giống một con thiên nga hấp hối; chính ở đó, gần bờ nước, dưới một cây dương nhiều cành rủ xuống, chúng tôi đã chôn cất cô ấy! Tuy nhiên chúng tôi đã trả thù; chúng tôi đã châm lửa vào cánh con chim én sống dưới mái sậy nhà tên thợ săn, lửa bén vào, cả ngôi nhà đã tan biến, hắn thì chết trong đám cháy, ánh lửa chiếu sáng hồ nước cho đến mãi tận cây dương có nhiều cành rủ, nơi giờ đây cô ấy nằm; sẽ chẳng bao giờ cô ấy còn trở về Ai Cập nữa!”

Rồi cả hai òa lên khóc, và bố cò, khi nghe vậy, quạc mỏ, phát ra một âm thanh từ rất xa cũng có thể nghe thấy:

- Dối trá và bịa đặt! nó nói. Anh chỉ muốn nhào xuống mổ thẳng vào giữa ngực chúng!

- Và mỏ anh sẽ bị gãy! mẹ cò đáp, trông anh sẽ hay hớm lắm! trước tiên phải nghĩ đến bản thân anh đã, rồi đến gia đình, mọi chuyện khác đều không quan trọng!

- Dẫu sao thì ngày mai anh cũng sẽ đậu lên gờ mái vòm, vào lúc mọi nhà bác học và nhà thông thái tập hợp lại để bàn về người ốm; có lẽ họ sẽ lại gần được sự thật thêm một chút chăng?

Và các nhà bác học, các nhà thông thái họp lại, họ nói rất nhiều, hết sức dông dài, về những điều mà con cò chẳng thấy có lợi ích gì… vả lại cũng chẳng có lợi ích gì cho người ốm, hay cho con gái của ông, giờ đây đang ở dưới đầm lầy; nhưng đó không phải lý do khiến chúng ta không lắng nghe một chút, dẫu sao thì trên đời này, người ta cũng phải nghe thấy rất nhiều điều.

Nhưng sẽ là tốt hơn nếu cả chúng ta cũng được biết về những gì đã xảy ra trước đó, như vậy, chúng ta sẽ theo dõi câu chuyện tốt hơn và, xét cho cùng, chúng ta cũng sẽ biết được nhiều bằng bố cò.


“Tình yêu tạo ra cuộc sống! tình yêu cao nhất sản sinh cuộc sống cao nhất! chỉ nhờ tình yêu thì ngài ấy mới có thể nhận được sự cứu rỗi cho cuộc sống của ngài ấy!” tất cả họ đều đã nói như vậy, các nhà thông thái cho rằng nghe thật là trí tuệ, nói lại còn hay nữa.

- Một suy nghĩ thật đẹp! bố cò nói ngay tắp lự.

- Em không hiểu rõ lắm! mẹ cò đáp, đó không phải do lỗi của em, mà là lỗi của suy nghĩ đó, nhưng với em thì cũng chẳng sao, em còn khối thứ khác để nghĩ đến!

Và các nhà bác học nói về tình yêu giữa cái này và cái kia, về khác biệt giữa tình yêu của các tình nhân và tình yêu giữa bố mẹ con cái, giữa ánh sáng và cây cối, rồi thì chuyện tia mặt trời chiếu rọi đáy nước, làm cho mầm sống ở bên trong nảy ra ngoài… Người ta trình bày những ý kiến ấy theo cách thức chi tiết và khôn ngoan đến độ bố cò thấy mình không sao theo nổi, nhắc lại tất tật những cái đó thì lại càng khó hơn; và nó trở nên vô cùng tư lự, nó lim dim mắt đứng một chân im lìm suốt một ngày; đối với nó, khoa học thật khó gánh vác.

Thế nhưng có một điều mà bố cò hiểu được, nó từng nghe thấy những con người bé nhỏ và những người nổi bật nhất nói từ tận đáy lòng rằng thật là một nỗi bất hạnh lớn cho hàng nghìn, hàng nghìn con người và cho cả đất nước vì ông vua phải nằm liệt giường do bệnh tật, vì ông không thể bình phục; sẽ là một niềm vui, một ân điển nếu ông khỏe lại. “Nhưng bông hoa có thể mang lại sức khỏe cho ông ấy mọc ở đâu?” Đó là câu hỏi mà tất cả mọi người đều đã đặt ra, họ xem những quyển sách thông thái, hỏi những ngôi sao lấp lánh, mọi cơn gió, họ tìm hiểu theo mọi cách thức kỳ khôi và rồi rốt cuộc, như chúng ta đã thấy, các nhà bác học và các nhà thông thái kết luận: “Tình yêu tạo ra cuộc sống, nó sẽ làm ông bố hồi sinh”, và tới đây, những gì họ nói đã lớn hơn điều họ hiểu; họ nhắc lại và viết ra dòng chữ “Tình yêu tạo ra cuộc sống”, nhưng bằng cách nào mà làm đúng được theo câu nói ấy, đó chính là thứ khiến họ vướng mắc. Rốt cuộc, họ nhất trí với nhau rằng người làm việc này chỉ có thể là nàng công chúa, người yêu quý ông bố ấy bằng cả tâm hồn và toàn bộ trái tim. Cuối cùng, người ta cũng đã nghĩ ra được cách thức cần làm, và thế là hơn một năm về trước, vào ban đêm, khi trăng non gần tàn, nàng đi tới chỗ con nhân sư đá hoa cương trong sa mạc, hất cát khỏi chân, rồi bước vào, đi theo hành lang dài dẫn sâu vào bên trong một kim tự tháp lớn nơi đặt thi hài một trong những vị vua hùng mạnh thời Cổ Đại, vây quanh là uy nghiêm và lộng lẫy, cái xác nằm đó, trong trang phục xác ướp; đến đấy, nàng áp mặt vào người chết, và được nói cho biết là nàng có thể giành lấy cuộc sống và sự cứu rỗi cho bố nàng ở đâu.

Nàng đã thực hiện tất cả những việc ấy, và trong mơ nàng được thông báo rằng từ tận sâu dưới đầm lầy, phía trên kia, tại đất nước Đan Mạch - nơi này được miêu tả hết sức cụ thể - nàng sẽ mang về bông hoa sen mọc trong nước, khi ấy bố nàng sẽ được cứu sống.

Và chính vì thế mà nàng đã rời khỏi Ai Cập, mang trên mình bộ lông thiên nga và bay tới đầm hoang. Đấy, tất tật những chuyện đó, bố cò và mẹ cò biết, và giờ đây chúng ta cũng biết, rõ ràng hơn so với những gì chúng ta biết lúc trước. Chúng ta biết rằng chúa tể đầm lầy đã kéo nàng xuống với ông ta, chúng ta biết rằng đối với những người ở nhà, nàng đã chết và biến mất; chỉ người thông thái nhất trong số họ vẫn còn nói, giống như mẹ cò: “Chắc hẳn nàng công chúa sẽ thoát thân được thôi!” và họ muốn đợi cho tới lúc đó, bởi vì họ không biết việc gì khác tốt hơn để làm.

- Anh nghĩ là anh sẽ xoáy lấy bộ lông thiên nga của hai con công chúa tồi tệ kia! bố cò nói, như vậy, chúng sẽ không thể đến chỗ đầm lầy để làm điều xấu nữa; anh sẽ giấu mấy bộ lông thiên nga ở đó, cho đến lúc nào cần dùng đến.

- Anh sẽ giấu chúng chỗ nào, ở đó là đâu? mẹ cò hỏi.

- Trong tổ của chúng ta, gần đầm hoang! nó đáp. Anh sẽ cùng lũ nhỏ mang chúng đi, và nếu chúng gây quá nhiều phiền phức, thì vẫn có đầy chỗ trên đường có thể giấu chúng cho tới chuyến sau. Chỉ một bộ lông thiên nga thôi hẳn cũng đã đủ cho cô ấy rồi, nhưng tốt hơn cả vẫn là hai bộ; thật tốt khi có nhiều trang phục bay tại một đất nước phương Bắc!

- Sẽ chẳng ai cảm ơn anh đâu! mẹ cò đáp, nhưng anh là chủ! em xin không có ý kiến, trừ những lúc ấp trứng.

*
*       *

Tại pháo đài của người Viking, gần đầm lầy, nơi lũ cò quay về vào mùa xuân, người ta đã đặt tên cho đứa bé gái: Helga, người ta gọi nó như vậy, nhưng cái tên quá lành so với một tính cách giống như tính cách của nó, khi nó ở dưới lốt của vẻ bên ngoài đẹp đẽ; tháng này qua tháng khác, điều đó càng hiện ra rõ hơn, và qua nhiều năm, trong khi lũ cò có những chuyến đi giống hệt nhau, mùa thu thì về phía sông Nile, mùa xuân thì về phía đầm hoang, đứa bé gái nhỏ đã trở thành một đứa bé gái lớn, và trước khi người ta kịp nhận ra, nó đã trở thành đứa đẹp nhất trong số các thiếu nữ, ở tuổi mười sáu; đẹp ở cái vỏ bên ngoài, nhưng cứng rắn và độc địa ở phần lõi bên trong, hoang dã hơn phần lớn những người sống vào cái thời khó nhọc và u tối ấy.

Nó rất thích đưa đôi bàn tay trắng trẻo sờ vào máu ngựa nóng bốc hơi nghi ngút trong lễ hiến tế; với bản tính hoang dã, nó cắn một nhát là đứt đầu con gà trống đen mà người chủ tế phải giết, và nó hết sức nghiêm túc nói với ông bố nuôi: “Nếu kẻ thù của bố đến, buộc dây vào các đầu xà trên mái rồi giật sập nó, phía bên trên phòng ngủ của bố, trong lúc bố đang ngủ, thì con cũng sẽ không đánh thức bố đâu, kể cả nếu như con có thể! Con sẽ không nghe thấy, vì máu vẫn còn sôi lên trong tai con, chỗ mà bố từng tát con cách đây nhiều năm! Con vẫn còn nhớ!”

Nhưng người Viking không tin lời nó, ông, cũng như những người khác, bị mê hoặc trước vẻ đẹp của nó; ông cũng không biết rằng tính cách cùng hình dạng của con bé Helga thay đổi. Nó cưỡi ngựa không cần thắng yên, cứ như thể nó trở thành một với con ngựa, tha hồ phi hết tốc lực, và nó không nhảy xuống đất cả nếu như con ngựa đánh nhau với lũ ngựa khác. Nó hay mặc nguyên quần áo lao mình từ trên vách đá xuống nước biển cuộn sóng, và bơi đến chỗ người Viking, khi thuyền của ông tiến về đất liền. Nó cắt lọn dài nhất trên mái tóc đẹp và dài của nó, để dùng làm dây cung: “Cái gì tự tay làm thì mới tốt được!” nó nói.

Vợ của người Viking, đúng như tập tục thời ấy, có ý chí và tinh thần mạnh mẽ, nhưng so với con gái, bà chỉ là một phụ nữ dịu dàng và nhút nhát; cần nói rằng bà cũng biết là có một thứ bùa chú yểm lên đứa trẻ đáng sợ này.

Dường như Helga rất hay có một khoái thú quỷ quái, khi mẹ nó đứng ở ngưỡng cửa hay đang đi ra sân, nó thích ngồi trên thành giếng, tay chân huơ loạn xạ, rồi sau đó thả mình rơi xuống cái lỗ hẹp và sâu, nơi, với bản tính ếch, nó lặn ngụp rồi lại trồi lên; sau đó, nó leo lên mặt đất, giống như một con mèo, rồi nó vào phòng lớn, người ướt lướt thướt, làm cho những chiếc lá màu lục vương vãi trên sàn bay thốc lên vì luồng khí.

Và thế nhưng, có một thứ đủ sức kiềm chế con bé Helga, đó là hoàng hôn; vào lúc ấy, nó trở nên câm lặng và như thể suy nghĩ rất nhiều, nó chịu lắng nghe những lời trách móc và khuyên nhủ; khi ấy, cứ như thể một cảm giác bên trong lôi kéo nó về phía mẹ nó, và lúc mặt trời dần biến mất, tiếp đến là sự biến hình cả bên ngoài lẫn bên trong, nó ở đó, im lặng, buồn thảm, rúm người lại trong lốt ếch, nhưng dẫu sao người nó cũng lớn hơn nhiều so với người của loài vật ấy, thành ra chuyện lại càng khủng khiếp hơn; nó giống một tên lùn thảm hại có đầu ếch và chân màng. Trong ánh mắt của nó có điều gì đó thật thảm thê, nó không nói được, mà chỉ phát ra tiếng ộp oạp sường sượng, chính xác giống như một đứa trẻ con nằm mớ khóc lóc; lúc đó, vợ của người Viking có thể đặt nó vào lòng, bà quên đi cái bóng dáng gớm ghiếc, chỉ còn nhìn thấy cặp mắt buồn bã và nhiều lần bà nói: “Thiếu điều thì ta muốn con cứ mãi là đứa con-ếch câm lặng của ta; con trở nên đáng kinh hãi hơn nhiều khi khoác lên bên ngoài vẻ đẹp rực rỡ!”

Và bà viết những chữ Rune chống lại bùa phép và bệnh tật, ném chúng xuống đứa trẻ bất hạnh, nhưng việc ấy không có tác dụng gì.


- Thật khó tin là nó từng bé xíu, chui được vào trong một bông hoa súng! bố cò nói; giờ đây, nó đã có vóc dáng của một con người, và trông nó giống hệt người mẹ Ai Cập của nó; kể từ bấy chúng ta đã không hề nhìn thấy cô ấy! Cô ấy đã không thể thoát thân, như em và cái ông bác học uyên thâm nhất từng nói. Đã nhiều năm nay anh bay phía trên đầm hoang từ mọi hướng, nhưng chưa bao giờ thấy bóng dáng cô ấy! Thậm chí anh có thể nói với em rằng mọi năm, lúc anh về đây trước em vài hôm để sửa chữa cái tổ, chấn chỉnh lại chỗ này chỗ kia, anh đã dành trọn một đêm, cứ như thể anh là một con cú hoặc một con dơi, bay không ngừng phía trên mặt nước, thế nhưng cũng chẳng ích gì! cũng chẳng ích gì nốt, hai bộ lông thiên nga mà anh cùng lũ nhỏ đã tha về đây từ mãi bên đất nước của sông Nile; đã rất mệt, phải cần đến ba chuyến đi liền. Giờ, đã nhiều năm nay chúng nằm dưới đáy tổ, và nếu một hôm nào có đám cháy, nếu ngôi nhà gỗ bị cháy, chúng sẽ biến mất!

- Thế thì cái tổ tốt lành của chúng ta cũng sẽ bốc cháy! mẹ cò đáp, anh nghĩ đến nó ít hơn là tất tật chỗ lông kia, cùng nàng công chúa đầm lầy đấy! Chắc anh phải xuống đó mà gặp cô ấy, dưới đáy kia! Anh là một ông bố tồi đối với các con anh, em đã nói với anh điều đó ngay ở lần đầu tiên em đẻ trứng. Miễn sao cái con bé điên nhà Viking kia đừng có bắn tên trúng vào chúng ta, chúng ta cùng lũ nhỏ! nó chẳng biết là nó làm gì đâu. Chúng ta ở đây, nhà chúng ta, lâu hơn một chút so với nó, lẽ ra nó phải hiểu như vậy chứ; chúng ta không bao giờ quên các bổn phận, năm nào chúng ta cũng nộp đủ phần, một sợi lông, một quả trứng và một cò con, đúng theo quy định. Anh có thể nghĩ được rằng, những lúc nó đi ra ngoài, em lại muốn xuống đó, như hồi xưa ấy, như em vẫn hay làm bên Ai Cập, tại đó em khá là thân thiết với mọi người và, vừa hết sức cảnh giác, em vừa ngó nghiêng vào đống nồi niêu? Không đâu, em ở lại trên này, và em cáu với nó lắm - cái con nhóc kia! - em cũng cáu anh lắm! Lẽ ra anh phải để nó yên trong bông hoa súng chứ, như thế chắc nó sẽ biến mất!

- Em tốt hơn nhiều so với những lời mà em nói đấy! bố cò nói… anh biết em rõ hơn là chính em biết về em!

Nói xong, nó nhảy lên, đập cánh thật mạnh hai lần, hai chân thả xuống dưới và bay vọt đi, lướt đi thì đúng hơn, không hề động đậy cặp cánh; ra đến ngoài xa, nó mới bắt đầu hăng hái đập không khí, mặt trời lấp lánh trên những chiếc lông trắng của nó, cổ nó và đầu nó kiêu hãnh nghển về phía trước! Các cử động của nó thật mau lẹ và mạnh mẽ.

- Dẫu có thế nào thì anh ấy vẫn là người đẹp nhất! mẹ cò nói, nhưng mình sẽ chẳng nói điều này ra mà làm gì.

*
*       *

Mùa thu năm ấy, người Viking về nhà sớm, mang theo chiến lợi phẩm và các tù binh; trong số đó, có một tu sĩ Ki-tô trẻ tuổi, một trong những người bài trừ các vị thần của những đất nước miền Bắc. Rất thường, thời gian gần đây, trong phòng lớn cũng như phòng cho phụ nữ, người ta nói đến lòng tin mới mẻ đang lan tràn khắp nơi tại các nước phía Nam, lòng tin ấy, thông qua thánh Ansgar, đã vươn đến tận Hedeby, vùng Sli; ngay con bé Helga cũng từng nghe nhắc đến lòng tin đặt vào vị Ki-tô Trắng ấy, người, vì tình yêu với loài người, đã tự hy sinh để cứu vớt họ; về phần nó, những điều như thế, như người ta vẫn hay nói, vào tai này rồi lại chui ra tai bên kia; dường như nó chỉ hình dung được tình yêu nghĩa là gì khi thân hình co rúm lại dưới cái lốt thảm hại của con ếch, trong căn phòng đóng kín cửa; nhưng vợ của người Viking đã lắng nghe và thấy bị hấp dẫn vô chừng bởi các truyền thuyết và câu chuyện mà người ta kể về con trai của một vị Chúa đích thực duy nhất.

Từ nơi xa trở về, những người kia nhắc đến những ngôi đền tuyệt đẹp, xây bằng đá quý xẻ ra, chúng được dựng lên để phụng sự cái người mang thông điệp tình yêu; hai cái bình bằng vàng đặc, chạm trổ đầy nghệ thuật, được mang về theo, chúng tỏa ra một hương thơm đặc biệt, đó là những bình hương, được các tu sĩ Ki-tô đung đưa trước ban thờ, không bao giờ dùng để đựng máu mà là nơi rượu vang và bánh thánh trở thành máu của người đã tự hiến mình cho các thế hệ vẫn còn chưa sinh ra đời.

Người ta nhốt tu sĩ Ki-tô trẻ tuổi xuống hầm đá sâu của ngôi nhà gỗ, tay chân trói chặt bằng dây tết vỏ cây; anh ta đẹp, “trông cứ như thần Balder!” vợ của người Viking nói, và thấy cảm động trước tình cảnh khốn khổ của anh ta, nhưng con bé Helga thì muốn trói chân anh ta lại rồi buộc vào đuôi bò hoang.

“Và rồi con sẽ thả lũ chó ra; hô! ta sẽ để cho anh ta bị lôi qua các đầm và hồ, rồi chạy về phía truông! cảnh tượng sẽ rất vui, sẽ còn vui hơn nữa nếu được đuổi theo trong khi anh ta bị lôi đi!”

Nhưng người Viking lại không muốn anh ta trải qua cái chết giống như vậy, ông muốn, vì anh ta là kẻ từ chối và tiêu diệt các vị thần cao quý, anh ta bị hiến tế vào hôm sau trên tảng đá hiến sinh trong bụi cây, đó sẽ là lần đầu tiên có hiến tế người sống.

Con bé Helga đòi được phép lấy máu của tu sĩ tưới lên tượng các vị thần và mọi người; nó mài thật sắc con dao găm và lúc một trong lũ chó lớn hung dữ vốn rất đông trong nhà chạy ngang qua trước mặt nó, nó đâm dao vào sườn con chó: “Để thử xem đã đủ sắc chưa thôi!” nó nói, và vợ của người Viking buồn bã nhìn đứa bé gái hoang dã, độc ác, rồi khi đêm xuống, con gái bà đã trút bỏ vẻ đẹp đẽ để biến đổi thân hình và tâm hồn, bà nói với nó những lời nồng nhiệt từ tận đáy lòng.

Con ếch gớm ghiếc, trong bộ dạng đáng sợ, ngồi ở trước mặt bà, nó nhìn bà chằm chằm bằng cặp mắt nâu buồn rầu, lắng nghe và chừng như có hiểu, lại còn suy nghĩ giống như người nữa.

- Lưỡi của ta, ngay cả với chồng ta, cũng chưa bao giờ nhắc đến những nỗi đau đớn nhân đôi mà ta phải gánh chịu vì con! vợ của người Viking nói, ta thương con nhiều hơn cả mức mà chính ta có thể nghĩ! Tình yêu của một người mẹ mới lớn làm sao! nhưng chưa bao giờ tình yêu lọt được vào trong trái tim con! Trái tim con giống như một đống bùn đáy đầm lạnh lẽo! Con từ đâu đến nhà ta thế?

Nghe những lời này, con vật thảm thương run rẩy một cách kỳ lạ, cứ như là những câu nói ấy đã chạm vào một sợi dây vô hình nối cơ thể với tâm hồn của nó, những giọt nước mắt của nó trào ra.

- Rồi một ngày những khó nhọc sẽ xảy đến với con! vợ của người Viking lại nói, đối với ta mọi chuyện cũng sẽ rất khủng khiếp!… Lẽ ra cần phải đem con quẳng ra ngoài đường khi con còn nhỏ, để mặc đêm lạnh ru con, cho tới lúc con thiếp đi vào giấc ngủ của cái chết! Và vợ người Viking òa khóc nức nở, tức giận và buồn bã, bà đi vòng ra đằng sau tấm trướng bằng da thú treo trên xà nhà ngăn căn phòng làm đôi.

Còn lại một mình con ếch trong góc của nó, người rúm lại; không có tiếng động nào, nhưng bên trong nó chốc chốc lại phát ra một tiếng thở dài gần như bị bóp nghẹt; cứ như thể, trong đau đớn, một cuộc đời sinh ra trong những góc khuất nẻo trái tim của nó. Nó nhảy lên một bước, lắng nghe, thêm một bước nữa, rồi dùng hai bàn tay vụng về nắm lấy thanh sắt nặng đặt chắn trước cửa; nó nhẹ nhàng nhấc thanh sắt ra, thật êm, rồi rút chốt cửa; nó cầm lấy cái đèn thắp sẵn đặt ở đó, trong phòng; như thể một ý chí mãnh liệt đã truyền cho nó sức mạnh; nó nhấc cái chốt sắt cửa phòng giam lên và lao đến chỗ người tù; anh ta đang ngủ; nó đưa bàn tay lạnh lẽo và ẩm ướt của mình chạm vào người anh ta, và khi choàng tỉnh, nhìn thấy tạo vật xấu xí kia, anh ta rùng mình, như thể vừa có một thị kiến ma quỷ. Nó rút con dao ra, cắt dây trói, và ra hiệu bảo anh ta đi theo.

Anh ta gọi những cái tên thiêng, làm dấu thánh, và vì con vật vẫn y nguyên như vậy, anh ta đọc lời Kinh Thánh:

- Phúc cho người nào giúp đỡ kẻ nghèo. Khi gặp hoạn nạn, Ngài sẽ giải cứu người. Mi là ai? Tại sao mi lại đội lốt một con vật trong khi hành động của mi đầy sự xót thương?

Con ếch ra dấu rồi đưa anh ta len lỏi sau các tấm trướng, dọc theo một hành lang hoang vắng, và dẫn anh ta vào tàu ngựa, nó chỉ cho anh ta một con ngựa, anh ta nhảy lên, nhưng cả nó cũng lên luôn, ngồi trước anh ta, bám thật chặt vào cái bờm. Người tù hiểu ý nó, và thế là họ lao nhanh đi trên một con đường mà hẳn anh ta sẽ không thể tự tìm ra, để đến chỗ truông rộng.

Anh ta quên đi vẻ xấu xí của nó, anh ta cảm thấy ân điển và lòng thương xót của Chúa đang được thực thi qua bàn tay con quái vật; anh ta cầu nguyện và hát những bài thiêng liêng; thế rồi người nó run lên, có phải do quyền năng của lời cầu nguyện và bài hát mà như vậy hay không, hay là vì không khí lạnh của buổi sáng đang tới làm ra như thế? Khi ấy nó cảm thấy gì? Nó nhỏm hẳn người lên, muốn dừng ngựa lại và xuống khỏi đó; nhưng tu sĩ Ki-tô dùng hết sức giữ nó lại, lớn giọng hát một bài thánh thi, như thể khúc hát có khả năng giải trừ thứ bùa chú làm cho nó phải ở dưới cái lốt ếch gớm ghiếc kia, và con ngựa phóng đi còn nhanh hơn, bầu trời ửng hồng, tia sáng đầu tiên xuyên qua lớp mây, và đúng vào lúc ánh sáng ào các đợt sóng của nó xuống, sự biến hình xảy ra, nó đã trở thành cô thiếu nữ xinh đẹp với tinh thần quỷ quái và độc ác; anh ta đang ôm cô thiếu nữ xinh đẹp nhất trong vòng tay, và sửng sốt hết sức, anh ta nhảy xuống khỏi lưng ngựa, dừng nó lại, vì anh ta tưởng mình lại phải đương đầu với một bùa chú khủng khiếp mới; nhưng con bé Helga cũng nhảy xuống đất, chỉ cần một bước, cái váy ngắn cũn cỡn của nó chỉ che đến đầu gối; nó rút phắt con dao đã mài sắc đeo ở thắt lưng ra và lao vào tu sĩ đang vô cùng kinh ngạc.

- Để cho ta đến chỗ của mi! nó hét lên, để cho ta đến chỗ của mi, rồi con dao của ta sẽ cắm vào người mi! Mi tái nhợt như cỏ khô! Đồ nô lệ! Đồ không râu!

Nó lao vào anh ta; họ chiến đấu dữ dội, nhưng cứ như thể một quyền năng vô hình truyền sức mạnh cho người tù Ki-tô; anh ta giữ chặt lấy nó, và cây sồi già mọc gần đó giúp đỡ anh ta, nó tóm lấy hai chân của Helga bằng những cái rễ trồi lên từ dưới đất. Sát đó, có một dòng suối tuôn trào, anh ta tưới lên ngực và mặt con bé thứ nước trong vắt, ra lệnh cho linh hồn bẩn thỉu phải đi ra ngoài và làm dấu thánh lên nó, theo đúng tập tục Ki-tô, nhưng nước dùng để báp-têm không có sức mạnh ở những nơi nào nguồn suối của lòng tin không đồng thời cũng trào ra từ bên trong.

Và thế nhưng, cả lúc này nữa, anh ta vẫn vượt trội; trong cách thức của anh ta có nhiều hơn sức mạnh con người, nhằm chống lại quyền năng quỷ dữ đang lồng lộn bên trong con bé, và nó như thể bị hớp hồn, hai tay thõng xuống, ánh mắt đầy kinh ngạc, mặt tái nhợt, nhìn con người kia, như thể anh ta là một phù thủy hùng mạnh, rất lão luyện về ma thuật và các bùa chú bí mật; cứ như là anh ta đang nói bằng thứ tiếng Rune đen tối, và viết những chữ bí hiểm vào không khí! Nếu anh ta huơ trước mặt Helga cây rìu sáng bóng hay con dao găm sắc nhọn, hẳn nó đã không buồn nhíu mày, thế nhưng nó run rẩy khi anh ta làm dấu thánh lên trán và ngực nó; và giờ đây, nó ở đó như một con chim đã được thuần hóa, đầu gục xuống trước ngực.

Anh ta bèn dịu dàng nói với nó về hành động đầy xót thương mà nó đã thực hiện cho anh ta hồi đêm, khi nó đến, dưới cái lốt xấu xí của một con ếch, nó đã tháo dây trói cho anh ta và đưa anh ta trở lại với ánh sáng, với cuộc đời; nó cũng đã bị trói, anh ta nói, trong những sợi dây còn chặt hơn dây trói của anh ta, nhưng nó cũng có thể - nhờ anh ta - đến được với ánh sáng và cuộc đời. Anh ta muốn đưa nó tới Hedeby, chỗ thánh Ansgar, tại đó, thành phố Ki-tô, thứ bùa yểm lên nó sẽ được giải; nhưng anh ta không có quyền cho nó ngồi trước anh ta trên lưng ngựa, kể cả khi chính tự nó muốn thế.

- Em phải ngồi sau lưng ta, chứ không phải đằng trước! Vẻ đẹp đầy ma thuật của em có một quyền năng mà gốc gác là quỷ dữ, ta thấy sợ… thế nhưng, ta cảm thấy vinh quang thuộc về người nào có lòng tin!

Anh ta quỳ gối xuống, cầu nguyện hết sức thành kính và nồng nhiệt! Dường như khung cảnh im lìm của khu rừng được thánh hóa, trở thành một nhà thờ linh thiêng; lũ chim cất tiếng hót như thể cũng là thành phần của giáo phận mới, đám hoa dại tỏa hương như muốn thay thế hổ phách và hương trầm; anh ta cao giọng phán lời của Sách Thiêng:

- Và mặt trời mọc lên từ nơi cao thăm viếng chúng tôi, để soi những kẻ ngồi chỗ tối tăm và trong bóng sự chết, cùng đưa chân chúng tôi đi đường bình an.

Rồi anh ta nhắc đến tiếng thở dài của tự nhiên, và trong lúc anh ta nói, con ngựa mà họ đã cưỡi đến đây trong một cuốc chạy điên rồ đứng bất động, rồi nó húc vào bụi cây mâm xôi lớn, làm rơi xuống tay con bé Helga những quả mâm xôi chín mọng, chúng tự dâng mình tặng cho nó để nó giải khát.

Nó kiên nhẫn để cho mình được đỡ lên lưng ngựa, ngồi ở đó như một người mộng du, còn chưa tỉnh hẳn nhưng cũng không còn ngủ nữa. Người Ki-tô lấy dây tết vỏ cây buộc hai cành cây lại với nhau, tạo thành một thánh giá, anh ta giơ nó lên cao, và cứ như vậy họ băng ngang khu rừng trở nên dày hơn, con đường mỗi lúc một thêm khó nhận ra hơn và thậm chí đôi lúc còn hoàn toàn biến mất. Cây mận gai chắn ngang đường, phải đi vòng để tránh; dòng nước không biến thành suối cho nước chảy, mà thành một cái đầm lầy lội, phải đi vòng để tránh. Không khí lạnh của rừng mang đến sức mạnh và sự tỉnh táo, cũng như những lời êm dịu vang lên trong lòng tin và tình yêu Ki-tô, trong ham muốn cháy bỏng được đưa đứa bé gái bị lạc lối về với ánh sáng và cuộc đời.

Người ta vẫn hay nói nước mưa có thể đục thủng đá cứng, những cơn sóng biển theo thời gian bào mòn các khối đá góc cạnh lở ra từ núi, giọt sương của ân điển, đã đến lúc rơi trúng con bé Helga, xuyên qua những gì từng rắn đanh, bào mòn đi những gì sắc nhọn; chắc chắn điều này không thể cảm thấy, bản thân nó cũng không hay biết; cái mầm dưới đất đâu có biết, khi sương ẩm mát lành và mặt trời ấm áp rơi xuống nó, rằng nó mang bên trong mình cái cây và bông hoa?

Khúc hát mà bà mẹ hát cho đứa con nghe dần dà in hình vào trong tinh thần nó và nó bập bẹ lời ca dẫu không hiểu, nhưng những lời ấy, về sau, được tổ chức trong suy nghĩ của nó, và theo thời gian, trở nên sáng sủa hơn; lời nói mang quyền năng sáng tạo cũng hoạt động ở đây theo cùng cách thức.

Họ ra khỏi rừng, băng qua truông rộng, lại qua những khu rừng không đường đi, và quãng trời tối, họ gặp phải lũ cướp.

- Mày đã ăn trộm ở đâu được công nương xinh đẹp này thế? chúng hét lên. Chúng chặn con ngựa lại, thô bạo lôi hai kỵ sĩ xuống đất, bởi vì chúng rất đông. Tu sĩ không có vũ khí tự vệ nào khác ngoài con dao găm mà anh ta lấy từ con bé Helga, anh ta huơ nó về mọi hướng, một tên cướp ném cái rìu của hắn, nhưng chàng trai Ki-tô khéo léo nhảy sang một bên để tránh và thoát thân, nhưng lưỡi rìu phập sâu vào cổ con ngựa, máu phun ra ồng ộc, con vật ngã lăn ra; con bé Helga, như vừa choàng tỉnh từ cơn mơ mộng thật dài, chạy bổ đến chỗ con ngựa đang thở phì phò; tu sĩ Ki-tô đứng chắn phía trước nó để bảo vệ cho nó, nhưng một tên cướp đã ném cây búa sắt nặng của hắn trúng vào trán anh ta, trán anh ta vỡ toác, máu và óc bắn ra khắp xung quanh, anh ta ngã vật xuống đất chết.

Lũ cướp túm lấy cánh tay trắng ngần của con bé Helga, vào lúc đó mặt trời lặn, tia nắng cuối cùng tắt ngấm và nó biến thành một con ếch gớm ghiếc; cái mồm màu lục và trắng choán hết nửa khuôn mặt nó, hai tay nó trở nên thật mảnh và nhiều nhớt, bàn tay lớn có màng xòe ra như cái quạt… khi ấy, lũ cướp, hoảng sợ, thả ngay nó ra; nó ở giữa chúng, dưới lốt con quái vật xấu xí và, vì như vậy là tự nhiên đối với một con ếch, nó nhảy lên, cao hơn thân hình của nó, và biến mất vào bụi rậm; lũ cướp hiểu rằng đó là một mưu mẹo xấu xa của thần Loki, hoặc là một thứ bùa bí mật và, sợ quá, chúng vội vã rời khỏi đó.

*
*       *

Trăng đã lên, thật tròn, tỏa hào quang và ánh sáng, con bé Helga từ bụi rậm nhảy ra, dưới hình dạng thảm thê của con ếch; nó dừng lại bên cạnh cái xác của tu sĩ Ki-tô và con ngựa đã ngã gục, nó nhìn cả hai bằng cặp mắt như thể đang khóc; con ếch phát ra một tiếng kêu, nghe như một đứa trẻ đang nức nở. Nó nhảy sang bên này rồi lại nhảy sang bên kia, lấy nước vào lòng bàn tay, cái bàn tay, bởi vì có màng, rộng hơn và sâu hơn, và nhỏ lên cả hai. Cả hai đều đã chết, cả hai sẽ vẫn cứ chết! Nó hiểu điều này. Sẽ sớm thôi, lũ thú hoang sẽ đến đây và ăn hai cái xác; không, không thể để chuyện đó xảy ra! Chính vì vậy nó bắt tay đào đất, sâu hết mức mà nó có thể; nó muốn đào một nấm mộ cho cả hai, nhưng nó chỉ có độc một cành cây cứng và hai bàn tay của nó, nhưng lại là tay có màng, cái màng rách toạc, máu trào ra. Nó hiểu là nó sẽ không thể làm được việc này; nó bèn đi lấy nước và rửa mặt cho người chết, phủ những cái lá tươi màu lục lên, nó mang tới các cành cây lớn và đặt chúng lên anh ta, rồi đến lá, sau đó là những hòn đá nặng nhất mà nó có thể nhấc được, đặt lên hai cái xác và bịt những chỗ hở lại bằng rêu. Nó tin rằng mô đất táng đã đủ chắc và được bảo vệ, nhưng trong lúc nó thực hiện công việc nặng nhọc ấy, đêm đã trôi qua, mặt trời chiếu xuống… và con bé Helga ở đó trong toàn bộ vẻ đẹp của nó, hai bàn tay lấm máu và, lần đầu tiên, những giọt nước mắt chảy tràn trên hai gò má trinh nữ đỏ ửng lên của nó.

Vào lần biến hình này, dường như hai bản tính chiến đấu với nhau ở bên trong nó; nó rùng mình, nhìn ra xung quanh, như thể vừa tỉnh dậy giữa một giấc mơ hãi hùng, rồi nó chạy đến một cây sồi cao, bám vào, như muốn tìm một chỗ dựa, và mau chóng, chỉ trong thoáng chốc, nó trèo lên, giống một con mèo, đến tận ngọn cây và bíu chặt vào đó; nó ở lại trên cây như một con sóc sợ sệt, suốt cả ngày, trong nỗi cô độc sâu thẳm của rừng nơi mọi thứ đều im lìm và chết chóc, như người ta vẫn nói!… chết chóc, ừ thì! hai con bướm bay nhởn nhơ quấn lấy nhau, chơi đùa hoặc cũng có thể là đang cãi cọ; có các đàn kiến ngay gần đó, mỗi đàn gồm hàng trăm con vật nhỏ xíu lúc nhúc và không ngớt đi đi lại lại; vô số muỗi, hết đám mây này lại đến đám mây kia, nhảy múa trong không khí; rất nhiều ruồi vo ve, rồi thì bọ rùa, chuồn chuồn và những con vật nhỏ có cánh khác lao vụt qua, sâu chui ra, trườn trên đất ẩm, lũ chuột chũi thì đùn đất lên… ngoài đó ra thì mọi thứ im lìm và chết chóc, chết chóc giống như người ta vẫn hay nói và hiểu. Chẳng một ai để ý đến con bé Helga, ngoài lũ giẻ cùi bay vòng vòng và hét lên quanh ngọn cái cây nơi nó đang ẩn nấp; chúng nhảy choi choi trên các cành cây, tiến lại gần nó, với một sự hiếu kỳ đầy bạo dạn; chỉ cần nó nháy mắt là đã đủ để đuổi chúng đi… nhưng chúng không biết gì hơn về nó, và nó cũng không biết.

Khi trời tối, vào lúc mặt trời bắt đầu lặn, sự biến hình làm cho nó cử động trở lại; nó tuột xuống khỏi cái cây, và đúng lúc tia nắng cuối cùng tắt đi, nó ở đó, dưới lốt con ếch, người co rúm, màng trên hai bàn tay rách toạc, nhưng giờ đây hai mắt nó tỏa rạng một vẻ đẹp ngời sáng mà trước kia chúng chẳng mấy biết đến, khi mà con bé vẫn mang bộ dạng quyến rũ; đó là cặp mắt của bé gái, cặp mắt hiền dịu nhất, êm ả nhất, từ đó tỏa ra một ánh sáng mặc cho cái lốt ếch này, chúng chứng nhận cho chiều sâu tinh thần của nó, cho trái tim con người của nó; và cặp mắt quyến rũ òa lên khóc nức nở, chúng nhỏ những giọt nước mắt ấm nóng, đó chính là thứ tạo ra sự nhẹ nhõm cho trái tim.

Gần nấm mộ đã được dựng lên, vẫn còn lại thánh giá làm bằng cành cây buộc dây tết bằng vỏ cây, công trình cuối cùng của con người giờ đây đã chết và biến mất; con bé Helga nhấc thánh giá lên, tự nó nảy ra ý nghĩ này, rồi đặt vào giữa những hòn đá phủ bên trên anh ta cùng con ngựa; kỷ niệm buồn thương này khiến nó rơi nước mắt và, trong trạng thái tinh thần đó, nó vạch cùng dấu hiệu ấy lên đất quanh chỗ mộ, cái đó bảo vệ cho ngôi mộ, trông lại còn đẹp nữa… và trong lúc nó dùng hai tay để vẽ thánh giá, cái màng rơi xuống như chiếc găng tay rách, và khi nó tắm ở suối, ngạc nhiên nhìn hai bàn tay trắng ngần thanh tú, nó lại làm dấu thánh trong không khí, giữa nó và người chết, môi nó run lên, lưỡi nó nhúc nhích và cái tên mà nó từng nghe hát ca ngợi và phát ra thường xuyên nhất, trong lúc nó cưỡi ngựa đi qua khu rừng, bật ra từ miệng nó, và nó nói: “Jesus-Christ!”

Thế là bộ da ếch rơi xuống, nó là cô thiếu nữ xinh đẹp… và thế nhưng, đầu cúi xuống, mệt mỏi, tay chân nó cần được nghỉ… nó ngủ thiếp đi.

Nhưng giấc ngủ của cô bé không kéo dài; vào quãng nửa đêm, cô bị đánh thức dậy; con ngựa chết đang ở trước mặt cô, sáng ngời, đầy sức sống, cặp mắt và cái cổ bị thương của nó tỏa ra ánh sáng; ngay gần nó, là tu sĩ Ki-tô đã bị giết chết; “còn đẹp hơn thần Balder!” hẳn vợ người Viking sẽ nói thế, và thế nhưng như thể ông được bao bọc trong những đốm lửa lớn.

Cặp mắt êm dịu ấy diễn tả một sự nghiêm nghị mới lớn làm sao, một lời phán định mới chuẩn xác làm sao, ánh mắt ấy thấu suốt đến mức có thể nói rằng nó chiếu rọi được vào tận những ngóc ngách sâu nhất của trái tim người mà nó tìm cách thăm dò. Nó làm cô bé Helga run rẩy, và ký ức của cô được đánh thức với cùng sức mạnh với những gì hiện ra vào kỳ Phán xử cuối cùng. Mọi điều tốt mà người khác từng làm với cô, mọi lời âu yếm mà cô từng được nghe, tất tật đều như thể được phú cho sức sống; cô hiểu rằng chính tình yêu đã nâng đỡ cho cô suốt trong những ngày thử thách đó, khi mà hai dòng giống, dòng giống của tinh thần và của bùn bẩn, lên men và hoạt tác; cô nhận ra là cô đã chỉ tuân theo các mệnh lệnh phát xuất từ các trạng thái tâm hồn của cô, và cô hẵng còn chưa làm gì tự chủ ý; mọi thứ đều có sẵn đưa cho cô, mọi thứ, có thể nói vậy, đều được dẫn dắt từ trên cao; cô cúi xuống, bé nhỏ, khiêm nhường, đầy ngượng ngùng, trước người hẳn có thể đọc được trong mọi nếp gấp trái tim cô; và vào lúc ấy, cô cảm thấy giống như một tia chớp của ngọn lửa thanh tẩy, ngọn lửa của Thánh Linh.

- Hỡi đứa con của đáy đầm! tu sĩ Ki-tô nói, từ đáy đầm, từ đất con đã đến… cũng từ đất con sẽ hồi sinh! Tia nắng ở trong con không từ mặt trời đến, mà là từ Chúa, nó sẽ quay trở về nguồn cội, với đầy đủ ý thức về thể xác nó từng sống ở trong! Sẽ không một tâm hồn nào bị lạc lối, nhưng thời gian thì thật dài, chuyến bay của cuộc đời trong vĩnh cửu… Con từ đất nước của người chết đến; cả con, rồi một ngày, con cũng sẽ đi qua các thung lũng sâu thẳm để bước vào đất nước rực sáng của núi nơi ngự trị ân sủng và sự hoàn hảo tuyệt đối. Ta sẽ không đưa con tới Hedeby để con nhận báp-têm Ki-tô, trước hết con phải phá tan tấm màng bao phủ đáy của đầm lầy, con phải mang về rễ sống của cuộc đời con và cái nôi của con, con phải hoàn thành sứ mệnh trước khi được hưởng ân điển.

Và ông nhảy lên lưng ngựa, đưa cho cô một bình hương bằng vàng giống cái bình mà cô đã thấy trước đó tại pháo đài của người Viking, một hương thơm êm dịu nhưng mạnh mẽ tỏa ra từ đó. Vết thương mở toang trên trán người đã bị giết lấp lánh giống như một vương miện rực sáng; ông nhấc cây thánh giá từ nấm mộ lên, giơ cao nó, và sau đó họ đi xuyên qua không khí, băng ngang phía trên khu rừng âm vang, phía trên các gò đất nơi chôn cất những người anh hùng, ngồi trên lũ ngựa đã bị giết chết; và những cái bóng khổng lồ của họ nhỏm dậy, cưỡi ngựa đi về phía đỉnh gò; trong ánh trăng, cái vòng rộng bằng vàng trên trán họ tỏa sáng, áo choàng của họ tung bay trong gió. Con chằn canh cửa các kho báu ngẩng đầu lên nhìn dõi theo. Tộc người lùn rình mò trên các ngọn đồi và trong các đường cày nơi cánh đồng, rất đông, mang những ngọn đèn đỏ, xanh và lục, trông rất giống các tia lấp lánh mà người ta nhìn thấy trong tro tàn của giấy đã cháy xong.

Họ bay trên các khu rừng và truông rộng, sông và ao hồ, và đến chỗ đầm hoang; họ xoáy tròn phía trên nó, vạch ra những vòng tròn lớn. Tu sĩ Ki-tô giơ cao thánh giá, nó lấp lánh như vàng, và từ miệng ông cất lên khúc hát thánh lễ; cô bé Helga cũng hát cùng, như đứa trẻ hát đệm cho mẹ nó; cô đung đưa bình hương, nó tỏa hương thơm của ban thờ, mạnh và kỳ diệu đến mức bấc và sậy của đầm lầy bắt đầu nở hoa; mọi mầm sống trồi lên từ đáy sâu, mọi thứ gì có sự sống đều vươn cao lên, trải rộng một tấm voan hoa súng, như một tấm thảm thêu hoa và, ở trên đó, có một người phụ nữ đang ngủ, trẻ trung và tươi tắn; cô bé Helga cứ ngỡ đó là chính mình, là ánh phản chiếu của cô trong làn nước êm ả; nhưng đó là mẹ của cô, vợ của chúa tể đầm lầy, nàng công chúa có quê quán là bờ sông Nile.

Tu sĩ Ki-tô đã chết ra lệnh cho người phụ nữ đang ngủ leo lên lưng ngựa, nhưng con vật bước loạng choạng dưới sức nặng, như thể người nó chỉ là một tấm vải liệm bay phất phơ trong gió, nhưng dấu thánh giá mang lại sức mạnh cho con ma bay, và cả ba cưỡi ngựa đi vào chỗ đất liền.

Đúng vào lúc đó, gà trống cất tiếng gáy trong pháo đài của người Viking và các bóng hình biến đi vào trong một làn sương mù bị gió thổi tan, nhưng mẹ và con thì đứng trước mặt nhau.

- Có phải mình đang nhìn thấy chính mình dưới nước sâu không nhỉ? bà mẹ cất tiếng.

- Có phải là mình đang nhìn thấy chính mình trong tấm khiên bóng loáng không? cô con gái hỏi, và họ tiến lại gần nhau, áp ngực vào nhau, ôm chầm lấy nhau, trái tim của người mẹ đập mạnh hơn, và bà hiểu điều đó.

- Con của ta! bông hoa của trái tim ta! bông hoa sen từ đáy nước sâu!

Bà ôm lấy đứa con và khóc; những giọt nước mắt của bà là một báp-têm mới cho cuộc đời và tình yêu, đối với cô bé Helga.

- Ta đã tới đây trong một bộ lông thiên nga và ta đã vứt nó đi! bà mẹ nói, ta đã chìm sâu xuống dòng nước náo loạn, đến tận đáy sâu của đầm lầy, nó khép lại trước ta giống như một bức tường; nhưng ta mau chóng cảm thấy một luồng nước mát hơn; một sức mạnh đã kéo ta xuống sâu hơn nữa, tiếp tục sâu hơn nữa, ta cảm thấy sức nặng của giấc ngủ đè lên mí mắt ta, ta ngủ thiếp đi, ta đã mơ… Ta thấy ta lại ở trong kim tự tháp Ai Cập, nhưng trước mặt ta, vẫn có cái thân cây đung đưa, nó đã làm ta sợ trên mặt nước của đầm, ta xem xét các vết nứt trên vỏ của nó, và chúng tỏa ra một ánh sáng nhiều màu; chúng biến thành các chữ tượng hình, ta đang nhìn vỏ ngoài của xác ướp, nó rách toạc, từ đó bước ra đức vua nghìn năm, thi hài của xác ướp, đen như than, lấp lánh và đen như con sên rừng hay bùn đáy bóng nhẫy, chúa tể đầm lầy hay xác ướp kim tự tháp, ta cũng chẳng biết nữa. Ông ta ôm lấy ta, và ta có cảm giác là ta sắp chết. Ta chỉ cảm thấy sự sống quay trở lại vào lúc thấy ấm nóng trên ngực và một con chim nhỏ vỗ cánh, kêu chiêm chiếp và hát. Nó bay lên từ ngực ta và đi lên cao về phía trần tối thẳm và nặng nề, nhưng một dải ruy băng dài màu lục vẫn nối nó vào với ta; ta nghe thấy và hiểu những âm thanh mà ham muốn cháy bỏng của nó phát ra: “Tự do! mặt trời! về với bố của ta!”… Ta bèn nghĩ đến bố của ta, tại đất nước nhiều nắng nơi có tổ ấm của ta, cuộc đời của ta, tình yêu của ta! và ta tháo dải ruy băng, để cho nó bay đi lên trên trời… để nó quay trở về nhà với bố ta. Kể từ giây phút đó, ta không còn mơ, ta đã ngủ một giấc thật nặng và dài, cho tới tận lúc này, khi mà các âm thanh và một làn hương khiến ta trồi lên và giải phóng cho ta!

Dải ruy băng màu lục nối trái tim của người mẹ với cánh chim, giờ đây nó bay đi đâu rồi, nó đã bị lôi kéo đi tận đâu? Chỉ con cò từng nhìn thấy nó; dải ruy băng chính là cái nhành cây màu lục, ở đầu của nó là bông hoa lấp lánh, cái nôi của cái đứa bé đã trở nên tươi tắn khi lớn lên và giờ đây lại được ở bên cạnh trái tim của mẹ nó.

Và trong khi họ ôm lấy nhau, bố cò bay vòng vòng quanh họ, sau đó mau chóng về tổ, tìm hai bộ lông chim đã được giấu ở đó suốt nhiều năm trời, ném chúng xuống cho mỗi người, bộ lông phủ lên người họ và họ bay lên khỏi mặt đất giống như hai con thiên nga trắng.

- Giờ, chúng ta đã có thể nói chuyện! bố cò cất tiếng, giờ đây, chúng ta hiểu ngôn ngữ của nhau, dẫu mỗi loài chim có một kiểu mỏ riêng! Thật quá sức may mắn vì hai người đến đây đêm nay, không thể đúng lúc hơn được nữa, chỉ ngày mai thôi chúng tôi sẽ rời khỏi nơi này, mẹ nó nhà tôi, tôi và lũ nhỏ! chúng tôi khởi hành về phương Nam! hai người chỉ cần nhìn tôi là biết! tôi là một người bạn cũ từ đất nước của sông Nile và mẹ nó nhà tôi cũng thế, bà ấy mang điều đó trong tim, dẫu chẳng gào toáng nó lên trên các mái nhà. Bà ấy vẫn luôn luôn tin rằng công chúa sẽ thoát thân; tôi cùng lũ nhỏ đã mang hai bộ lông thiên nga về đây!… Ôi! tôi thấy sung sướng quá! thật mừng biết bao vì tôi vẫn còn ở nơi này; chỉ rạng sáng thôi, chúng tôi sẽ lên đường! một đàn cò lớn! Chúng tôi sẽ bay phía trước, hai người chỉ việc đi theo thôi, như vậy, sẽ không thể nhầm đường; tôi và lũ nhỏ, chúng tôi sẽ trông coi mọi việc, cứ yên tâm!

- Và bông hoa sen mà tôi từng phải mang về! nàng công chúa Ai Cập nói, nó đang bay trong bộ lông thiên nga ngay cạnh tôi đây! bông hoa của trái tim tôi đang ở bên tôi, vấn đề đã được giải quyết. Ta về thôi! Ta về thôi nào!

Nhưng Helga nói cô chẳng thể rời đất nước Đan Mạch nếu chưa gặp lại bà mẹ nuôi, vợ của người Viking, người đã chăm lo cho cô tận tình đến thế. Từng kỷ niệm đẹp, mỗi lời trìu mến, mỗi giọt nước mắt mà mẹ nuôi cô từng trao cho cô hiện ra trở lại trong tâm trí, và vào khoảnh khắc ấy, gần như có thể tin rằng cô yêu người mẹ đó nhất.

- Phải đấy, đằng nào chúng ta cũng sẽ phải đến chỗ pháo đài của người Viking! bố cò đáp, mẹ nó nhà tôi cùng lũ nhỏ đang đợi sẵn ở đấy! tất tật chắc sẽ trợn tròn mắt và đập cánh kinh khiếp cho mà xem! Phải đấy, mẹ nó nhà tôi không nói nhiều đâu! bà ấy nói năng ngắn gọn nhưng rất đĩnh đạc, và như vậy thì mọi chuyện càng chỉ có thể tốt đẹp hơn mà thôi! tôi sẽ sớm quạc mỏ để thông báo cho họ là chúng ta đang tới!

Và bố cò cất lên một tiếng kêu rền vang phát ra từ trong mỏ, rồi nó cùng hai con thiên nga bay về phía pháo đài của người Viking.

Trong nhà, mọi người vẫn còn say ngủ; vợ của người Viking mãi đêm muộn mới thiếp đi được; bà thấy lo lắng cho con bé Helga, nó đã biến mất từ ba ngày nay, cùng tu sĩ Ki-tô; hẳn nó đã giúp anh ta trốn thoát, con ngựa của nó không còn trong chuồng, quyền năng nào đã khiến toàn bộ chuyện ấy xảy ra? Vợ của người Viking nghĩ đến các phép mầu của đấng Ki-tô Trắng mà người ta từng kể, rồi cả các phép mầu của những người tin vào ngài và đi theo ngài. Các ý nghĩ dập dờn của bà thành hình trong giấc mơ, bà thấy như thể mình vẫn đang còn thức, nằm trên giường mà suy nghĩ, và bên ngoài, bóng tối dăng màn. Bão ào tới, bà nghe tiếng gầm của biển ở bên Tây và bên Đông, từ Biển Bắc và từ các dòng suối Cattegat; con rắn khổng lồ quấn lấy trái đất nơi đáy sâu biển cả run lên, người nó oằn oại; đã sắp đến đêm của các vị thần, Ragnarok, như những người ngoại giáo vẫn hay gọi thời khắc cuối cùng, khi tất tật phải chết đi, cả các vị thần tối cao, tiếng kèn xung trận Gjallarhorn vang lên, và các vị thần cưỡi ngựa băng qua cầu vồng, trên người mang giáp sắt, để chiến đấu trận cuối; trước họ, các Valkyrie mang khiên bay lượn, và đi đoạn hậu là bóng ma những anh hùng đã chết; bầu không khí vây quanh họ bừng lên ánh sáng cực quang, nhưng rốt cuộc bóng tối nuốt hết đi. Đó là một khoảnh khắc ngập tràn kinh hãi.

Và ngay sát vợ của người Viking đang hoảng sợ, con bé Helga ngồi đó, trên sàn nhà, dưới cái lốt ếch xấu xí, cả nó nữa, nó cũng run lên và nép vào người bà mẹ nuôi, bà đặt nó lên lòng và ôm lấy nó, đầy tình yêu, mặc cho vẻ xấu xí bộ da ếch của nó. Không khí vang vọng âm thanh chát chúa của kiếm và chùy, các mũi tên bay rít lên, như thể một cơn bão mang mưa đá đang ập xuống. Đã đến lúc đất và trời vỡ tan, những vì sao rụng, tất tật sẽ bị nuốt vào biển lửa Surt, nhưng bà biết rằng một trái đất mới và một bầu trời mới sẽ hình thành, lúa mì sẽ lượn sóng ở nơi biển ngự trị lúc này, trên nền lổn nhổn cát cằn cỗi, Đức Chúa mà ta không thể gọi tên sẽ ngự trị, và thần Balder, người hiền dịu, êm ái, được giải phóng khỏi vương quốc người chết… sẽ tới… vợ của người Viking nhìn thấy ngài, bà biết mặt ngài… đó là tu sĩ Ki-tô, người tù. “Đức Ki-tô Trắng!” bà lớn tiếng gọi, và đúng vào lúc phát ra cái tên ấy, bà hôn lên trán đứa con-ếch gớm ghiếc; thế là lớp da ếch liền rơi xuống, và cô bé Helga đứng đó trong toàn bộ vẻ đẹp, dịu dàng hơn bất kỳ khi nào trước đó và cặp mắt sáng lấp lánh; cô hôn tay bà mẹ nuôi, chúc phúc cho bà vì toàn bộ sự chăm lo và tình yêu mà bà đã trao cho cô trong những ngày sầu khổ và thử thách; cô cảm ơn bà vì những ý nghĩ mà bà đã đặt vào, đã đánh thức trong cô, cảm ơn bà vì đã nói ra cái tên ấy, mà cô nhắc lại: Đức Ki-tô Trắng! và cô bé Helga bay lên như một con thiên nga mạnh mẽ, dang rộng cánh, với một tiếng rít như thể một đàn chim di cư đang bay lên.

Vợ của người Viking choàng tỉnh và bên ngoài, cùng tiếng đập cánh mạnh mẽ đó đang vang lên… đây là thời điểm, bà biết điều này, lũ cò lên đường, bà đang nghe thấy tiếng chúng; thêm một lần nữa, bà muốn nhìn chúng trước khi chúng ra đi, để chào tạm biệt! Bà nhỏm dậy, đi ra ngoài, và nhìn thấy trên mái nhà lũ cò xếp hàng san sát, và khắp xung quanh, phía bên trên đám cây lớn, hằng ha sa số chim đang bay, vẽ những vòng tròn lớn, nhưng ngay trước mặt bà, trên thành cái giếng nơi con bé Helga vẫn thường hay ngồi và làm bà sợ hãi với cái trò hoang dã của nó, hai con thiên nga đã đậu xuống và nhìn bà, ánh mắt lanh lợi: và bà nhớ lại giấc mơ, nó vẫn còn ngập tràn trong bà, như thể hoàn toàn là thực, bà nghĩ đến cô bé Helga đã mang lốt thiên nga, bà nghĩ đến tu sĩ Ki-tô, và đột nhiên trong lòng bà thấy hạnh phúc vô chừng.

Hai con thiên nga đập đập cánh, vươn dài cổ ra, như thể chúng cũng muốn gửi tới lời chào; và vợ của người Viking chìa hai tay về phía chúng, như thể bà đã hiểu, bà mỉm cười, nụ cười lẫn vào giữa những giọt nước mắt, trong lòng bà ngổn ngang suy nghĩ.

Khi ấy, lũ cò đồng loạt bay lên trong tiếng đập cánh ầm ĩ và quàng quạc, để khởi hành về phương Nam.

- Chúng ta sẽ không đợi hai con thiên nga! mẹ cò nói, nếu chúng muốn đi cùng, thì cứ việc đi! chúng ta không thể ở lại đây đợi cho bọn choi choi bay trước! Dẫu thế nào thì cũng thật tốt khi du hành cùng gia đình như thế này, chứ không phải giống lũ chim mai hoa hay gà gô, chúng thì bay riêng, đực một bên cái một bên, thật chẳng ra làm sao! mà đám thiên nga đập cánh mới kỳ cục chứ!

- Mỗi người có một cách bay riêng! cò bố đáp, thiên nga bay xiên xiên, sếu thì lập đội hình tam giác còn choi choi thì nối đuôi nhau ngoằn ngoèo như rắn.

- Đừng có nhắc đến rắn khi chúng ta đang bay trên trời! mẹ cò nói ngay, bọn nhỏ nghe thấy sẽ nảy sinh ham muốn không thể thỏa mãn ngay được!

*
*       *

- Có phải chính là những dãy núi cao xa xa, phía dưới kia, mà con đã nghe nói đến không? Helga mang bộ lông thiên nga hỏi.

- Đó là những đám mây mang mưa giông đang trôi qua dưới chúng ta! bà mẹ đáp.

- Thế những đám mây trắng cao tít kia là gì thế? Helga lại hỏi.

- Cái mà con đang nhìn thấy là các ngọn núi với băng tuyết vĩnh cửu của chúng! bà mẹ nói, và họ đang bay qua phía trên dãy Alpes, xuôi về phía Địa Trung Hải xanh ngắt.

*
*       *

- Đất nước châu Phi! Bến bờ Ai Cập! người con gái của sông Nile mang trên mình bộ lông thiên nga nói, lòng đầy vui sướng, khi mà, từ trên không trung, bà nhìn thấy vùng đất quê hương, nó đang hiện ra, trông giống một dải băng uốn lượn như sóng màu vàng nhạt.

Lũ chim cũng nhìn thấy, và chúng bay gấp thêm.

- Ta đã ngửi thấy mùi bùn của sông Nile cùng lũ ếch nhái ẩm ướt! mẹ cò cất tiếng, sao mà ta thấy bụng ta chộn rộn quá!… Ừ thì! giờ đây, các con sẽ có thể thưởng thức nhiều thứ, các con phải đi xem cò bợ, cò quăm và sếu! chúng đều là thành viên của gia đình lớn, nhưng còn xa chúng mới có thể đẹp bằng chúng ta; chúng có dáng vẻ rất đĩnh đạc, nhất là cò quăm; nó được người dân Ai Cập chiều chuộng quá đấy mà, họ còn ướp xác nó nữa, nhồi đầy hương liệu bên trong. Ta thì thích người ta tọng cho ta lũ ếch nhái sống hơn; cả các con nữa, đó là điều mà các con muốn, và nó sẽ xảy đến với các con! Tốt hơn hết là suốt cuộc đời ta được ăn no, hơn nhiều so với đi làm cảnh khi chết! đó là ý kiến của ta và lúc nào nó cũng đúng!

- Cò đã về! người ta nói, trong ngôi nhà giàu có ven bờ sông Nile, nơi, tại căn phòng rộng mở, trên đống gối dựa mềm phủ da báo, ông vua đang nằm, không còn sống nhưng cũng chưa chết, đặt niềm hy vọng vào bông hoa sen mọc nơi đáy sâu đầm lầy miền Bắc. Họ hàng thân thích và gia nhân vây quanh ông.

Và hai con thiên nga trắng tuyệt đẹp bay vào trong phòng, chúng đến cùng lũ cò; chúng rũ bỏ bộ lông trắng lóa mắt và thế là xuất hiện hai phụ nữ xinh đẹp, giống nhau như hai giọt nước; họ cúi người xuống ông già nhợt nhạt và úa tàn, họ hất mái tóc dài ra đằng sau và khi cô bé Helga cúi xuống người ông, hai má ông bắt đầu hồng lên, mắt ông sáng lấp lánh, và sự sống chảy vào bên trong tay chân cứng đờ của ông. Ông già đứng dậy, đầy sức khỏe và đã trẻ lại; con gái và cháu gái ông ôm lấy ông như để nói với ông lời chào tươi vui sau một giấc mơ nặng nề kéo dài.

*
*       *

Và niềm vui lan tỏa trong khắp ngôi nhà, cả trong tổ cò, nhưng ở đó thì chủ yếu là do đồ ăn ngon, vô số ếch nhái lúc nhúc; và trong lúc các nhà bác học vội vã chép lại sơ lược câu chuyện hai nàng công chúa và bông hoa đã mang tới sức khỏe và là một sự kiện lớn, cũng là một ân sủng đối với ngôi nhà và đất nước, bố mẹ nhà cò kể lại nó cho gia đình chúng theo cách riêng, nhưng chỉ là sau khi đã ăn đẫy rồi, bằng không, hẳn chúng sẽ có việc khác để làm, chứ không phải là nghe kể chuyện.

- Giờ đây, anh sẽ nên vai nên vế đấy! mẹ cò thì thầm, nếu không thì làm gì có công bằng!

- Ôi! anh sẽ thành cái gì? bố cò hỏi lại, và anh đã làm gì? Chẳng có gì!

- Anh đã làm nhiều việc hơn bất kỳ ai khác! nếu không có anh cùng lũ nhỏ, hai nàng công chúa hẳn đã chẳng bao giờ nhìn thấy lại Ai Cập và hẳn họ sẽ chẳng bao giờ làm cho ông già đứng dậy được. Anh sẽ nên vai nên vế! Chắc chắn anh sẽ được nhận tước tiến sĩ và lũ con của chúng ta cũng sẽ được tập ấm ngay từ lúc chúng sinh ra, rồi con của chúng cũng vậy nốt! Vả lại trông anh đã rất giống một tiến sĩ Ai Cập rồi đấy… trong mắt em!

Các nhà bác học và các nhà thông thái phát triển ý tưởng nền tảng, như họ gọi nó, tức là điều xuyên suốt tất tật các sự kiện kia: “Tình yêu tạo ra cuộc sống!” Họ giải thích nó theo nhiều cách khác nhau: “Ánh mặt trời ấm áp là nàng công chúa Ai Cập, nàng đã đi xuống chỗ của chúa tể đầm lầy và cuộc gặp giữa họ đã làm bông hoa sinh ra…”

- Anh không thể nhắc lại chính xác từng từ! bố cò nói, nó đã ở trên mái nhà lắng nghe, và muốn kể lại mọi chuyện ở trong tổ. Phức tạp ghê lắm, những gì mà họ nói, nghe trí tuệ đến mức người ta đã ngay lập tức thăng họ lên một bậc, lại còn tặng quà nữa, thậm chí người đầu bếp cũng được nhận phần thưởng… chắc hẳn là vì món xúp!

- Còn anh, anh đã được gì? mẹ cò hỏi, họ không được phép quên điều quan trọng nhất chứ, và đó chính là anh! Các nhà bác học đã chẳng làm gì khác ngoài mấy trò miệng lưỡi, trong toàn bộ chuyện này! nhưng chắc chắn rồi cũng sẽ đến lượt anh thôi!

Trong đêm muộn, khi sự yên bình của giấc ngủ đã trùm lên ngôi nhà giàu có hạnh phúc, có một người vẫn thao thức, và đó không phải bố cò, dẫu cho nó vẫn đứng một chân trong tổ để vừa ngủ vừa canh gác, không, mà đó là cô bé Helga đang thao thức, cô đứng tựa vào ban công ngắm nhìn làn không khí trong vắt với những ngôi sao lớn nhấp nháy, lớn hơn và cũng rạng rỡ thuần khiết hơn so với những gì cô từng nhìn thấy nơi miền Bắc, ấy thế nhưng đó vẫn chính là những ngôi sao đó. Cô nghĩ đến vợ của người Viking sống gần đầm hoang, đến cặp mắt dịu dàng của bà mẹ nuôi, đến những giọt nước mắt bà đã nhỏ vì đứa con-ếch khốn khổ, giờ đây nó đang được bao phủ bởi sự sáng ngời và rạng rỡ của các vì sao bên bờ dòng sông Nile trong không khí mùa xuân tuyệt diệu. Cô nghĩ đến tình yêu bên trong lồng ngực người phụ nữ ngoại đạo ấy, tình yêu mà bà đã thể hiện đối với một tạo vật thảm hại, nó, dưới lốt người, là một con vật độc ác, và dưới lốt một con vật thì trông thật đáng tởm. Cô nhìn các ngôi sao sáng lấp lánh và nhớ đến ánh sáng bừng lên từ vầng trán người chết vào lúc họ bay qua phía trên các cánh rừng và đầm lầy; những thanh âm vang lên trong ký ức cô, những lời mà cô từng được nghe, khi họ lên ngựa ra đi và cô ngồi đó, bị yểm bùa, những lời về nguồn gốc cao vời của tình yêu, tình yêu tối thượng dành cho mọi thế hệ con người.

Đúng! cô đã đạt được, giành được, vươn tới rất nhiều điều lớn lao! Những ý nghĩ của cô bé Helga, cả ban đêm lẫn ban ngày, dùng để suy tư về tổng lượng niềm hạnh phúc của cô và nấn ná chiêm ngưỡng mãi, giống như đứa trẻ mau chóng quay đi khỏi người tặng quà để quay sang vẻ rực rỡ của những gì mà người ấy tặng; theo cách nào đó cô hoàn toàn tan biến vào trong niềm hạnh phúc cứ không ngừng tăng lên, những gì hẳn có thể sẽ đến, rồi sẽ đến; chính là nhờ các phép mầu mà cô đã đạt tới một niềm vui và một niềm hạnh phúc mỗi lúc một lên cao hơn, và một hôm, cô hoàn toàn thả mình vào trong đó, đến mức không còn nghĩ đến Người Trao Tặng nữa. Chính sự bạo dạn của tuổi trẻ đã chơi cho cô một vố! Nó làm ánh mắt cô sáng lấp lánh, nhưng đúng lúc ấy, cô bị giật ra khỏi các suy nghĩ bởi một tiếng động lớn, nó vang lên ngoài sân, phía bên dưới. Cô nhìn thấy ở đó hai con đà điểu to lớn chạy vòng vòng, tạo thành những vòng tròn nhỏ; cho đến khi đó, cô còn chưa bao giờ nhìn thấy loài vật này, một loài chim lớn đến thế, vụng về và ngu ngốc đến thế, cứ như thể cánh của chúng đã bị cắt mất, như thể bản thân con chim đã bị hành hạ ghê gớm; cô hỏi chúng bị làm sao, và lần đầu tiên được nghe một truyền thuyết mà người Ai Cập hay kể về lũ đà điểu.

Xưa kia giống loài chúng tuyệt đẹp, cánh của chúng rộng và khỏe; thế rồi, một tối nọ, những con chim mạnh mẽ của khu rừng nói với nó: “Người anh em! sáng mai, theo ý Chúa, chúng ta có thể bay đến dòng sông để uống nước không?” Và đà điểu đáp: “Tôi muốn thế!” Rạng sáng hôm sau, chúng bay lên, thoạt tiên rất cao về phía mặt trời, tức là con mắt của Chúa, mỗi lúc một thêm cao hơn, đà điểu vượt xa mọi con chim khác; đầy kiêu hãnh, nó bay về phía ánh sáng; nó đặt lòng tin vào sức mạnh của mình, chứ không phải vào người đã ban sức mạnh cho nó; nó không nói: “Theo ý Chúa!”, thế là thiên thần trừng phạt vén tấm màn treo trước biển lửa rực cháy lên, và cặp cánh của con chim liền bốc cháy, nó rơi xuống đất, một cách thảm hại. Nó cùng loài của nó sẽ chẳng bao giờ bay lên được nữa; nó chạy trốn, thấy vô cùng sợ hãi, chạy thành vòng tròn trong một khoảng không gian rất hẹp; chuyện này khiến chúng ta, những con người, muốn, trong tất tật những gì mà chúng ta nghĩ, trong tất tật những gì mà chúng ta làm, đều nói: “Xin theo ý Chúa!”

Và Helga cúi đầu xuống, tư lự, nhìn con đà điểu đang chạy hết tốc lực, thấy nỗi sợ của nó, thấy niềm vui ngu xuẩn của nó trước cái bóng của chính nó in trên bức tường trắng được mặt trời rọi sáng. Trong tâm trí và suy nghĩ của cô, sự nghiêm nghị đã bắt rễ thật sâu. Một cuộc đời phong phú đến như vậy, trong một niềm hạnh phúc tăng tiến, đã được trao, đã được giành lấy… sẽ xảy ra điều gì đây, sẽ còn xảy tới điều gì đây?… Điều tốt đẹp nhất: “Xin theo ý Chúa!”

*
*       *

Đầu mùa xuân, khi lũ cò chuẩn bị lên đường bay về phương Bắc, cô bé Helga cầm lấy cái vòng tay bằng vàng, khắc tên mình lên đó, ra hiệu với bố cò, đeo cái vòng vàng vào cổ nó, nhờ nó mang về cho vợ của người Viking, hẳn nhờ thế bà sẽ hiểu rằng đứa con nuôi của bà vẫn còn sống, nó đang sung sướng và nhớ đến bà.


- Nặng quá! bố cò nói lúc cái vòng được đeo vào cổ nó. Nhưng không được vứt vàng và vinh dự trên đường cái! Ở nơi kia họ sẽ hiểu rằng cò mang lại hạnh phúc!

- Anh thì đẻ ra vàng, còn em thì đẻ trứng! mẹ cò nói, nhưng anh chỉ đẻ được mỗi một lần, còn em, năm nào em cũng đẻ! Nhưng cả hai chúng ta đều chẳng được trân trọng! Bực mình ghê!

- Người ta có ý thức về giá trị của mình, mẹ nó ạ! bố cò đáp.

- Anh chẳng thể đeo cái ý thức đó lên cổ đâu! mẹ cò nói, nó đâu đem tới gió thuận, hay đồ ăn!

Và chúng bay đi.


Con họa mi nhỏ ca hát trong bụi me cũng muốn bay đến phương Bắc; trên đó, gần đầm hoang, cô bé Helga vẫn hay nghe nó hót; cô muốn nó chuyển giúp cô một thông điệp, cô biết ngôn ngữ của chim, kể từ khi cô bay với bộ lông thiên nga, sau đó, cô vẫn thường nói chuyện với cò và chim én, họa mi hiểu được lời cô; và cô nhờ nó bay đến khu rừng sồi trên bán đảo Jutland, tại đó có ngôi mộ đắp đá và phủ cành cây, cô nhờ nó cầu xin mọi con chim nhỏ bảo vệ cho ngôi mộ và không ngừng hót.

Thế là họa mi bay đi - và thời gian cứ thế trôi!

*
*       *

Mùa thu, con đại bàng đậu trên kim tự tháp trông thấy một đoàn dài rực rỡ gồm những con lạc đà chở thật nặng, cùng những người mang vũ khí vận các bộ trang phục quý giá, ngồi trên lưng những con tuấn mã Ả rập, màu trắng sáng lóa như bạc, mũi đỏ rung rinh, bờm dài và thật dày, phủ xuống đến tận bốn chân. Những người khách mời giàu có, một hoàng tử xứ Ả rập, đẹp như một hoàng tử cần phải đẹp, bước vào ngôi nhà kiêu hãnh, nơi giờ đây tổ cò đang để không; lũ cò sống ở đó vào lúc này đang ở một đất nước miền Bắc, nhưng chúng sắp quay về… Và chúng tới nơi đúng vào cái ngày niềm vui và sự nhộn nhịp lên đến đỉnh điểm. Tất tật mọi thứ đều được điểm trang cho đám cưới, và cô bé Helga là cô dâu, mặc váy lụa và đeo đồ trang sức; chú rể là hoàng tử trẻ tuổi xứ Ả rập; họ ngồi ở vị trí danh dự tại bàn, giữa bà mẹ và người ông.

Nhưng nàng không nhìn gò má nâu sậm đầy cương nghị của chú rể, trên đó loăn quăn những sợi râu đen, nàng không nhìn cặp mắt sẫm màu của chàng, trong đó chất chứa ngọn lửa, đang dõi chăm chăm vào nàng, mà nhìn ra bên ngoài, ngẩng đầu về phía ngôi sao nhấp nháy, lấp lánh, tỏa rạng trên trời cao.

Lúc ấy vang lên tiếng đập cánh mạnh mẽ ở bên ngoài, trên không, lũ cò đã trở về; và cặp vợ chồng cò già, mặc dù rất mệt vì chuyến đi và đang cần nghỉ ngơi, ngay lập tức đậu xuống hàng lan can ngoài hiên, chúng biết lý do của bữa tiệc. Ngay từ biên giới đất nước chúng đã hay tin cô bé Helga cho người vẽ chúng lên tường, chúng có vai trò trong câu chuyện của cô.

- Cô ấy tốt quá đi! bố cò nói.

- Vậy thì quá ít! mẹ cò đáp. Cô ấy chẳng thể nào làm ít hơn được nữa đâu!

Và khi Helga nhìn thấy chúng, nàng đứng dậy, chạy ra ngoài gặp chúng nơi hàng hiên, để vuốt lưng chúng. Cặp vợ chồng cò già cúi đầu xuống, và những con cò nhỏ nhất giương mắt nhìn, cảm thấy hết sức vinh dự.

Helga ngẩng lên nhìn ngôi sao sáng lấp lánh đang tỏa xuống một ánh sáng mỗi lúc một mạnh thêm; giữa ngôi sao và nàng, hiện ra một bóng hình, còn trong ngần hơn không khí và bởi vậy mà hiển hiện, bóng hình ấy bay lơ lửng gần sát cô, đó là vị tu sĩ Ki-tô đã chết; cả ông, ông cũng đến dự tiệc, ông từ vương quốc thiên đường tới đây.

- Sự rực rỡ và vinh quang ở nơi đó vượt xa tất tật những gì mà trái đất từng biết! ông nói.

Và cô bé Helga cầu xin, với nhiều dịu dàng và nồng nhiệt hơn so với bất kỳ khi nào nàng từng cầu xin, nàng đòi được nhìn nơi ấy một lần, chỉ một phút duy nhất, nàng chỉ muốn liếc một cái vào vương quốc thiên đường, để được nhìn Đức Chúa.

Thế là ông đưa nàng bay lên vào sự rạng ngời và rực rỡ, trong một đợt sóng âm thanh và suy nghĩ; không phải chỉ bên ngoài nàng mới có ánh sáng và âm nhạc, chúng cũng có cả bên trong nàng nữa. Lời lẽ không thể nào diễn tả được điều này.


- Giờ thì chúng ta phải quay về thôi, họ đang tự hỏi con đâu rồi đấy! ông nói.

- Cho con nhìn thêm nốt một lần thôi! nàng cầu xin, chỉ một phút nữa thôi!

- Chúng ta phải quay trở lại mặt đất, tất cả khách đang đi mất rồi!

- Chỉ một cái nhìn nữa thôi! lần cuối!…


Và thế là cô bé Helga lại ở trên hàng hiên… nhưng mọi đèn đuốc đều đã tắt, mọi ánh đèn trong phòng cưới đã biến mất, lũ cò biến mất, không còn thấy người khách nào nữa, không có chú rể, tất tật như thể đã bị quét sạch đi trong vòng ba phút ngắn ngủi.

Helga hoảng sợ, nàng chạy ngang qua phòng lớn trống trải, vào căn phòng gần nhất, những người lính xa lạ đang ngủ ở đó, nàng mở cánh cửa ngăn dẫn vào phòng nàng, và lúc nàng cứ tưởng đang ở trong đó, thì hóa ra nàng lại ở ngoài vườn… Trước đây, nơi này đâu có giống thế; bầu trời đang ửng đỏ, bình minh tới gần.

Ba phút trên trời nghĩa là cả một đêm của trái đất đã trôi qua!


Nàng nhìn thấy lũ cò; nàng gọi chúng, nói bằng ngôn ngữ của chúng, và bố cò ngoái đầu lại, lắng nghe, rồi tiến lại gần.

- Cô nói ngôn ngữ của chúng tôi! nó nói. Cô muốn gì? Tại sao cô lại đến đây, cô gái xa lạ?

- Nhưng tôi đây mà! Helga đây! ông không nhận ra tôi à? Mới cách đây ba phút, chúng ta vừa nói chuyện với nhau, ở đằng kia, ngoài hiên.

- Nhầm rồi! con cò đáp. Cô đã mơ thấy toàn bộ chuyện ấy!

- Không, không! cô nói và nhắc về pháo đài của người Viking cùng đầm hoang, chuyến đi về đây!…

Bố cò bèn chớp chớp mắt: “Nhưng đó chính là một câu chuyện cũ mà tôi từng được nghe, nó xảy ra vào thời cụ kỵ tằng tổ của mẹ tôi! Ở Ai Cập này đúng là từng có một nàng công chúa từ đất nước Đan Mạch đến, nhưng nàng ấy đã biến mất vào đúng buổi tối diễn ra lễ cưới của nàng ấy, cách đây đã hàng trăm năm và nàng ấy đã không bao giờ quay trở lại! Cô có thể đọc tất tật chuyện ấy ở đây, trong khu vườn, trên công trình kia, nơi khắc hình lũ thiên nga và cò, và tít trên cao, là chính cô, trong đá hoa cương trắng.

Đúng là như vậy. Cô bé Helga nhìn thấy tòa công trình, hiểu ra và quỳ xuống.


Mặt trời sáng rực lên và, cũng như xưa kia, vào lúc, nhờ những tia sáng của nó, bộ da ếch rơi xuống và hiện ra bóng hình đẹp đẽ, giờ đây, thông qua báp-têm của ánh sáng, một bóng hình tràn ngập vẻ đẹp bay lên, sáng hơn, trong hơn làn không khí, một tia sáng… về phía thiên đường.

Thân xác rơi xuống thành cát bụi: còn lại một bông hoa sen héo ở nơi nàng vừa đứng.

*
*       *

- Đó là một cách mới để kết thúc câu chuyện! bố cò nói, ta cũng không hề trông chờ như vậy! nhưng ta đã rất thích nó!

- Lũ nhỏ sẽ nói gì đây? mẹ cò hỏi.

- Đúng thế, đó chính là điều quan trọng nhất! lời của bố cò.






Andersen: Cây đèn đường cũ
Trở về cổ điển: Andersen

17 comments:

  1. Andersen là một trong nhiều diện mạo của Chúa xuống làm người :P
    chắc thế, nên ở đây ông ấy đội lốt con cò.
    cái mũi dài của Người biến thế giới thành mùi hương
    aha

    ReplyDelete
  2. hehe, cái mũi và mặt trăng (Gogol, Nhật ký người điên)

    ReplyDelete
  3. Truyện này ngắn không chú? Nếu ngắn thì cho nó xong luôn đi ạ. Đừng ... To be continued :((

    ReplyDelete
  4. đã nói ngay là truyện này thuộc vào mấy truyện dài nhất của Andersen rồi cơ mà

    đọc "Nữ thần băng giá" chưa đấy?

    tiếp tục

    ReplyDelete
    Replies
    1. Câu chuyện hay quá. Em cảm ơn. Em đã đọc cuốn truyện này ở nhà 1 người bạn khi em học lớp 3 (bây giờ em 37 tuổi :)), em cứ bị ấn tượng bởi bức tranh minh hoạ đầm lầy đen thẫm trên cả 1 trang sách khổ A4, hình con cò mang đứa bé tới nhà người phụ nữ Viking. Nhiều năm trôi qua, em cứ tìm mãi câu chuyện này để đọc lại mà không thể nhớ nổi đó là truyện gì. Hôm nay đọc lại, thấy xúc động vô cùng. Em cảm ơn.

      Delete
    2. mình nữa, mình cũng muốn nói lời cảm ơn nữa:") cảm ơn anh đã chuyển ngữ, giới thiệu thêm những tác phẩm của C.H. Andersen. Love,

      Delete
  5. Đọc blog này khó nhất là đi tìm sợi dây. Nhưng nếu đã tìm được đúng sợi dây rồi thì rất thú. Cứ lần theo sợi dây mà đi không sợ lạc trong rừng thẳm lẫn lún trong đầm lầy. He he he

    ReplyDelete
  6. Chú có lần viết Những câu chuyện thời tiền sử của Moravia là kiệt tác, nó có liên quan đến Andersen không ạ

    ReplyDelete
  7. "...và người ta vẫn hay buộc tội mình là mang trẻ con đến, vậy thì tốt rồi, lần này mình sẽ làm chuyện ấy thật luôn!" Hố hố

    ReplyDelete
  8. Moravia là một kiểu khác, Andersen có một truyện tên tiếng Anh là "What One Can Invent", có lẽ để miêu tả những người như Moravia

    Andersen cũng có một câu chuyện rất đặc biệt về "sợi dây" :p

    tiếp tục

    ReplyDelete
  9. Sáng nay cháu bé lơ tơ mơ mắt nhắm mắt mở vào đọc tiếp, và có thể khóc hạnh phúc như ngày xưa còn bé đọc truyện cổ (tích).
    Cháu bé cảm ơn anh ạ <3
    EMi

    ReplyDelete
  10. cò (và cả thiên nga, chim sẻ) xuất hiện trong rất nhiều truyện của Andersen, nhiều truyện từng được dịch và rất phổ biến trong tiếng Việt, trong truyện "Con gái chúa tể đầm lầy" này và nhiều chuyện khác nữa

    một số "nhân vật" khác cũng thế, chẳng hạn "lính chì" không chỉ có trong một câu chuyện đã quá nổi tiếng

    ReplyDelete
  11. ",đẹp như một hoàng tử cần phải đẹp," - một lời khuyên chí lí.

    ReplyDelete
  12. cuối cùng cũng tìm được đến đây, hẳn là nhờ Bà chúa tuyết

    ReplyDelete
  13. tại tưởng đã biết hết mọi điều về Andersen rồi chứ gì

    ReplyDelete