cái đặc điểm tôn sùng sự trung bình giống nước lụt, thường xuyên ở Hà Nội và đôi khi ở Sài Gòn, lan rộng và chiếm lĩnh, ồ ạt đầy sức mạnh: một trong những nhà văn nước ngoài được sủng ái nhất tại Việt Nam là Erich Maria Remarque, đó là một văn chương rất trung bình (xem ở kia); giải Nobel Văn chương đương nhiên là nguồn cung cấp lớn cho điều này, chẳng hạn Wisława Szymborska: thơ Szymborska quá thường, chẳng hạn nếu đặt cạnh Czesław Miłosz
Showing posts with label roberto-bolano. Show all posts
Showing posts with label roberto-bolano. Show all posts
Sep 4, 2016
May 7, 2014
Roberto Bolaño (2): Mắt Silva
Tặng Rodrigo Pinto
và María và Andrés Braithwaite
Chuyện là thế này: Mauricio Silva, biệt danh Mắt, tìm cách
tránh né bạo lực dù cho làm vậy thì có thể bị coi là một kẻ hèn nhát, nhưng bạo
lực, bạo lực đích thực thì ai mà tránh nổi, ít nhất là chúng tôi, những kẻ sinh
ra ở Mỹ Latinh trong thập niên năm mươi, những người tới lứa đôi mươi khi
Salvador Allende chết.
May 4, 2014
García Márquez
Không phải đến giờ khi Gabriel García Márquez đã mất đi, chủ đề García Márquez và văn chương Mỹ Latinh (ở Việt Nam về cơ bản được khái quát hóa, thật ra là thu giảm kiệt cùng, thành "chủ nghĩa hiện thực huyền ảo") mới là đáng nói, bởi nói gì thì nói, García Márquez là nhà văn nước ngoài hiện diện mạnh mẽ nhất ở Việt Nam trong vòng ba mươi năm vừa rồi.
Jan 6, 2014
Malaparte: tiểu thuyết Kaputt
Malaparte (xem thêm ở đây, đây và đây) gần đây như thể "được phát hiện lại", như một nhà văn xuất sắc hàng đầu châu Âu trong đề tài về Thế chiến thứ hai. Kaputt là tác phẩm lớn nhất của Malaparte.
Cuốn tiểu thuyết gồm sáu phần, mỗi phần có tiêu đề một loài thú: phần 1 Ngựa phần 2 Chuột phần 3 Chó phần 4 Chim phần 5 Tuần lộc phần 6 Ruồi.
Cách nào đó, Malaparte, với sự điên rồ, cái chứng mythomania ấy, như thể báo trước một nhân vật sau này: Roberto Bolaño.
Chuẩn bị cho sự trở lại của Malaparte ở Việt Nam (:p) dưới đây là chương đầu phần đầu của Kaputt.
Cuốn tiểu thuyết gồm sáu phần, mỗi phần có tiêu đề một loài thú: phần 1 Ngựa phần 2 Chuột phần 3 Chó phần 4 Chim phần 5 Tuần lộc phần 6 Ruồi.
Cách nào đó, Malaparte, với sự điên rồ, cái chứng mythomania ấy, như thể báo trước một nhân vật sau này: Roberto Bolaño.
Chuẩn bị cho sự trở lại của Malaparte ở Việt Nam (:p) dưới đây là chương đầu phần đầu của Kaputt.
Jul 7, 2013
Roberto Bolaño (1): Anvers
Năm 2002, Roberto Bolaño, khi ấy sắp qua đời, quyết định cho in cuốn tiểu thuyết Amberes (tức Antwerp, tức Anvers) viết trước đó hai mươi hai năm.
Đây là cuốn sách thuộc loại điên nhất của Bolaño, được viết vào thời kỳ Bolaño mới trải qua giai đoạn thơ ca gọi là "infrarréalisme" mà ông khởi xướng (tồn tại một cách ngắn ngủi) bên Mexico.
Dưới đây là lời tựa cuốn sách viết cho lần in đầu tiên; trong này Bolaño cho biết hồi viết Anvers, ông nghĩ mình sẽ không sống quá 35 tuổi. Sau này, Bolaño đã ăn gian cuộc đời vì sống đến tận 50 tuổi.
Đây là cuốn sách thuộc loại điên nhất của Bolaño, được viết vào thời kỳ Bolaño mới trải qua giai đoạn thơ ca gọi là "infrarréalisme" mà ông khởi xướng (tồn tại một cách ngắn ngủi) bên Mexico.
Dưới đây là lời tựa cuốn sách viết cho lần in đầu tiên; trong này Bolaño cho biết hồi viết Anvers, ông nghĩ mình sẽ không sống quá 35 tuổi. Sau này, Bolaño đã ăn gian cuộc đời vì sống đến tận 50 tuổi.
Mar 13, 2012
Những nhà thơ trở lại
Cái mệnh đề “Việt Nam một cường quốc thơ” mới xuất hiện nhưng có vẻ đã được số đông ngầm thừa nhận trong sự hân hoan chung, tuy nhiên cái mệnh đề ấy có vẻ chông chênh, khó đứng vững nếu nhìn vào cách “cường quốc thơ” đối xử với một số nhà thơ của quá khứ, những phần khúc khuỷu, khó nhọc và khuất lấp của di sản thơ Việt Nam. Khi mà các nhà thơ như Vũ Hoàng Chương, Ngân Giang hay Nguyễn Bắc Sơn vẫn còn chìm trong sự hờ hững của giới thưởng ngoạn và giới nghiên cứu hiện nay, thì tình trạng cũng phi lý giống như giả sử Baudelaire, Bishop hay Ungaretti bị các quốc gia của họ bỏ quên trong góc thờ ơ vào thời hiện tại.
Thế nhưng, các nhà thơ quá khứ, bởi sức mạnh nội tại của mình, vẫn trở lại, và nếu Bùi Giáng trở lại dưới hình thức một dòng lũ ồ ạt ngôn từ (tập “Đười ươi chân kinh”), thì Quang Dũng (tập “Mắt người Sơn Tây”) và Phùng Cung (tập “Xem đêm”) trở lại gây chú ý bởi một khía cạnh hoàn toàn trái ngược: họ nổi bật vì kiệm lời đến đáng ngạc nhiên.
Cho đến nay, nhiều bài thơ của Quang Dũng đã được phổ nhạc, lẽ dĩ nhiên độc giả thơ ở Việt Nam biết đến ông không ít, Quang Dũng của “Mây đầu ô”, của “Em mãi là hai mươi tuổi/Ta mãi là mùa xanh xưa”… nhưng thật ít người nói được về tổng thể sự nghiệp thơ ca của Quang Dũng là như thế nào. Quang Dũng có “Chiêu Quân” từ ngay năm ông 16 tuổi (năm 1937), một bài thơ đẹp lung linh: “Hồ xang hồ xang xự hồ xang/Chiêu Quân nàng ơi lệ dâng hàng”, thế nhưng sau khởi đầu vô cùng hứa hẹn, ông lại không làm nhiều thơ. Điều đặc biệt ở Quang Dũng là đã không làm nhiều thơ như các đồng nghiệp, rất nhiều bài làm rồi ông lại không công bố, dù rằng giờ đây khi đọc, ta có thể thấy những bài thơ mà tác giả “giấu đi” ấy không hề tồi. Tâm hồn thơ Quang Dũng bay bổng (“Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm”) nhưng sự bay bổng ấy không làm giảm bớt đòi hỏi nghiệt ngã mà chính ông hướng vào bản thân mình. Điều ấy có lẽ đóng góp một phần quan trọng làm nên căn cốt một nhà thơ độc đáo bậc nhất thơ ca hiện đại Việt Nam, cái giọng thơ lúc nào cũng một mực hướng tới sự trong vắt của những tầng mây sạch.
Nov 29, 2011
(ghi chép biên tập) Nhà biên tập trong 1Q84
1Q84 có một nhân vật vô cùng hấp dẫn, Komatsu, một nhà biên tập, một người điển hình của mẫu nhà biên tập: ngạo đời, bất chấp nhiều thứ, sẵn sàng tạo dựng các fiasco văn chương, một khi mà đã máu :d Nhưng đặc biệt Komatsu có một năng lực tiên quyết của một nhà biên tập: ngửi một cái là biết văn hay văn dở, có đáng "đầu tư" hay không. Nhân vật này làm tôi nhớ đến nhân vật nhà biên tập của Dublinesca (Enrique Vila-Matas), rồi nhân vật Bubis người in sách cho Archimboldi ở Hamburg, trong 2666.
Nếu quả thực nhà văn chỉ có một câu chuyện rồi cứ kể đi kể lại mãi (ai nói thế nhỉ, Faulkner à, hay Nabokov?) thì cho đến 1Q84, cái câu chuyện mà Haruki Murakami kể đi kể lại mãi là câu chuyện về hai thế giới song song: ta sống ở thế giới này nhưng còn tồn tại một thế giới khác nữa. Đã là như vậy từ mấy bộ tiểu thuyết lớn nhất của Murakami: Biên niên ký chim vặn dây cót, Kafka bên bờ biển, Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới.
Cấu trúc truyện chia làm đôi, một chương kể chuyện này rồi chương kế tiếp kể chuyện khác cũng cho thấy điều đó.
Và những fantasy của Murakami mới thực là đặc trưng cho phong cách của ông. Các tiểu thuyết "hiện thực chủ nghĩa" như Rừng Nauy hay Phía Nam biên giới phía Tây mặt trời như thể là những lúc Murakami "xả hơi", đồng thời kiếm thêm độc giả :p bởi một tác giả theo khuynh hướng fantasy có vẻ sẽ có thể tìm được nhiều độc giả hơn nếu đột nhiên chuyển tông sang kiểu "hiện thực".
Tuy nhiên, trong 1Q84, mặc dù nó rất dài, tôi cảm thấy sức mạnh văn chương của Murakami bị giảm sút, nhất là trong lựa chọn (mà tôi cho là) dễ dãi ở chỗ để miêu tả thế giới song song, Murakami đã lấy ngay hình mẫu về một cộng đồng kiểu utopia.
Vụ fiasco trong giới xuất bản mà 1Q84 kể đại khái là có một cuộc thi nhà văn trẻ, một bản thảo được gửi tới, Tengo, một trong hai nhân vật chính của truyện (nhân vật chính thứ hai là Aomame, "ao" là "thanh", xanh, còn "mame" là đậu, cái tên này với người Nhật nghe rất buồn cười :p), đọc nó, thấy nó quá mức đặc biệt, có cái gì đó, và ý kiến này đã khiến Komatsu cũng đọc, rồi quyết định một vài biện pháp "can thiệp", vì nếu để nguyên thì bản thảo này mắc quá nhiều lỗi sơ đẳng, từ đó mà mở ra thế giới Little People.
(hehe bận việc rồi, để viết tiếp sau)
Cuối cùng cũng tìm được quyển này :p
Nếu quả thực nhà văn chỉ có một câu chuyện rồi cứ kể đi kể lại mãi (ai nói thế nhỉ, Faulkner à, hay Nabokov?) thì cho đến 1Q84, cái câu chuyện mà Haruki Murakami kể đi kể lại mãi là câu chuyện về hai thế giới song song: ta sống ở thế giới này nhưng còn tồn tại một thế giới khác nữa. Đã là như vậy từ mấy bộ tiểu thuyết lớn nhất của Murakami: Biên niên ký chim vặn dây cót, Kafka bên bờ biển, Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới.
Cấu trúc truyện chia làm đôi, một chương kể chuyện này rồi chương kế tiếp kể chuyện khác cũng cho thấy điều đó.
Và những fantasy của Murakami mới thực là đặc trưng cho phong cách của ông. Các tiểu thuyết "hiện thực chủ nghĩa" như Rừng Nauy hay Phía Nam biên giới phía Tây mặt trời như thể là những lúc Murakami "xả hơi", đồng thời kiếm thêm độc giả :p bởi một tác giả theo khuynh hướng fantasy có vẻ sẽ có thể tìm được nhiều độc giả hơn nếu đột nhiên chuyển tông sang kiểu "hiện thực".
Tuy nhiên, trong 1Q84, mặc dù nó rất dài, tôi cảm thấy sức mạnh văn chương của Murakami bị giảm sút, nhất là trong lựa chọn (mà tôi cho là) dễ dãi ở chỗ để miêu tả thế giới song song, Murakami đã lấy ngay hình mẫu về một cộng đồng kiểu utopia.
Vụ fiasco trong giới xuất bản mà 1Q84 kể đại khái là có một cuộc thi nhà văn trẻ, một bản thảo được gửi tới, Tengo, một trong hai nhân vật chính của truyện (nhân vật chính thứ hai là Aomame, "ao" là "thanh", xanh, còn "mame" là đậu, cái tên này với người Nhật nghe rất buồn cười :p), đọc nó, thấy nó quá mức đặc biệt, có cái gì đó, và ý kiến này đã khiến Komatsu cũng đọc, rồi quyết định một vài biện pháp "can thiệp", vì nếu để nguyên thì bản thảo này mắc quá nhiều lỗi sơ đẳng, từ đó mà mở ra thế giới Little People.
(hehe bận việc rồi, để viết tiếp sau)
Cuối cùng cũng tìm được quyển này :p
Apr 5, 2011
Sách (XXVIII) Mùa của kiệt tác
Sau những ngày chán ốm người vì sách vở toàn thứ chán ốm người, Tết nhất cũng đã qua được một lúc lâu lâu rồi, giờ là lúc dạ dày còm cõi của ta chuẩn bị xơi tái những kiệt tác.
Calvino, Bolaño, Kapuściński, Le Carré, Carver, Roth, hòm hòm thế đã.
Còn đây là một đoạn trong Sự thống trị của nam giới, Pierre Bourdieu (La Domination masculine, Lê Hồng Sâm dịch, NXB Tri Thức, "Tủ sách tinh hoa"):
"Toàn bộ đạo đức học của chúng ta, không nói đến mỹ học của chúng ta, nằm trong hệ thống các tính từ chủ yếu, cao/thấp, thẳng/vẹo, cứng rắn/mềm mại, mở/đóng kín, v.v..., mà một bộ phận lớn cũng chỉ rõ các tư thế hoặc các ý hướng của thân thể, hoặc của bộ phận này bộ phận kia của thân thể - "ngẩng cao đầu", "cúi mặt"." (tr. 36)
Ở lĩnh vực này người Pháp chắc chắn là đi rất xa phía sau người Mỹ, French Theory đi sau Théorie Américaine, thành thử ngay từ đầu Pierre Bourdieu đã trích dẫn Judith Butler, cụ thể là khái niệm "performance" (Madame Sâm dịch là "thực hành", nhưng từ này giờ bắt đầu hay được gọi là "biểu hành").
Để biết thêm ngọn nguồn khái niệm habitus của Bourdieu: tham khảo Norbert Elias, cũng là người đặt ra khái niệm "processus de civilisation". Tạp chí Vingtième Siècle số 106, Avril-Juin 2010 đi hẳn một chuyên đề lớn về Elias.
Oct 6, 2010
Sách (XXI) Tức tưởi :)
Nghe rất chi là tức tưởi nhỉ, nhưng thật ra là tôi chỉ muốn nói là đang đọc một quyển này hay kinh dị, của một đồng chí tên rất khiếp, Enrique Vila-Matas, mà những ai hay đọc Magazine Littéraire hẳn đã đọc các bài viết thường kỳ. Quyển tiểu thuyết Dublinesca của Vila-Matas có đề tài vô cùng hiểm hóc nhá: một trong những con quái vật cuối cùng của các nhà xuất bản (editor) thực sự biết thế nào là một tác phẩm văn chương, người đã xuất bản tất tật nhà văn oách nhất của thế kỷ XX, hay nói chuyện với Claudio Magris, bạn bè với Roberto Bolano, từng đứng ở cái ban công lừng danh của Julien Gracq, và có lần đến nhà vợ chồng Paul Auster-Siri Hustvedt rồi cứ ngồi đó mà ngáp :) Tin buồn là tôi chưa đọc xong, mà những quyển như thế này nhiều khả năng là đọc lâu lắm hehe, nên mới chỉ cám cảnh với các chàng Don Quichotte của thế giới xuất bản (Don Quichotte đúng là từ mà Vila-Matas dùng).
Tin buồn thứ hai (hôm nay trời lạnh rầu rầu, toàn tin buồn thôi hic) là sắp đến hạn rồi mà tôi chưa tìm ra được quyển sách nào để review đây, đợt vừa rồi ở Việt Nam có quyển nào hay không các bác?
Tin buồn thứ hai (hôm nay trời lạnh rầu rầu, toàn tin buồn thôi hic) là sắp đến hạn rồi mà tôi chưa tìm ra được quyển sách nào để review đây, đợt vừa rồi ở Việt Nam có quyển nào hay không các bác?
Aug 18, 2009
Strange
Những ghi chép đầu tiên về 2666. Lại xin lỗi các bạn vì bộ này cũng thuộc loại rất đắt :)
“An oasis of horror in a desert of boredom” (Une oasis d’horreur dans un désert d’ennui) câu thơ này là của Baudelaire, trong bài “Le voyage”, được Roberto Bolaño lấy làm đề từ cho cả bộ 2666. Một câu thơ nhưng có đến bốn hàm ý, ngoài nghĩa của chính câu ấy (“Một ốc đảo của kinh hoàng trên một sa mạc buồn chán”): horror và boredom, desert và oasis; theo đúng cách của Baudelaire, dùng horror để khỏa lấp boredom, và sự bao trùm của “sa mạc”. Câu thơ này làm tôi nhớ đến mối quan hệ giữa Sainte-Beuve và Baudelaire. Sainte-Beuve là nhà phê bình lớn nhất thế kỷ XIX của Pháp, với một đặc điểm rất kỳ quặc: là nhà phê bình lớn nhất, nhưng Sainte-Beuve gần như không quan tâm gì đến những nhà văn sau này sẽ được coi là lớn nhất. Công trình quan trọng của Sainte-Beuve là về nhóm Port-Royal, một cái nữa là Chateaubriand, còn lại đọc tuyển tập Sainte-Beuve thì sẽ thấy toàn những cái tên lạ hoắc, có đôi chút tiếng tăm thời ấy nhưng không phải là các tài năng lớn: ví dụ Labiche, do you know him or her? :) Baudelaire rất ngưỡng mộ Sainte-Beuve và có lần thậm chí còn viết thư gần như nài nỉ Sainte-Beuve viết về thơ mình. Ý kiến của Sainte-Beuve về thơ Baudelaire vô cùng nghiệt ngã: Sainte-Beuve so sánh nó với Kamchatka. Ai biết về vùng Siberia thì sẽ hiểu Sainte-Beuve định nói gì.
“An oasis of horror in a desert of boredom” (Une oasis d’horreur dans un désert d’ennui) câu thơ này là của Baudelaire, trong bài “Le voyage”, được Roberto Bolaño lấy làm đề từ cho cả bộ 2666. Một câu thơ nhưng có đến bốn hàm ý, ngoài nghĩa của chính câu ấy (“Một ốc đảo của kinh hoàng trên một sa mạc buồn chán”): horror và boredom, desert và oasis; theo đúng cách của Baudelaire, dùng horror để khỏa lấp boredom, và sự bao trùm của “sa mạc”. Câu thơ này làm tôi nhớ đến mối quan hệ giữa Sainte-Beuve và Baudelaire. Sainte-Beuve là nhà phê bình lớn nhất thế kỷ XIX của Pháp, với một đặc điểm rất kỳ quặc: là nhà phê bình lớn nhất, nhưng Sainte-Beuve gần như không quan tâm gì đến những nhà văn sau này sẽ được coi là lớn nhất. Công trình quan trọng của Sainte-Beuve là về nhóm Port-Royal, một cái nữa là Chateaubriand, còn lại đọc tuyển tập Sainte-Beuve thì sẽ thấy toàn những cái tên lạ hoắc, có đôi chút tiếng tăm thời ấy nhưng không phải là các tài năng lớn: ví dụ Labiche, do you know him or her? :) Baudelaire rất ngưỡng mộ Sainte-Beuve và có lần thậm chí còn viết thư gần như nài nỉ Sainte-Beuve viết về thơ mình. Ý kiến của Sainte-Beuve về thơ Baudelaire vô cùng nghiệt ngã: Sainte-Beuve so sánh nó với Kamchatka. Ai biết về vùng Siberia thì sẽ hiểu Sainte-Beuve định nói gì.
Subscribe to:
Posts (Atom)