Jul 8, 2018

Tiếp tục

Trước hết, để ý thật kỹ cái comment thứ hai tính từ trên xuống ởkia.

Dường như, tôi lại gây ảnh hưởng tới một ai đó hay những ai đó, hay nói đúng hơn, một nhóm người nào đó. Sao? có phải vậy không, hử? Giống i trong truyện Kim Dung, người ta lắm lúc phải buột miệng mà hỏi, "Được phép làm thế hử?"



phần thứ nhất: https://nhilinhblog.blogspot.com/2018/06/muoi-nam-sau-nua-tuc-tu-tuoc-de-bragelonne-1.html

phần thứ hai: https://nhilinhblog.blogspot.com/2018/07/tu-tuoc-de-bragelonne-2.html

(còn đây là phần thứ ba)




Lại nói, Ba-dờ-lôn tử-tước về thăm cha là A-tố tức de La Fère bá-tước rồi, trong thành Blois xảy ra lắm sự nhộn-nhàng. Ngôi khách-sạn Médicis trên Phố Cũ xuất-hiện một lữ-khách bí-hiểm lắm, thân-phận dường không tầm-thường.

Kịp lúc, hoàng-thượng Lô-y Thập-tứ cùng triều-đình cũng tới Blois, nghỉ đêm tại lâu-đài của Hoàng-Thúc Gạt-tông Đoọc-lăng. Ngài-ngự tỏ-lộ vẻ chán-chường trong bữa ăn, bởi lẽ ngài lép-vế quá nếu so với Đức Hồng-y Giáo-chủ de Mazarin. Giữa khi ấy, viên thống-lĩnh ngự-lâm quân giúp ngài thoát được khỏi chốn náo-động để về đi nghỉ. Nhưng trong đêm hôm đó, người lữ-khách ở chỗ Médicis xuất hiện, tỏ-lộ danh-tính và trò-chuyện với Lô-y Thập-tứ.

Lô-y Thập-tứ đi sang chỗ de Mazarin để xin tiền cho người huynh-đệ của ngài. Cuộc trò-chuyện giữa hai ông vua rất bí-mật, nhưng viên thống-lĩnh ngự-lâm quân - chính là Đác-ta-nhăng - đã nghe được trọn-vẹn.





Rồi, lúc ngài đã biến đi mất, ông lắc đầu, cú lắc đầu độc nhất vô nhị chỉ mình ông mới có, và với cái giọng nói mà bốn mươi năm không sống trên xứ Gascogne vẫn không làm mất đi được âm sắc đặc Gát-x-công đó:

- Công với chẳng việc, não quá! ông nói; ông chủ hãm quá!

Nói đoạn, viên thống lĩnh về lại chỗ của ông trong cái ghế bành, duỗi chân và nhắm mắt, vẻ như một người đang ngủ, hoặc cũng có thể là nghĩ ngợi lung lắm.

Trong lúc có cuộc độc thoại thật ngắn cùng là cảnh tượng ngay tiếp theo đó, trong khi nhà vua, ngang qua những hành lang dài của tòa lâu đài cũ, đi về phía chỗ của ông de Mazarin, một sen thuộc loại khác hẳn đương được diễn bên ông giáo chủ.

Mazarin đã nằm lên giường, ngài thấy khó chịu trong người do bị chứng thống phong nó hành hạ cho đau đớn quá, nhưng bởi đó là một con người rất mực quy củ biết kiếm ích lợi từ cả nỗi đau đớn, ngài biến luôn cái sự thụy bất trước thành ra kẻ hầu hạ khúm núm phục vụ cho ngài. Do lẽ ấy, ngài đã sai Bernouin hầu phòng của ngài mang đến một cái bàn nhỏ dùng khi đi xa, rồi ngài cứ việc ngồi trên giường mà viết.

Nhưng thống phong phải đâu là một tên đối thủ chịu thua chóng như vậy, do mỗi khi ngài cử động thì ngài lại thấy đau quá, ngài buột miệng kêu lên:

- Brienne không có đó à, ngươi? ngài hỏi Bernouin.

- Thưa không, bẩm Đức Ngài, viên hầu đáp. Ông de Brienne, được ngài cho nghỉ, đã đi nằm rồi ạ; nhưng nếu Giáo Chủ muốn, ta hoàn toàn có thể lôi ông ta dậy.

- Thôi, cũng chẳng cần. Nhưng mà xem này. Số với chả má, nhiều quá đi!

Và đức hồng y vừa lần ngón tay tính đếm vừa mơ mộng.

- Ôi! số số má má! Bernouin nói. Chà! nếu Đức Ngài cứ tính toán suốt, tôi xin hứa là mai ngài sẽ đau đầu lắm đó! mà ông Guénaud thì lại không có mặt ở đây.

- Ngươi đúng, Bernouin. Nào, giờ ngươi thế chỗ Brienne nhé, bạn của ta. Thật có thế, lẽ ra ta nên đưa ông de Colbert* theo cùng. Cái tay trai trẻ ấy khá, Bernouin ạ, rất khá. Anh ta biết quy củ!

- Dạ, con đâu biết, tên hầu đáp, nhưng con không thích mặt hắn ta, cái kẻ mà ngài thấy là rất khá đấy ạ.

- Được, được, Bernouin! Ai cần anh có ý kiến đâu. Ngồi xuống đây, cầm lấy bút, chuẩn bị viết.

- Con đây rồi ạ, bẩm Đức Ngài. Con phải viết gì đây?

- Chỗ đó, đó, hai dòng đã viết sẵn ấy.

- Đây rồi.

- Viết nhé. Bảy trăm sáu mươi nghìn livre.

- Xong rồi ạ.

- Chỗ Lyon…

Đức hồng y tỏ vẻ ngần ngừ.

- Chỗ Lyon, Bernouin lặp lại.

- Ba triệu chín trăm nghìn livre.

- Rồi ạ, bẩm Đức Ngài.

- Bordeaux, bảy triệu.

- Bảy, Bernouin lặp lại.

- Này! mà phải, hồng y cau có nói, bảy đấy. Rồi, giáo chủ lại nói: Ngươi cũng hiểu nhé, tất tật chỗ này là tiền phải tiêu đi.

- Chà! bẩm Đức Ngài, dầu là tiền phải tiêu hay tiền thu về, thì có quan trọng gì với con đâu, bởi vì những triệu và triệu này không phải là của con.

- Những triệu và triệu này là của đức hoàng thượng; ta đang tính tiền cho hoàng thượng. Nào, chúng ta vừa nói bao nhiêu nhỉ?… Ngươi toàn ngắt lời ta thôi!

- Bảy triệu, Bordeaux.

- À! phải rồi, đúng đúng. Madrid, bốn. Ta phải nói rõ với ngươi tiền này là của ai, Bernouin ạ, vì thiên hạ ngu lắm, cứ tưởng ta giàu ức triệu. Ta ghê tởm cái sự xuẩn ngốc. Một tể tưởng chẳng có gì cho riêng mình sất, vả. Nào, tiếp đi. Những món chung, bảy triệu. Điền sản, chín triệu. Ngươi viết chưa thế hả, Bernouin?

- Rồi ạ, bẩm Đức Ngài.

- Trái khoán, sáu trăm nghìn livre; các loại giá trị khác nhau, hai triệu. À mà! ta quên bẵng: đồ đạc của nhiều lâu đài…

- Có phải ghi rõ là của hoàng thượng không ạ? Bernouin hỏi.

- Không, không, khỏi cần; cái đó được ngầm hiểu luôn rồi. Ngươi viết chưa, Bernouin?

- Rồi ạ, bẩm Đức Ngài.

- Các số thì sao?

- Chúng đã xếp hàng ngay ngắn.

- Cộng vào đi, Bernouin.

- Ba mươi chín triệu hai trăm sáu mươi nghìn livre, bẩm Đức Ngài.

- A! hồng y nói, ngài tỏ vẻ não nuột, còn chưa tới bốn mươi triệu!

Bernouin cộng lại.

- Chưa, bẩm Đức Ngài, còn thiếu bảy trăm bốn mươi nghìn livre nữa thì mới tròn.

Mazarin đòi đưa cho ngài xem, rồi ngài chăm chú nhìn.

- Dạ, cũng vậy mà, Bernouin nói, ba mươi chín triệu hai trăm sáu mươi nghìn livre, con số tốt đấy chứ ạ.

- A! Bernouin ơi, ta cũng muốn hoàng thượng thấy vậy đấy.

- Đức Ngài chẳng vừa nói với tôi ban nãy tiền này là của Bệ Hạ.

- Hẳn đi rồi, quá rõ ràng, quá trong vắt ấy chứ. Chỗ ba mươi chín triệu này đã xong rồi, còn hơn thế nhiều nữa cơ.

Bernouin cười vẻ quái lạ, tức là theo kiểu của người chỉ tin những gì ông ta muốn tin, vừa cười như vậy vừa chuẩn bị đồ uống đêm cho hồng y, rồi thì chỉnh gối trên giường lại cho tề chỉnh.

- Ồ! Mazarin nói lúc người hầu đã đi ra, còn chưa tới bốn mươi triệu! Ấy thế nhưng ta cần đạt tới con số bốn lăm triệu, ta đã tự ấn định vậy rồi. Nhưng có đủ thời gian không nhỉ! Ta đang xuống lắm, ta lại đi xa, chắc chẳng được đâu nào. Vậy nhưng, ai mà biết, rất có thể ta sẽ kiếm được dăm ba triệu từ túi những người bạn Y-pha-nho tốt tính của chúng ta? Bọn họ đã khám phá xứ Peru**, cái bọn người ấy, quỷ tha ma bắt! chắc từ đó vẫn phải còn lại chút đỉnh chứ nhỉ.

Ngài đang bận óc lắm với những con số, chẳng còn nghĩ gì tới chứng bệnh thống phong của ngài nữa rồi, vốn dĩ nó bị thổi bay đi bởi một mối bận tâm mạnh hơn mọi mối bận tâm khác, ở ngài, và miệng ngài thì lẩm bẩm như vậy, thì bỗng Bernouin chạy xộc vào trong phòng, dáng vẻ hoảng hốt.

- Kìa, đức hồng y hỏi, chuyện gì?

- Nhà vua! Đức Ngài ôi, nhà vua!

- Gì kia, nhà vua! Mazarin nói, vội giấu biến tờ giấy của ngài đi. Nhà vua tới nơi này! nhà vua tới vào cái giờ khuya khoắt này! Ta cứ tưởng ngài ấy ngủ từ lâu rồi chứ. Chuyện gì được nhỉ?

Lô y Thập tứ nghe được những lời cuối cùng ấy và nom tỏ dáng điệu hốt hoảng của hồng y nhỏm dậy trên giường, bởi giây phút ấy ngài bước vào trong phòng.

- Không có gì đâu, ngài giáo chủ ôi, hay ít nhất thì cũng chẳng có ý khiến ngài phát hoảng đâu; có một việc này hệ trọng lắm, ngay tối nay ta cần nói với Giáo Chủ, vậy thôi.

Mazarin nghĩ ngay đến nỗi chú tâm lồ lộ của vua lúc trước đối với những lời của ngài nhắc đến cô de Mancini, và ngài xem chừng việc hệ trọng có liên quan tới điều ấy đây. Ngài bèn tĩnh trí liền, lấy dáng vẻ khả ái nhất của ngài, sự thay đổi bộ mặt khiến đức vua tuổi trẻ thấy mầng lòng quá mức, và lúc Lô y vừa ngồi xuống:

- Bệ Hạ, giáo chủ nói, đúng lý ra tôi phải đứng mà nghe thánh ý, nhưng bệnh tình của tôi nặng quá…

- Giữa chúng ta thì đâu cần lễ nghĩa lôi thôi, ngài giáo chủ kính yêu ơi, Lô y nói, ngài tỏ ra trìu mến; ta là đệ tử của ngài, chứ đâu phải vua, vốn dĩ ngài biết rõ điều đó, nhất là tối hôm nay đây, bởi vì ta tới gặp ngài, lúc này đây ta là một kẻ đi cầu xin, một kẻ chỉ muốn khẩn nài, lại còn là một kẻ khẩn nài rất mực khiêm cung, rất mực mong muốn được ngài chiếu cố cho nữa.

Mazarin, thấy vua đỏ mặt, càng tin chắc hơn là mình nghĩ đúng, tức là bên dưới tất thảy những kim ngôn kia có lẩn quất một ẩn ý ái tình. Nhưng một lần này, con người mưu sâu kế hiểm trong chính trị ấy, dầu tinh quái đến đâu, đã nhầm: sự đỏ mặt kia chẳng hề bắt nguồn từ thôi thúc hưng phấn của một thị dục tuổi trẻ, mà chỉ do lòng kiêu ngạo nhà vua bị rúm ró lại đau đớn quá mà thôi.

Lấy bộ dạng ân cần của bề trên, Mazarin tỏ lộ vẻ sẵn sàng nghe lời tâm sự dốc lòng.

- Xin Bệ Hạ cứ nói đi, ngài nói, và bởi Bệ Hạ gia ân mà quên đi trong chốc lát rằng tôi là thuộc hạ của ngài, để mà gọi tôi là thầy của ngài, người giáo huấn cho ngài, tôi xin được bày tỏ với Bệ Hạ lòng kính yêu của tôi, lòng trung tận tụy hết mình của kẻ hèn này.

- Cám ơn, ngài giáo chủ, vua đáp. Điều ta cần hỏi Đức Ngài Giáo Chủ lại còn chẳng đáng gì đối với ngài đâu.

- Ta kệ đi, hồng y đáp, ta kệ thôi, thưa Bệ Hạ. Tôi những muốn Bệ Hạ đòi ở tôi một điều thật hệ trọng, luôn một sự hy sinh thì lại càng tốt… nhưng, dầu cho ngài định yêu cầu tại hạ bất cứ điều gì, thì tại hạ cũng rất sẵn lòng giúp sao cho lòng ngài được trút bỏ nỗi niềm đấy, thưa Bệ Hạ kính yêu.

- Vậy thì, chuyện là như vầy, vua nói, tim ngài đập dữ dội, sự tim đập dữ dội này chỉ tìm được một đối thủ cạnh tranh ngang hàng, là tim của ngài tể tướng đang đập dồn: ta vừa có người anh em của ta, nhà vua Anh-cát-lị, đến yết kiến.

Mazarin nhảy dựng lên trên giường của ngài như thể ngài chạm phải chai điện Leyde, hay cũng có thể là chạm trúng pin Volta, cùng lúc đó, một nỗi sửng sốt, hay nói đúng hơn, một nỗi tức tối hiển hiện nó chiếu sáng rực khuôn mặt của ngài, ánh sáng rực rỡ của lòng giận dữ, khiến cho Lô y Thập tứ, dầu kém tài ngoại giao lắm, cũng thấy ngay quan tể tướng đang trông chờ được nghe một chuyện khác hẳn.

- Charles Đệ nhị! Mazarin kêu lên, giọng khàn đặc hẳn đi, còn miệng ngài thì cong tớn lên tỏ ý khinh miệt lắm. Charles Đệ nhị đã tới yết kiến bệ hạ!

- Hoàng thượng Charles Đệ nhị đấy, Lô y Thập tứ đáp, ngài thân thương chỉnh lại, cái tước hiệu mà Mazarin đã quên bẵng khi nhắc tới người cháu của Henri Đệ tứ. Phải rồi, ngài giáo chủ ôi, ông vua bất hạnh đó đã làm cho ta đây xúc động tâm can lắm, ngài ấy đã kể cho ta nghe về những khốn khó của ngài ấy. Ngài ấy sầu khổ ghê lắm, giáo chủ ạ, và ta thấy thật nặng nề, vốn ta đây từng phải chứng kiến những kẻ tìm cách tranh đoạt ngai vàng của ta, rồi thì, trong những ngày loạn lạc, ta đã buộc phải rời kinh đô của ta; sau rốt, ta thấy nặng nề khi mà ta đây vốn dĩ cũng phải trải qua bất hạnh, ta lại có thể bỏ mặc một người anh em bị tước đoạt mất đi mọi thứ đang trên đường bôn tẩu.

- Kìa! giáo chủ bực bội nói, thì chỉ cần ngài ấy cũng có, giống bệ hạ, một Jules Mazarin ở bên mình thôi! có thế, chắc hẳn vương miện của ngài ấy vẫn cứ còn nguyên đó.

- Ta biết mọi điều gì mà gia đình ta nợ ở Đức Ngài Giáo Chủ, vua kiêu hãnh đáp lời, và hãy tin rằng về phần ta, thưa ngài, ta sẽ chẳng bao giờ quên được nao. Chính bởi người anh em của ta, vua Anh-cát-lị, không có bên mình thiên tài hùng mạnh từng cứu ta, chính bởi thế, ta xin nói, ta những muốn ngài ấy cũng được hưởng ân phúc từ cùng thiên tài đó, ta mong ngài đưa cánh tay của ngài ra mà bảo trợ trên đầu ngài ấy, và ta chắc, thưa ngài giáo chủ, rằng bàn tay ngài, dầu chỉ chạm vào ngài ấy thôi, hẳn sẽ trả lại vương miện cho vừng trán của ngài ấy, vốn dĩ nó đã rơi xuống chân giàn xử giảo mà phụ thân ngài ấy đã phải bước lên.

- Bệ Hạ ôi, Mazarin đáp, tôi xin cảm tạ ngài vì ý tốt ngài dành cho tôi, nhưng chúng ta chẳng có gì để làm ở bên đó đâu: đó là lũ người điên rồ chối Chúa, bọn chúng lại còn cắt thủ cấp các ông vua của chúng nữa đó. Bọn chúng nguy hiểm, ngài cũng thấy đấy, tâu Bệ Hạ, lại còn bẩn thỉu, bởi vì chúng lấm người trong vũng máu hoàng gia và trong thứ bùn liên kết tôn giáo. Cái chính trị đó, chẳng bao giờ tôi thấy ổn thỏa hết, tôi kinh tởm nó.

- Vậy thì ngài có thể giúp chúng ta bằng cách tạo cho ngài ấy một chính trị khác.

- Chính trị nào?

- Trung hưng cho Charles Đệ nhị, chẳng hạn.

- Kìa! Chúa ơi! Mazarin kêu lên, có phải tình cờ mà cái ông vua khốn khổ kia tự đi huyễn hoặc ông ta bằng điều đó?

- Thì đúng, đức vua trẻ tuổi đáp, ngài hoảng sợ trước những nỗi khó khăn, cái ánh mắt sắc bén kia của vị tể tướng dường đã thoáng trông thấy chúng, ở trong cái dự đồ ấy; mà ngài ấy chỉ đề nghị ta giúp, để làm cái việc đó, có một triệu thôi.

- Có vậy thôi. Mỗi một triệu, thưa bệ hạ? hồng y hỏi lại, vẻ châm biếm, cố ý nhè cái giọng Ý-đại-lị của ngài cho thật rõ. Mỗi một triệu thôi nhỉ, người anh em của ta? Cái gia đình toàn lũ ăn mày kia, đi ngay chỗ khác mà kiếm ăn!

- Giáo chủ, Lô y Thập tứ ngửng phắt đầu, nói, gia đình ăn mày đó là một chi của gia đình ta đấy.

- Bệ Hạ có đủ giàu để tặng triệu này triệu nọ cho người khác không vậy? Ngài có triệu và triệu hay chăng?

- Ồ! Lô y Thập tứ đáp, não nề tột cùng, nhưng dầu sao ngài vẫn dụng hết ý chí để ngăn không cho nó hiện ra trên vẻ mặt; ồ! phải rồi, thưa ngài giáo chủ, ta biết là ta nghèo túng, nhưng xét kỹ thì vương miện nước Pháp cũng phải đáng giá tới một triệu chứ, và để làm một hành động tốt đẹp, ta sẽ huy động đến cả vương miện của ta, nếu mà cần. Ta sẽ tìm được lũ Do Thái sẵn lòng đưa cho ta vay một triệu.

- Vậy, thưa Bệ Hạ, ngài nói là ngài cần một triệu? Mazarin hỏi.

- Phải, thưa ngài, quả ta nói thế.

- Ngài nhầm quá, thưa Bệ Hạ, ngài cần hơn vậy nhiều lắm đó. Bernouin!… Ngài sẽ thấy, thưa Bệ Hạ, thật tình thì ngài cần bao nhiêu… Bernouin!

- Gì đó! giáo chủ, vua nói, ông định hỏi ý kiến một tên hầu về công chuyện của ta đó hẳn?

- Bernouin! giáo chủ càng hét to hơn, ngài không tỏ vẻ gì có nhận ra điệu nhục nhã của đức vua trẻ tuổi. Lại gần đây, nói cho ta con số mà ta mới vừa rồi đã hỏi anh, anh bạn.

- Hồng y, hồng y, ông không nghe ta nói gì sao? Lô y tái mặt vì tức giận, hỏi.

- Thưa Bệ Hạ, mong ngài bớt giận; tôi xin được công khai xử lý những chuyện tiền nong của Bệ Hạ. Tất cả mọi người trên đất Pháp này đều biết như vậy cả, những đồng livre của tôi đều minh bạch hết. Lúc nãy ta đã bảo anh làm gì nhỉ, Bernouin?

- Đức Giáo Chủ đã bảo tôi làm một phép tính cộng.

- Ngươi đã làm rồi chứ?

- Bẩm, rồi, thưa Đức Ngài.

- Để coi Bệ Hạ cần một món bao nhiêu vào lúc này có phải chăng? Chẳng phải ta đã nói với anh vậy? Cứ nói đi, anh bạn.

- Quả Ngài Giáo Chủ có nói thế với tôi.

- Nào! tổng số là bao nhiêu?

- Bốn lăm triệu, hình như vậy.

- Và cộng hết những món thu lại, chúng ta được bao nhiêu?

- Ba mươi chín triệu hai trăm sáu mươi nghìn quan ạ.

- Tốt lắm, Bernouin, ta chỉ cần biết có vậy thôi, giờ anh đi ra ngoài đi, hồng y nói, rồi ngài chĩa ánh mắt rực sáng vào đức vua trẻ tuổi, đang câm lặng vì sửng sốt quá.

- Nhưng mà… vua ấp úng.

- A! ngài vẫn còn nghi ngờ, thưa Bệ Hạ, hồng y lại nói. Vậy thì! đây là bằng chứng cho điều tôi vừa nói với ngài.

Rồi Mazarin rút từ dưới cái gối ôm của ngài ra tờ giấy ghi chi chít số, ngài đưa nó cho vua xem, vua ngoảnh đầu đi, ngài thấy lòng mình đau quá.

- Như vậy, vì ngài muốn có một triệu, thưa Bệ Hạ, mà một triệu đó còn chưa được tính vào đây, rồi ra Bệ Hạ cần tổng cộng bốn mươi sáu triệu đó. Mà, chẳng có tên Do Thái nào trên cõi đời này cho vay một món tiền như thế đâu, dẫu có lấy vương miện vua nước Pháp ra làm món cược đi chăng nữa.

Hai bàn tay vua siết chặt lại dưới ống măng sét, đẩy cái ghế bành ra.

- Được rồi, ngài nói, người anh em hoàng thượng Anh-cát-lị của ta sẽ chết đói đấy.

- Bệ Hạ, Mazarin đáp, chẳng hề đổi tông giọng, ngài hãy ghi nhớ câu ngạn ngữ mà tôi xin nói với ngài lúc này, nó nói lên thứ chính trị khôn ngoan hạng nhất đấy: “Nghèo là lốt, nếu thằng khốt nhà bên cũng chẳng giàu”.

Lô y ngẫm nghĩ một lúc, vừa nghĩ ngài vừa tò mò nhìn xuống tờ giấy, một đầu của nó thò ra khỏi cái gối ôm.

- Vậy, ngài nói, không thể có chuyện ngài đồng ý đưa tiền, có phải chăng ngài hồng y?

- Rất đúng, thưa Bệ Hạ.

- Hãy nghĩ, điều này sẽ tạo cho ta một kẻ thù về sau, nếu ngài ấy không cần tay ta mà vẫn đoạt lại được ngai vàng.

- Nếu Bệ Hạ chỉ ngại mỗi chuyện ấy, thì xin ngài cứ an tâm, hồng y đáp liền.

- Được, ta không nhiều lời thêm nữa, Lô y Thập tứ nói.

- Ít nhất thì Bệ Hạ cũng đã tin lời tôi chứ? giáo chủ hỏi, đặt tay ngài lên tay nhà vua.

- Tuyệt đối tin.

- Mọi điều nào khác thì xin Bệ Hạ cứ yêu cầu, tôi sẽ sung sướng thực hiện ngay cho Bệ Hạ, sau khi đã từ chối ngài điều kia.

- Mọi điều khác ư?

- Kìa! vâng, chẳng phải tôi phụng sự Bệ Hạ bằng cả tính mệnh lẫn linh hồn của tôi đấy ư? Nào! Bernouin, mang đuốc và gọi lính gác tới đây cho Bệ Hạ! Bệ Hạ sắp về chỗ của ngài.

- Chưa đâu, thưa ngài, bởi ngài tỏ ra sẵn lòng làm đẹp ý ta, ta sẽ sử dụng nó luôn đây.

- Cho ngài ư, thưa Bệ Hạ? hồng y hỏi, trong lòng ngài hy vọng sau rốt vua cũng sẽ nhắc tới cô cháu gái của ngài.

- Không, thưa ông, chẳng phải là cho ta đâu, Lô y đáp, mà vẫn là cho người anh em Charles của ta.

Mặt Mazarin sạm lại, lão lầm bầm mấy câu gì mà vua không sao nghe rõ.






XI

Chính trị của ông de Mazarin


Thay vì nỗi do dự mới trước đó một khắc giờ, khi mới đến gặp hồng y, giờ ta có thể đọc thấy trong mắt đức vua trẻ tuổi cái ý chí, hẳn để chống lại nó người ta có thể đánh, có thể nện, có thể bẻ gãy, vì nó bất lực, nhưng ít nhất thì nó cũng sẽ giữ lại, giống một thương tích nằm nơi đáy trái tim, kỷ niệm về thất bại của nó.

- Lần này, ông hồng y, chuyện quan hệ tới một việc dễ hơn là tìm ra một triệu.

- Ngài nghĩ thế ư, Bệ Hạ? Mazarin hỏi lại, nhìn vua bằng cái ánh mắt xảo trá nó đọc thấu tâm can con người ta.

- Phải rồi, ta nghĩ vậy, và chừng nào ông biết ta muốn hỏi gì…

- Thế Bệ Hạ nghĩ tôi không biết?

- Ông biết điều ta còn chưa nói?

- Nghe này, thưa Bệ Hạ, sau đây là lời của đích thân cái tay Charles kia…

- Ồ! lạ chưa!

- Nghe này. Bằng như cái lão Ý-đại-lị cú dỉn, hèn đớn kia, ngài ấy đã nói vậy…

- Kìa ông giáo chủ!…

- Ý là vậy, nếu không đúng từng lời. Kìa! Chúa ơi! tôi không trách gì ngài ấy cả đâu, thưa Bệ Hạ; ai mà chẳng nhìn đời qua thị dục riêng của họ. Vậy, ngài ấy đã nói: Nếu lão người Ý hèn đớn từ chối ngài một triệu mà ta đòi ở lão, thưa Bệ Hạ; nếu chúng ta buộc lòng, vì không có tiền, phải bỏ trò ngoại giao, thế thì! chúng ta sẽ đòi lão năm trăm nhà quý phái…

Vua rùng mình, vì hồng y đã chỉ nhầm lẫn về con số mà thôi.

- Phải thế chăng, Bệ Hạ, có phải không nào? quan tể tướng đắc thắng kêu to; rồi ngài ấy lại còn nói thêm những lời châu ngọc nữa, ngài ấy đã bảo: Tôi có nhiều bạn bè ở bên kia eo biển; những bạn bè đó sẵn có rồi, chỉ còn thiếu một viên thủ lĩnh cùng là một lá cờ mà thôi. Chừng nào nhìn thấy tôi, chừng nào thấy lá cờ nước Pháp, họ sẽ liên minh với tôi, bởi họ hiểu tôi được các ngài hậu thuẫn. Các màu trên bộ áo dấu nhà binh nước Pháp đi cùng tôi sẽ đáng giá một triệu mà ông de Mazarin hẳn sẽ từ chối chúng ta. (Vì ngài ấy biết rõ là tôi sẽ từ chối một triệu ấy.) Cùng năm trăm nhà quý phái, thưa Bệ Hạ, tôi sẽ giành chiến thắng, rồi sau đó toàn bộ vinh quang sẽ thuộc về phần ngài. Ngài ấy đã nói như vậy, hoặc gần như thế, có phải chăng? Tất lẽ lại còn thêm nếm vào những lời đó xiết bao ẩn dụ rực rỡ, bao hình ảnh hào nhoáng, bởi cái nhà đó vốn dĩ lắm mồm lắm! Ông bố ngài ấy lên đến đoạn đầu đài rồi vẫn không ngớt miệng nói đấy.

Bồ hôi ngượng ngùng rịn ra trên vừng trán Lô y. Ngài cảm thấy phải ở đây mà nghe người anh em của ngài bị sỉ nhục như vậy thì thật không xứng với cái địa vị của ngài, dầu thế ngài hẵng còn chưa biết làm sao, nhất lại là trước mặt cái người mà ngài từng thấy ai cũng phải quỵ lụy, trong đó tính cả mẫu thân ngài.

Sau rốt, ngài cố gắng rất mực.

- Nhưng, ngài nói, ông hồng y, đâu phải năm trăm người, chỉ hai trăm mà thôi.

- Ngài cũng thấy tôi đã đoán được ngài ấy hỏi gì rồi đó.

- Ta có hề chối đâu, thưa ông, sự ông có cái nhìn sâu sắc quá, và cũng chính bởi thế ta đã nghĩ hẳn ông sẽ chẳng chối từ cho người anh em Charles của ta một điều giản đơn đến vậy, dễ đến vậy, cái điều ta đang xin ở ông đây, nhân danh ngài ấy, ông hồng y ạ, nói đúng hơn là nhân danh ta đấy.

- Thưa Bệ Hạ, Mazarin đáp, tôi làm chính trị ba mươi năm nay rồi. Trước tiên tôi đã làm chính trị với đức hồng y giáo chủ de Richelieu, rồi tôi lại làm một mình. Chính trị đó chẳng phải lúc nào cũng trung thực lắm đâu, phải nhận là vậy; nhưng nó cũng chưa bao giờ vụng lộ. Vả, cái chính trị người ta đang bày cho Bệ Hạ thì lại vừa thiếu trung thực, lại vụng lắm đó.

- Thiếu trung thực ư, thưa ông!

- Bệ Hạ, ngài có một hiệp ước với ông Cromwell đấy.

- Phải rồi; và thậm chí trong bản hiệp ước đó ông Cromwell đã ký tên trên tên của ta.

- Thế tại sao ngài lại ký tên thấp làm vậy, Bệ Hạ? Ông Cromwell đã tìm được một chỗ tốt, thế là ông ta chiếm lấy luôn; ông ta vốn dĩ quen thói ấy. Tôi xin trở lại với ông Cromwell. Ngài đã ký hiệp ước với ông ta, tức là với Anh-cát-lị, bởi lúc ngài ký hiệp ước đó, ông Cromwell chính là Anh-cát-lị.

- Ông Cromwell chết rồi.

- Ngài tưởng vậy thật ư, Bệ Hạ?

- Nhưng rõ là thế mà, vì Richard con trai ông ta đã kế nghiệp, thậm chí lại còn đã từ nhiệm.

- Kia, có thế thật! vào lúc Cromwell chết đi, Richard đã kế nghiệp, rồi đến lượt Anh-cát-lị, chừng Richard đã từ bỏ. Bản hiệp ước cũng thuộc vào luôn món thừa kế, dẫu nó rơi vào tay ông Richard hay vào tay Anh-cát-lị. Vậy, hiệp ước vẫn còn hiệu lực, vẫn giữ nguyên giá trị. Tại sao ngài lại lảng tránh điều đó, Bệ Hạ? Đã có gì thay đổi đâu cơ chứ? Charles Đệ nhị ngày hôm nay muốn điều mà chúng ta đã không muốn cách nay chục năm; nhưng điều này đã được dự liệu từ lâu rồi. Ngài là đồng minh của Anh-cát-lị đó, thưa Bệ Hạ, chứ ngài chẳng hề là đồng minh của Charles Đệ nhị đâu. Chắc chắn là thiếu trung thực, nếu xét từ quan điểm gia đình, khi ký hiệp ước với một kẻ đã hạ lệnh cắt lấy thủ cấp người em rể đức tiên vương phụ thân ngài, rồi thì lại còn đi liên minh với một pắc-lơ-măng vốn ở bên đó hay bị gọi là pắc-lơ-măng Phao Câu; như thế là thiếu trung thực, tôi xin công nhận luôn, nhưng lại không vụng lộ nếu xét trên phương diện chính trị, bởi vì, nhờ có bản hiệp ước đó, tôi đã cứu cho Bệ Hạ, hồi ấy còn nhỏ tuổi, khỏi nạn binh đao chiến tranh bên ngoài, rồi thì tụi Fronde… ngài còn nhớ Fronde, thưa Bệ Hạ (đức vua trẻ tuổi cúi gằm mặt xuống), Fronde thiếu điều đã lợi dụng cái đó để gây ra loạn lớn. Vậy đó, tôi đang tỏ cho ngài thấy thấy sẽ vừa vụng về lại vừa thiếu trung thực nếu lúc này ta chuyển sang đi con đường khác mà không báo gì cho các đồng minh của chúng ta. Hẳn chúng ta sẽ phải chinh chiến, mà phần sai thuộc về phía chúng ta; hẳn chúng ta sẽ phải làm đấy, đáng bị người ta gây chiến, mà đồng thời ta cũng sẽ có vẻ e sợ nó, dầu chính ta đi khích động nó; bởi sự chuẩn y cho năm trăm người, hai trăm người, năm mươi người, mười người, thì vẫn cứ là một sự chuẩn y. Một người Pháp cũng chính là quốc gia luôn; một bộ áo dấu nhà binh, đó là cả quân đội luôn đó. Cứ giả thử, thưa Bệ Hạ, ngài phải chiến tranh với bên Hòa Lan, điều này chẳng chóng thì chầy sẽ chắc chắn xảy ra thôi, hoặc là với Y-pha-nho, chuyện có lẽ sẽ xảy tới nếu hôn sự của ngài hỏng (Mazarin nhìn vua chằm chằm), rồi còn có cả nghìn nguyên do khác nữa có thể làm cho hôn sự của ngài bị hỏng; - kìa! ngài có thể nào tán thành nổi hay chăng, nếu Anh-cát-lị gửi sang cho bên ấy một trung đoàn, một đội lính, thậm chí chỉ một nhóm nhà quý phái người Anh? Nếu chuyện như vậy, ngài có thấy đất nước đó thực tâm mà làm đúng trong hạn giới bản hiệp ước liên minh của nó hay chăng?

Lô y lắng tai nghe; ngài thấy kỳ quá, khi mà Mazarin lại nhắc tới lòng trung tín, lão ta, tác giả của biết bao trò lừa trong chính trị, người ta hay gọi chúng là những trò lừa Mazarin.

- Nhưng sau rốt, vua cất lời, nếu không có chuẩn y lộ quá, ta đâu có thể ngăn cản các nhà quý phái của chúng ta đi sang Anh-cát-lị nếu mà họ thích vậy.

- Ngài phải bắt họ trở về, thưa Bệ Hạ, hoặc ít ra ngài cũng phải phản đối sự hiện diện của họ ở tư cách kẻ thù trên một đất nước đồng minh.

- Nhưng xét cho cùng, kìa, ông, ông hồng y, vốn dĩ ông là một thiên tài sâu sắc là vậy, ta hãy thử tìm một cách nào để giúp ông vua khốn khổ ấy mà vẫn không hại gì đến ta chứ.

- Nhưng đó lại chính là điều mà tại hạ đâu có muốn, Bệ Hạ yêu quý ơi, Mazarin đáp. Anh-cát-lị có làm gì mà lại đúng theo mong muốn của tôi, thì lại càng tốt thôi; từ đây tôi hẳn có thể điều hành chính trị của Anh-cát-lị, tôi sẽ chẳng muốn điều hành theo một cách khác đâu. Nếu cứ được cai trị giống như nó đang được cai trị, Anh-cát-lị đối với Âu châu chính là một cái ổ liên tục sản sinh bất hòa. Xứ Hòa Lan bảo vệ Charles Đệ nhị: ngài cứ để mặc cho Hòa Lan làm vậy đi; bọn họ sẽ tức giận, bọn họ sẽ đánh nhau; chỉ hai nước ấy mới thật mạnh về thủy quân; cứ để mặc cho bọn họ tàn phá quân thủy của nhau đi; chúng ta sẽ xây dựng thủy quân của chúng ta từ tàu thuyền nát tan của cả hai phe, ấy là giả dụ chúng ta có đủ tiền mua đinh.

- Ồ! sao mà mọi điều ông nói với ta đều nhỏ mọn và ti tiện là vậy, ông hồng y!

- Phải rồi, nhưng nó đúng, thưa Bệ Hạ, ngài hãy công nhận đi. Còn chưa hết: tôi vẫn có thể tính đến cái khả năng làm sai lời và vi phạm bản hiệp ước; chuyện này vốn dĩ vẫn hay thấy lắm, người ta làm sai lời và lại còn vi phạm một bản hiệp ước, nhưng ấy là khi ta có lợi ích lớn để làm cái đó, hoặc giả khế ước gây phiền hà cho ta quá đỗi; kìa! ngài cứ thử cho phép làm cái điều mà người ta đang xin ngài đi; nước Pháp, lá cờ của nó, cùng là một thứ mà thôi, sẽ vượt eo biển để chiến đấu; nước Pháp sẽ bị thua đó.

- Tại sao thế?

- Trời ơi, thì bởi Hoàng Thượng Charles Đệ nhị rồi thì trận Worcester đã cho chúng ta thấy rõ là có một tướng quân tài ba lắm.

- Nhưng đâu còn phải đối đầu với Cromwell nữa nào.

- Phải đấy, nhưng sẽ phải đối đầu với Monck, kẻ này nguy hiểm hơn bội phần. Cái tay chuyên buôn bán bia mà chúng ta vừa nhắc là một kẻ ấm đầu, hắn có những khoảnh khắc xuất thần, bừng nở, rồi thì phồng lên to tướng, những lúc như vậy, hắn nứt toác ra, giống một cái thùng tô nô đựng quá đầy; qua các kẽ nứt lúc đó luôn luôn tuôn ra vài giọt suy nghĩ của hắn, chỉ cần căn cứ một mẩu nhỏ thôi là cũng đủ hiểu toàn bộ những nghĩ suy. Bằng cách ấy Cromwell từng để chúng ta hơn chục lần xâm nhập tâm hồn ông ta, dầu người ta cứ tưởng đâu cái tâm hồn đó được bọc ba lớp sắt, như Horace từng nói. Nhưng Monck! A! Bệ Hạ, cầu Chúa khiến ngài đừng có bao giờ phải làm chính trị với ông Monck! Chính hắn là kẻ từ một năm nay gây nên nỗi mọi sợi tóc bạc trên cái đầu tôi đây! Monck chẳng phải một kẻ dấm dớ đâu, thật không may, mà đó là một chính trị gia; hắn chẳng chịu trào ra, mà ngược lại, hắn siết chặt lại mới ghê. Từ cả chục năm nay rồi, tòng lai hắn chỉ chăm chắm vào độc một mục đích, mà còn chưa ai đoán được là cái đích nào đâu. Sáng sáng, theo đúng lời khuyên của Đức Lô y XI, hắn đốt đi mũ bon nê đội đầu ban đêm. Vậy nên, ngày nào mưu đồ hình thành chậm rãi ấy thành tựu trong cô độc, thì nó sẽ thành tựu với đầy đủ mọi điều kiện thành công lúc nào cũng đi kèm với sự bất kỳ ý.

“Monck là như vậy đó, Bệ Hạ ôi, kẻ mà rất có thể ngài còn chưa bao giờ nghe nói tới, kẻ mà có lẽ thậm chí ngài còn chẳng hề biết danh tính, trước lúc người anh em Charles Đệ nhị của ngài, vốn biết kẻ đó như thế nào, nói ra trước mặt ngài, hắn chính là một tuyệt phẩm của sự sâu sắc và kiên gan đấy, chỉ hai điều đó thôi thì trí óc và nhiệt tâm mới bị nhũn ra nếu có khi nào va phải. Bệ Hạ, hồi còn trẻ tôi nhiều nhiệt tâm, trí óc thì đã hẳn lúc nào tôi cũng có. Tôi dám nhận về tôi cái đó, bởi người ta vẫn hay trách tôi về nó. Tôi đã đi một con đường đẹp đẽ nhờ hai phẩm tính ấy, vì từ chỗ là con trai nhà chài lưới bên Piscina tôi đã trở thành tể tướng cho nhà vua nước Pháp, và ở cương vị này, chắc Bệ Hạ sẽ sẵn sàng công nhận, tôi đã phụng sự được ít điều cho ngai vàng của Bệ Hạ. Kìa, thưa Bệ Hạ, nếu như mà tôi gặp phải Monck trên đường, thay vì gặp trên đó ông de Beaufort, ông de Retz hay ngài Hoàng Thân***, thì có lẽ chúng ta đã tiêu đời rồi. Ngài cứ đi mà hứa hẹn một cách nhẹ dạ đi, Bệ Hạ, rồi thì bệ hạ sẽ rơi vào trong móng vuốt của cái tên lính chính trị ấy đó. Cái mũ sắt Monck đội trên đầu, thưa Bệ Hạ, là một cái hòm sắt dưới đáy của nó hắn nhốt chặt những ý nghĩ riêng, mà chẳng một ai có thìa khóa hết. Vậy nên, ở bên hắn, hay nói đúng hơn là ở trước hắn, tôi xin cúi mình, thưa Bệ Hạ, vốn dĩ tôi đây chỉ là một cái mũ nhung mềm oặt mà thôi.

- Vậy, ông nghĩ Monck muốn gì?

- Kìa! giả thử như tôi biết được, thưa Bệ Hạ, thì đã hẳn tôi không bảo ngài phải đề phòng hắn, bởi nếu thế tôi đã mạnh hơn hắn rồi; nhưng với hắn, tôi sợ phải đoán; đoán! ngài có hiểu lời tôi không đó? vì nếu nghĩ là mình đoán được, tôi sẽ trì vào một cái ý tưởng và, dầu chẳng hề muốn, tôi sẽ theo đuổi cái ý đó mãi thôi. Kể từ khi cái kẻ kia nắm quyền ở bên ấy, tôi giống như những kẻ bị đọa của Dante bị Satan vặn ngoéo cổ, đi về phía trước nhưng lại ngoảnh nhìn về sau lưng: tôi đang tiến về phía Madrid, nhưng tôi đâu có ngừng để mắt tới London. Đoán ư, với con quỷ đội lốt người ấy, chính là nhầm rồi lại lẫn, chính là tiêu tùng đấy. Cầu Chúa đừng bao giờ bắt tôi phải tìm cách đoán xem hắn muốn gì; tôi chỉ làm độc một việc, vậy thôi cũng đã đủ rồi, là sai người do thám những việc gì hắn làm; vả, tôi cho - ngài hiểu tầm vóc của chữ tôi cho chứ? tôi cho, trong tương quan với Monck, chẳng nói lên gì sất - tôi cho hẳn là hắn muốn kế nghiệp Cromwell đó. Charles Đệ nhị của ngài từng cử lối chục người tới thương thuyết với hắn; hắn đuổi cổ cả chục người đó đi mà chẳng nói với bọn họ điều gì khác ngoài: “Xéo ngay, nếu không ta sẽ cho treo cổ các ngươi lên đó!” Kẻ ấy, đó chính là một ngôi hầm mộ im ỉm! Vào lúc này, Monck đang chơi trò trung thành với pắc-lơ-măng Phao Câu; cái lòng trung ấy thì chẳng đánh lừa được tôi đâu: Monck chẳng hề muốn bị ám sát. Một vụ ám sát hẳn sẽ chặn đứng hắn lại giữa khi hắn đang thực hiện công trình riêng, mà công trình của hắn cần phải được thành tựu; vậy nên tôi cho, nhưng đừng cho điều tôi cho là đúng nhé, thưa Bệ Hạ; tôi nói tôi cho là theo thói quen thôi; tôi cho Monck dụ khị pắc-lơ-măng cho đến ngày nào hắn đủ sức đập nó tan nát. Người ta hỏi xin ngài những thanh gươm, nhưng ấy là để đánh nhau với Monck đó. Cầu Chúa giúp chúng ta khỏi phải đánh nhau với Monck, thưa Bệ Hạ, vì Monck sẽ đánh giập chúng ta, và bị bại trước Monck, suốt đời tôi sẽ chẳng thể nguôi ngoai nổi nao! Chiến thắng ấy, hẳn tôi sẽ tự nhủ, tên Monck kia đã trù liệu từ cả chục năm rồi. Chúa ơi! Bệ Hạ ôi, vì tình thân với ngài, nếu đó chẳng phải là do coi trọng hắn, Charles Đệ nhị chẳng dám quẫy mạnh đâu; Bệ Hạ cứ việc cấp cho ông ta một món tiền nhỏ ở đây; ngài cứ tặng cho ngài ấy một tòa lâu đài của ngài. Kìa! kìa! hượm đã nào! nhưng tôi lại nhớ đến bản hiệp ước, cái bản hiệp ước lừng danh kia, mà ta vừa mới nhắc xong! Bệ Hạ thậm chí còn chẳng có quyền làm như vậy, tức là tặng cho ngài ấy một lâu đài!

- Sao lại thế được?

- Phải rồi, phải rồi, Bệ Hạ đã cam đoan là mình sẽ không chứa chấp vua Charles, gia dĩ còn phải đuổi ngài ấy ra khỏi nước Pháp nữa. Chính bởi vậy mà chúng ta đã khiến ngài ấy đi khỏi, thế rồi giờ đây ngài ấy quay lại nữa. Bệ Hạ, tôi mong ngài sẽ nói cho người anh em của ngài hiểu, ngài ấy không thể ở lại chỗ chúng ta, điều đó là không thể, làm vậy nghĩa là gây hại cho chúng ta, hoặc là đích thân tôi…

- Đủ rồi, thưa ông! Lô y Thập tứ nói, ngài đứng dậy. Ông cứ việc từ chối đưa tôi một triệu, cái đó là quyền của ông: những triệu và những triệu là của ông; ông cũng cứ việc từ chối trao cho tôi hai trăm nhà quý phái, cả ở đây ông cũng có quyền nốt, bởi vì ông là tể tướng, và ông, trong mắt nước Pháp, ông có trách nhiệm về hòa bình cũng như về chiến tranh; nhưng kể như mà ông định ngăn cản ta, đức kim thượng, nuôi dưỡng chu cấp cho người cháu gọi tiên vương Henri Đệ tứ là ông, cho người em họ của ta, cho người bạn thuở nhỏ của ta! thì nơi này quyền lực của ông kết thúc, nơi đó cũng bắt đầu ý muốn của ta.

- Thưa Bệ Hạ, Mazarin đáp, mầng lòng vì xong được việc mà chỉ mất ít đến như vậy, vả ngài đã hăng hái chiến đấu đến mức đó cũng chỉ nhằm đạt tới điều này; thưa Bệ Hạ, lúc nào tôi đây cũng cúi rạp mình trước ý muốn hoàng thượng của tôi; xin hoàng thượng cứ giữ bên ngài hoặc tại một lâu đài của ngài nhà vua Anh-cát-lị, Mazarin dẫu có biết điều ấy, thì quan tể tướng cũng chẳng biết nỗi nào.

- Chào ông, thưa ông, Lô y Thập tứ nói, ta đi đây, ta não lòng lắm đó.

- Nhưng trong dạ thì rất phục, thưa Bệ Hạ, đó là tất tật những gì mà tôi cần đấy, Mazarin nói.

Vua không nói gì nữa, ngài tư lự rời khỏi đó, lòng ngài bị thuyết phục, chẳng phải trước toàn bộ những gì Mazarin đã nói với ngài, mà ngược lại, đó là về một điều mà ngài đã giữ riêng không nói cho lão, đó là sự nhất thiết phải nghiêm túc nghiên cứu công chuyện của ngài cùng là công chuyện của Âu châu, ngài thấy chúng sao mà khó và tối tăm.

Lô y về, gặp vua Anh-cát-lị ở đúng chỗ ngài để ngài ấy lại.

Nhìn thấy ngài, ông vua nước Anh đứng phắt dậy; nhưng chỉ liếc qua, ngài đã thấy nỗi nản chí nó ghi rõ trên vừng trán người anh họ, bằng nét chữ sầu thảm.

Rồi, cất lời nói trước, chừng như hòng khiến cho Lô y thấy dễ dàng mà thú nhận hơn:

- Dầu chuyện có ra sao, ngài nói, tôi cũng sẽ không bao giờ quên tất tật lòng tốt, tất tật tình thân mà ngài đã tỏ lộ ra với tôi.

- Hỡi ôi! Lô y Thập tứ ấp úng đáp lời, lòng tốt nhưng chẳng đi đến đâu, người anh em ạ!

Mặt Charles Đệ nhị tái nhợt đi, ngài đưa bàn tay lạnh ngắt lên trán, trong phút chốc cố gạt đi một cơn quáng mắt nó khiến chân ngài lảo đảo.

- Tôi hiểu, sau rốt ngài nói, chẳng còn hy vọng nữa rồi!

Louis cầm lấy tay Charles Đệ nhị.

- Hượm đã, người anh em, ngài nói, đừng vội quá nào, mọi sự đều có thể thay đổi; chính những quyết nghị thái quá mới lại hay gây lụn bại cho các ý đồ; ta xin ngài hãy thêm vào cho những năm mà ngài đã phải gánh chịu một năm nữa mà thôi. Vào lúc này không có cơ hội hay điều kiện nào để khiến ngài hành động, thay vì một lúc khác; tới đây với ta, người anh em, ta sẽ tặng cho ngài một chỗ ở, nơi nào mà ngài thích; ta sẽ cùng ngài chúng ta theo dõi các sự biến, chúng ta sẽ cùng nhau chuẩn bị; nào, người anh em, ngài hãy can đảm lên!

Charles Đệ nhị gỡ tay ra, bước lùi lại để cúi chào cho đủ độ kính cẩn:

- Toàn bộ tấm lòng tôi, tôi cảm tạ ngài, vua đáp. Bệ Hạ, nhưng tôi đã cầu xin mà không được kết quả nào từ vị vua vĩ đại trên mặt đất, giờ tôi sẽ hỏi xin Chúa một phép mầu vậy.

Rồi ngài đi ra, không muốn nghe gì thêm nữa, đầu ngửng cao, bàn tay run, khuôn mặt cao quý của ngài rúm lại trong một niềm đau đớn, cùng sự sâu thẳm u tối trong ánh mắt kia, vì chẳng còn tìm nổi hy vọng nơi thế giới của con người nữa, hồ như nó đi luôn để đòi được hy vọng từ các thế giới xa lạ.

Viên thống lĩnh ngự lâm quân, nom thấy ngài mặt mày nhợt nhạt đi qua trước mình, cúi người gần như sát đất để chào.

Rồi, ông cầm lấy một cây đuốc, gọi hai người ngự lâm và đi xuống cầu thang hoang vắng cùng ông vua bất hạnh, tay trái cầm mũ, mấy cái lông quệt xuống các bậc cầu thang.

Ra đến cửa, viên thống lĩnh hỏi vua đi hướng nào, để sai ngự lâm quân đi cùng.

- Thưa ông, Charles Đệ nhị hạ giọng đáp, ông từng quen biết tiên vương phụ thân ta, xin ông nói cho ta biết, ông có từng cầu nguyện cho ngài hay chăng? Nếu quả là có, thì xin ông đừng quên cầu nguyện cho cả ta nữa nhé. Giờ, ta đi một mình thôi, ta xin ông đừng đi theo ta, cũng đừng cử người đi theo ta xa thêm nữa.

Viên thống lĩnh cúi mình, sai mấy người ngự lâm quay trở vào trong cung điện.

Nhưng ông thì vẫn đứng dưới cổng lớn nhìn theo hút Charles Đệ nhị hồi lâu, đức vua biến đi vào bóng tối, chỗ cái phố rẽ ngoặt.

- Với ông vua này, cũng như xưa kia với phụ thân ông ta, ông thì thầm, Athos, nếu ông ấy ở đây, hẳn ông ấy sẽ nói, mà nói rất đúng kia: “Xin chào phế đế!”

Rồi, trở ngược lên cầu thang:

- A! cái công việc ta đương làm đây, sao mà nó tệ hại! mỗi bước ông lại nói một lần. A! ông chủ gì mà hãm quá thể! Sống thế này thì tệ nhọc quá, sau rốt, cũng đã đến lúc ta phải quyết định rồi đây!… Chẳng còn lòng hào hiệp, cũng chẳng còn nghị lực nào nữa sất! ông lại nói. Kìa, ông thầy đã thành công, còn đệ tử thì vĩnh viễn teo tóp mất rồi. Khốn quá! ta sẽ chẳng thể cưỡng lại nổi đâu. Kìa, mấy anh kia, ông nói khi bước vào tiền phòng, các anh nhìn gì tôi thế đó? Tắt đuốc rồi về chỗ của các anh đi! A! các anh định giữ ta! Phải rồi, các anh dòm ngó ta, có phải không nào? Lũ ngây ngô kia! ta có phải là quận công de Guise đâu nào, đi ngay, và không được sát hại ta trong hành lang nhỏ đâu đấy nhé. Vả, ông hạ giọng nói thêm, nếu thế, hẳn đó sẽ là một quyết định, mà người ta đâu còn quyết định được gì nữa, kể từ khi Đức giáo chủ de Richelieu thác đi. A! quỷ thật, đó mới đúng là một người cho ra con người chứ! Đã quyết rồi đây, ngay mai thôi ta sẽ quẳng áo dấu đi luôn!

Rồi, chừng như đổi ý:

- Mà không, ông nói, chưa! Ta hẵng còn một thử thách lớn cần thực hiện, và ta sẽ thực hiện; nhưng đó, ta xin thề, sẽ là thử thách cuối cùng, khốn thật.

Ông còn chưa nói dứt câu thì có giọng nói vẳng ra từ phòng nhà vua.

- Ông đầu lĩnh ngự lâm! giọng ấy bảo.

- Có tôi đây, ông đáp.

- Hoàng thượng muốn gặp với ông.

- Nào, viên thống lĩnh nói, có lẽ là để cho đúng cái điều mà mình đang nghĩ.

Rồi ông bước vào chỗ nhà vua.






XII

Hoàng thượng và viên thống lĩnh ngự lâm quân


Vua vừa nhìn thấy viên thống lĩnh đi vào, ngài liền xua hầu phòng và viên cận thần ra.

- Ngày mai ai sẽ canh gác đó, thưa ông? ngài hỏi.

Viên thống lĩnh cúi đầu xuống, tỏ lộ vẻ lịch thiệp nhà binh, rồi đáp:

- Là tôi, thưa Bệ Hạ.

- Sao cơ, vẫn là ông hả?

- Vẫn tôi.

- Sao mà lại vậy được?

- Thưa Bệ Hạ, lính ngự lâm, khi xa giá, chịu trọng trách canh gác mọi nơi nào dính dáng tới hoàng tộc đó, tức là ngài, thái hậu mẫu thân ngài, cùng là ngài giáo chủ luôn, ngài ấy mượn từ hoàng thượng phần tốt nhất, hay nói đúng hơn, phần đông nhất trong đội lính riêng của Bệ Hạ.

- Còn những người thay?

- Dạ, không có người thay nào, thưa Bệ Hạ, nếu không tính hai chục hay ba chục người được nghỉ, trên tổng số một trăm hai chục. Ở hoàng cung Louvre thì lại khác, nếu như mà ở Louvre thì tôi được nhờ cấp dưới của tôi rồi; nhưng trong những chuyến ngự hành đi xa, thưa Bệ Hạ, ta đâu biết được chuyện bất ngờ nào sẽ xảy tới, mà vốn dĩ tôi đây cũng lại thích công việc của tôi nữa cơ.

- Vậy, ngày nào ông cũng canh gác?

- Và đêm nào cũng vậy, thưa Bệ Hạ.

- Thưa ông, ta không sao chịu nổi điều này, ta muốn ông được nghỉ.

- Rất tốt đấy ạ, thưa Bệ Hạ, nhưng tôi thì lại chẳng muốn.

- Gì? vua nói, mới thoạt đầu ngài không hiểu câu ấy muốn nói gì.

- Tôi nói, thưa Bệ Hạ, rằng tôi không muốn mắc phải điều lầm lỗi nào. Nếu mà quỷ muốn chơi cho tôi một vố, ngài hiểu không, thưa Bệ Hạ, thì bởi nó biết nó phải đương đầu với ai, hẳn nó sẽ chọn lúc nào tôi không có mặt. Công việc phục vụ là trên hết cái đã, rồi thì niềm thanh thản của lương tâm tôi nữa chứ.

- Nhưng cứ làm như vậy mãi, ông ơi, ông sẽ tự giết ông mất thôi.

- Kìa! thưa Bệ Hạ, tôi làm cái nghề này ba lăm năm nay rồi, thế mà tôi là người khỏe khoắn nhất trên toàn đất Pháp cộng thêm đất Navarre đấy ạ. Thêm vào đó, thưa Bệ Hạ, ngài khỏi cần phải lo cho tôi, muôn tâu; tôi thấy vậy thì kỳ quặc quá đi, ấy là bởi tôi không có thói quen.

Vua ngắt ngang giữa chừng cuộc trò chuyện bằng một câu hỏi mới.

- Tức là sáng mai ông sẽ ở đây? ngài hỏi.

- Vâng, cũng như vào lúc này, thưa Bệ Hạ.

Vua bèn rảo bước đi vài vòng trong căn phòng; quá dễ thấy rằng ngài đang rất muốn nói, nhưng một nỗi e ngại chặn lời ngài lại.

Viên thống lĩnh, đứng đó bất động, mũ cầm tay, tay chống nạnh, trô trố mắt nhìn ngài đi vòng vòng không thôi, rồi, vừa nhìn hoàng thượng, vừa lầm bầm, răng cắn lấy hàng ria:

- Ngài ấy chẳng có lấy một li hào nào của cả quyết sất, lấy lời nói danh dự của ta ra mà đảm bảo! Ta hãy đặt cược rằng ngài ấy sẽ không nói.

Vua vẫn đi tiếp, chốc chốc lại đưa mắt liếc nhìn về phía viên thống lĩnh.

- Giống hệt phụ thân của ông ta, viên thống lĩnh lại tiếp tục cuộc độc thoại ngầm; ông ta vừa ngạo nghễ, keo kiệt lại vừa nhút nhát. Ông chủ ơi là ông chủ ơi!

Lô y dừng bước.

- Ông đầu lĩnh? ngài nói.

- Tôi đây, thưa Bệ Hạ.

- Vậy tại sao, tối nay, lúc còn ở bên kia, ông lại hét lên ở trong phòng: “Lính đâu, ngự lâm quân! Mau tới hộ giá hoàng thượng?”

- Bởi vì ngài đã hạ lệnh cho tôi hô như vậy, thưa Bệ Hạ.

- Ta?

- Chính ngài.

- Thẳng ngay mà nói, ta đã hoàn toàn chẳng nói gì sất, ông ơi.

- Thưa Bệ Hạ, người ta có thể ra một mệnh lệnh bằng một dấu hiệu, bằng một cử chỉ, bằng một cái nháy mắt, mà cũng thẳng thừng, cũng rõ mồn một như là nói toẹt ra đó. Một tên hầu cận chỉ có mỗi tai thì mới chỉ là phân nửa một tên hầu cận tốt mà thôi.

- Vậy, mắt ông tinh quá đấy nhỉ, thưa ông.

- Sao thế, thưa Bệ Hạ?

- Vì ông thấy những gì không có.

- Mắt tôi rất tốt, có thế thực, thưa Bệ Hạ, dầu chúng đã phục vụ chủ của chúng thật nhiều, từ rất lâu rồi; thành ra, mỗi khi nào có cái gì đó để chúng nhìn, thì chúng sẽ không khỏi nhìn thấy. Vả, tối nay chúng đã thấy Hoàng Thượng đỏ mặt vì cố ghìm cơn ngáp ngủ; rằng Bệ Hạ đã nhìn rất đỗi nằn nì, trước hết Ngài Giáo Chủ, thứ đến Lệnh Bà Thái Hậu, sau rốt ngài đã nhìn cửa ra vào; và chúng đã nhận rõ tất tật những gì tôi vừa mới kể, tới nỗi chúng còn đã thấy miệng Bệ Hạ mấp mấy lời sau đây: Ai người sẽ đưa ta ra khỏi chốn này?

- Ông ôi!

- Hay ít nhất thì cũng là lời sau: Lính ngự lâm của ta đâu! Thế nên tôi đã chẳng chút ngần ngừ. Ánh mắt ấy là dành cho tôi, lời ấy là dành cho tôi; tôi bèn hét lên: Lính ngự lâm đâu, tới hộ giá Đức Hoàng Thượng! Vả, vậy là đúng quá, thưa Bệ Hạ, cho nên ngài chẳng những không bảo tôi đã sai, mà còn đã cho thấy tôi đúng, vì ngài đi luôn khỏi đó còn gì.

Vua quay mặt đi để mỉm cười; rồi, vài giây sau, ngài lại đưa ánh mắt trong suốt của ngài dõi vào khuôn mặt tinh khôn nhường kia, gan dạ cùng là kiên quyết nhường kia, nom không khác mấy vẻ nhìn nghiêng đầy cương nghị và kiêu hãnh của con đại bàng đang nhìn thẳng vào mặt trời.

- Tốt lắm, ngài nói sau một quãng im lặng, trong đó ngài đã thử nhưng chẳng ích gì, làm mắt của viên thống lĩnh phải cụp xuống.

Nhưng thấy vua chẳng nói gì nữa, đầu lĩnh quay gót đi ra, miệng thì lẩm bẩm:

- Ngài ấy sẽ không nói, khốn thật! ngài ấy sẽ chẳng nói đâu!

- Cám ơn, thưa ông, lúc đó vua nói.

- Nói cho ngay, viên thống lĩnh tiếp, chỉ còn thiếu mỗi nước này nữa mà thôi, tức là bị quở trách chỉ vì không ngu bằng bọn khác.

Ông đã đi ra đến cửa, nện đinh thúc ngựa thật hùng dũng đúng theo lối quân ngũ.

Nhưng tới chỗ ngưỡng cửa, cảm thấy mong muốn của nhà vua kéo ông trở lại, ông ngoái đầu nhìn.

- Bệ Hạ đã nói hết với tôi chưa thế? ông hỏi, giọng là giọng chẳng gì đáp lại cho nổi, và nó, dầu chẳng tỏ vẻ khích động lòng tin của đức vua, chứa đựng xiết bao là vẻ thẳng thắn nó có sức thuyết phục to lớn, đến độ vua đáp liền:

- Nào, thưa ông, ông lại đây.

- Kìa, kìa! viên thống lĩnh lẩm bẩm, sau rốt ngài ấy cũng làm nổi!

- Nghe ta nhé.

- Tôi không để mất lời nào, thưa Bệ Hạ.

- Ông sẽ cưỡi lên ngựa, thưa ông, ngày mai, vào quãng bốn giờ sáng, và ông cho thắng yên cương một con khác cho ta.

- Từ tàu ngựa của Bệ Hạ chăng?

- Không, từ một trong số ngự lâm quân của ông.

- Tốt lắm, thưa Bệ Hạ. Chỉ thế thôi?

- Và ông sẽ đi theo ta.

- Một mình tôi thôi?

- Một mình ông thôi.

- Tôi tới đây kiếm Bệ Hạ, hay tôi sẽ đợi ngài ở đâu đó?

- Ông sẽ đợi ta.

- Ở đâu vậy, thưa Bệ Hạ?

- Chỗ cửa nhỏ của khu vườn.

Viên thống lĩnh cúi đầu, hiểu rằng vua đã nói với ông mọi điều gì ngài muốn nói với ông.

Thật thế, vua hất tay vẻ thân ái bảo ông lui ra.

Viên thống lĩnh ra khỏi phòng vua, trở về ngả mình xuống cái ghế của ông, dáng dấp ông trông rất triết học, tại đó, chẳng hề ngủ thiếp đi, như người ta hẳn sẽ tưởng, nếu nhìn vào giờ giấc đã khuya lắm rồi, ông khởi sự suy nghĩ theo một lối sâu sắc hơn, so với có từng bao giờ ông từng nghĩ.

Kết quả của những suy tư ấy chẳng hề buồn rầu như các suy tư lúc trước.

- Nào, ngài ấy đã bắt đầu rồi, ông nói; tình yêu châm ngài ấy, kích ngài ấy, vậy là ngài ấy bắt đầu dịch chuyển đi rồi! Ở chỗ của mình hoàng thượng não quá đi, nhưng con người ngài ấy có lẽ cũng đáng giá chút gì. Vả, sáng mai chúng ta sẽ thấy tỏ tường… Ồ! ồ! đột nhiên ông kêu lên, ngồi bật dậy, đây rồi, một cái ý tưởng nó mới kỳ vĩ làm sao, khốn thật! và có lẽ sản nghiệp của ta sau rốt cũng đã nằm cả trong cái ý tưởng này!

Sau lời thảng thốt ấy, viên thống lĩnh đứng dậy, đi đi lại lại, tay đút vào túi áo, quanh cái tiền phòng rộng rinh mà ông dùng làm chỗ trú ngụ.

Ngọn nến cháy rừng rực vì bị một làn gió lạnh thổi qua, lọt vào qua những khe cửa và các kẽ cửa sổ, chiếu theo hướng xiên xiên. Nó phát ra một luồng ánh sáng đỏ nhờ, lay động, lúc sáng rực, khi xỉn đi, và trên tường di chuyển cái bóng to lớn của viên thống lĩnh, trông giống như là trong một vở kịch bóng, đeo gươm, mũ thì cắm lông chim.

- Chắc rồi, ông lầm bầm, hoặc ta nhầm lớn, hoặc Mazarin đang chăng ở đó một cái bẫy cho thanh niên đang yêu kia; Mazarin lúc tối nay đã có một cuộc ước hẹn cùng là một địa chỉ, nghe cũng nhộn như đích thân ông Dangeau nói ra vậy. Ta đã nghe tường tận và ta biết ý nghĩa những lời nói. “Sáng mai, lão đã nói, chúng sẽ tới chỗ cầu Blois”. Khốn thật! rõ quá rồi! và nhất là với một anh tình nhân! Bởi vậy mà có nỗi lúng túng kia, bởi vậy mà có sự ngần ngừ kia, bởi vậy mà có cái mệnh lệnh đó: Ông đầu lĩnh lính ngự lâm của ta, sáng mai lúc bốn giờ ta sẽ nhảy lên lưng ngựa. Vậy thì cũng rõ như giả thử ngài ấy bảo ta: Ông đầu lĩnh lính ngự lâm của ta, sáng mai lúc bốn giờ, tại cầu Blois, ông hiểu chứ? Vậy, ở đây có một bí mật Quốc Gia mà ta, thân phận bọt bèo, vào lúc này ta đang nắm giữ. Và tại sao ta lại đang nắm nó? Ấy là bởi mắt ta tinh, như vừa rồi ta đã nói với Hoàng Thượng. Người ta bảo ngài ấy yêu con bé búp bê Ý-đại-lị kia phát rồ! Người ta bảo ngài ấy đã phủ phục xuống dưới chân thái hậu để xin cưới nó! Người ta bảo thái hậu đã phải đi hỏi ý kiến triều đình bên Rome xem liệu chừng một hôn sự như thế có được hay chăng! Ôi! giá ta đây mới chỉ hăm lăm tuổi! giá ta có bên mình, lúc này, những người bạn mà ta chẳng còn nữa nao! giá mà ta không khinh miệt sâu sắc toàn thể thiên hạ, ta gây mối bất hòa giữa ông de Mazarin và thái hậu, giữa nước Pháp và xứ Y-pha-nho, thì hẳn ta sẽ tự tay tạo ra một bà hoàng hậu theo đúng ý của ta; nhưng mà, chậc chậc!

Và viên thống lĩnh bật ngón tay cho chúng kêu tách tách, ý chừng khinh khi lắm.

- Cái lão người Ý thảm hại kia, đồ hèn đớn, cái đồ keo cú bủn xỉn kia, lão vừa từ chối không chịu cho nhà vua Anh một triệu, chắc có lẽ sẽ chẳng cho ta đến nổi một nghìn đồng bích tôn nếu ta đến báo tin cho lão. Ôi! khốn thật! ta đang trở nên ngây ngô như con trẻ! ta đang ngu ngốc quá đi! Mazarin mà lại cho ai cái gì bao giờ, ha! ha! ha!

Và viên thống lĩnh phá lên cười rõ to một mình.

- Ngủ thôi, ông nói, ngủ đi thôi, ngay tắp lự. Tối nay nhiều chuyện nên tâm trí ta mỏi mệt rồi, ngày mai nó sẽ nhìn tỏ tường hơn hôm nay.

Rồi, nói đoạn, ông phủ áo choàng lên người, chẳng lý gì tới ông vua hàng xóm phòng bên cạnh.

Năm phút sau, ông đã ngủ quay lơ, miệng mở hé, để thoát ra từ đó chẳng phải điều bí mật của ông, mà tiếng ngáy vang rền mặc sức mà dội đi dội lại dưới cái vòm cao vút của tiền phòng.






XIII

Marie de Mancini


Mặt trời vừa mới chỉ rọi những tia nắng đầu tiên của nó xuống những cây cối um tùm của khu vườn lớn cùng các chong chóng trên cao của tòa lâu đài, thì nhà vua trẻ tuổi, đã thức dậy từ hơn hai tiếng, hừng hực trong cơn mất ngủ của ái tình, tự tay mở chớp cửa sổ, tò mò nhìn xuống những cái sân của cung điện say ngủ.

Ngài thấy đã tới giờ hẹn: cái đồng hồ lớn trong sân thậm chí đã báo bốn giờ một khắc.

Ngài không đánh thức người hầu phòng, đang ngủ thật say gần đó; ngài tự mặc quần áo, và người hầu kia, hoảng hốt vì cứ tưởng đâu mình đã không làm trọn phận sự, nhưng Lô y đuổi ngay ông ta về phòng, đồng thời ra lệnh phải nín thinh tuyệt đối.

Rồi ngài xuống cái cầu thang nhỏ, đi ra ngoài theo một cửa ngách, ngài nhìn thấy, đứng cạnh bức tường bao quanh khu vườn, một kỵ sĩ, người đó dắt theo cùng mình một con ngựa.

Thật khó nhận rõ hình tích của kỵ sĩ, ông ta mặc áo choàng kín mít và đội mũ sùm sụp trên đầu.

Còn con ngựa, được thắng yên cương theo lối ngựa nhà trưởng giả giàu sang, mắt nhìn có lão luyện cũng chẳng thấy nó có chi đáng lưu tâm.

Lô y bước tới cầm lấy dây cương ngựa; viên thống lĩnh giữ bàn đạp giúp ngài leo lên, nhưng ông vẫn ngồi yên trên lưng ngựa chứ không rời, rồi giọng khe khẽ ông hỏi các mệnh lệnh của Hoàng Thượng.

- Cứ đi theo ta, Lô y Thập tứ nói.

Viên thống lĩnh giật cương cho ngựa chạy sau ngựa của ông chủ, cứ thế họ đi xuôi về phía cây cầu.

Lúc họ đã sang bờ kia sông Loire, thì:

- Ông ơi, vua cất tiếng, giờ phiền ông phóng ngựa đi thật mau cho tới chừng nào ông nom thấy một cỗ xe; thấy rồi thì ông quay lại đây báo cho ta biết; ta sẽ ở lại chỗ này thôi.

- Bệ Hạ có thể cho thần biết vài điều rõ ràng để thần dễ bề nhận ra cỗ xe ấy?

- Cỗ xe ở trên ông sẽ thấy hai nương tử, khả năng nữa là cùng mấy cô hầu của họ.

- Bệ Hạ, tôi sẽ không nhầm; còn có thêm dấu hiệu nào khác nữa chăng?

- Nhiều khả năng xe mang gia huy của ngài hồng y.

- Tốt lắm, thưa Bệ Hạ, viên thống lĩnh đáp, ông chỉ còn chú tâm vào cái đối tượng sắp phải trinh sát mà thôi.

Ông bèn ruổi ngựa phóng gấp, về hướng vua đã chỉ. Mới đi được chưa đầy năm trăm bước ông đã trông thấy bốn con lừa, rồi một cỗ xe hiện ra đằng sau một cái gò đất.

Sau cỗ xe đó rồi lại có một cỗ xe khác nữa.

Nhìn thoáng một cái ông đã chắc đây chính là đoàn người ngựa mà ông đang tìm.

Ông ngoặt cương quay trở lại sau liền, và tiến lại gần vua:

- Bệ Hạ, mấy cỗ xe ở đằng kia rồi. Cỗ xe đầu quả đúng chở hai cô nương cùng nữ nhân hầu hạ; xe thứ hai thì đám gia nhân, đồ dùng, xiêm y xống áo.

- Tốt rồi, tốt rồi đây, vua nói, giọng ngài cảm động lắm. Kìa, kìa, giờ xin ông đến nói với mấy cô nương ấy rằng có một kỵ sĩ của triều đình muốn được vấn an họ riêng.

Thống lĩnh lại lao ngựa đi.

- Khốn thật! vừa lao đi ông vừa nói, cái công việc này sao nó mới mẻ và nhiều vinh dự ghê cơ chứ! Ta mới vừa than thở vì phận bạch đinh, giờ ta đã trở nên tâm phúc của hoàng thượng. Một ngự lâm quân mà vậy, tha hồ cho mi kiêu căng ngạo mạn nhé!

Ông tiến lại gần cỗ xe, ông thực hiện cái bổn phận của người đưa tin phong nhã và lịch duyệt.

Hai cô nương quả đang ngồi trên xe: một cô đẹp lắm, dẫu có hơi gầy; cô kia thì chỉ được trời phú cho ít diễm tuyệt thôi, nhưng mà nàng hoạt bát, trông duyên tệ, trên mấy nếp nhăn nhỏ của vừng trán nàng tập hợp tất tật dấu hiệu của ý chí.

Nhất lẽ, cặp mắt linh động và sắc bén của nàng còn nói năng hùng hồn hơn so với mọi câu ái tình thịnh hành ở cái thời mến chuộng phong nhã ấy.

D’Artagnan nói chuyện luôn với cô nương vừa xong, chẳng hề nhầm lẫn, dầu chúng tôi mới vừa có nói, gái kia có lẽ mới đẹp xinh hơn.

- Thưa quý cô nương, ông nói, tôi là thống lĩnh ngự lâm quân, tôi xin thông báo, trên đường phía trước có một kỵ sĩ đang đợi các cô, muốn được tới vấn an các cô.

Nghe vậy, những lời này ông tò mò xem chúng sẽ gây tác động gì, cô nương mắt đen kêu lên vì sung sướng, thò đầu ra ngoài cửa xe, nom thấy kỵ sĩ đang giong ngựa tới, thò hai tay ra, hét rõ to:

- A! Bệ Hạ yêu quý của thiếp!

Rồi nàng ta òa ngay lên khóc.

Tên xà ích dừng ngựa, mấy cô hầu phòng hoang mang tỉnh giấc dưới cuối cỗ xe, và cô nương thứ hai thì cung kính chào, cái chào hỏi kết thúc bằng nụ cười châm biếm rất mực, mà lòng ghen từng bao giờ có thể họa được ra trên miệng của một nữ nhân.

- Marie! Marie yêu quý! vua kêu lên, vội đưa cả hai tay cầm lấy bàn tay cô nương mắt đen.

Tự tay mở cánh cửa xe nặng nề, ngài hấp tấp kéo nàng xuống xe, gia dĩ nàng chui vào trong vòng tay ôm của ngài trước cả khi kịp chạm chân xuống đất.

Viên thống lĩnh, đứng bên kia cỗ xe, nhìn thấy cùng là nghe thấy tất tật, mà chẳng ai để ý đến.

Vua chìa cánh tay cho cô de Mancini khoác lấy, rồi ra hiệu cho đám xà ích cùng người hầu cứ cho xe đi tiếp.

Đã gần sáu giờ; con đường mát rượi, tươi đẹp; những cây cao lớn tán cành hẵng còn quấn vào nhau lớp nhung tuyết ánh vàng để lọt qua làn sương của buổi sớm mai nó đọng trên đó tựa các viên kim cương bằng chất lỏng, bám nơi những cành run rẩy; cỏ mọc rộn ràng dưới chân những hàng giậu; lũ chim én, đã trở về đây được mấy hôm rồi, bay lượn tạo ra các vòng cung tuyệt diệu giữa bầu trời và mặt nước; một làn gió thơm hương nhờ khu rừng đang giữa kỳ rộ hoa thổi dọc con đường ấy, làm xao động mặt nước sông; tất tật những đẹp tươi đó của ban ngày, tất tật những mùi hương cây cối đó, tất tật những khao khát đó của mặt đất hướng lên trên trời, làm cho cặp tình nhân sao mà ngây ngất, họ bước đi bên nhau, tựa vào nhau, mắt nhìn nhau, tay cầm tay, rồi thì họ, thấy một cái ham muốn chung nó giữ chặt mình lại, không dám cất tiếng nói, ấy là bởi cả hai đương có quá nhiều điều muốn nói với nhau.

Viên thống lĩnh thấy con ngựa bị bỏ lại đang đi lởn nhởn làm cô de Mancini sợ. Ông bèn tận dụng cái cớ để tiến lại gần, tóm lấy con ngựa, rồi đi bộ giữa hai con ngựa, ông giữ chặt chúng, ông không để lọt mất một lời nào, cũng như cử chỉ nào, của cặp tình nhân.

Cô de Mancini là người nói trước.

- A! Bệ Hạ yêu quý, nàng nói, vậy ra ngài không bỏ em đâu nhỉ?

- Không, vua đáp; nàng cũng thấy rồi đấy, Marie.

- Vậy nhưng người ta đã nói rõ nhiều điều cho em: họ bảo chỉ cần chúng ta rời xa nhau, ngài sẽ chẳng nghĩ gì đến em nữa!

- Marie yêu quý, thế nghĩa là tận hôm nay nàng mới nhận ra rằng vây quanh chúng ta là những người chỉ chăm chăm đánh lừa chúng ta?

- Nhưng, Bệ Hạ, thế còn chuyến ngự hành này, rồi lại mối liên minh cùng xứ Y-pha-nho nữa chứ? Người ta sắp cưới vợ cho ngài!

Lô y cúi đầu xuồng.

Cùng lúc đó, viên thống lĩnh có thể nhìn thấy sáng bừng lên trong nắng ánh mắt của Marie de Mancini, lấp lánh như thanh đoản kiếm vừa được rút khỏi bao.

- Và ngài đã chẳng hề làm gì cho tình yêu của đôi ta? cô thiếu nữ hỏi sau một quãng im lặng.

- A! nàng ơi, làm sao nàng lại tin nổi điều đó! Ta đã quỳ gối xuống xin thái hậu mẹ ta; ta đã cầu xin, ta đã năn nỉ; ta đã nói toàn bộ hạnh phúc của ta nằm cả ở nơi nàng; ta đã đe dọa.

- Rồi sao? Marie vội hỏi.

- Rồi! thái hậu mẹ ta đã viết thư gửi sang triều đình bên Rome, rồi người ta phúc đáp, nói rằng hôn sự giữa chúng ta sẽ không được công nhận, rồi thì nó sẽ bị Đức Cha hủy bỏ. Sau rốt, vì thấy không còn hy vọng nào cho chúng ta nữa, ta đã đòi ít nhất thì cũng phải trì hoãn hôn sự giữa ta và con bé kia.

- Điều đó đâu ngăn cản ngài đang ở trên đường đi tới chỗ con bé ấy.

- Nàng muốn gì nào! trước những lời cầu xin của ta, những năn nỉ của ta, những giọt nước mắt của ta, người ta đã lấy đại sự Quốc Gia đáp lại.

- Rồi sao?

- Rồi! thế nàng muốn làm gì đây, hở nàng, khi mà ngần ấy ý chí liên thủ hết lại, để công phản ta?

Đến lượt Marie cúi đầu xuống.

- Vậy, em sẽ phải nói lời vĩnh biệt ngài mãi mãi, nàng nói. Ngài cũng biết là em bị đi đày, người ta chôn vùi em; ngài cũng biết người ta còn làm hơn vậy nữa đó, ngài cũng biết người ta sắp bắt em lấy chồng!

Mặt Lô y tái nhợt đi, ngài đưa tay lên ôm ngực.

- Nếu chuyện chỉ quan hệ tới mỗi cuộc đời của em thôi, thì em đây, vốn dĩ em bị hành hạ đủ điều suốt rồi, chắc em đã nhường bước, nhưng em đã tưởng, nó còn liên quan tới đời ngài, Bệ Hạ yêu quý, và em đã chiến đấu nhằm lưu giữ tài sản cho ngài đó.

- Ồ! phải rồi, tài sản của ta, kho báu của ta! vua thì thầm, có lẽ ngài nói do bị thói phong nhã nó thúc đẩy thì nhiều hơn bởi lòng đam mê xúi giục.

- Ngài giáo chủ hẳn đã chịu nghe, Marie nói, nếu Bệ Hạ nói với ngài ấy, nếu Bệ Hạ nhất định khăng khăng. Hồng y mà được gọi nhà vua nước Pháp là cháu! Bệ Hạ đã thấy chưa nào! Ngài ấy hẳn sẽ sẵn sàng làm mọi điều, kể cả gây chiến tranh; giáo chủ, nếu chắc chắn ngài được cai trị một mình, với tận hai cái cớ, ngài ấy đã dạy dỗ nhà vua và lại còn cho ngài lấy cháu gái của ngài ấy, thì giáo chủ chắc chắn sẽ chiến đấu toàn tâm toàn sức, lật đổ hết mọi trở ngại. Ôi! Bệ Hạ, Bệ Hạ, thiếp xin đảm bảo với ngài điều đó. Còn thiếp đây, thiếp là phụ nữ, thiếp nhìn rõ được mọi điều trong những gì đụng chạm tới ái tình.

Những lời ấy tác động thật mạnh lên vua. Hồ như thay vì làm ngài nổi nỗi đam mê, chúng lại làm nó bị nguội lạnh đi. Ngài bước chậm lại, vội vã nói:

- Nàng muốn gì, hả nàng! mọi chuyện thất bại rồi.

- Ngoại trừ ý chí của ngài, có phải không, Bệ Hạ yêu quý?

- Hỡi ôi! vua đỏ mặt, nói, ta mà có ý chí ư?

- Ôi! cô de Mancini đau đớn thốt thành lời, lòng nàng bị tổn thương bởi câu nói kia.

- Vua chẳng có ý chí nào khác ngoài ý chí mà chính trị truyền sang, ý chí mà đại sự Quốc Gia áp đặt lên.

- Ôi! đó là bởi ngài không có tình yêu! Marie kêu lên; Bệ Hạ, nếu ngài yêu em, thì ngài đã có một ý chí rồi.

Nói đoạn, Marie ngẩng đầu lên dõi chăm chăm vào tình nhân, nàng thấy ngài sao mà nhợt nhạt, trông còn tơi bời hơn một kẻ bị lưu đày sắp phải vĩnh viễn rời xa quê nhà.

- Cứ buộc tội ta đi, vua thì thầm, nhưng không được nói ta không yêu nàng.

Sau câu ấy là một quãng im lặng thật dài, nhà vua trẻ tuổi đã nói những lời đó với một cái tình cảm nó chân thực và sâu sắc.

- Thiếp không sao nghĩ nổi, Bệ Hạ ơi, Marie nói tiếp, vận tới nỗ lực cuối cùng, rằng chỉ mai thôi, ngày kia thôi, thiếp sẽ chẳng còn được gặp ngài nữa; thiếp không thể nghĩ rồi ra thiếp sẽ phải đi thật xa khỏi Paris mà chấm dứt chuỗi ngày buồn thảm của thiếp, rồi thì cặp môi của một lão già, của một kẻ xa lạ sẽ hôn lên bàn tay này đây mà ngài đang nắm ở trong hai bàn tay ngài; không, thật thế, thiếp chẳng thể nào nghĩ đến tất tật chuyện ấy, Bệ Hạ yêu quý, mà quả tim khốn khổ của thiếp không vỡ tung vì tuyệt vọng.

Và, thật thế, Marie de Mancini òa khóc.

Về phần mình, nhà vua, lòng ngài mềm ra, đưa cái khăn tay lên miệng cố kìm một cơn nức nở.

- Xem kìa, nàng nói, mấy cỗ xe đã dừng; chị của thiếp đang đợi thiếp đó, đã cận giờ quá rồi: điều ngài sắp quyết định đây sẽ được quyết định cho cả cuộc đời! Ôi! Bệ Hạ, tức là ngài muốn thiếp sẽ đánh mất ngài? Tức là ngài muốn, Lô y, rằng người con gái mà ngài từng nói: Ta yêu nàng, thuộc về một người khác chứ không phải về ông vua của nàng ta, ông chủ của nàng ta, tình nhân của nàng ta? Ôi! can đảm lên chứ, Lô y! một lời, chỉ một lời thôi! hãy nói đi: Ta muốn! thế rồi cả cuộc đời thiếp sẽ được buộc chặt vào với cuộc đời của ngài, và toàn bộ trái tim sẽ mãi mãi là của ngài.

Vua không đáp.

Marie bèn nhìn ngài, như Didon nhìn Énée tại Champs-Élysées****, hung dữ và ngạo nghễ.

- Vậy thì xin vĩnh biệt, nàng nói, vĩnh biệt cuộc đời, vĩnh biệt tình yêu, vĩnh biệt bầu trời!

Và nàng tiến lên một bước để đi khỏi đó; vua giữ nàng lại, nắm lấy tay nàng, đưa nó lên môi ngài, rồi, bởi nỗi tuyệt vọng vượt lên chiến thắng sự cả quyết dường ngài đã có trong nội tâm, ngài để rơi xuống bàn tay xinh đẹp kia một giọt nước mắt nóng bỏng đầy tiếc nuối, nó làm Marie giật nảy người như thể quả đúng giọt nước mắt ấy thiêu đốt nàng.

Nàng nhìn cặp mắt ướt của vua, vừng trán nhợt nhạt của ngài, cặp môi nhăn rúm của ngài, rồi nàng kêu lên, bằng cái giọng không bút nào tả xiết:

- Ôi! Bệ Hạ, ngài là vua cơ mà, ngài thì khóc, còn em thì đi đây!

Nhà vua chỉ đáp lại bằng cách giấu mặt ngài vào cái khăn tay.

Viên thống lĩnh phát ra một tiếng gầm làm kinh sợ hai con ngựa.

Cô de Mancini, lòng đầy phẫn nộ, đi khỏi chỗ nhà vua đứng và vội vã leo lên xe, nàng hét lên với tên xà ích:

- Đi, đi nhanh!

Tên xà ích vâng lời, ra roi quất ngựa, và cỗ xe nặng nề rùng rùng trên mấy cái bánh kêu ken két, trong lúc đó vua nước Pháp, một mình cô lẻ, rũ rượi, suy sụp, chẳng dám nhìn ra cả phía trước lẫn sau lưng ngài.






XIV

Ở thiên này, cả vua lẫn thống lĩnh ngự lâm quân cho thấy mình giỏi nhớ


Lúc nhà vua, vậy là giống mọi con người vướng ái tình trên đời, thẫn thờ hồi lâu đăm đắm nhìn về phía chân trời, nơi đó cỗ xe chở theo tình nương của ngài mất hút dần đi; chừng ngài đã xoay đi nhìn lại cả trăm lần cùng về một hướng, rồi thì rốt cuộc cũng bình tâm được chút ít, thoát chút ít khỏi nỗi náo động cùng là suy nghĩ của ngài, ngài cũng nhớ ra ở đây không chỉ có mình ngài.

Viên thống lĩnh vẫn dắt ngựa, ông vẫn chưa đánh mất hết hy vọng được chứng kiến nhà vua đổi ý.

- Vẫn còn có cách đấy, đó là nhảy lên lưng ngựa ra roi mà rượt theo xe; chờ đợi thì có bao giờ mất gì đâu.

Nhưng trí tưởng tượng nơi đầu lĩnh ngự lâm quân quá mức rực rỡ, quá mức phong nhiêu; nó vượt quá xa so với trí tưởng tượng của ngài ngự, ngài cố giữ mình sao cho khỏi lao vào cái sự xa xỉ quá lắm ấy.

Ngài chỉ làm một việc, đó là bước lại gần viên thống lĩnh, rồi ngài cất giọng buồn nản:

- Nào, ngài nói, ta xong việc rồi… Lên ngựa thôi.

Viên thống lĩnh cũng bắt chước tư thái ấy, sự chậm rãi ấy, nỗi buồn bã ấy, chậm chạp leo lên lưng con ngựa của ông. Vua thúc ngựa phóng đi, viên thống lĩnh theo sau.

Lên đến cầu, Lô y ngoái lại sau để nhìn lần cuối. Viên thống lĩnh, nhẫn nại như một vị thần có cả vĩnh cửu ở trước mặt, cả ở đằng sau nữa, vẫn hy vọng sẽ có một sự dâng trào của lòng cương nghị. Nhưng hy vọng như vậy chỉ vô ích, chẳng xảy ra chuyện gì sất. Lô y đã về tới cái phố dẫn lên lâu đài và đi vào đó đúng lúc chuông báo bảy giờ.

Vua về rồi, người ngự lâm quân cũng đã nom thấy, bởi ông thấy mọi điều, một góc tấm thảm khẽ vén lên chỗ cửa sổ của hồng y, ngài thở dài đánh sượt, giống một người mới được nới lỏng sợi dây trói quá chặt, ngài hạ giọng bảo:

- Ông thống lĩnh, ta mong chuyện vậy là đã xong!

Vua gọi nhà quý phái cận thần.

- Ta sẽ không tiếp ai trước hai giờ, ngài nói, ông đã nghe rõ chưa?

- Tâu Bệ Hạ, viên cận thần đáp, nhưng có người đòi vào yết kiến đấy ạ.

- Ai?

- Thống lĩnh ngự lâm quân.

- Vẫn cái người đã đi cùng ta?

- Vâng, thưa Bệ Hạ.

- A! vua nói. Cứ để ông ta vào.

Thống lĩnh vào.

Vua phất tay, cận thần cùng người hầu phòng ra.

Lô y đưa mắt nhìn theo cho đến lúc họ đã khép cửa lại, các tấm thảm đã rơi xuống sau lưng họ:

- Ông tới làm ta nhớ ra một chuyện, thưa ông, vua nói, ta đã quên không bảo với ông, tức là phải giữ thật kín chuyện.

- Ô! Bệ Hạ, tại sao Hoàng Thượng lại phải nhọc công bảo với hạ thần điều đó? rõ là ngài còn chưa biết tôi rồi.

- Vâng, thưa ông, quả đúng thế; ta biết ông là người kín đáo; ấy là bởi lúc trước ta còn chưa đả động…

Viên thống lĩnh cúi mình.

- Bệ Hạ không còn gì để nói với tôi nữa? ông hỏi.

- Không, ông ạ, ông có thể lui.

- Tôi có được phép không làm điều ấy trước khi nói chuyện với hoàng thượng không?

- Ông muốn nói gì? Ông nói đi, thưa ông.

- Thưa Bệ Hạ, là một điều chẳng có nghĩa lý gì với ngài, nhưng tôi thì hết sức quan tâm. Xin thứ lỗi vì tôi lại đi nói nó với ngài. Nếu không vì gấp gáp, vì cần thiết quá, thì hẳn tôi đã chẳng bao giờ làm vậy rồi, thì hẳn tôi đã biến mất ngay, câm lặng và nhỏ tí xíu, đúng như tôi mọi khi.

- Gì cơ, biến mất! Ta không hiểu ông nói gì.

- Thưa Bệ Hạ, nói ngắn gọn, viên thống lĩnh đáp, tôi đến để xin từ biệt Bệ Hạ.

Vua tỏ ra sửng sốt, nhưng viên thống lĩnh cứ đứng yên như bức tượng.

- Ông xin nghỉ, hả ông? thế bao lâu, xin ông nói?

- Nghỉ luôn đó, thưa Bệ Hạ.

- Gì, ông muốn thôi phục vụ ta, hả ông? Lô y hỏi, dáng điệu ngài lộ ra nhiều hơn cả vẻ sửng sốt.

- Dạ, chính thế.

- Không thể.

- Thưa Bệ Hạ, nhưng lại đúng vậy đó: tôi già rồi; đã từ ba mươi tư, cũng có thể ba mươi lăm năm nay, tôi mặc áo dấu cưỡi trên lưng ngựa; đôi vai khốn khổ của tôi mỏi lắm rồi; tôi cảm thấy cần nhường chỗ cho những kẻ trẻ trung hơn tôi. Tôi không thuộc về thế kỷ mới! một chân tôi vẫn còn ở lại nơi thế kỷ cũ; thành ra mọi điều đều lạ lẫm trong mắt tôi, mọi điều đều gây cho tôi nỗi sửng sốt, làm tôi quay cuồng đầu óc. Nói ngắn gọn! tôi xin có vinh dự được từ biệt Bệ Hạ!

- Ông ơi, vua nhìn viên thống lĩnh nói, vốn ông mặc cái áo choàng trông còn nhẹ nhõm lắm, đủ sức khiến trai trẻ phải thấy ghen lòng, ông khỏe hơn, mạnh mẽ hơn ta nhiều đó.

- Ồ! viên thống lĩnh đáp, nở nụ cười khiêm nhường vờ vịt. Bệ Hạ nói với tôi điều đó là do mắt tôi còn tinh, chân tôi còn vững, do chỗ tôi cưỡi ngựa còn thạo và ria của tôi vẫn còn đen; nhưng, thưa Bệ Hạ, tất tật đó chỉ là ảo vọng, chỉ ảo vọng mà thôi; là ảo tượng tất đó, vẻ bên ngoài, sương khói cả, Bệ Hạ ôi! Trông tôi vẫn còn khí trẻ, quả đúng thế, nhưng trong tâm can thì tôi đã già, chỉ sáu tháng nữa mà thôi, cái này tôi chắc lắm, tôi sẽ sụm, sẽ oặt, sẽ sập. Vậy cho nên, thưa Bệ Hạ…

- Ông ơi, vua chen ngang, ông hãy nhớ những lời của ông hôm qua; ông nói với ta, cũng chính chỗ này đây, rằng ông được thiên phú cho sức khỏe hạng nhất trên toàn đất Pháp, rằng ông chẳng biết gì tới nỗi mệt mỏi, rồi thì ông không lý gì đến cái chuyện ngày đêm phải túc trực canh gác. Ông đã nói với ta vậy, đúng hay chăng? Ông hãy nhớ lại đi nào, thưa ông.

Viên thống lĩnh thở dài.

- Thưa Bệ Hạ, ông đáp, tuổi già vốn nó phù phiếm lắm, cần phải tha thứ cho những lão già, chúng cứ hay tự tán dương, bởi chẳng ai còn ca ngợi chúng nữa. Tôi đã nói những điều đó, có thể lắm; nhưng sự thật là, thưa Bệ Hạ, tôi đã rất mệt mỏi, tôi xin được quy khứ.

- Ông ơi, vua nói, ngài đưa tay về phía viên thống lĩnh, vẻ của ngài trông vừa uy nghi lại khéo, ông đang không nói cho ta biết nguyên do thực rồi; ông muốn thôi phục vụ ta, cái đó đúng, nhưng ông đang che giấu nguyên do cho việc ấy.

- Thưa Bệ Hạ, ngài hãy tin rằng…

- Ta tin những gì mà ta thấy, thưa ông; ta thấy một con người cương nghị, mạnh mẽ, đầy trí tuệ, người lính giỏi nhất của nước Pháp, có lẽ, và cái nhân vật ấy sẽ không thuyết phục được ta rằng ông cần nghỉ ngơi đâu.

- A! thưa Bệ Hạ, viên thống lĩnh chua chát nói, sao mà nhiều lời ngợi ca thế! Bệ Hạ nhầm về tôi rồi, thật đấy! Cương nghị, mạnh mẽ, trí tuệ, can đảm, người lính giỏi nhất của toàn quân đội! nhưng, thưa Bệ Hạ, hoàng thượng đã quá lời về chút phẩm chất nhỏ mọn của tôi, đến mức mà dầu tôi có tự coi trọng bản thân tôi tới mức nào, tôi cũng chẳng tự nhận ra chính tôi được nữa đó. Giá kể là người đủ mức phù phiếm dầu chỉ để tin phân nửa lời của Bệ Hạ thôi, thì hẳn tôi đã xem tôi như một kẻ nào quý báu lắm, nhất thiết lắm; giá có vậy, tôi hẳn sẽ nói, một kẻ bề tôi, chừng hắn hội tụ được ngần ấy phẩm chất ngời sáng, quả là một kho tàng châu báu vô giá. Nhưng mà, Bệ Hạ ôi, cả đời, điều này hạ thần phải nói, trừ mỗi hôm nay thôi, theo thiển ý của hạ thần, hạ thần toàn bị coi trọng dưới mức mà hạ thần xứng đáng. Tôi xin nhắc lại điều ấy, Bệ Hạ quá lời mất rồi.

Vua cau mày, vì ngài nom thấy một vẻ giễu cợt đang nở nụ cười chua chát nơi đáy sâu những lời của viên thống lĩnh.

- Kìa, ông ơi, ngài nói, nào ta nói thẳng vào chuyện đi. Ông hãy nói, phục vụ ta là điều ông không thích, hẳn? Nào, không được vòng vo, ông hãy nói thật mạnh, thật thẳng, ta muốn vậy.

Viên thống lĩnh, được một lúc đã cuộn cái mũ lại trong tay, dáng vẻ lúng túng, ngẩng đầu khi nghe ngài nói thế.

- Ôi! Bệ Hạ, ông đáp, được vậy thì tôi thấy thoải mái hơn chút ít đấy. Trước một câu hỏi thẳng thừng là thế, tôi cũng sẽ đáp rất thẳng thừng. Nói đúng là việc tốt, cả ở chuyện ta được khoái thú vì trút hết nặng nề trong lòng, lẫn ở điều, như vậy là hiếm lắm đó. Vậy, tôi xin được nói sự thật với hoàng thượng, dám xin ngài lượng cả bao dong thứ cho cái tội thẳng thắn, của một tên lính già.

Lô y nhìn viên thống lĩnh, ngài tỏ lộ vẻ lo lắng nó biểu hiện ra bằng nét nóng nảy trong điệu bộ ngài.

- Nào, vậy thì, nói đi, ngài bảo; ta rất nóng lòng muốn nghe các sự thật mà ông cần phải nói cho ta.

Viên thống lĩnh vất cái mũ của ông lên một cái bàn, rồi mặt ông, vốn dĩ trông đã rất láu và rất nhà binh, đột nhiên có một vẻ gì đó lạ thường nó kỳ vĩ và trang trọng lắm.

- Thưa Bệ Hạ, ông nói, tôi ngừng phục vụ hoàng thượng là bởi tôi bất mãn. Kẻ hầu, vào thời nay, có thể kính cẩn tiến lại gần ông chủ của hắn giống như tôi đang làm đây, mang tới công việc đã xong, trả các thứ dụng cụ cùng là tiền nong đã được giao từ trước, rồi nói: Ông Chủ ôi, tôi xong việc ngày hôm nay rồi đó, ông trả tiền cho tôi đi, rồi chúng ta chia tay nhau.

- Ông ơi, ông ơi! vua kêu lên, mặt ngài tím lại vì giận.

- A! thưa Bệ Hạ, viên thống lĩnh đáp, hơi khuỵu chân xuống, chưa từng bao giờ có kẻ hầu cận nào nhiều lòng tôn kính được như hạ thần đang ở trước mặt Bệ Hạ đây đâu; chỉ hiềm, ngài đã ra lệnh cho tôi phải nói sự thật. Nhưng, giờ đây tôi mới chỉ bắt đầu nói thôi, thì ngài đã hùng lên rồi, khác nào ngài lại ra lệnh bắt tôi phải im đi luôn.

Trên nét mặt viên thống lĩnh nổi rõ lòng cả quyết tới nỗi Lô y Thập tứ chẳng cần phải bảo thì ông đã nói tiếp rồi; trong lúc ông nói, vua nhìn ông, mặt ngài tỏ lộ nỗi hiếu kỳ trộn chung với ngưỡng mộ.

- Thưa Bệ Hạ, đã sắp tròn ba lăm năm, như tôi nói lúc nãy, tôi phụng sự hoàng tộc nước Pháp; ít người từng dùng đến nhiều thanh gươm bằng tôi trong công việc ấy lắm, mà gươm tôi nói đây, thưa Bệ Hạ, tuyền là gươm hảo hạng thôi đấy. Tôi từng trẻ con, tôi từng ngờ nghệch trước mọi điều, duy chỉ không ngờ nghệch với lòng can đảm, đang vậy thì đức tiên vương phụ thân ngài đoán định được ở nơi tôi một kẻ nam nhi. Tôi đang là một nam nhi, thưa Bệ Hạ, thì đức giáo chủ de Richelieu, vốn ngài tinh ý lắm, đoán định ở nơi tôi một kẻ thù. Thưa Bệ Hạ, câu chuyện về nỗi hiềm khích giữa con kiến và con sư tử ấy, hẳn ngài có thể đọc được từ dòng đầu tiên cho tới tận dòng sau rốt trong tàng thư mật của gia đình ngài đó. Nếu có bao giờ ngài bỗng nổi lên ham muốn đó, xin ngài hãy làm, thưa Bệ Hạ; câu chuyện ấy cũng đáng được đọc lắm, tôi xin nói với ngài như vậy. Ở trong đấy ngài sẽ đọc rằng con sư tử, mệt mỏi, uể oải, thở hổn hển, sau rốt thì xin tha, rồi thì, cũng cần phải công bằng với sư tử, nó cũng tha thứ nữa đó. Ôi! đó là một thời thật tươi đẹp, thưa Bệ Hạ, đầy rẫy những trận chiến, giống một thiên anh hùng ca của Le Tasse, của Arioste vậy. Những kỳ quan của thời đại ấy, mà thời của chúng ta hẳn sẽ chẳng chịu tin nỗi nào, đối với chúng tôi chỉ rặt là chuyện tầm phào mà thôi. Suốt năm năm trời, ngày nào tôi cũng là đấng anh hào, ít nhất thì đó cũng là điều vài nhân vật xứng danh từng bảo cho tôi biết; và vậy là dài lắm đấy, Bệ Hạ cứ tin lời tôi, một câu chuyện hào hùng dài tận những năm năm! Dầu vậy, tôi tin những lời các người ấy nói với tôi, bởi đó là những người giỏi thưởng thức lắm: họ mang tên ông de Richelieu, ông de Bức-king-gâm, ông de Beaufort, ông de Retz, cũng là một thiên tài rất rắn, cái ông đó, trong cuộc chiến trên phố phường! sau rốt, đức tiên vương Lô y Thập tam, rồi cả hoàng hậu nữa chứ, mẫu thân cao quý của ngài, từng có hôm ngài bảo tôi rằng: Cám ơn! Tôi chẳng còn nhớ rõ tôi từng có niềm sung sướng được phụng sự điều gì cho ngài nữa đâu. Xin thứ lỗi cho tôi, thưa Bệ Hạ, vì tôi ăn nói bạo dạn thế này; nhưng những gì tôi đang kể cho ngài đây, tôi đã có vinh hạnh được nói với Bệ Hạ rằng, đó là lịch sử.

Vua bặm môi, ngồi phịch xuống một cái ghế bành.

- Tôi đang khiến Bệ Hạ bận lòng, viên thống lĩnh nói. Kìa! thưa Bệ Hạ, sự thật là vậy đấy! Đó là một kẻ đồng hành rất khó chơi, người nó cắm tua tủa đinh sắt; nó gây thương tích cho những ai mà nó chạm vào, đôi khi cả những ai kể nó ra nữa.

- Không, ông ơi, vua đáp; ta đã bảo ông cứ nói, vậy thì ông cứ nói.

- Sau khi phụng sự hoàng thượng và giáo chủ, là tới đoạn phụng sự kỳ nhiếp chính, thưa Bệ Hạ; tôi cũng đã đánh nhau rất tợn hồi Fronde, dầu có kém hơn so với lần trước. Con người ta bắt đầu có vóc dáng nhỏ lại. Dẫu có thế, tôi cũng đã dẫn đầu lính ngự lâm của Bệ Hạ đôi ba dịp nhiều hiểm nguy, giờ vẫn còn được lưu truyền trong đội đấy. Số phần của tôi từng đẹp đẽ gớm! Tôi từng là sủng thần của ông de Mazarin đó: Thống lĩnh tới đây! thống lĩnh ra kia! thống lĩnh đi sang phải! thống lĩnh hãy quay sang trái! Ngài ấy từng chẳng hề nện cú nào trên đất Pháp mà kẻ hạ thần hèn mọn này của ngài không đảm đương công việc thực thi đâu nhé; ấy thế nhưng ngài ấy sớm chẳng còn hài lòng chỉ với riêng nước Pháp nữa, ngài giáo chủ! ngài ấy từng cử tôi sang bên Anh-cát-lị để lo chuyện ngài Cromwell. Lại thêm một ngài nữa chẳng mấy dịu dàng, tôi xin đảm bảo với ngài điều đó, thưa Bệ Hạ. Tôi đã có vinh hạnh được quen biết ông ta, và tôi đã có thể trọng thị ông ta. Tôi đã được người ta hứa hẹn rất nhiều điều cho vụ đó; vậy nên, bởi trong vụ đó tôi làm khác hẳn những gì người ta bảo tôi làm, cho nên tôi được trả hậu lắm, sau rốt tôi được phong làm chưởng cơ ngự lâm quân, tức là ở cái địa vị gây cuộc ganh đua khủng khiếp nhất tại triều đình, cái địa vị dẫn người ta thẳng tới tước vị thống chế nước Pháp; và vậy là công bằng lắm, vì nói chưởng cơ ngự lâm thì cũng có nghĩa nói bông hoa của lính tráng, có nghĩa ông vua của những kẻ hiệt kiệt đó!

- Ông thống lĩnh, thưa ông, vua đáp, ông nhầm đó, thống lĩnh thôi chứ nhỉ.

- Không hề, thưa Bệ Hạ, chẳng bao giờ tôi nhầm; Bệ Hạ cứ tin lời tôi ở điểm này: ông de Mazarin đã trao cho tôi chỉ dụ phong chức đó.

- Rồi sao?

- Nhưng ông de Mazarin, vốn dĩ ngài biết rõ hơn ai hết còn gì, có mấy khi cho đi cái gì đâu, thậm chí đôi lúc ngài ấy còn lấy lại những gì ngài ấy cho đi: ngài ấy lấy lại nó của tôi khi hòa bình đã lập lại và ngài ấy không còn cần đến tôi nữa. Chắc chắn rồi, tôi đâu xứng thế chỗ ngài Tê-vinh-bá hào kiệt nức tiếng; nhưng sau rốt, người ta từng hứa với tôi, người ta từng trao cho tôi, vậy thì cũng phải giữ lời chứ.

- Đó là điều làm ông bất mãn đấy ư, thưa ông? Chà, ta sẽ tìm hiểu. Ta ưa chuộng sự công bằng, mà đòi hỏi của ông, dẫu được nói theo lối nhà binh quá lắm, ta thích đấy.

- Ôi! thưa Bệ Hạ, viên thống lĩnh đáp, Hoàng Thượng hiểu sai tôi rồi, giờ tôi chẳng đòi gì nữa đâu.

- Ông quá khiêm nhường, thưa ông; nhưng ta muốn xem xét công chuyện của ông, và sau này…

- Ôi! thưa Bệ Hạ, ngài nói gì vậy! Sau này! Đã ba chục năm nay tôi sống bằng mấy chữ sao mà tốt lành vậy rồi, mấy chữ được nói ra bởi xiết bao nhân vật lớn, rồi vừa xong miệng ngài cũng lại thốt ra. Sau này! chính bởi vậy mà tôi đã phải lĩnh hai chục vết thương, cũng là nguyên do khiến tôi đã năm mươi tư tuổi rồi mà túi chưa từng có đến một đồng lô y và chưa từng bao giờ có nổi một người bảo trợ trên đường đi, mà tôi đây vốn dĩ từng bảo vệ ngần ấy con người! Vậy nên, tôi xin được thay đổi lời nói, thưa Bệ Hạ, chừng nào người ta bảo tôi: Sau này, kể từ giờ, tôi sẽ đáp: Ngay tức khắc. Tôi đòi là đòi được nghỉ ngơi đó, thưa Bệ Hạ. Cái đó thì nên ban cho tôi đi thôi: nó chẳng buộc ai phải mất gì.

- Ta không hề trông đợi sẽ phải nghe thứ ngôn ngữ ấy, thưa ông, nhất lại là từ một người từng lúc nào cũng sống bên những bậc tai to mặt lớn. Ông quên mất rằng ông đang nói chuyện với vua, với một nhà quý phái cũng có dòng dõi cao sang như ông, ta tưởng thế, và chừng nào ta nói sau này, thì đó chính là một sự chắc.

- Tôi đâu dám ngờ, thưa Bệ Hạ; nhưng sau đây sẽ tới đoạn chót cái sự thật khủng khiếp mà tôi phải nói với ngài: Chừng nào thấy trên cái bàn này cây gậy thống chế*****, thanh gươm của nguyên súy, vương miện xứ Ba Lan, thay vì mấy chữ sau này, thì tôi xin thề với ngài, thưa Bệ Hạ, tôi sẽ vẫn còn nói ngay tức khắc. Ồ! xin Bệ Hạ bỏ quá cho, tôi là người cùng quê với tiên vương Henri Đệ tứ ông nội ngài đó: tôi không thường nói, nhưng đã nói, thì tôi sẽ nói cho hết.

- Hồ như, thưa ông, ông chẳng mấy đoái hoài đến tương lai kỳ trị vì của ta, thì phải? Lô y cao ngạo hỏi.

- Lãng quên, đâu đâu cũng chỉ lãng quên! viên thống lĩnh kêu lên, vẻ cao quý; ông chủ quên mất kẻ hầu, và thế rồi đến lúc kẻ hầu buộc lòng phải quên ông chủ của hắn. Tôi đang phải sống trong một thời đại bất hạnh, thưa Bệ Hạ! Tôi nom thấy tuổi trẻ chất chứa sự nản chí, nỗi sợ, tôi thấy nó nhút nhát và thảm thê, trong khi lẽ ra nó phải giàu có và hùng mạnh. Ví như, đêm qua tôi mở cửa phòng của vua Pháp cho một ông vua Anh quốc mà tôi, kẻ hèn mọn này, thiếu điều thì tôi đã cứu được phụ thân, nếu Chúa không giở dói chơi xấu tôi, Người đã truyền ân điển cho Cromwell được Người lựa chọn! Tôi đang nói, tôi mở cánh cửa kia, tức là cung điện của một người anh em, cho một người anh em, rồi tôi chứng kiến, kìa, Bệ Hạ, cái đó làm tim tôi thắt cả lại! và tôi chứng kiến tể tướng của ông vua ấy đuổi người phát vãng đi, lại còn làm nhục chủ của lão ta bằng cách kết án một ông vua khác, ngang hàng với ngài, phải chịu cảnh khốn cùng; sau rốt tôi thấy đức hoàng thượng của tôi, còn trẻ, lại đẹp đẽ, can đảm, trong tim rất gan dạ, mắt thì rực sáng, tôi chứng kiến ngài ấy run lên trước một tên thầy tu cười khẩy vào ngài ấy từ sau tấm rèm cửa sổ phòng của lão, tại đó lão nằm trên giường mà tiêu hóa tất tật vàng của nước Pháp, sau đó lão giấu biến nó vào những hòm những rương xa lạ. Phải rồi, tôi hiểu ánh mắt ngài, thưa Bệ Hạ. Tôi đang táo gan đến tận mức của điên rồ đây; nhưng ngài muốn gì kia chứ! tôi là một thằng già, tôi xin nói với ngài, hoàng thượng ôi, những điều chắc hẳn tôi đã tống ngược trở lại vào họng kẻ nào dám cả gan nói ra trước mặt tôi. Sau rốt, ngài đã hạ lệnh cho tôi trút cho sạch nỗi lòng tôi, thưa Bệ Hạ, vậy nên tôi đang bày ra dưới chân Bệ Hạ nỗi phẫn uất tôi đã thu nhặt về từ ba chục năm trời, giống như hẳn tôi sẽ bày ra tất tật máu trong người tôi nếu Bệ Hạ ra lệnh bảo tôi làm thế.

Chẳng nói chẳng rằng, vua đưa tay chùi những dòng thác lũ bồ hôi lạnh đang túa ra hai bên thái dương ngài.

Phút im lặng theo liền sau những lời nói hào hùng ấy đối với kẻ vừa nói, đối với luôn cả người vừa nghe, tương đương hàng thế kỷ của đau thương.

- Ông ơi, sau rốt vua cất lời, ông đã nói ra cái từ lãng quên, ta đã chỉ nghe thấy mỗi chữ đó mà thôi; vậy nên ta sẽ chỉ đáp lại nó. Những người khác từng có thể chóng quên, nhưng ta thì không, bằng chứng cho điều đó là ta hẵng còn nhớ một ngày hỗn loạn, một ngày đám dân chúng nổi điên, rồ dại và náo động giống như biển, chúng lao vào Hoàng Cung; sau rốt, một ngày ta đã vờ ngủ ở trên giường, chỉ một người, gươm tuốt trần, ẩn mình đằng sau đầu giường của ta, săn sóc cho tính mệnh ta, sẵn sàng liều mạng mình vì ta, giống như ông ta từng hai chục lần liều mạng mình vì những người trong gia đình ta. Có phải nhà quý phái ấy, lúc đó ta đã hỏi tên ông ta, tên là ông d’Artagnan, có phải chăng?

- Bệ Hạ nhớ giỏi đó, viên thống lĩnh lạnh lùng đáp.

- Ông thấy chưa, vua lại tiếp, nếu ta nhớ kỹ được đến vậy những chuyện hồi ta còn bé, thì ở cái tuổi lý trí đã mạnh mẽ rồi ta còn nhớ được tới mức nào nữa.

- Bệ Hạ đã được Chúa hào phóng thiên phú cho rất nhiều, viên thống lĩnh vẫn giữ nguyên giọng nói không đổi.

- Nào, ông d’Artagnan, Lô y nói tiếp, tỏ lộ vẻ náo động rất mực, phải chăng ông sẽ không kiên nhẫn được bằng như ta? phải chăng ông sẽ không làm cái điều mà ta làm? xem nào.

- Thế ngài làm gì vậy, thưa Bệ Hạ?

- Ta đợi.

- Bệ Hạ thì có thể làm thế, ngài còn trẻ lắm; còn tôi, thưa Bệ Hạ, tôi đâu có thời gian để mà đợi: tuổi già đã lấp ló sau cánh cửa của tôi rồi, cái chết đi liền sau nó, nó đang dõi ánh mắt vào tận sâu trong nhà tôi. Bệ Hạ mới bắt đầu cuộc đời; ngài có đầy hy vọng và vận hạn rồi sẽ tới; nhưng còn tôi, thưa Bệ Hạ, tôi đã ở tận đầu bên kia đường chân trời, và hai ta ở cách nhau xa đến nỗi chắc chẳng bao giờ tôi đợi nổi cho đến lúc Bệ Hạ tới được chỗ của tôi đâu.

Lô y đi một vòng quanh phòng, tiếp tục đưa tay chùi bồ hôi, chắc cái món này sẽ gây kinh hãi cho các ngự y, nếu như mà các ngự y chứng kiến vua ở vào tình trạng như thế.

- Được rồi, ông ơi, Lô y Thập tứ nói, giọng ngài nhát gừng; ông muốn về nghỉ? ông sẽ được như nguyện. Ông xin từ chức thống lĩnh ngự lâm quân?

- Tôi xin khiêm nhường đặt nó dưới chân ngài, thưa Bệ Hạ.

- Chỉ vậy thôi là đủ rồi. Ta sẽ ra lệnh tính tiền hưu cho ông.

- Xin được muôn vàn đội ơn Bệ Hạ.

- Ông ơi, vua lại nói, ngài đang phải hết sức cố gắng, ta nghĩ ông đang để mất một ông chủ tốt đấy.

- Còn tôi, tôi chắc chắn về điều ấy, thưa Bệ Hạ.

- Có bao giờ ông gặp được một người giống vậy chăng?

- Ôi! thưa Bệ Hạ, tôi đây biết rõ Bệ Hạ là duy nhất trên cõi đời chứ; vậy nên kể từ nay tôi sẽ chẳng còn phụng sự ông vua nào trên đời nữa, tôi cũng sẽ không có ông chủ nào khác ngoài tôi ra.

- Ông nói vậy?

- Tôi xin thề với Bệ Hạ như thế.

- Ta sẽ nhớ lời này, ông ạ.

D’Artagnan cúi người.

- Ông cũng biết ta nhớ giỏi, vua lại nói.

- Vâng, thưa Bệ Hạ, thế nhưng tôi những mong trí nhớ ấy hư hại đi vào giờ phút này, ở nơi Bệ Hạ, để mà ngài quên đi các khốn cùng tôi vừa bày ra cho ngài thấy. Hoàng Thượng ở địa vị cao vời, cách quá xa những kẻ hèn mọn và khốn khó, thành thử tôi hy vọng…

- Sự uy nghiêm của ta, ông ơi, sẽ làm giống như mặt trời, nó thấy mọi sự, dầu là lớn hay nhỏ, giàu có hay khốn nạn, trao nguồn sáng cho những người này, hơi ấm cho những kẻ khác, cuộc sống cho tất tật. Xin từ biệt ông, ông d’Artagnan, từ biệt, ông được tự do.

Rồi vua, với tiếng nức nở khàn đặc u uất trong cuống họng, vội đi sang phòng bên cạnh.

D’Artagnan cầm lấy mũ để trên bàn, rồi đi ra.







XV

Kẻ phát vãng


D’Artagnan còn chưa đi xuống hết cầu thang thì vua gọi viên cận thần.

- Ta có việc cần nhờ ông đây, ông ơi, ngài nói.

- Hạ thần xin tuân thánh chỉ.

- Đợi đó nhé.

Rồi nhà vua trẻ tuổi viết bức thư sau đây, viết nó ngài phải thở dài hơn một lần, dầu cùng lúc một cái gì giống cảm giác chiến thắng sáng lấp lánh lên trong mắt ngài.


“Thưa đức giáo chủ,

“Chính nhờ những lời khuyên nhủ chí tình của ngài, lại nữa, nhất là nhờ lòng kiên quyết của ngài, ta đã thắng được, đã chế ngự được ở nơi ta một nỗi yếu đuối không xứng với một vị vua. Ngài đã rất mực khéo léo xếp đặt phần số của ta, lòng biết ơn của ta bởi vậy không thể ngăn ta lại vào cái lúc gia dĩ có thể tàn hoại công trình của ngài. Ta đã hiểu là ta nhầm lẫn nếu định tâm khiến chệch cuộc đời ta ra khỏi con đường mà ngài đã vạch sẵn. Quả đúng là sẽ thật bất hạnh cho nước Pháp, thật bất hạnh cho hoàng tộc, nếu như mà giữa ta và tể tướng của ta xảy ra bất hòa.

“Vậy mà chắc chắn điều ấy sẽ xảy ra nếu ta lấy cháu gái ngài làm vợ. Ta hoàn toàn hiểu điều này, và kể từ nay sẽ không phản đối chút nào, ta sẽ để cho số phần của ta được thành tựu. Vậy, ta sẵn sàng lấy cô bé Marie-Thérèse. Ngay lúc này ngài đã có thể cho ấn định ngày bắt đầu bàn thảo.

Cung kính,                                                                  LÔ Y.”


Vua đọc lại thư, rồi ngài tự tay đóng dấu niêm nó lại.

- Mang thư này đưa cho ngài giáo chủ, ngài nói.

Viên cận thần đi. Tới cửa chỗ Mazarin, ông gặp Bernouin đang đứng đợi, dáng điệu lo âu.

- Kìa? người hầu phòng của quan tể tướng hỏi.

- Thưa ông, viên cận thần nói, đây là thư gửi Đức Ngài Tể Tướng.

- Một bức thư! À! chúng tôi đang đợi nó đây, sau chuyến đi nho nhỏ hồi sáng.

- A! các ông có biết Bệ Hạ…

- Ở cương vị tể tướng thì biết mọi điều chính là bổn phận đó. Hoàng Thượng cầu xin, năn nỉ, tôi cho là thế?

- Tôi đâu biết, nhưng ngài đã thở dài nhiều lần trong lúc viết thư.

- Phải rồi, phải, phải, chúng ta biết vậy nghĩa là gì. Người ta thở dài vì hạnh phúc, cũng như vì đau thương, thưa ông.

- Ấy thế nhưng, nhà vua không có vẻ hạnh phúc lắm đâu, lúc ngài về, thưa ông.

- Chắc ông nhìn không kỹ rồi. Vả, ông đã chỉ nhìn thấy Bệ Hạ lúc ngài quay về, vì chỉ có viên thống lĩnh phụ trách canh gác ngài đi cùng ngài mà thôi. Còn tôi, tôi có kính viễn vọng của Đức Ngài, và tôi đã nhìn thay, lúc ngài ấy mệt. Hai người họ đã khóc, tôi chắc đấy.

- Kìa, chẳng phải họ cũng có thể khóc vì hạnh phúc đấy ư?

- Không, mà vì tình yêu, và họ thề nguyền với nhau cả nghìn điều êm ái, mà đức vua chẳng mong gì hơn là làm cho trọn. Bức thư này chính là khởi sự để thực hiện cái đó đấy.

- Thế Đức Ngài nghĩ sao về vụ ái tình này, vả nó không hề là điều bí mật đối với bất kỳ ai?

Bernouin níu lấy cánh tay sứ điệp của Lô y, vừa leo lên cầu thang ông ta vừa nói:

- Chỗ thân tình tôi nói nhé, ông thì thào. Đức Ngài trông đợi vụ ấy viên mãn đó. Tôi biết rõ, vậy chúng ta sẽ phải gây chiến tranh với xứ Y-pha-nho; nhưng hầy! chiến tranh sẽ khiến các nhà quý phái được thỏa mãn. Vả, Đức Giáo Chủ sẽ cấp một món hồi môn rất lớn đấy, còn hơn cả mức hoàng gia cơ, cho cháu gái ngài. Sẽ có tiền, tiệc tùng rồi lại còn có đánh nhau; ai ai cũng được sung sướng hết cả.

- Kìa! còn tôi, viên cận thần lắc lắc cái đầu, tôi thấy hồ như bức thư này hơi quá nhẹ không đủ chứa tất tật những cái đó đâu.

- Bạn ơi, Bernouin đáp, tôi chắc vào điều tôi nói chứ: ông d’Artagnan đã kể hết cho tôi nghe rồi.

- Chà! thế ông ta đã nói gì vậy?

- Tôi đã tiếp cận ông ta để hỏi tin tức, nhân danh ngài hồng y, mà không để lộ thâm ý của chúng tôi, tất nhiên rồi, bởi ông d’Artagnan vốn dĩ có tài đánh hơi tợn lắm.

“- Ông Bernouin thân mến ơi, ông ta đã nói, nhà vua yêu cô de Mancini lắm đó. Đấy là tất tật những gì tôi có thể nói cho ông.

“- Kìa! tôi bèn hỏi, có tới mức ông nghĩ ngài ấy đủ khả năng phớt lờ các dự định của Đức Ngài hay chăng?

“- A! đừng hỏi tôi; tôi nghĩ đức vua đủ sức cho mọi thứ. Ngài ấy có một cái đầu làm bằng sắt, và điều nào ngài ấy muốn, thì ngài ấy rất muốn. Nếu óc ngài ấy đinh ninh sự ngài ấy sẽ lấy cô de Mancini, thì ngài ấy sẽ lấy nàng.

“Đến đó ông ta đi mất, ra chỗ tàu ngựa, lấy một con, tự tay thắng yên cương, nhảy lên lưng nó, và phóng đi như ma đuổi.

- Bởi đó mà ông nghĩ?…

- Tôi nghĩ ông thống lĩnh quân lính gác biết nhiều hơn so với những gì ông ta nói.

- Bởi đó mà theo ông, ông d’Artagnan…

- Chạy đi, rõ là vậy rồi, đuổi theo mấy thiếu nữ bị đi đày, rồi thì thực hiện mọi điều gì cần phải thực hiện hòng giúp cho ái tình của hoàng thượng được thành công.

Nói tới đó, hai kẻ tâm phúc đã lên đến chỗ cửa văn phòng của Đức Ngài. Đức Ngài không còn bị chứng chứng thống phong nó hành nữa, ngài đang lo lắng đi đi lại lại trong phòng, tai dỏng về phía cửa và nhìn ra mấy cửa sổ.

Bernouin bước vào, theo sau là viên cận thần vâng lệnh nhà vua đưa thư tận tay cho Đức Ngài. Mazarin cầm lấy thư; nhưng trước khi mở nó ra ông nở một nụ cười khôn thấu, khóe này dùng để nhằm che giấu đi mọi nỗi xúc cảm dầu là thuộc loại nào. Nhờ đó, dầu ngài có cảm giác gì khi nhận thư, chẳng có lấy một tia manh mối của cảm giác ấy nó hiện lên trên mặt ngài.

- Được rồi! ngài nói khi đã đọc và rồi đọc lại bức thư, tuyệt lắm rồi, ông ơi. Ông thông báo với nhà vua là ta cảm tạ ngài vì ngài đã biết tuân theo ý chỉ của thái hậu mẹ ngài, và ta sẽ làm mọi điều nhằm hoàn thành tâm ý của ngài.

Viên cận thần đi ra. Cửa vừa đóng lại, ngài giáo chủ, vốn dĩ ngài chẳng đeo mặt nạ trước Bernouin, vứt bỏ ngay cái mặt nạ vừa mới xong ngài đeo lên trên mặt, rồi ngài nói, điệu u buồn rất mực:

- Gọi ông de Brienne đi, ngài nói.

Viên đổng lý vào, năm phút sau đó.

- Thưa ông, Mazarin nói, ta vừa hoàn thành được một điều lớn lao cho nền quân chủ, điều lớn nhất mà ta từng làm được. Ông cầm bức thư này, nó là để làm bằng, mang sang chỗ Thái Hậu, chừng nào ngài ấy trả nó lại, thì ông để nó vào hộp ghi chữ B, nó đã đầy các thứ tài liệu và chứng thư quan hệ tới kỳ phụng sự của ta.

Brienne đi, và do bức thư xiết bao hấp dẫn đó đã bị bóc niêm, trên đường ông không khỏi đọc nó. Khỏi phải nói rằng Bernouin, tốt với tất cả mọi người lắm, sáp lại gần viên đổng lý để có thể đọc thư qua vai ông ta. Tin ấy lan đi trong lâu đài chóng vánh tới mức chốc lát Mazarin đã e nó đến tai thái hậu trước khi ông de Brienne đưa cho bà thư của Lô y Thập tứ. Chỉ một hồi lâu sau đã có lệnh lên đường và Ngài de Condé, tới vấn an hoàng thượng vào giờ theo lệ ngài ngủ dậy, viết lên mấy tấm bảng nhỏ của ngài cái tên thành Poitiers, đó sẽ là địa điểm lưu trú và nghỉ lại sắp tới của Hoàng Gia.

Vậy, chỉ trong quãng thời gian ngắn ngủi, đã đi tới hồi kết một chuyện lắt léo nó từng ngấm ngầm khiến tất tật mọi nền ngoại giao Âu châu phải bận trí hết mức. Dầu có vậy, kết quả rõ ràng và tỏ tường nhất của nó lại chỉ là khiến một viên thống lĩnh ngự lâm quân nghèo khó đánh mất địa vị và vận hạn. Nhưng cũng đúng là để đổi lại, ông giành được tự do.

Chúng ta sẽ sớm biết ông d’Artagnan tận dụng tự do của ông ra sao. Còn lúc này, nếu vì lượng hải hà chư quân cho phép, chúng tôi sẽ phải quay trở lại ngôi khách sạn Médicis, ở đó một cửa sổ bật mở vào đúng lúc lệnh lên đường được ban tại lâu đài.

Cửa sổ mở ra đó là cửa sổ một trong mấy căn phòng của Charles. Ông vua bất hạnh đã bỏ cả đêm để mơ mộng, hai tay ôm lấy đầu, chống cùi chỏ lên cái bàn, trong lúc ấy Parry, rúm ró và già nua, lăn lóc ngủ trong một góc, mệt lử cả về thân xác lẫn tinh thần. Viên thủ hạ trung thành ấy có một phần số nó mới lạ thường làm sao, ông lại đang chứng kiến, ở thế hệ thứ hai rồi, tái khởi chuỗi bất hạnh ghê khiếp từng ập xuống thế hệ trước đó. Chừng nào Charles Đệ nhị đã suy nghĩ kỹ về thất bại vừa xong, chừng nào chàng hiểu rõ nỗi cô lập hoàn toàn chàng rơi vào lúc này, thấy sau lưng chàng niềm hy vọng mới vừa bỏ chạy mất, thì chàng như lên cơn chóng mặt, chàng bật ngã ngửa ra sau trong cái ghế bành to, vì chàng đang ngồi trên tay vịn của nó.

Đúng lúc ấy Chúa đem lòng thương hại ông vua bất hạnh mà gửi tới cho chàng giấc ngủ, người anh em thơ ngây của cái chết. Mãi sáu giờ rưỡi chàng mới dậy, tức là lúc mặt trời đã chiếu rạng trong phòng chàng, còn Parry, im lìm vì sợ đánh thức chàng, đau đớn vô chừng ngắm đôi mắt của chàng trai trẻ, đỏ quạch lên vì thức khuya, cặp gò má đã nhợt nhạt vì thương đau và những nỗi thiếu thốn.

Sau rốt, tiếng ồn của vài xe kéo chở nặng xuôi về phía sông Loire đánh thức Charles dậy. Chàng đứng dậy, nhìn quanh như một người đã quên mất mọi điều, nhận ra Parry, siết chặt lấy tay ông, rồi bảo ông đi thanh toán tiền với chủ ông Cropole. Chủ ông Cropole, buộc phải tính toán tiền nong với Parry, đã làm việc ấy, cần nói rõ điều này, trung thực lắm; hắn chỉ vẫn nói mãi cái câu thông lệ, tức là cái câu hai lữ khách đã chẳng chịu ăn gì, vậy thì gây nhục nhã gấp đôi, rất nhục cho nhà bếp của hắn và thêm nữa lại còn bắt hắn phải tính tiền một bữa ăn không được đụng tới, thế nhưng vẫn mất. Parry không nói lại gì, chỉ trả tiền.

- Ta hy vọng, vua nói, với lũ ngựa thì sẽ không như vậy. Ta không thấy chúng khiến ông phải tốn kém gì, sẽ thật khốn khổ cho các lữ khách giống chúng tôi, nếu phải đi đường xa mà ngựa của họ lại yếu quá.

Nhưng Cropole, trước mối ngờ ấy, ưỡn ngực ra mà đáp, chuồng ngựa của khách sạn Médicis không kém phần hiếu khách hơn so với phòng ăn của nó.

Vua bèn leo lên lưng ngựa, người hầu của ông cũng làm theo, họ đi vào con đường dẫn tới Paris mà gần như không bắt gặp một ai suốt chặng, trên các phố cũng như ở những vùng ngoại ô ngôi thành.

Ông vua càng thấy cú đòn vừa rồi là tàn nhẫn quá, bởi đây lại là một cuộc lưu đày mới nữa. Những kẻ tuyệt vọng thì bám lấy các niềm hy vọng nhỏ nhất giống đám sung sướng thì bám vào những niềm hạnh phúc lớn nhất, rồi chừng nào phải rời cái chốn có niềm hy vọng từng ve vuốt trong lòng, bọn họ cảm thấy hối tiếc đến muốn chết đi được, hệt như kẻ bị phát vãng khi hắn đặt chân lên con tàu sẽ chở hắn tới nơi đày đọa. Ý hẳn trái tim nào từng chịu rất nhiều vết thương mới lại đau đớn vì mỗi vết châm nhỏ; ấy là bởi nó coi sự vắng mặt thoáng chốc của khổ sở là một món tài sản, nhưng đó chỉ là sự vắng mặt của đau thương mà thôi; ấy là bởi sau rốt, trong những bĩ cực khủng khiếp nhất nó phải gánh, Chúa đã rẩy xuống niềm hy vọng như thể một giọt nước, giống tên nhà giàu xấu xa dưới địa ngục hỏi xin Lazare vậy.

Thậm chí từng có lúc hy vọng của Charles Đệ nhị còn hơn là một niềm vui thoáng qua nhiều. Đó là khi ngài được người anh em Lô y của ngài tiếp đón nồng hậu quá. Niềm hy vọng bèn được tạo hình, bèn trở thành luôn thực tại; rồi bỗng chốc, lời cự tuyệt của Mazarin đã lại biến thực tại vờ thành giấc mơ. Lời hứa của Lô y Thập tứ phút chốc bị sai đi đã chỉ còn là một trò nực cười. Nực cười cũng như vương miện của chàng, giống cây vương trượng của chàng, giống bạn bè chàng, giống mọi thứ gì từng vây quanh tuổi thơ vương giả của chàng, rồi sau đó rời bỏ khỏi tuổi trẻ chịu nạn phát vãng của chàng. Nực cười! đối với Charles Đệ nhị sự sự đều nực cười tuốt, ngoài cái sự ngơi nghỉ lạnh lẽo và tối tăm kia, cái ngơi nghỉ mà cái chết hứa sẵn cho chàng.

Ấy là những ý nghĩ của ông vua bất hạnh khi chàng phủ phục người trên lưng con ngựa, để mặc cho nó thích đi đâu thì đi, chàng lững thững dưới mặt trời ấm dịu êm của tháng Năm, con người bị lưu đày, trong nỗi chán ghét đồng loại u tối của mình, thấy khung cảnh đó như thể lời sỉ nhục sau cuối ném vào nỗi thương đau của chàng.






XVI

Remember!


Một kỵ sĩ đang phóng gấp trên con đường dẫn về phía Blois, chàng mới chỉ rời nơi ấy từ quãng nửa tiếng trước, bắt gặp hai lữ khách và, dầu đang rất vội, nhấc mũ lên chào vào lúc đi qua gần họ. Vua chẳng để ý mấy tới chàng trai trẻ, bởi kỵ sĩ mà họ gặp đây là một chàng trai chừng hăm bốn, hăm lăm tuổi, chàng ấy, chốc chốc lại ngoảnh đầu thân ái ra dấu về phía một người đứng trước cổng một ngôi nhà đẹp màu trắng pha đỏ, tức là xây bằng gạch và đá, mái thì lợp đá phiến, nằm về bên trái con đường mà ông vua đang đi.

Người đó, một ông già cao lớn gầy gò, tóc trắng, ý chúng tôi đây muốn nói cái người đang đứng ở chỗ cánh cổng, cái người đó đáp lại những dấu hiệu của thanh niên kia, bằng các dấu hiệu từ biệt êm ái như các dấu hiệu của một người cha. Chàng thanh niên đã biến mất sau chỗ ngoặt đầu tiên của con đường hai bên rợp bóng cây, ông già đã sửa soạn quay trở vào nhà thì hai lữ khách, đi tới trước cái cổng ấy, khiến ông để tâm.

Chúng tôi đã tả vua đi trên đường mà đầu cúi gục, hai tay thõng, để mặc cho ngựa đi lững thững và gần như tùy nó muốn ra sao thì ra; còn Parry, đi đằng sau, muốn được hưởng nhiều hơn làn nắng ấm, đã bỏ mũ ra, mắt hết nhìn sang tả lại quay sang hữu con đường. Ánh mắt ông bắt gặp ánh mắt ông già đứng tựa cổng, thoắt cái ông ta như thể nhìn thấy cảnh gì sửng sốt lắm, hét lên một tiếng và bước một bước về phía hai lữ khách.

Từ Parry, mắt ông ta quay ngay sang vua, nhìn chằm chằm một hồi. Cuộc săm soi ấy, dầu chóng vánh tới đâu, liền phản chiếu lại ngay trên vẻ mặt của ông già cao lớn; ấy là bởi ông vừa nhận ra lữ khách trẻ hơn, chúng tôi nói nhận ra do có một sự giống nhau rất rõ nó giải thích cho cái sự đó; nhận ra lữ khách trẻ hơn, ông liền chắp hai tay lại, tỏ lộ vẻ sửng sốt nhưng cũng là tôn kính, rồi nhấc mũ khỏi đầu, cúi người chào, thấp đến nỗi như thể đang quỳ xuống vậy.

Màn trình diễn ấy, dầu đang đãng trí hay nói đúng hơn dầu đang chìm đắm tới mức nào trong những điều suy nghĩ, khiến cho vua để ý ngay tức khắc. Charles bèn dừng ngựa, rồi, quay về phía Parry:

- Chúa ơi! Parry, ông kia là ai thế, mà lại chào ta như vậy? Chẳng hay ông ta có nhận ra ta chăng?

Parry, vừa bồn chồn vừa nhợt nhạt, đã thúc ngựa đi lại gần chỗ hàng rào.

- A! Bệ Hạ, đột nhiên ông nói, dừng lại ở cách ông già lúc đó vẫn đang cúi rạp người chừng năm, sáu bước chân; Bệ Hạ, ngài thấy tôi sửng sốt, ấy là bởi hồ như tôi nhận ra con người trung hậu này. Kìa! mà đúng, chính là ông ấy rồi. Bệ Hạ cho phép tôi nói chuyện với ông ấy nhé?

- Hẳn rồi.

- Có phải là ông đấy không hả, ông Grimaud? Parry hỏi.

- Vâng, là tôi đây, ông già cao lớn nói, đứng thẳng người lên, nhưng chẳng hề đánh mất chút nào dáng điệu cung kính.

- Bệ Hạ ôi, Parry nói, tôi đã không nhầm, đây là người hầu của bá tước de La Fère, và bá tước de La Fère, nếu ngài còn nhớ, chính là nhà quý phái cao quý mà tôi vẫn hay nhắc với Bệ Hạ đó, chắc hẳn bệ hạ vẫn còn ghi sâu trong tâm khảm, chứ không chỉ ở nơi tinh thần ngài đâu.

- Người từng ở bên tiên vương phụ thân ta trong những khoảnh khắc cuối cùng? Charles hỏi.

Trông rõ là Charles run lên khi nhớ về chuyện ấy.

- Chính thị, thưa Bệ Hạ.

- Hỡi ôi! Charles kêu lên.

Rồi, quay sang Grimaud, lúc này đang giương đôi mắt tinh anh nhậm lẹ như thể tìm cách đoán suy nghĩ của ông:

- Bạn ta ơi, ông hỏi, chủ của ông, ông bá tước de La Fère, ở quanh đây hẳn?

- Ở đây luôn, Grimaud đáp, đưa tay chỉ về đằng sau lưng, vào cổng ngôi nhà trắng-đỏ.

- Thế bá tước de La Fère có đang ở nhà không vậy?

- Tít ở trong, dưới mấy cây dẻ.

- Parry, vua nói, ta không muốn bỏ lỡ dịp quý giá này để nói lời cảm tạ nhà quý phái mà gia đình ta mắc nợ bởi một tấm gương đẹp về lòng tận tụy và hào hiệp. Ông bạn, nhờ ông giữ ngựa hộ ta.

Ném dây cương ngựa vào tay Grimaud xong, vua một mình đi vào nhà Athos, như một người ngang hàng tới chỗ một người ngang hàng. Charles đã được Grimaud chỉ đường lối rất tỉ mỉ: tít bên trong, dưới mấy cây dẻ; chàng bèn bỏ qua ngôi nhà bên tay trái mà tiến thẳng về chỗ lối đi; việc ấy làm rất dễ, ngọn mấy cây lớn kia, phủ đầy lá và hoa, cao vượt mọi cây khác.

Tới bên dưới những khoảng lần lượt sáng rực và tối om đổ xuống lối đi ấy, tùy thuộc cái vòm bên trên có ken sát lá hay không, ông vua trẻ nom thấy một nhà quý phái đang đi thơ thẩn, tay chắp sau lưng, hồ như đang chìm lỉm vào một cơn mộng tưởng thanh bần. Hẳn, Charles Đệ nhị từng hay hỏi người khác miêu tả nhà quý phái ấy cho chàng nghe, bởi chẳng chút ngần ngừ chàng bước thẳng về phía ông. Nghe tiếng bước chân, bá tước de La Fère ngửng đầu lên, khi thấy có một người lạ dáng dấp thanh nhã, cao quý đang đi về chỗ mình, ông nhấc mũ cao lên trên đầu rồi đứng đợi. Còn cách vài bước, Charles Đệ nhị cũng đưa tay bỏ mũ; rồi, như để đáp lại lời hỏi không thốt ra của bá tước:

- Thưa tôn ông bá tước, chàng nói, tôi đến đây gặp ông để thực hiện một bổn phận đó. Từ lâu này tôi đã cần phải mang lòng cảm tạ sâu đậm của tôi tới trao cho ông. Tôi là Charles Đệ nhị, con trai Charles Stuart, người từng trị vì Anh-cát-lị và băng hà trên đoạn đầu đài.

Nghe thấy cái tên kỳ vĩ ấy, Athos như thể thấy mạch máu trong người ông run lên; nhưng nhìn ông vua trẻ kia đứng đó, trơ trọi trước mặt ông, chìa tay về phía ông, hai giọt nước mắt trong thoáng chốc làm mờ đi màu thiên thanh trong suốt cặp mắt đẹp của ông.

Ông bèn kính cẩn nghiêng người; nhưng vua đã cầm lấy tay ông:

- Kìa, sao mà tôi đây bất hạnh quá, bá tước ngài ôi, Charles nói; đã phải có sự tình cờ lớn lắm thì tôi mới gặp được ông đây. Hỡi ôi! lẽ ra tôi phải có bên mình những con người mà tôi yêu quý, mà tôi trân trọng chứ, thế mà tôi lại chỉ có thể lưu giữ sự phụng sự của họ trong trái tim tôi, giữ tên của họ trong trí nhớ của tôi, thế cho nên giá không có người hầu của ông nhận ra người hầu của tôi, thì tôi đã đi qua trước cửa nhà ông như qua nhà một người xa lạ đó.

- Có thế thật, Athos nói, ông dùng lời nói để đáp lại phần đầu câu nói của vua, nhưng lại dụng tới một cú chào cho phần thứ hai; có thế thật, Bệ Hạ đã phải trải qua những ngày thật xấu.

- Những ngày xấu nhất, hỡi ôi! Charles nói, có lẽ còn chưa đến đâu.

- Bệ Hạ, chúng ta phải hy vọng chứ!

- Bá tước, bá tước! Charles lắc lắc đầu, nói tiếp, tôi đã hy vọng cho tới buổi tối hôm qua, hy vọng đúng như một Ki-tô hữu chân chính đấy, tôi thề với ông.

Athos nhìn ông vua như muốn dò hỏi.

- Ồ! chuyện thì kể dễ lắm thôi, Charles Đệ nhị nói: bị phát vãng, bị tước đoạt, bị khinh miệt, tôi đã quyết định, dầu tôi lấy làm hiềm lắm, thử vận may lần cuối. Chẳng phải ở trên cao xanh kia đã được viết, đối với gia đình tôi, mọi niềm hạnh phúc cũng như mọi nỗi bất hạnh đều phát xuất từ nước Pháp, đấy ư! Ông chắc có biết qua rồi, ông, vốn dĩ ông là một trong số những người Pháp mà phụ thân bất hạnh của tôi thấy dưới chân đoạn đầu đài xử ngài, cái ngày ngài thác đi, trước đó thì ngài đã thấy các ông bên tay phải ngài, trong những ngày chiến đấu.

- Bệ Hạ, Athos nhún nhường đáp, tôi không chỉ một mình, các bạn của tôi và tôi, ở trong hoàn cảnh ấy, đã chỉ làm đúng bổn phận của các nhà quý phái mà thôi. Nhưng xin Bệ Hạ cho tôi cái hân hạnh là ngài kể cho tôi…

- Phải rồi. Tôi đã có được sự bảo trợ, xin thứ lỗi cho nỗi ngần ngừ của tôi nhé, ông bá tước, nhưng với một người nhà Stuart, ông hiểu rồi còn gì, vốn dĩ ông hiểu mọi chuyện, cái từ này sao mà khó nói ra, tôi đã có được, như tôi vừa nói, sự bảo trợ của người họ hàng của tôi, thống đốc toàn quyền bên Hòa Lan; nhưng, nếu không có sự can thiệp, gia dĩ ít nhất sự cho phép của nước Pháp, thống đốc không muốn tự tay mình chủ động dấy can qua. Vậy nên tôi đã tới hỏi sự cho phép ấy chỗ nhà vua Pháp, ngài đã từ chối.

- Vua đã từ chối ngài ư, Bệ Hạ!

- Ồ! không phải ngài đâu: cần phải rất mực công bằng với người anh họ Lô y trẻ tuổi của tôi; mà là ông de Mazarin.

Athos bặm môi.

- Có lẽ ông thấy lẽ ra ngay từ đầu tôi đã phải trông chờ lời từ chối ấy, vua nói, chàng đã trông thấy cú bặm môi kia.

- Đúng, tôi có nghĩ thế thật, thưa Bệ Hạ, bá tước kính cẩn đáp; tôi vốn biết cái lão Ý-đại-lị ấy từ lâu rồi.

- Vậy, tôi đã quyết định đẩy chuyện tới cùng, để ngay tức khắc được chứng kiến phần số của tôi nó đi về đâu; tôi đã nói với người anh em Lô y của tôi rằng, để không làm hại cả nước Pháp lẫn xứ Hòa Lan, tôi tính tự mình đi thử vận may, giống tôi đã làm, cùng hai trăm nhà quý phái, nếu ngài ấy muốn cấp cho tôi, và một triệu, nếu ngài ấy muốn cho tôi vay.

- Rồi sao, Bệ Hạ?

- Rồi thì, thưa ông, vào lúc này sao tôi bỗng cảm thấy điều gì lạ quá, đó chính là nỗi thỏa mãn của niềm tuyệt vọng. Nơi một số tâm hồn, mà tôi vừa nhận ra tâm hồn tôi thuộc vào số ấy, có một nỗi thỏa mãn nó rất thực, nó chắc chắn rằng mọi chuyện đều đã hỏng mất rồi, cuối cùng thì cũng đã đến lúc gục ngã thôi.

- Ôi! tôi mong, Athos nói, Bệ Hạ còn chưa tới tận cái chỗ nguy nan ấy.

- Để nói với tôi điều đó, ông bá tước ơi, để tìm cách làm sống lại hy vọng trong trái tim tôi, thì ông phải không hiểu rõ những gì tôi vừa nói với ông. Tôi đã đến thành Blois, bá tước ạ, để xin từ người anh em Lô y của tôi món bố thí một triệu, nếu có món tiền tôi được hy vọng phục hồi công chuyện của tôi, rồi người anh em Lô y của tôi đã từ chối. Ông cũng thấy đấy, mọi chuyện hỏng mất rồi.

- Bệ Hạ có cho phép tôi trả lời ngài bằng một ý kiến ngược hẳn lại không?

- Sao cơ, bá tước, ngài coi tôi là một kẻ thô lậu tới mức còn không đủ sức coi cho rõ tình cảnh của chính tôi đấy ư?

- Bệ Hạ, tôi từng luôn luôn thấy chính trong những tình cảnh tuyệt vọng lại đột nhiên xảy ra những cú quay ngoặt lớn của vận hạn.

- Cám ơn, ông bá tước, thật tốt đẹp vì được gặp những trái tim như trái tim ông, tức là đủ lòng tin vào Chúa, vào nền quân chủ để khỏi bao giờ phải tuyệt vọng về một vận hạn quân vương, dẫu nó có rơi xuống thấp đến đâu. Nhưng thật không may, những lời của ông, bá tước yêu quý, giống những phương thuốc, người ta bảo chúng trị được bách bệnh, thế nhưng, bởi chúng chỉ chữa khỏi được cho các vết thương có thể chữa khỏi, cho nên thất bại trước cái chết. Cám ơn sự kiên tâm của ông tìm cách an ủi tôi, bá tước ạ; cám ơn ông vì có lòng tưởng nhớ tha thiết, nhưng tôi biết chuyện là như thế nào. Giờ thì sẽ chẳng gì cứu được tôi nữa đâu. Mà kìa, bạn của tôi, tôi đã chắc chắn rất mực rồi, cho nên tôi lên đường đi đày cùng Parry già nua của tôi; tôi quay lại nếm trải những đau thương xé ruột của tôi tại cái chốn ẩn cư bé nhỏ xứ Hòa Lan tặng cho tôi. Tại đó, hãy tin tôi, bá tước ơi, mọi chuyện sẽ sớm kết thúc, cái chết sẽ chóng tới thôi; nó đã rất thường được gọi tới, bởi cái thân xác bị tâm hồn gặm nhấm này, cũng như bởi cái tâm hồn đang khao khát vươn lên trời cao này!

- Bệ Hạ, ngài có một người mẹ, một em gái, những người em trai; Bệ Hạ là thủ lĩnh của gia đình, vậy nên ngài phải xin từ Chúa một cuộc đời dài lâu thay vì đòi Người ban cho một cái chết mau chóng. Bệ Hạ bị phát vãng, phải trốn lánh, nhưng ngài có bổn phận riêng; vậy nên Bệ Hạ phải hướng đến những trận chiến, những hiểm nguy, đến các công chuyện, chứ đâu lại là tới cuộc nghỉ ngơi trên thiên đường.

- Bá tước ơi, Charles Đệ nhị nói, cùng một nụ cười buồn bã không bút nào tả xiết, ông từng bao giờ nghe thấy chuyện một ông vua chinh phục lại vương quốc của ông ta với một người hầu ở vào tuổi của Parry cùng ba trăm ê-cưu mà người hầu đó mang ở trong túi tiền hay chưa?

- Chưa, thưa Bệ Hạ; nhưng tôi lại từng nghe nói, thậm chí hơn một lần, rằng một phế đế giành lại vương quốc bằng một ý chí sắt đá, bằng lòng kiên tâm, bạn bè và một triệu quan sử dụng khéo léo.

- Vậy ra ông đã không hiểu lời tôi? Một triệu đó, tôi đã hỏi xin người anh em Lô y của tôi, nhưng ngài ấy đã từ chối.

- Bệ Hạ, Athos đáp, Bệ Hạ có vui lòng cho tôi vài phút, và chăm chú lắng nghe những gì tôi còn cần phải nói với ngài hay chăng?

Charles Đệ nhị đăm đăm nhìn Athos.

- Sẵn lòng, thưa ông, chàng đáp.

- Để tôi dẫn đường cho Bệ Hạ, bá tước lại nói, rồi ông đi về phía ngôi nhà.

Ông đưa vua vào văn phòng của mình, mời chàng ngồi xuống.

- Bệ Hạ, ông nói, Bệ Hạ vừa nói, xét hiện tình Anh-cát-lị, một triệu là đủ cho ngài dùng để giành lại vương quốc?

- Ít nhất là để thử làm điều đó, và cũng để chết như một ông vua, nếu tôi không thành công được.

- Kìa, Bệ Hạ, Bệ Hạ đã hứa với tôi rồi đấy nhé, ngài nghe tôi nói hẵng nào.

Charles gật đầu ra dấu đồng ý. Athos bước thẳng ra cửa, ông khóa chặt nó lại sau khi nhìn xem có ai đang nghe trộm quanh đó không, rồi trở lại.

- Bệ Hạ, ông nói, Bệ Hạ đã có lượng hải hà nhớ tôi từng ở bên cạnh Đức Charles Đệ nhất rất cao quý và rất đỗi bất hạnh, khi đám đao phủ dẫn ngài từ Saint-James tới White-Hall.

- Phải, chắc chắn, tôi nhớ, và tôi sẽ nhớ mãi.

- Bệ Hạ, ấy là một câu chuyện hãi hùng đối với một đứa con trai, mà hẳn đứa con trai ấy từng đòi người ta kể cho nghe rất nhiều lần rồi; tuy vậy tôi vẫn cứ phải nhắc lại nó với Bệ Hạ, không bỏ qua chi tiết nào hết.

- Nói đi, thưa ông.

- Khi tiên vương phụ thân ngài lên đoạn đầu đài, hay nói đúng hơn là đi từ phòng ngài ra đoạn đầu đài dựng bên ngoài cửa sổ của ngài, mọi điều đã được sửa soạn sẵn sàng nhằm giúp ngài đi trốn. Đao phủ đã bị đuổi ra, sàn phòng ngài đã được đào một cái lỗ, mà chính tôi ở bên dưới cái vòm ghê khiếp ấy, đang ở đó thì đột nhiên tôi nghe sàn nhà kêu răng rắc dưới bước chân của ngài.

- Parry đã kể cho tôi những chi tiết hãi hùng ấy rồi, thưa ông.

Athos nghiêng mình, kể tiếp:

- Sau đây là những gì ông ấy đã không thể kể cho ngài, thưa Bệ Hạ, vì những điều tiếp theo đã chỉ xảy ra giữa Chúa, phụ thân ngài và tôi mà thôi, chưa bao giờ chúng được tiết lộ, ngay cả với những người bạn thân nhất của tôi: “Ngươi ra ngoài đi, con người uy nghiêm nói với tên đao phủ bịt mặt, một chốc lát thôi, ngươi biết là ta nằm trong tay ngươi; nhưng người hãy nhớ là chỉ được ra tay chừng nào có hiệu lệnh của ta. Ta muốn cầu nguyện cho thoải mái.”

- Xin thứ lỗi, Charles Đệ nhị tái nhợt mặt đi, nói; nhưng ông, bá tước, vốn dĩ ông biết ngần ấy chi tiết về cái sự kiện gớm ghê kia, những chi tiết, như ông vừa nói xong, chưa từng bao giờ được kể cho bất kỳ ai, ông có biết tên kẻ đao phủ tởm lợm đó không, cái kẻ hèn nhát đó, đã che mặt đi để có thể sát hại một ông vua mà không bị tội gì?

Athos hơi tái mặt.

- Tên hắn? ông đáp; có, tôi có biết, nhưng tôi không nói được.

- Hắn đã thành ra cái gì rồi?… bởi bên Anh chẳng một ai biết số phận của hắn ra sao.

- Hắn chết rồi.

- Nhưng không phải chết trên giường, không phải là được hưởng một cái chết yên bình và êm ái, không phải cái chết của những con người trung thực đó chứ?

- Hắn đã phải chịu một cái chết dữ dội, trong một đêm khủng khiếp, giữa cơn giận dữ của con người và giông bão của Chúa. Xác hắn, bị một con dao găm xuyên qua, đã rơi tõm xuống đáy sâu thẳm của biển. Cầu Chúa tha chứ cho kẻ sát nhân của Người!

- Nào, được rồi, Charles Đệ nhị tiếp, chàng thấy rõ là bá tước không muốn nói gì thêm nữa về chuyện này.

- Hoàng thượng nước Anh, như tôi vừa kể, nói với tên đao phủ bịt mặt xong, ngài còn thêm: “Ngươi sẽ chỉ được ra tay, nghe rõ chưa? chừng nào ta giơ hai tay lên và nói: Remember!”

- Đúng rồi, Charles nói, giọng ngài khản hẳn đi, tôi biết đó là câu nói cuối cùng của phụ thân bất hạnh của tôi đó. Nhưng là với mục đích nào, và cho ai?

- Là cho nhà quý phái Pháp đang nấp bên dưới đoạn đầu đài.

- Tức là cho ông, thưa ông?

- Vâng, thưa Bệ Hạ, mà mỗi lời của ngài nói ra, xuyên qua lớp ván sàn của đoạn đầu đài phủ vải đen, vẫn còn vang lên bên tai tôi đây. Rồi hoàng thượng quỳ một gối xuống. “Bá tước de la Fère, ngài nói, ông có đó không? - Có, thưa Bệ Hạ”, tôi đáp. Thế là hoàng thượng bèn cúi xuống.

Charles Đệ nhị, phát run rẩy vì nỗi chú tâm quá lớn, người nóng rực lên vì đau thương, cũng cúi người về phía Athos để hứng lấy từng lời bá tước nói ra. Đầu chàng gần chạm vào đầu của Athos.

- Thế là, bá tước kể tiếp, hoàng thượng cúi xuống. “Bá tước de La Fère, ngài nói, ta đã không thể được cứu bởi tay ông. Hẳn không được làm vậy. Giờ, dầu có phải phạm vào một điều báng bổ, ta sẽ nói với ông: Phải, ta đã nói chuyện với những con người; phải, ta đã nói với Chúa, rồi ta nói chuyện với ông, là người cuối cùng, đây. Do muốn theo đuổi một lý tưởng mà ta tưởng đâu là thiêng liêng, ta đã đánh mất ngai vàng của ông cha ta, ta cũng đã phá tán mất di sản của các con ta rồi.”

Charles Đệ nhị đưa hai tay lên ôm lấy mặt, một giọt nước mắt đau xót chảy luồn qua những ngón tay gầy guộc trắng trẻo của chàng.

“- Ta hẵng còn một triệu đồng, bằng vàng, hoàng thượng lại nói. Ta đã chôn nó dưới hầm lâu đài Newcastle vào đúng cái lúc rời đó đi.”

Charles ngửng phắt đầu lên, mặt chàng tỏ lộ niềm vui nó trộn lẫn với đau đớn, cái hỗn hợp hẳn có thể khiến bất kỳ ai trải qua nỗi bất hạnh to lớn như vậy cũng òa lên khóc nức nở.

- Một triệu! chàng thì thầm, ôi! bá tước ôi!

“- Số tiền này, chỉ mình ông biết mà thôi, ông hãy sử dụng nó chừng nào ông thấy đến lúc, để làm điều tốt đẹp nhất cho đứa con trai lớn của ta. Còn bây giờ, bá tước de La Fère, hãy nói lời vĩnh biệt ta đi!

“- Vĩnh biệt, vĩnh biệt, thưa Bệ Hạ! tôi kêu lên.

Charles Đệ nhị đứng dậy, đi ra chỗ cửa sổ, tì trán lên ô kính.

- Chính vào lúc đó, Athos kể tiếp, hoàng thượng nói “Remember!”, cái câu dành cho tôi ấy. Ngài cũng thẩy rồi đấy, thưa Bệ Hạ, tôi vẫn nhớ kỹ lắm.

Vua không sao kìm giữ nổi xúc cảm riêng. Athos thấy hai vai chàng rung lên dữ dội. Ông nghe thấy những tiếng nức nở rộn lên trong lồng ngực chàng. Ông im lặng, cả chính ông cũng đang ngạt thở dưới dòng thác lũ kỷ niệm chua chát, cái dòng thác ông mới vừa khơi lên để cho đổ ập xuống nhân vật vương giả kia.

Charles Đệ nhị, chừng như phải hết sức cố gắng, rời khỏi cửa sổ, nuốt lệ, trở lại ngồi bên cạnh Athos.

- Thưa Bệ Hạ, Athos cất lời, cho tới hôm nay tôi vẫn cứ nghĩ còn chưa tới lúc, để dùng đến món của cuối cùng ấy, nhưng tôi cũng đã cảm thấy giờ khắc đó sắp tới rồi, bởi tôi chăm chú dõi theo tình hình bên Anh lắm. Tôi đã định chỉ ngày mai thôi, tôi sẽ tìm hiểu xem Bệ Hạ đang ở chốn nào, để rồi đi tìm ngài. Chính ngài đã tới chỗ tôi, ấy đó là dấu hiệu nói lên rằng Chúa phù hộ cho chúng ta.

- Thưa ông, Charles nói, giọng vẫn nghẹt đi vì nỗi xúc động, đối với tôi ông thật đúng là thiên thần Chúa phái tới; ông là cứu tinh của tôi, do đích thân phụ hoàng tôi run rủi đến từ dưới nấm mồ; nhưng xin ông hãy tin lời tôi, suốt mười năm nay nội chiến liên miên diễn ra trên đất nước tôi, vật đổ con người, đào sâu xuống đất; coi chừng chẳng còn vàng chôn trong lòng đất nữa đâu, cũng như không còn tình yêu trong trái tim đám thần dân của tôi.

- Thưa Bệ Hạ, nơi tiên vương chôn một triệu, tôi đây vốn biết rõ, tôi cũng chắc rằng chưa ai phát hiện được nó. Vả, lâu đài Newcastle có bị sập chưa, người ta có phá hủy nó, dỡ tung từng viên đá, gỡ ra khỏi lòng đất từng thớ nhỏ của nó, hay chăng?

- Không đâu, nó vẫn đứng vững, nhưng vào lúc này tướng quân Monck đang chiếm giữ nó, lấy nó làm đại bản doanh. Đúng cái nơi một sự trợ giúp đang đợi sẵn ta, nơi ta có một nguồn lớn, ông cũng thấy đấy, thì lại bị kẻ thù của ta xâm chiếm mất rồi.

- Tướng Monck, thưa Bệ Hạ, đã không thể phát hiện được kho tàng mà tôi đang nói với ngài đây đâu.

- Phải, nhưng vậy có nghĩa ta sẽ phải tự nộp mạng cho Monck nhằm giành lại kho báu ấy chăng? A! ông cũng thấy rõ đấy, bá tước ơi, đành phải thúc thủ trước số phần mà thôi, bởi mỗi lần nào ta gượng đứng dậy được thì nó lại quật ngay ta xuống. Biết làm gì đây với chỉ có độc Parry là người hầu, cùng Parry, mà vốn Monck từng đuổi ông ấy đi một lần rồi? Không, không, bá tước ôi, ta phải chấp nhận cái đòn đánh cuối cùng này thôi.

- Điều mà Bệ Hạ không thể làm, cái điều mà Parry chẳng còn có thể thử sức, ngài có nghĩ là tôi làm được, hay chăng?

- Ông! ông, bá tước, ông sẽ đi!

- Nếu Bệ Hạ muốn vậy, Athos nói, cúi người trước vua, phải rồi, tôi sẽ đi, thưa Bệ Hạ.

- Ở đây ông đang sung sướng là vậy, bá tước!

- Tôi chẳng bao giờ sung sướng đâu, thưa Bệ Hạ, chừng nào tôi vẫn còn một bổn phận cần hoàn thành, tiên vương phụ thân ngài đã trao cho tôi một bổn phận tối cao, chăm lo cho vận hạn của ngài, dùng tiền của ngài cho một mục đích hoàng gia. Như thế, chỉ cần Bệ Hạ ra dấu, tôi sẽ lên đường cùng ngài luôn.

- A! ông ơi, vua nói, quên đi mọi lễ nghi vua tôi, lao mình vào ôm chầm lấy cổ Athos, ông đang tỏ cho ta thấy trên trời có Chúa, vị Chúa ấy đôi khi cũng có gửi các sứ điệp đến chỗ những kẻ bất hạnh đang rên rỉ trên mặt đất này.

Athos, cảm động hết nhẽ vì đợt biểu cảm của chàng trai, cám ơn chàng bằng vẻ tôn kính sâu sắc, rồi bước ra chỗ cửa sổ:

- Grimaud, ông gọi, chuẩn bị ngựa.

- Sao cơ! tức là, ngay lập tức? vua hỏi. A! ông ơi, ông đúng là một con người tuyệt diệu đó.

- Thưa Bệ Hạ! Athos đáp, tôi không biết còn có gì khẩn cấp hơn là phục vụ cho Bệ Hạ. Vả, ông mỉm cười nói thêm, ấy cũng là một thói quen tôi đã nhiễm từ lâu, vì tôi phục vụ cho hoàng hậu dì của ngài, rồi lại phục vụ tiên vương phụ thân ngài. Làm sao bỗng nhiên tôi lại có thể đánh mất nó đi đúng vào cái lúc cần phải phục vụ Bệ Hạ cho cam đây?

- Con người cao quý! vua thì thầm.

Rồi, sau một thoáng suy nghĩ:

- Mà không, bá tước, ta không thể bắt ông dấn thân vào các nỗi thiếu thốn như vậy. Ta chẳng có gì để tưởng thưởng cho những phụng sự như vậy đâu.

- Chà! Athos cười lớn. Bệ Hạ đang nhạo tôi đấy phỏng, ngài có một triệu kia mà. A! giá kể có được dầu chỉ nửa món ấy, thì hẳn tôi đã gầy dựng được cả một đội lính rồi đó. Nhưng, ơn Chúa! tôi vẫn còn đây vài xâu vàng, vài viên kim cương của tế nhuyễn riêng tây. Tôi dám mong Bệ Hạ đoái lòng chia sớt chúng cùng một kẻ hạ thần tận tụy.

- Cùng một người bạn chứ. Được, bá tước, nhưng với điều kiện người bạn ấy cũng sẽ phải cùng ta chia sớt về sau.

- Bệ Hạ, Athos nói, ông mở một cái hòm ra, rồi từ đó lấy vàng cùng đồ trang sức, giờ đây chúng ta giàu quá đi rồi. Thật may là chúng ta có đến bốn người để chống lại bọn trộm cắp.

Niềm vui làm hồng rực cặp má nhợt của Charles Đệ nhị. Chàng nhìn thấy hai con ngựa của Athos tiến lên trước nhà, chúng được Grimaud dắt đi, ông đã giày bốt tề chỉnh sẵn sàng đi xa.

- Blaisois, đưa thư này cho tử tước de Bragelonne. Ai hỏi thì cứ nói ta đi Paris. Ta giao nhà cho anh giữ đấy, Blasois.

Blasois cúi rạp người, ôm hôn Grimaud rồi đóng cánh cổng lại.






XVII

Ở thiên này, người ta đi tìm Aramis nhưng lại chỉ gặp được mỗi Bazin


Hai tiếng đồng hồ còn chưa trôi qua hết kể từ khi người chủ ngôi nhà lên đường, trong mắt Blaisois ông đi theo con đường dẫn tới Paris, thì một kỵ sĩ cưỡi con ngựa đốm trắng rất đẹp dừng cương trước cổng và, bằng một tiếng “hây!” vang lừng gọi mấy kẻ giám mã, chúng đang cùng đám làm vườn vây quanh Blaisois, sử gia cây nhà lá vườn trong số gia nhân lâu đài. Cái tiếng “hây!” ấy, hẳn Blaisois biết rõ, nó khiến ông quay ngoắt đầu lại và kêu lên:

- Ông d’Artagnan!… Bọn kia, mau, mở cửa cho ông ấy!

Một đám tám tên hỗn loạn chạy ùa ra cổng, nó được mở toang như thể được làm bằng lông chim. Tên nào tên nấy cuống cuồng chào hỏi ríu rít, bởi kẻ nào cũng rành thói thường ông chủ tiếp đón người bạn ấy ra sao, mà về phần những dạng coi trọng ấy, luôn luôn phải tùy xét theo ánh mắt của tên hầu.

- A! ông d’Artagnan nói, ông nở nụ cười rất khả ái, rồi ông đu mình trên bàn đạp ngựa để nhảy xuống đất, bá tước yêu quý đâu rồi?

- Kìa! ông thật không may mất rồi, Blaisois kêu lên, ngài bá tước chủ chúng tôi cũng thật không may quá, chừng nào ngài ấy biết là có ông tới chơi! Ngài bá tước, tình cờ quá đi thôi, vừa đi khỏi cách đây chưa đầy hai tiếng.

D’Artagnan chẳng rộn lòng cho lắm bởi chuyện cỏn con tới vậy.

- Được rồi, ông đáp, tôi thấy là anh vẫn nói cái thứ tiếng Pháp thuần khiết nhất trên đời đấy; anh dạy cho tôi một bài văn phạm và bài sao cho nói năng hay ho nhé, trong lúc tôi đợi ông chủ của anh về.

- Không được rồi, thưa ông, Blaisois nói; chắc ông sẽ phải chờ lâu lắm kia đấy ạ.

- Hôm nay ông ấy không về?

- Mai cũng không, thưa, ngày kia cũng vẫn không. Ngài bá tước đã lên đường đi xa.

- Đi xa! d’Artagnan kêu lên, anh đang nói khoác với tôi rồi.

- Thưa ông, sự thật chuẩn xác đấy ạ. Ông chủ đã cho tôi vinh dự được trông coi nhà cửa, ngài ấy còn nói thêm, mà giọng ngài thì hách lắm, nhưng lại rất chi ngọt… đối với tôi thì cũng vậy mà thôi: “Ai hỏi thì nói ta đi Paris nhé.”

- Vậy thì tức là, d’Artagnan nói lớn, ông ấy lên Ba lê, tôi cũng chỉ cần biết có vậy mà thôi, lẽ ra phải bắt đầu từ đó, đần quá đi… Tức, ông ấy đi đã được hai tiếng rồi?

- Vâng, thưa ông.

- Tôi sẽ mau chóng đuổi kịp thôi. Ông ấy đi một mình chứ?

- Không, thưa ông.

- Thế đi cùng ai?

- Một ông quý phái mà tôi không biết, một ông già, thêm Grimaud nữa.

- Đi đông người vậy thì sẽ chẳng thể nào nhanh như tôi được đâu… Tôi đi luôn…

- Xin ông đợi cho một lát, Blaisois nói, khẽ kéo dây cương ngựa.

- Được thôi, nếu anh nói năng đừng văn hoa quá, hoặc là nếu nói văn hoa thì cũng nhanh lên.

- Thưa ông, tôi cho Paris chỉ là để đánh lừa thôi.

- Ồ! ồ! d’Artagnan tỏ ra nghiêm túc, đánh lừa hả?

- Vâng, thưa ông, ông bá tước chắc không đi Paris đâu, tôi sẵn sàng thề điều đó.

- Cái gì làm anh nghĩ thế.

- Là cái này ạ: ông Grimaud lúc nào cũng biết ông chủ chúng tôi đi đâu, và ông ấy đã hứa, chừng nào lên Ba lê, ông ấy sẽ cầm theo ít tiền giúp tôi chuyển cho vợ tôi.

- A! ra anh có vợ hử?

- Tôi có một vợ đấy ạ, nó người trong vùng, nhưng ông chủ thấy nó lắm mồm, thế cho nên tôi đã cho nó đi Paris: lắm lúc cũng phiền lắm ạ, nhưng những khi khác, thì lại rất khoan khoái.

- Tôi hiểu, nhưng nói cho hết đi: anh không nghĩ bá tước đi Paris phỏng?

- Không, thưa ông, bởi nếu vậy thì hẳn Grimaud đã sai lời đi mất rồi, tức là không giữ lời, mà chuyện đó là không thể nào.

- Chuyện đó là không thể nào, d’Artagnan nhắc lại, vẻ hết sức mơ màng, vì ông hoàn toàn tin vào điều ấy. Được rồi, Blaisois trung hậu của ta, cám ơn nhé.

Bloisois cúi rạp xuống.

- Kìa, anh cũng biết là tôi chẳng phải kẻ hay tò mò… Tôi lại đang tuyệt đối cần gặp chủ của anh… anh không thể nào… chỉ cần nói một tí ti… mà vốn dĩ anh giỏi ăn nói lắm, khiến tôi hiểu được… Chỉ một tiếng thôi… tôi sẽ đoán nốt phần còn lại.

- Xin lấy danh dự mà nói, thưa ông, tôi chẳng thể nào… Tôi hoàn toàn không biết Ông Chủ định đi đâu… Nghe trộm ngoài cửa là trò vốn dĩ tôi chẳng ưa, vả ở đây chuyện đó bị cấm ngặt đấy ạ.

- Ông bạn thân mến, d’Artagnan nói, khởi đầu đối với tôi thế này thì tệ quá. Mà kệ thôi, ít nhất thì anh cũng biết chừng nào bá tước về chứ?

- Cũng chỉ ít ngang cỡ với đích đến của ngài ấy thôi ạ.

- Nào, Blaisois, nào, tìm đi.

- Bẩm, ông đang nghi ngờ lòng thành thực của con! A! ông làm con buồn quá đấy ạ!

- Quỷ tha ma bắt cái miệng lưỡi văn hoa của hắn đi! d’Artagnan lầm bầm. Một đứa quê kệch mà nói năng thẳng thớm thì còn tốt hơn nhiều!… Thôi chào nhé!

- Thưa ông, con xin được vinh dự được bày tỏ với ông lòng kính cẩn của con!

- Nỡm! d’Artagnan tự nhủ trong lòng. Thằng dở người kia làm ta khó chịu quá đi.

Ông liếc nhìn ngôi nhà lần cuối, quay ngựa, rồi đi, dáng dấp ông trông như thể một con người trong lòng chẳng có chút bực bõ nào, chẳng vương chút rối trí nào.

Đi đến hết bức tường, chẳng ai còn nhìn thấy được nữa, thì:

- Kìa, ông nói, đột nhiên thở hắt ra, hay Athos đang ở trong nhà?… Mà không. Cả cái đám lười chảy thây khoanh tay đứng ngoài sân kia, nếu vậy đã chết rấp rồi, nếu mà bị chủ chúng nhìn thấy. Athos đi xa thật chăng?… khó hiểu quá… Mà! ông ấy lúc nào chẳng bí hiểm quái dị… Rồi thì, không, đó đâu phải người mà ta cần. Ta cần là cần một trí óc nhiều mưu mẹo và kiên nhẫn. Ta phải tới Melun kia, đến chỗ cái nhà tu mà ta đây vốn biết rành. Bốn lăm dặm! bốn ngày rưỡi lận! Nào! trời thì đẹp, ta lại được tự do. Lên đường thôi.

Và ông thong thả ruổi ngựa, đi về phía Paris. Ngày thứ tư, ông đi vào Melun, đúng như ông muốn.

D’Artagnan vốn có thói quen chẳng bao giờ hỏi đường hay hỏi một thông tin tầm thường nào từ ai hết. Những chi tiết kiểu đó, trừ phi nảy ra lầm lẫn nào trầm trọng lắm, ông chỉ ỷ vào cái tài sáng suốt không bao giờ sai lệch của ông mà thôi, rồi thì vào kinh nghiệm của ba chục năm, vào cái thói quen đã quá rành đọc trên vẻ ngoài những ngôi nhà, cũng như vẻ ngoài của các con người.

Tại Melun, d’Artagnan tìm được ngay tu viện, ngôi nhà khả ái, xây tường đỏ trát vữa bên trên, cùng những dây nho hoa nhỏ leo dọc theo các máng xối, một hình thập giá bằng đá tạc vươn lên trên chóp mái nhà. Từ gian phòng bên dưới của ngôi nhà vẳng ra tiếng ồn, hay nói đúng hơn, líu ríu tiếng người, cái âm thanh vang lên giống chim non chiêm chiếp kêu vào lúc một lứa mới nở ra từ dưới bụng mẹ của chúng nằm ấp. Một trong những giọng ấy đánh vần, nghe thật rõ, các chữ của bảng chữ cái. Một cái giọng khác, nhờn nhợt nhưng lại cao vống, vừa huấn thị những kẻ lắm mồm lại vừa sửa các lỗi đứa bé đang cất giọng đọc phạm phải.

D’Artagnan nhận ra giọng đó, và vì cửa sổ gian phòng đang mở, vẫn ngồi trên lưng ngựa, ông gò lưng cúi xuống bên dưới đám cành nho, hét lên:

- Bazin, Bazin yêu quý, chào anh!

Một người thấp lủn, to béo, mặt phẳng dẹt, trên đầu đội một vành tóc bạc cắt ngắn trông như thể một cái đầu chịu phép thế phát, đội thêm một cái mũ ca lốt cũ bằng nhung đen, đứng bật dậy lúc nghe thấy tiếng d’Artagnan. Lẽ ra không nên nói đứng bật dậy, mà đúng hơn, đó là nhảy dựng lên. Quả có thế, Ba-danh nhảy dựng lên xô đổ luôn cái ghế nhỏ hắn đang ngồi trên, bọn trẻ con lao đến để dựng lại nó, xô đẩy đánh lẫn nhau còn náo nhiệt hơn các trận đánh của người Hy Lạp ở thời điểm muốn giành lại xác Patrocle từ tay quân Troie. Ba-danh còn hơn cả nhảy dựng lên, hắn để rơi luôn bảng chữ cái cùng cây roi đang cầm trên tay xuống đất.

- Ông! hắn nói, ông, thưa ông d’Artagnan!

- Đúng rồi, là ta đây. Aramis đâu… à mà không, ngài hiệp sĩ d’Herblay đâu… không, tôi vẫn nhầm, ông tổng trợ tá giám mục đâu?

- A! thưa ông, Ba-danh đáp, hẳn tỏ ra ngạo nghễ lắm, Đức Ông đang ở giáo phận của ngài.

- Cái gì? d’Artagnan la lên.

Ba-danh nhắc lại câu nói thêm một lần.

- Ái chà! nhưng mà, Aramis có giáo phận rồi à?

- Vâng, thưa ông. Tại sao lại không chứ?

- Ông ấy thành giám mục rồi?

- Nhưng ông từ đâu chui ra đấy, Ba-danh hỏi, vẻ rất xấc, để mà không biết chuyện ấy?

- Ba-danh yêu quý của ta ơi, chúng ta đây, những kẻ ngoại giáo chúng ta, những kẻ chỉ biết sử thanh gươm chúng ta đây, chúng ta biết rõ một ai đó có thể là cô lô nen, hay com măng đăng, hay thống chế Pháp quốc; nhưng mà giám mục, tổng giám mục, rồi thì giáo hoàng nữa… quỷ tha ma bắt! nếu như mà cái tin đó bay được đến tai chúng ta trước khi ba phần tư thế giới đã kịp kiếm xong lợi từ đó rồi.

- Suỵt! suỵt! Ba-danh trố mắt thật to, nói, ông đừng làm cho bọn trẻ con đây mất nết đi nhé, tôi đang cố hết sức lực dạy cho chúng điều hay lẽ phải đó.

Mà đúng, bọn trẻ con đã vây quanh d’Artagnan, chúng trầm trồ ngắm nghía con ngựa, thanh gươm khổng lồ, mấy cái đinh thúc ngựa cùng dáng vẻ nhà binh. Nhất là chúng trầm trồ trước giọng nói oang oang của ông; thành thử, lúc ông dằn giọng chửi thề, cả trường hét lên: Quỷ tha ma bắt! và cười váng, vui tươi lắm, dậm dịch hết lên, nó làm viên ngự lâm quân khoái chí hết sức, còn nhà mô phạm già thì tức điên.

- Này! hắn nạt, lũ thò lò mũi xanh kia im ngay!… Này… Ông chỉ vừa tới đây thôi, ông d’Artagnan, tức thì mọi điều hay lẽ phải của tôi bay biến hết liền… Mà, với ông, vẫn như thường lệ, ngay lập tức mất quy củ liền… Tháp Babel liền được dựng lại!… A! Chúa ơi! a! chúng phát rồ rồi!

Và Ba-danh cao quý ban phát hết tả lại sang hữu những cú đánh chúng khiến cho tiếng la hét của bọn nhóc con càng tăng thêm gấp bội, bỗng chúng được mặc sức đổi không khí.

- Ít nhất, hắn nói, ông cũng sẽ chẳng làm được cho ai ở đây đi vào con đường hư hỏng được nữa đâu.

- Anh nghĩ thế hẳn? d’Artagnan hỏi, kèm một nụ cười làm cho hai bờ vai Ba-danh rung lên dữ dội.

- Ông ta vẫn làm được, hắn thì thầm.

- Giáo phận chủ của anh nằm ở đâu thế?

- Đức Ông René là giám mục ở Vannes.

- Ai giúp chủ anh được tấn phong?

- Thì đó là ngài tổng quản kinh tài, hàng xóm của chúng tôi, chứ còn ai vào đây nữa.

- Sao! ông Fouquet****** ấy hả?

- Hẳn rồi ạ.

- Tức, Aramis thân cận với ông ta?

- Chủ nhật nào Đức Ông cũng giảng lễ tại nhà ngài tổng quản kinh tài ở Vaux đấy ạ; rồi hai ngài cùng nhau đi săn.

- A!

- Và Đức Ông hay cùng ngài tổng quản soạn bài thuyết giáo… không, ý tôi muốn nói các bài giảng.

- Chà! thế ông giám mục cao quý có giảng đạo bằng thơ không vậy?

- Thưa ông, xin ông đừng đùa cợt với những gì thuộc về tôn giáo, vì lòng kính Chúa!

- Kìa, Ba-danh, kìa! thế có nghĩa, Aramis đang ở Vannes?

- Ở Vannes, xứ Bretagne.

- Anh gian lắm đó, Ba-danh, chẳng đúng thế đâu nào.

- Thưa ông, kìa, ông cứ nhìn xem, phòng ốc của tu viện làm gì có ai ở.

- Hắn nói đúng, d’Artagnan nhìn ngôi nhà, dáng vẻ nó trông cô quạnh hết nhẽ.

- Nhưng Đức Ông hẳn đã phải viết thư báo cho ông là ngài được tấn phong rồi chứ ạ.

- Vụ đó là lúc nào nhỉ?

- Được một tháng nay rồi ạ.

- Ồ! vậy cũng chưa nhiều thời gian lắm. Chắc Aramis còn chưa thấy cần đến ta. Ba-danh, giúp ta một việc.

- Hết sức sẵn lòng, thưa ông.

- Một con gà, một bát xúp, và một chai rượu vang.

Ba-danh quay đi, ra lệnh cho thằng học trò lớn nhất chạy đi báo cho bà bếp. Trong lúc đó, d’Artagnan ngắm nghía tu viện.

- Phì! ông nói, vẻ khinh thị, Đức Ông ở đây thì không được xứng với sự cao quý vời vợi của ngài lắm nhỉ.

- Chúng tôi có lâu đài Vaux, Ba-danh đáp.

- Chắc nó phải ngang tầm Louvre? d’Artagnan hỏi lại, ra vẻ nhạo báng.

- Đáng giá hơn chứ ạ, Ba-danh đáp, với vẻ thản nhiên nhất trên đời.

- Ái chà! d’Artagnan kêu lên.

Chắc lẽ ông sẽ còn dài dòng câu chuyện, chỉ ra cho rõ Louvre thì hơn nhiều; nhưng viên thống lĩnh đã thấy rằng con ngựa của ông vẫn bị buộc vào mấy thanh sắt gắn trên một cánh cửa.

- Quỷ thật! bảo người chăm sóc ngựa cho ta đi. Đức giám mục chủ của anh không có con nào sánh được với con này trong cả tàu ngựa của ngài đâu đấy.

Ba-danh hếch mắt liếc nhìn con ngựa, rồi nói:

- Ngài tổng quản đã tặng cho tàu ngựa của ông chủ bốn con, chỉ một trong số bốn con ấy cũng đáng giá bằng bốn con ngựa của ông đó.

Máu nóng bốc bừng bừng lên mặt d’Artagnan. Tay ông thấy ngứa ngáy, ông ngắm nghía trên mặt Ba-danh xem chỗ nào là thích hợp hơn cả để nện nắm đấm của ông vào. Nhưng chớp lóe ấy qua mau. Suy nghĩ chín chắn đã chiến thắng, cho nên d’Artagnan chỉ nói như sau:

- Quỷ thật! quỷ thật! ta quyết định ngừng phục vụ đức vua thật quả đúng đắn quá. Nói ta nghe, Ba-danh cao quý, ông lại nói, ông tổng quản có bao nhiêu ngự lâm quân?

- Với tiền của ngài ấy, nếu muốn ngài ấy sẽ có tất cả ngự lâm trên toàn vương quốc ấy chứ ạ, Ba-danh đáp, khép quyển sách của hắn lại, vung roi loạn xạ đuổi bọn trẻ con đi.

- Quỷ thật! quỷ thật! d’Artagnan còn nói thêm một lần cuối cùng.

Và bởi người ta thông báo bữa đã dọn rồi, ông đi theo bà bếp vào phòng ăn, tại đó các món đang đợi sẵn.

D’Artagnan ngồi vào bàn, hăng hái tấn công con gà.

- Hồ như, d’Artagnan nói, răng ông cắn ngập vào con vật đã được dọn ra cho ông, thấy rõ là nó đã bị bỏ quên không ai vỗ béo; hồ như ta đã nhầm vì không ngay tắp lự đến kiếm một chân phục vụ ở chỗ ông chủ này. Đó là một lãnh chúa hùng mạnh, dường như vậy, cái ông tổng quản kinh tài kia. Mà thực thế, chúng ta ở triều đình thì đâu có biết gì, nắng nôi ghê quá thì chúng ta đâu có nhìn thấy được các ngôi sao lớn, vốn dĩ chúng cũng chính là những mặt trời, chỉ hơi xa trái đất của chúng ta hơn một chút mà thôi.

Vì d’Artagnan rất ưa, do ý thích mà cũng do nguyên tắc, khiến người khác nói về những điều mà ông quan tâm, thế cho nên ông hết sức tấn công khiêu khích thầy Ba-danh; nhưng chỉ công cốc: ngoài hết lời ca ngợi không biết mệt mỏi ngài tổng quản kinh tài, Ba-danh, mà vốn dĩ hắn đề phòng lắm, đối lại lòng hiếu kỳ của d’Artagnan tuyệt đối chẳng để hở gì khác ngoài những lời lẽ nhạt nhẽo, d’Artagnan thấy chán quá, ông bèn đòi đi ngủ ngay lúc vừa ăn xong.

D’Artagnan được Ba-danh dẫn vào một căn phòng trông đến là tầm thường, kê một cái giường khá tệ hại; nhưng vốn d’Artagnan chẳng khó tính. Ông được cho biết Aramis đã mang theo thìa khóa khu phòng riêng, cũng bởi ông biết Aramis là con người có quy củ lắm và thông thường hay có nhiều thứ cần giấu biến đi trong nhà, ông chẳng lấy đó làm điều, để mà sửng sốt. Thế là ông bèn, dầu ông trông nó cứng hơn kha khá, tấn công cái giường cũng hào hùng như lúc trước tấn công con gà, và cũng do đang buồn ngủ ngang cỡ với đói bụng khi vừa xong, ông chẳng mất mấy thời gian để ngủ thiếp đi, giống hệt khi ông mút đến mẩu xương cuối cùng của cái con gà kia.

Kể từ lúc chẳng còn phải phục vụ ai nữa, d’Artagnan đã tự hứa với chính ông, mình sẽ say sưa giấc nồng thỏa chí thay vì luôn luôn chỉ ngủ chập chờn, trước kia; nhưng dầu tự hứa như vậy thành thực tới đâu, và dầu cho mong làm thật đúng theo đó, ông bị đánh thức vào lúc nửa đêm, vì có tiếng xe ngựa, rồi tiếng người hầu cưỡi ngựa, nghe ông ổng. Đột nhiên tường trong phòng ông sáng bừng rộn cả lên; ông nhảy khỏi giường, trên người chỉ mặc độc áo sơ mi, chạy ra cửa sổ để xem.

- Có phải bỗng hoàng thượng đến đây không nhỉ? ông nghĩ, đưa tay lên dụi mắt, vì kia quả là một đoàn tùy tùng chỉ có thể xứng với một nhân vật tôn quý như vua.

“Ngài Tổng quản muôn năm!” từ một cửa sổ tầng dưới kêu lên, hay nói đúng hơn là rống lên, một cái giọng, ông nhận ngay ra giọng của Bazin, hắn vừa hét vừa phất một cái khăn mù soa, tay còn lại hắn cầm cây nến to bự.

D’Artagnan thấy một cái gì đó hao hao dáng dấp một con người rực rỡ nhô ra nơi cánh cửa cỗ xe chính; cùng lúc ấy vang lên những tràng cười, chắc hẳn là cười cái bản mặt kỳ khôi của Bazin, cũng vẳng ra từ cũng cỗ xe đó, gieo rắc lại như một cái vệt của mầng vui, đằng sau đoàn diễu hành thoáng chốc.

- Lẽ ra ta phải thấy ngay rồi chứ, d’Artagnan nói, đó đâu phải đức vua; người ta chẳng cười váng lên như vậy những lúc vua đi qua đâu. Hầy Ba-danh! ông hét lên với người hàng xóm đang thò đến ba phần tư người khỏi cửa sổ để dõi mắt theo cỗ xe càng xa càng tốt, hầy! gì đó?

- Ông Fouquet đấy ạ, Ba-danh đáp, vẻ hắn làm ra trông bảo bọc lắm.

- Còn tất tật những kẻ kia?

- Triều đình của ông Fouquet đấy.

- Ồ! ồ! d’Artagnan nói, ông de Mazarin sẽ nói gì đây, nếu lão ta nghe thấy điều này?

Nói đoạn, ông đi ngủ tiếp, nhưng ông cũng tư lự mà tự hỏi bằng cách nào mà Aramis luôn luôn được nhân vật quyền lực nhất vương quốc bảo trợ như vậy.

- Hắn may mắn hơn ta, hay ta ngu hơn hắn nhỉ? Chậc!

Giờ đây, ấy chính là cái câu d’Artagnan dùng để kết luận mọi sự, mọi suy nghĩ, mọi trường đoạn trong phong cách của ông, ông đã trở nên một nhà thông thái. Xưa kia, thì ông hay nói: Khốn thật! ấy là một cú táng đinh thúc ngựa. Nhưng giờ, ông đã già, ông thì thầm cái từ chậc! kia, lối triết học lắm, nó dùng làm dây cương kìm giữ cho mọi thứ thị dục.






XVIII

Ở thiên này, d’Artagnan đi tìm Bô-tố nhưng lại chỉ gặp được mỗi Mousqueton


Lúc d’Artagnan đã thực sự tin quả ông tổng trợ tá giám mục d’Herblay đi vắng thật chứ không ngoa, chẳng thể tìm được người bạn của ông tại Melun cũng như vùng phụ cận, ông bèn không chút tiếc nuối từ biệt Bazin, ranh mãnh đưa mắt liếc nhìn tòa lâu đài Vaux tuyệt đẹp, nó đang bắt đầu trở nên huy hoàng bằng vẻ rực rỡ, cũng chính là thứ gây ra suy sụp, ông bặm môi như một con người lòng đầy hoài nghi và ngờ vực, ông thúc chân vào con ngựa đốm trắng, nói:

- Nào, nào, ta sẽ vẫn cứ phải tới Pierrefonds nếu muốn tìm con người hạng nhất, cùng là cái bao tử hạng nhất. Thế nhưng mà, ta chỉ cần mỗi cái đó thôi, bởi ta, thì ta có ý tưởng.

Chúng tôi xin miễn cho chư quân khỏi phải dõi theo những sự cố tầm thường trong chuyến đi của d’Artagnan, sáng ngày thứ ba ông đến được đất Pierrefonds. D’Artagnan đi tới đây qua ngả Nanteuil-le-Haudouin và Crécy. Từ xa ông đã nom tỏ lâu đài của Louis d’Orléans, nó đã trở thành đất của nhà vua, do một người canh gác già nua giữ. Đó là một tòa nhà tuyệt đẹp từ thời Trung cổ, tường dày lối hai mươi bộ, những tháp canh thì cao tới tận trăm bộ.

D’Artagnan đi dọc theo các bức tường của lâu đài, đưa mắt ước lượng chiều cao mấy cái tháp, rồi xuôi xuống thung lũng. Từ xa xa, ông dõi xuống lâu đài của Bô-tố, nằm kề một cái đầm rộng cận một khu rừng tuyệt mỹ. Chúng tôi từng có vinh hạnh được miêu tả nơi này với chư quân rồi đó; vậy nên chúng tôi sẽ chỉ nhắc qua về nó mà thôi. Thứ đầu tiên d’Artagnan trông thấy sau những cái cây thật đẹp, sau mặt trời của tháng Năm đang ra sức dát vàng lên các gò đất phủ lục, sau những phuy-te bay bướm chạy về hướng Compiègne, là một cái hòm to đại tướng đang lăn đi, do hai tên hầu đẩy, hai tên hầu khác thì kéo đằng trước. Trong hòm ấy thù lù một thứ to đùng màu lục pha vàng, được kéo và được đẩy đi, nó lượn qua các lối đi tươi tắn của khu vườn lớn. Cái thứ ấy, nhìn từ xa, thật khó xác định rõ là gì và hoàn toàn chẳng nói lên cái gì sất; nhìn gần hơn, đó là một thùng tô nô phủ vải màu lục đính trang trí; nhìn gần thêm nữa, đó là một người hay nói đúng hơn, một con lật đật, phần dưới của y chui vào thùng, lấp đầy khoảng bên trong; gần thêm rất nhiều nữa, cái kẻ ấy chính là Mousqueton, Mousqueton đã bạc hết tóc, mặt hắn thì đỏ lựng như mặt Polichinelle.

- Ấy ơ kìa! d’Artagnan kêu to, kia chính là Mousqueton yêu quý!

- A!… kẻ to béo hét, a! ôi mừng quá! vui quá chừng! là ông d’Artagnan!… Dừng lại ngay, lũ khốn!

Mấy từ cuối dành cho mấy tên hầu đang đẩy, cũng như đang kéo. Cái hòm dừng lại, bốn tên hầu, đều răm rắp như lính tráng, đồng loạt bỏ mấy cái mũ gắn lon của chúng và đứng xếp hàng ra đằng sau hòm.

- Ôi! ông d’Artagnan, Mousqueton nói, giá mà con được quỳ xuống hôn gối ông! Nhưng con tã quá rồi ông ơi, ông cũng đang thấy đây.

- Quái quỷ! Mousqueton yêu quý của ta, là do tuổi tác đấy.

- Không đâu, thưa ông, chẳng phải vì tuổi tác: mà là do bệnh hoạn, rồi thì những phiền muộn nữa.

- Phiền muộn ấy hả, mi, Mousqueton? d’Artagnan hỏi lại, đi vòng quanh cái hòm; mi có bị điên không vậy, bạn thân mến của ta? Ơn Chúa! trông mi giống một cây sồi ba trăm tuổi đấy.

- A! chân, ông ôi, chân! người hầu trung thành than thở.

- Sao mà lại chân?

- Dạ thưa vâng, chúng không đỡ nổi người con nữa đấy ạ.

- Lũ chân khốn kiếp bội bạc! Thế nhưng mà ta xem ra thì anh vỗ béo chúng tốt đấy chứ.

- Hỡi ôi! dạ vâng, ở phương diện đó thì chúng chẳng có gì để trách con đâu ạ, Mousqueton nói, thở dài đánh thượt; con vẫn luôn luôn làm mọi điều gì mà con có thể làm, cho thân xác của con; con đâu phải kẻ ích kỷ, thưa ông.

Mousqueton lại thở dài lần nữa.

- Hay là Mousqueton cũng muốn được phong nam tước nhỉ, cho nên mới thở dài não nề như vậy? d’Artagnan thầm nghĩ.

- Chúa ơi! thưa ông, Mousqueton nói, bứt mình ra khỏi một cơn mộng tưởng nặng nề, Chúa ơi! Đức Ông hẳn sẽ mừng lắm, vì ông đã nghĩ tới ngài ấy.

- Bô-tố tốt tính, d’Artagnan kêu lên; ta đang rất muốn ôm hôn ông ấy rồi đây.

- Ôi! Mousqueton đáp, lòng hắn mềm ra, chắc chắn con sẽ viết thư để báo cho ngài ấy, thưa ông.

- Sao cơ, d’Artagnan kêu lên, mi sẽ viết thư cho ông ấy?

- Hôm nay luôn đấy ạ.

- Tức là ông ấy không ở đây?

- Nhưng mà không, thưa ông.

- Thế có ở gần không? hay ở xa?

- Kìa! con biết được chăng, thưa ông, con biết được chăng? Mousqueton đáp.

- Khốn thật! viên ngự lâm quân kêu lên, giậm mạnh chân xuống đất, sao mà ta đen đủi thế này! Bô-tố nào có đi đâu bao giờ!

- Thưa ông, chẳng có người nào ít đi đâu hơn Đức Ông đâu đấy ạ… nhưng…

- Nhưng sao?

- Khi có một người bạn thúc ép chúng ta…

- Một người bạn?

- Kìa! chắc đi rồi chứ ạ; chính là ngài d’Herblay cao quý đấy.

- Aramis đã thúc ép Bô-tố ấy hả?

- Con xin kể chuyện gì đã xảy ra, thưa ông d’Artagnan, ông d’Herblay đã viết thư cho Đức Ông…

- Thật?

- Một bức thư, thưa ông, một bức thư nó thúc ép đến nỗi đã gây ra ở đây sự hỗn loạn kinh khủng kia đấy ạ!

- Kể chuyện ấy ta nghe đi nào, ông bạn, d’Artagnan nói, nhưng trước hết đuổi mấy cái ông kia đi đã.

Mousqueton hét lên lừng lẫy: “Biến ngay, bọn rệp!” thổi ra nhiều hơi đến nỗi chỉ cần vậy thôi chưa lý gì đến lời lẽ cũng đã đủ làm bay biến bốn tên hầu đi rồi. D’Artagnan ngồi xuống gờ cái hòm, dỏng tai lên để nghe.

- Ông ơi, Mousqueton nói, vậy, Đức Ông đã nhận một bức thư của ngài tổng trợ tá giám mục d’Herblay, cách đây tám chín ngày rồi; ấy là ngày của những lạc thú… đồng quê; dạ phải, tức, đó chính là một ngày thứ Tư.

- Sao cơ! d’Artagnan hỏi, ngày của những lạc thú đồng quê?

- Dạ vâng, thưa ông; ở xứ tuyệt diệu này chúng con có nhiều khoái lạc để mà hưởng quá, đến phát rối loạn đầu óc lên đấy ạ; thành thử chúng con buộc lòng phải tìm cách phân chia chúng nó ra.

- Ta nhận ra cái quy củ của Bô-tố mới rõ làm sao chứ! Với ta thì hẳn cái ý tưởng kia chẳng thể nào nó nảy ra cho nổi. Có thế thực, ta không bị những khoái lạc làm cho rối loạn đầu óc bao giờ.

- Còn chúng con thì có đấy ạ, Mousqueton nói.

- Thế giải quyết ra sao? d’Artagnan hỏi.

- Chuyện hơi dài, thưa ông.

- Có sao đâu, ta có đầy thời gian kia mà, và rồi anh nói nghe hay lắm, Mousqueton yêu quý ạ, nghe anh nói ta thấy sao mà hởi lòng hởi dạ quá.

- Có thế thật đấy ạ, Mousqueton đáp, tỏ lộ vẻ hài lòng lắm, tất lẽ nó xuất phát từ lời khen mà hắn được hưởng; có thế thật, con đã tiến bộ không ít vì được ở kề cận bên Đức Ông.

- Ta đang đợi sự phân chia lạc thú, Mousqueton ạ, mà là nôn nóng đợi đó; ta muốn biết hôm nay ta có may mắn đến đúng dịp hay không.

- Ôi! ông d’Artagnan ôi, Mousqueton sầu muộn nói, kể từ khi Đức Ông đi mất, tất tật khoái thú cũng tiêu biến mất rồi!

- Ơ kìa, Mousqueton yêu quý của ta, thì hãy nhớ đến những kỷ niệm.

- Thế ông muốn ta bắt đầu bằng ngày nào?

- Chậc chậc! anh bắt đầu từ Chủ nhật đi, đó là ngày của Chúa.

- Chủ nhật ư, thưa ông?

- Phải rồi.

- Chủ nhật, những lạc thú tôn giáo: Đức Ông đi nghe lễ nhà thờ, rồi thì bánh thánh, nghe giảng kinh kệ. Không vui mấy đâu ạ, nhưng chúng con đang đợi một thầy tu từ Ba lê xuống phụ trách lễ nghi mà lại còn nói hay lắm, người ta bảo thế; nếu được vậy chúng con sẽ tỉnh như sáo, bởi cái ông cha lúc này toàn làm bọn con ngủ gật mất thôi đấy ạ. Tức là Chủ nhật thì những lạc thú tôn giáo. Thứ Hai, những lạc thú thượng lưu.

- Ái! chà chà! d’Artagnan kêu lên, thế anh hiểu mấy chữ đó ra sao, hả Mousqueton? Ta xem thử những lạc thú thượng lưu nào.

- Thưa ông, thứ Hai, chúng con giao đãi với thiên hạ đấy ạ; chúng con tiếp khách, chúng con đi thăm người này người kia; mọi người chơi đàn luth, mọi người nhảy múa, mọi người lại còn làm thơ nữa, sau rốt còn có đốt chút hương trầm gọi là làm vui cho các quý bà.

- Ối chà! ga lăng hết cỡ đó, viên ngự lâm quân nói, ông phải nghiến cho thật chặt quai hàm bởi ông chỉ chực phá lên cười như pháo nổ.

- Thứ Ba những lạc thú học thuật.

- Chà! tốt! d’Artagnan nói, như thế nào? miêu tả kỹ lưỡng một chút đi, Mousqueton yêu quý của ta.

- Đức Ông đã mua một quả cầu, con sẽ chỉ cho ông xem, nó chiếm hết cả chỗ trong tháp lớn, chỉ còn chừa lại một lối đi mà ngài ấy đã cho làm phía bên trên quả cầu; lại có những dây chỉ mảnh, những dây đồng để buộc mặt trời với mặt trăng cho treo lơ lửng. Nó lại còn quay tròn nữa đấy ạ; đẹp lắm. Đức Ông chỉ cho con xem các biển, rồi các vùng đất xa xôi; chúng con hứa với nhau là sẽ chẳng bao giờ đi tới những chỗ đó. Rất hấp dẫn đấy ông ạ.

- Rất hấp dẫn, nói đúng lắm, d’Artagnan nhắc lại. Còn thứ Tư thì sao?

- Những khoái thú đồng quê, con đã được vinh hạnh nói cho ông biết vậy rồi, thưa ông hiệp sĩ: bọn con ngắm lũ cừu cùng lũ dê của Đức Ông; bọn con bảo các cô mục đồng nhảy múa, có sáo thổi và có cả kèn, giống người ta viết trong một quyển sách để trong thư viện của Đức Ông, người ta gọi tên nó là Đời mục đồng. Tác giả chết rồi, mới cách đây một tháng thôi đấy ạ.

- Chắc ông Racan? d’Artagnan hỏi.

- Chính thế, ông Racan. Nhưng vậy thôi còn chưa hết đâu ạ. Chúng con còn đi câu cá ở chỗ con kênh nhỏ, sau đó chúng con ăn tối, trên đầu đeo vòng hoa kết. Thứ Tư là như vậy.

- Chậc! d’Artagnan nói, không hề tệ, thứ Tư. Thế còn thứ Năm? còn có thể còn lại gì nữa cho cái ngày thứ Năm khốn khổ?

- Nó không bất hạnh đâu, thưa ông, Mousqueton mỉm cười đáp. Thứ Năm, những lạc thú Ô-lem-pích. A! thưa ông, tuyệt lắm đấy ạ! Chúng con cho gọi tất tật nô bộc trẻ tuổi của Đức Ông đến và chúng con tổ chức chơi ném đĩa, đấu vật, chạy. Đức Ông ném đĩa giỏi ghê đó. Và mỗi khi ngài giáng một cú đấm thì, ôi trời! bất hạnh lắm!

- Sao, bất hạnh lắm!

- Vâng, thưa ông, đã phải ngừng trò đánh nhau tay đôi đấy ạ. Ngài đập vỡ đầu người ta, táng xẹo quai hàm nhà người ta, đâm lủng ngực người ta. Đó là một trò chơi rất hay, nhưng chẳng còn ai muốn chơi với ngài ấy nữa đâu ạ.

- Vậy, cái cổ tay…

- Bẩm! thưa ông, nó vững chắc hơn bao giờ hết đấy ạ. Nhưng chân của Đức Ông thì hơi có xuống, chính ngài cũng thú nhận vậy; nhưng tay thì lại rất khiếp, thế cho nên…

- Thế cho nên ông ấy vẫn nện bất tỉnh cả bò giống như ngày xưa.

- Thưa ông, còn tuyệt hơn thế cơ đấy ạ, ngài ấy nện đổ cả tường. Gần đây nhất, sau khi dùng bữa chỗ một chủ trang trại của ngài, mà ông cũng biết rồi đấy, Đức Ông rất được lòng người, ngài lại tốt bụng nữa chứ, sau bữa ăn ngài mới đùa, ngài đấm tay vào tường, bức tường bèn sập luôn, mái nhà trật cả ra, ba người bị chết ngạt, thêm một bà cụ già nữa.

- Chúa ơi! Mousqueton, thế chủ anh thì sao?

- Ồ! Đức Ông! ngài hơi bị sứt đầu mẻ trán tí chút. Chúng con đã lấy thứ nước mấy bà xơ đạo cho để rửa. Nhưng nắm tay chỉ chẳng bị làm sao.

- Chẳng làm sao?

- Chẳng sao hết, thưa ông.

- Ta chuyển qua thứ Sáu nhỉ, d’Artagnan đề nghị.

- Thứ Sáu, những lạc thú cao quý cùng chiến trận. Chúng con đi săn, chúng con luyện thập bát ban vũ khí, chúng con huấn luyện chim ưng, chúng con thuần hóa ngựa. Sau rốt, thứ Bảy là ngày cho những lạc thú của tinh thần đấy ạ: chúng con tu bổ cho tinh thần của chúng con, chúng con xem tranh và tượng của Đức Ông, chúng con còn viết nữa, và chúng con lập bản đồ; rồi, chúng con lại còn bắn những khẩu đại bác của Đức Ông.

- Các anh lập bản đồ, các anh bắn đại bác…

- Dạ, thưa vâng.

- Anh bạn, d’Artagnan nói, ông du Vallon quả là người có trí óc tế nhị và khả ái nhất mà ta được biết đấy; nhưng có một loại lạc thú mà anh đã quên mất, dường như vậy.

- Là lạc thú nào thế ạ, thưa ông? Mousqueton lo lắng hỏi.

- Những lạc thú vật chất.

Mousqueton đỏ mặt.

- Bẩm, ông định nói gì thế ạ? hắn cụp mắt nhìn xuống.

- Ta muốn nói đồ ăn thức uống, rượu ngon, tối đến thì mặc sức nốc cho cạn mấy cái chai.

- A! thưa ông, những lạc thú đó thì không tính đâu ạ, chúng con thực hành chúng hằng ngày luôn.

- Anh Mousqueton trung hậu ơi, d’Artagnan lại nói, xin thứ lỗi cho ta nhé, nhưng ta đã mải nghe câu chuyện của anh, nó hay quá, mải đến nỗi ta quên biến mất điểm quan trọng nhất trong cuộc trò chuyện giữa chúng ta đây, ấy là biết xem ông tổng trợ tá giám mục d’Herblay đã có thể viết gì cho chủ của anh.

- Đúng thế thật, thưa ông, Mousqueton đáp, những lạc thú làm ta bị đãng trí. Thưa đây, ông ơi, con xin nói hết mọi chuyện luôn.

- Ta nghe, Mousqueton yêu quý.

- Thứ Tư…

- Ngày của những lạc thú đồng quê?

- Vâng ạ. Một bức thư tới nơi; ngài nhận lấy nó từ tay con đấy ạ. Con đã nhận ra tuồng chữ viết.

- Rồi?

- Đức Ông đọc, rồi ngài kêu lên: “Mau, chuẩn bị ngựa; cả vũ khí nữa!”

- A! Chúa ơi! d’Artagnan nói, lại có cuộc đấu gươm nào rồi!

- Không phải đâu, thưa ông, chỉ có mấy từ sau đây thôi ạ:


“Bô-tố yêu quý, lên đường ngay đi, nếu ông muốn tới nơi trước Équinoxe*******. Tôi đang đợi ông”.


- Khốn thật! d’Artagnan kêu lên, vẻ tư lự, xem chừng việc rất gấp đây.

- Con cho đúng là vậy đấy ạ. Thế là, Mousqueton nói tiếp, Đức Ông đi luôn ngày hôm ấy, cùng tên bí thơ, nhằm tới nơi kịp lúc.

- Thế ông ấy có tới nơi kịp lúc không nhỉ?

- Con mong thế lắm. Đức Ông vốn dĩ là người kiên quyết lắm, như ông cũng biết rồi đấy ạ, ngài cứ nhắc đi nhắc lại không thôi: “Trời đánh thánh vật! lại còn Équinoxe cái gì thế này? Mà có hề chi, cái đồ dở người đó cứ việc tha hồ phi ngựa, xem thử hắn có tới nơi được trước ta hay chăng”.

- Và anh cho Bô-tố có đến trước được không? d’Artagnan hỏi.

- Con chắc đấy ạ. Cái tay Équinoxe kia, dầu hắn có giàu đến cỡ nào, chắc chắn không có những con ngựa tốt như Đức Ông đâu!

D’Artagnan vận hết sức để nín cười, bởi sự kiệm lời trong bức thư của Aramis khiến ông phải nghĩ lung lắm. Ông đi theo Mousqueton, hay nói đúng hơn, theo cỗ xe của Mousqueton, tới lâu đài; ông ngồi xuống bên một cái bàn bày biện thịnh soạn, ấy là để trọng đãi ông như một ông vua, nhưng ông chẳng làm sao cậy răng được Mousqueton: ông người hầu trung thành hẳn sẽ chỉ òa lên khóc nức nở mà thôi.

Sau một đêm nằm trên cái giường tuyệt hảo, d’Artagnan nghĩ rất nhiều xem bức thư của Aramis có thể nói gì, lo ngại về những mối liên quan của Équinoxe với công chuyện của Bô-tố, rồi, do chẳng hiểu nổi điều gì, d’Artagnan rời Pierrefonds cũng như ông đã rời Melun, cũng như ông đã rời lâu đài của bá tước de La Fère. Nhưng chẳng phải là không kèm nỗi u sầu, hoàn toàn có thể coi đó là một thứ tâm trạng tồi tệ nhất ở nơi d’Artagnan. Đầu cúi ủ rũ, ánh mắt chăm chăm, ông cứ thế để mặc hai chân của ông rơi thõng hai bên mình con ngựa, và ông tự nhủ, trong cái cơn mộng tưởng mơ hồ ấy nó đôi khi leo lên được tận tới chỗ của hùng biện trác tuyệt hơn cả:

- Chẳng còn bạn bè, không tương lai, chẳng còn gì nữa sất! sức lực của ta tan vỡ rồi, giống như tình bạn xưa kia của bọn ta vậy. Ôi! tuổi già ập tới, nó mới lạnh lẽo, nó mới cay nghiệt làm sao chứ; nó bọc mọi thứ gì từng sáng lên ánh ỏi vào trong lớp vải tối tăm của nó, mọi thứ gì từng tỏa hương thời ta còn trẻ, rồi thì nó chất gánh nặng kia lên vai, nó mang theo cả, để đi xuống vực thẳm cái chết sâu không đáy.

Một cơn rùng mình làm trái tim con người Gát-công thắt lại, mà vốn dĩ ông can đảm làm vậy, mạnh mẽ nhường ấy trước tất tật mọi nỗi bất hạnh của cuộc đời, trong thoáng chốc những đám mây với ông thật đen, mặt đất thì trơn tuột và nhầy nhụa như nền đất nghĩa địa vậy.

- Ta đi đâu đây?… ông tự nhủ; ta muốn làm gì đây? một mình trơ trọi… đơn độc, không gia đình, không bè bạn… Chậc! ông đột ngột kêu lên.

Rồi ông thúc vào bụng con ngựa, vốn dĩ con vật chẳng thấy có gì đáng phải sầu muộn với thứ lúa mạch nặng trịch của vùng Pierrefonds, vội tận dụng sự được ông chủ nó cho phép, tha hồ cho thấy là nó đang vui lắm, nó tung vó phóng tít mù suốt hai dặm đường.

- Tới Paris! d’Artagnan tự nhủ.

Mất mười ngày trời ông mới đi hết chặng đường.






XIX

D’Artagnan đến Paris làm gì


Viên thống lĩnh nhảy xuống khỏi lưng ngựa trước một cửa hàng trên phố Lombards, biển hiệu của nó ghi Cái Chầy Vàng. Một chú lái mặt mũi phương phi, mang cái tạp dề trắng, bàn tay to tướng mân mê hàng ria bạc, hét lên một tiếng vì mầng vui lúc nom thấy con ngựa đốm trắng.

- Ông hiệp sĩ, hắn nói; a! ông đấy à!

- Xin chào, Planchet! d’Artagnan đáp lời, cúi lưng xuống để bước vào cửa hàng.

- Nhanh lên, có đứa nào đó không, Planchet hét, đi chăm ngựa cho ông d’Artagnan ngay, một đứa khác, sửa soạn phòng cho ông, thêm một đứa, dọn bữa!

- Cám ơn anh, Planchet! xin chào, mấy nhóc, d’Artagnan nói với đám làm công đang lố nhố chạy quanh.

- Ông cho phép con gửi cho xong cà phê, nước mật cùng chỗ nho này chứ ạ? Planchet hỏi, bên chỗ ngài tổng quản kinh tài đặt hàng con đấy ạ.

- Gửi đi, gửi đi.

- Chỉ mất một chốc thôi ạ, rồi ta sẽ dùng bữa.

- Lo sao để chỉ có chúng ta ăn với nhau thôi nhé, d’Artagnan nói, ta cần nói chuyện với anh đây.

Planchet nhìn ông chủ cũ, vẻ hắn trông đợi lắm.

- Ồ! anh cứ yên lòng, chỉ tuyền là chuyện dễ chịu thôi, d’Artagnan nói.

- Tốt quá ạ! tốt quá ạ!…

Rồi Planchet thở phì phò, còn d’Artagnan thì rất mực giản dị ngồi xuống trong cửa hàng, ghé mông lên một kiện đựng đầy nút chai, rồi nhìn quanh dò xét chỗ ấy. Trong cửa hàng chất nhiều đồ lắm; có mùi gừng đậm, rồi mùi quế, mùi hạt tiêu xay nó làm d’Artagnan bật hắt hơi.

Lũ làm công, sung sướng vì được ở bên một chiến binh danh tiếng vang lừng như vậy, một thống lĩnh ngự lâm quân túc trực ngay bên đức hoàng thượng, khởi sự làm việc với lòng hào hứng gần giống như điên rồ, rồi thì chúng phục vụ khách vừa mau mắn nhưng cũng ngạo lắm, khiến cho nhiều người phải nhận ra.

Planchet bỏ tiền cất vào hòm và tính toán sổ sách, chốc chốc lại khúm núm ngó ra nói chuyện với ông chủ cũ. Planchet nói chuyện với khách thì cụt ngủn, thân tình theo đúng điệu của nhà lái buôn giàu, kẻ phục vụ tất cả mọi người nhưng chẳng đợi chờ một ai. D’Artagnan quan sát cảnh tượng với một niềm khoái thú, chúng ta sẽ còn phân tích đến nó, về sau. Dần dà ông thấy trời dần tối; rồi, sau rốt, Planchet dẫn ông vào một căn phòng từng lầu thứ nhất, tại đó, giữa đống bao đống bọc cùng hòm xiểng, một cái bàn bày biện rất mực thịnh soạn đang đợi sẵn hai thực khách.

D’Artagnan tận dụng một khoảnh khắc chùng xuống để nom tỏ mặt Planchet, ông đã không gặp hắn từ một năm nay. Planchet linh lợi đã có bụng, nhưng mặt thì vẫn chưa bị phị ra. Ánh mắt sáng loáng của hắn đảo lia lịa trơn tru trong cặp tròng sâu hoắm, và mỡ, dầu san bằng mọi chỗ nào nhô ra đặc trưng của khuôn mặt con người, vẫn còn chưa tác động gì lên hai gò má cao của hắn, ấy chính là chỉ dấu của mưu mẹo cùng là lòng tham, cũng như cái cằm nhọn của hắn, dấu chỉ cho tinh ý và sự trì trí. Trong phòng ăn của hắn, Planchet ngự trị cũng uy nghi hệt như dưới cửa hàng. Hắn mời ông chủ hắn một bữa ăn đạm bạc, nhưng đậm chất Paridiêng: thịt quay trong lò nướng bánh mì, kèm rau, xa lát, rồi thì món tráng miệng lấy luôn từ cửa hàng. D’Artagnan khoái trá nhìn ông chủ hiệu thực phẩm rút từ đằng sau đống củi ra một chai rượu vang Anjou, suốt đời ông, d’Artagnan coi đó là mỹ tửu hạng nhất.

- Xưa kia, thưa ông, Planchet nói, hắn nở nụ cười trông chất phác lắm, con toàn uống rượu của ông; giờ, con rất sung sướng khi ông uống rượu của con đấy ạ.

- Ơn Chúa! bạn Planchet ơi, ta sẽ còn uống lâu dài đấy, ta mong vậy, bởi giờ đây ta tự do rồi.

- Tự do! Ông đang nghỉ phép, hả ông?

- Nghỉ không hạn định!

- Ông rời chức vụ? Planchet sửng sốt hỏi.

- Phải rồi, ta về nghỉ.

- Còn hoàng thượng? Planchet kêu lên, hắn không sao nghĩ nổi rằng nhà vua lại chịu nổi cảnh không được cậy nhờ sự phụng sự của một người như d’Artagnan.

- Thì hoàng thượng sẽ đi tìm vận may ở chỗ khác thôi… Nhưng ta đã chén đẫy, con thì lại rất giỏi chuốc rượu ta, con khiến ta muốn dốc nỗi lòng đây mà, cho nên con hãy mở tai ra mà nghe.

- Dạ, con xin mở luôn đây ạ.

Planchet, cười to nhưng nghe thẳng thắn chứ chẳng hề ma mãnh, mở một chai rượu vang trắng.

- Con để cho ta giữ vững óc minh mẫn nữa chứ.

- Ồ! chừng nào mà ông quay cuồng đầu óc, thưa ông…

- Giờ, cái đầu ta chỉ còn là của ta, hơn lúc nào hết ta muốn giữ nó cho ổn thỏa. Trước hết ta nói chuyện tiền nong cái đã… Tiền của bọn ta sao rồi?

- Tuyệt lắm ạ, thưa ông. Chỗ hai mươi nghìn livre con đã nhận từ ông, vẫn được đặt vào công việc buôn bán của con, chúng sinh lời ở mức chín phân; con xin đưa ông bảy, vậy là con được ơn ông nhiều lắm đấy ạ.

- Và anh vẫn sung sướng đấy chứ?

- Vô cùng thích chí ấy chứ ạ. Ông lại đưa thêm tiền cho con?

- Còn hơn thế nhiều đó… Nhưng anh có cần tiền đấy hả?

- Ôi! không đâu ạ. Giờ, ai cũng muốn giao tiền cho con. Con đang mở rộng buôn bán đấy, thưa ông.

- Thì đó cũng là dự định của anh còn gì.

- Con làm chút ít việc nhà băng… Con mua hàng từ những đồng nghiệp lâm vào túng thiếu, rồi con lại cho những người bấn quá vay tiền để trả nợ.

- Không phải là cái trò nặng lãi đấy chứ?…

- Ôi! ông ơi, tuần vừa rồi con đã có hai cuộc hẹn ngoài đường chính vì cái chữ mà ông vừa nói ra đấy ạ.

- Thế nào cơ!

- Ông sẽ hiểu rất mau thôi: chuyện liên quan tới một khoản vay… Cái đứa vay nợ nó mới đưa cho con đường đen của hắn để làm bằng, điều kiện là con được bán đi nếu tiền không được trả đúng hạn. Con cho vay một nghìn livre. Cái đứa kia nó không trả tiền cho con, con bèn bán đường, lấy một nghìn ba trăm livre. Nó biết được, thế là nó đòi một trăm ê-cưu. Dạ, vâng, con chối phắt… con bảo nó là con chỉ bán được với giá chín trăm livre thôi. Nó mới bảo con chơi trò cho vay nặng lãi. Con bèn bảo nó nhắc lại câu ấy thử xem, ở chỗ vắng ngoài đường đó ạ. Cái đứa kia là cựu thị vệ, hắn có đến chỗ hẹn chứ không lủi mất; con đã lấy thanh gươm của ông con xiên thủng đùi bên trái của hắn luôn.

- Trời hỡi! mi làm nhà ngân hàng gớm ghiếc quá đi! d’Artagnan kêu lên.

- Cứ trên mười ba phân là con phặc liền đó, Planchet đáp; tính con nó thế thầy ạ.

- Mười hai thôi chứ, d’Artagnan bảo, chỗ còn lại, phải gọi là món hoa hồng, tiền mối lái.

- Ông nói đúng quá, thưa ông. À, nhưng còn chuyện ông thì sao ạ?

- A! Planchet, chuyện dài, mà kể lại khó đó.

- Thì ông cứ kể thôi.

D’Artagnan gãi gãi hàng ria giống một người đang bối rối chưa chịu dốc lòng ngay, lại thêm nghi ngại người nghe chuyện.

- Đó là một món đặt tiền sinh lãi? Planchet hỏi.

- Đúng rồi đó.

- Nhưng ngon ăn chứ ạ?

- Rất ngon: lãi gấp bốn cơ đấy, Planchet ơi.

Planchet nện nắm đấm xuống mặt bàn, cú đấm trời giáng làm mấy cái chai nhảy vọt lên như là chúng phải sợ.

- Chúa ơi, có thể nào được vậy chăng?

- Ta cho quý hồ còn hơn nữa đó, d’Artagnan lạnh lùng đáp, nhưng thôi, ta cứ khiêm tốn mà nói chắc không bằng.

- Quỷ ơi! Planchet xích lại gần… Nhưng, thưa ông, tuyệt quá đấy ạ!… Có được đặt vào nhiều tiền không hở ông?

- Mỗi người hai mươi nghìn livre, Planchet ạ.

- Vậy là tất tật vốn của ông đấy ạ. Bao nhiêu lâu thế ạ?

- Trong vòng một tháng.

- Và như vậy ta sẽ được?

- Năm mươi nghìn livre mỗi người; cộng lại thử coi.

- Gớm quá!… Chắc sẽ phải đánh nhau dữ lắm, nếu mà chơi cái trò đó?

- Có thế thật, ta cho là sẽ phải đánh nhau không ít đâu, d’Artagnan đáp, vẫn bình thản như không; nhưng lần này, Planchet ạ, chúng ta có hai người, và chỉ mình ta nhận về những cú nện mà thôi.

- Thưa ông, con sẽ không thể chịu nổi…

- Planchet con ơi, con không làm cùng được đâu, bằng không con sẽ phải bỏ việc buôn bán đó.

- Vụ ấy không phải ở Ba lê?

- Không.

- A! ở ngoại quốc chăng, thưa ông?

- Bên Anh đó.

- Cái xứ của trò đầu cơ, đúng thật, Planchet nói… cái đất nước mà con đây vốn biết rất rõ… Dạng việc như thế nào, thưa ông, nếu mà con không tọc mạch quá?

- Planchet, đó là một công việc dựng lại.

- Nhà cửa?

- Phải, nhà cửa, ta sẽ dựng lại White-Hall.

- Chuyện lớn đây… Mà, trong vòng một tháng, ông nghĩ?…

- Điều đó ta lo.

- Chỉ liên quan đến ông thôi ạ, và chừng nào ông đã nhảy vào…

- Phải rồi, cái đó chỉ liên quan đến ta… ta được tin rất tốt… tuy nhiên ta vẫn sẵn lòng hỏi ý kiến anh.

- Vinh dự cho con quá… nhưng con kém khoản kiến trúc lắm đấy ạ.

- Planchet… con nhầm rồi con ơi, con chính là một kiến trúc sư đại tài đó, cũng giỏi y như ta, trong cái chuyện ở đây.

- Con đội ơn ông…

- Nói cho ngay, ta đã rất muốn mang món này đi đề nghị với mấy me-xừ kia, nhưng họ đều đi vắng mất khỏi nhà… Bực thế, ta không quen ai can đảm hơn, lại khéo léo hơn họ nữa.

- Ái chà! con nghe chừng sẽ có cạnh tranh lớn đây, công trình sẽ bị giành giật ác liệt lắm?

- Ồ! phải rồi, Planchet, phải rồi…

- Lòng con nó sôi lên ông ạ, con chỉ muốn được biết thêm chi tiết.

- Để ta nói luôn, Planchet, đi đóng cửa kỹ lại ngay.

Thế là Planchet khóa cửa lại thật chặt.

- Được rồi; giờ, con lại gần đây.

Planchet vâng lời.

- Rồi con lại mở cửa sổ ra, bởi tiếng ồn khách bộ hành và xe kéo sẽ làm tai bọn nào có thể nghe ta nói bị điếc luôn.

Planchet mở cửa sổ đúng theo lời, sự ồn ĩ liền ào vào phòng, tiếng la hét, tiếng bánh xe lăn, tiếng chó sủa, rồi thì tiếng bước chân, khiến cho đến cả d’Artagnan cũng ù cả tai, đúng như ông mong muốn. Ông bèn uống một cốc rượu vang trắng, ông khởi sự câu chuyện của ông bằng những lời sau đây:

- Planchet, ta mới nảy ra một ý này.

- A! thưa ông, con nhận ra ông đây rồi, rõ quá ạ, ông chủ hiệu thực phẩm đáp, toát mồ hôi vì cảm xúc dâng lên dồi dào dữ dội.






XX

Về cái hãng có trụ sở trên phố Lombards mang biển hiệu Cái Chầy Vàng, nhằm khai thác ý tưởng ông d’Artagnan nảy ra


Có một thoáng chốc im lặng, như thể d’Artagnan dùng nó để truy hồi không phải riêng một ý tưởng đâu, mà tất tật mọi ý tưởng của ông, rồi:

- Planchet yêu quý của ta, chẳng phải con từng nghe nhắc đến Đức Hoàng Thượng Charles Đệ nhất, vua Anh-cát-lị, đấy chứ?

- Hỡi ôi! có ạ, thưa ông, vì ông đã rời đất Pháp sang đó giúp ngài; nhưng dầu được giúp, ngài vẫn ngã xuống và thiếu điều thì đã lôi ông theo trong lúc ngài ngã xuống.

- Chuẩn xác; ta thấy là con nhớ giỏi, Planchet ơi.

- Chà! thưa ông, phải ngược lại thì mới đáng sửng sốt, nếu như mà con lại đánh mất nó, cái trí nhớ kia, dẫu nó kém cỏi ngần nào. Nếu người ta từng nghe Grimaud kể, mà ông ta thì ông biết rồi đấy, có mấy khi kể chuyện đâu, cái đầu của đức vua Charles đã rơi như thế nào, rồi thì các ông đã đi suốt một nửa đêm tại một nơi đầy cạm bẫy hung hiểm, rồi thấy cái ông Mordaunt******** trung hậu kia trôi lềnh bềnh trên mặt nước quay trở lại, với một con dao găm cán mạ vàng cắm vào ngực, thì người ta đâu có thể quên nổi những điều đó.

- Thế nhưng mà vẫn có những người họ quên mất đấy, Planchet ơi.

- Dạ vâng, nhưng đó là những kẻ đã không tận mắt chứng kiến, hoặc là đã không được nghe Grimaud kể lại.

- Được! tốt lắm, con vẫn còn nhớ hết, ta sẽ khỏi phải nhắc con một điều, đó là đức vua Charles Đệ nhất có một người con trai.

- Ngài ấy có tận hai, thưa ông, ấy con không định phản đối ông đâu ạ, Planchet nói; vì con đã nhìn thấy người thứ hai tại Ba lê này, ngài quận công d’York, cái hôm ông ta đến Hoàng Cung nơi đây, con được nghe đó chỉ là thứ nam của đức vua Charles Đệ nhất. Còn người con cả, thì con chỉ được hân hạnh văn kỳ thanh chứ chưa có kiến kỳ hình.

- Chính đấy, Planchet, ta đã đến cái chỗ mắc mứu của câu chuyện: tức là người con trai đầu, xưa kia tên là le prince de Galles*********, còn giờ đây ngài ấy là Charles Đệ nhị, vua của nước Anh.

- Vua không vương quốc, thưa ông, Planchet trịnh trọng đáp.

- Phải rồi, Planchet, và con còn có thể nói thêm nữa, một ông vua bất hạnh, còn bất hạnh hơn một kẻ tiện dân giãy giụa trong một cái khu khốn cùng của thành Ba lê.

Planchet có một cử chỉ nó thể hiện cái lòng cảm thông tầm thường mà người ta vẫn hay dành cho những kẻ xa lạ, những kẻ ta nghĩ sẽ chẳng bao giờ có dính dáng gì. Vả, hắn chẳng hề thấy, trong cái kế hoạch vừa chính trị vừa tình cảm này, ló ra chút nào ý tưởng thương mại của ông d’Artagnan, mà hắn thì chỉ chăm chú đinh ninh vào mỗi cái ý tưởng đó mà thôi. D’Artagnan, vốn dĩ đã quá quen hiểu thấu mọi điều và mọi người, hiểu Planchet kỹ lắm.

- Ta nói ngay đây, ông tiếp. Cái ông prince de Galles trẻ tuổi, vua không vương quốc, như con vừa mới nói rất đúng, khiến ta quan tâm, d’Artagnan ta đây. Ta đã chứng kiến ông ta đi ăn mày sự giúp đỡ của Mazarin, đó là kẻ ti tiện, cùng là sự hỗ trợ của đức vua Lô y, đó là một đứa trẻ, và ta đây, vốn dĩ ta biết quá rõ đi rồi, ta nhìn thấy trong ánh mắt linh lợi của vị phế đế kia, trong cái dáng dấp cao quý của toàn bộ con người ông ta, cái cao quý vẫn lấp ló bên trên mọi nỗi khốn khó, có tư cách của một con người có tấm lòng, của một vị vua.

Planchet ngầm tán thành: tất tật những điều đó, ít ra trong mắt hắn, chưa hề làm sáng sủa lên cái ý tưởng của d’Artagnan. Ông lại nói tiếp:

- Và sau đây là cái lý lẽ mà ta đã nghĩ ra. Nghe cho kỹ nhé, Planchet, vì chúng ta đang đi tới phần kết luận đó.

- Con nghe đây ạ.

- Các ông vua, bọn họ không mọc đầy ngoài đường như cỏ để mà cứ cần thì gặp được ngay. Ấy thế nhưng cái ông vua không vương quốc kia, theo ý ta, là một hạt mầm được dành dụm rồi ra sẽ nở rộ vào một mùa nhất định, miễn sao có một bàn tay nó khéo, kín đáo và mạnh mẽ, gieo nó, chọn đất mà trồng, chọn trời và chọn thời tiết cho chuẩn.

Planchet vẫn gật đầu tỏ ý tán thành, điều đó cho thấy hắn vẫn chưa hiểu gì.

- Hạt mầm vua khốn khổ! ta đã tự nhủ, và Planchet con ơi, ta đã mềm lòng thật đó, đến nỗi ta còn nghĩ mình ngu quá đi. Vậy cho nên ta muốn hỏi ý kiến con, bạn của ta.

Planchet đỏ mặt vì sướng, cũng vì kiêu hãnh nữa.

- Hạt mầm vua khốn khổ! ta nhặt lấy mi, ta đây, rồi ta sẽ ném mi xuống một khoảnh đất màu mỡ.

- A! Chúa ơi! Planchet nói, chăm chăm nhìn ông chủ cũ, chừng như lòng hắn thấy hơi nghi ông không còn thực sự đủ minh mẫn đầu óc nữa.

- Kìa! sao? d’Artagnan hỏi, có kẻ nào vừa làm gì con hẳn?

- Con ạ, dạ thưa ông, chẳng có gì đâu ạ.

- Nhưng con vừa nói: “A! Chúa ơi!”

- Ông nghĩ vậy?

- Ta chắc là đằng khác. Nhưng con đã hiểu chưa thế?

- Con xin nhận, thưa ông d’Artagnan, là con e…

- Không hiểu?

- Vâng ạ.

- Không hiểu rằng ta muốn đưa lên ngai vàng trở lại đức vua Charles Đệ nhất, vốn dĩ ông ta mất ngai rồi? Có phải vậy chăng?

Planchet nhảy bật lên thật tợn, trên cái ghế.

- A! A! hắn hoảng hốt nói; chính đây là cái ông gọi là một sự dựng lại!

- Phải rồi, Planchet, chẳng phải cái việc đó được gọi tên vầy ư, dựng lại, rồi thì trung hưng?

- Hẳn đi rồi, hẳn đi rồi. Nhưng ông đã nghĩ kỹ chưa ạ?

- Nghĩ gì?

- Về những điều ở bên đó?

- Ở đâu?

- Bên Anh đấy ạ.

- Ôi chao, thế bên đó có gì, hở Planchet?

- Trước hết, thưa ông, con xin ông thứ lỗi cho con vì con lại đi dính dấp vào mấy chuyện này, mà đó có phải công chuyện của con đâu; nhưng bởi đây là một áp phe mà ông đang đề nghị với con… bởi vì ông đang đề nghị với con một áp phe, có phải vậy chăng ạ?

- Tuyệt đỉnh, Planchet ạ.

- Nhưng vì ông đang đề nghị với con một áp phe, con có quyền bàn luận về nó.

- Bàn đi, luận đi, Planchet; bàn luận làm sinh ra ánh sáng đấy.

- Vậy, bởi con được ông cho phép rồi, con xin nói ở bên đó trước hết có các pắc-lơ-măng.

- Đúng đó! rồi?

- Và rồi lại còn có quân đội nữa.

- Tốt. Con còn thấy có gì nữa không?

- Và rồi quốc gia nhà người ta.

- Hết chưa?

- Quốc gia, vốn dĩ nó đã nhất trí làm cho đức vua quá cố sụp rồi chết, con muốn nói ông bố của cái ông kia đấy ạ, ắt nó chẳng hề muốn làm ngược lại đâu ạ.

- Planchet, bạn của ta, d’Artagnan nói, phải chăng óc của con làm bằng pho mát chăng, nên con mới nghĩ vậy. Quốc gia… quốc gia đã mệt mỏi lắm rồi với các me-xừ mang những cái tên mọi rợ suốt ngày hát thánh vịnh bắt nó phải nghe. Hát hò ấy mà con ơi, Planchet yêu quý của ta ạ, ta đã nhận ra, các quốc gia thích hát những bài vui chứ đâu lại có chuyện thích hát những bài buồn thảm. Con hãy nhớ đến Fronde; thời ấy người ta hát mới dữ chứ! Chà! Cái thời mới sung sướng làm sao.

- Không sướng lắm, không sướng lắm; thiếu điều con đã bị treo cổ đấy ông ạ.

- Phải rồi, nhưng con có bị treo cổ đâu nào?

- Dạ, không.

- Và con đã khởi đầu vận hạn tốt của con ở chính giữa những bài hát ấy, phỏng?

- Cái đó đúng.

- Con không định nói gì à?

- Dạ, đây! con xin nhắc lại về quân đội và các pắc-lơ-măng.

- Ta đã nói ta vay hai chục nghìn livre của ông Planchet, ta lại đặt thêm vào đó hai chục nghìn khác cho phần của ta; với bốn chục nghìn livre ấy, ta sẽ gầy dựng một đội quân.

Planchet chắp hai tay lại; nom thấy d’Artagnan nghiêm túc, hắn thực lòng tin chủ hắn đã phát dại mất rồi.

- Một đội quân!… A! ông ơi, hắn nói câu này kèm nụ cười khả ái nhất, do chỗ hắn sợ làm kẻ điên kia lên cơn động rồ, rồi thì biến ông ta thành ra người nổi trận lôi đình. Một đội quân… đông không ạ?

- Bốn chục người, d’Artagnan đáp.

- Bốn chục để chống lại bốn chục nghìn, sao mà đủ được ạ. Một mình ông thì đáng một nghìn người rồi, ông d’Artagnan ơi, cái đó con biết rõ; nhưng ông tìm đâu ra băm chín kẻ cũng đáng giá được như ông đây? mà giả như có tìm được bọn họ, thì ai sẽ cấp tiền cho ông mà trả lương ạ?

- Không tệ, Planchet ơi… Mà quỷ thật! chừng như con đang bợ đỡ ta.

- Không ạ, thưa ông, con chỉ nói điều con đang nghĩ, ấy chính thế cho nên con mới nói lúc xảy ra trận chiến đầu tiên, ông dàn trận ra với bốn chục người của ông, con e rằng…

- Vậy cho nên ta sẽ không dàn trận ra mà đánh nhau đâu, Planchet yêu quý của ta ạ, d’Artagnan cả cười mà đáp. Ngay từ hồi cổ đại chúng ta đã có biết bao tấm gương đẹp đẽ về rút lui và hành quân khôn khéo để mà tránh lánh kẻ thù, thay vì tiến lên giáp mặt chúng. Con chắc biết điều này, Planchet con ơi, vốn dĩ con từng chỉ huy đám Paridiêng vào cái ngày lẽ ra chúng đã đánh nhau, để chống lại ngự lâm quân, rồi thì con đã tính toán sao cho tiến tới và tiến lui khôn đến nỗi sau rốt con đâu có rời khỏi quảng trường Hoàng Gia.

Planchet cười lớn.

- Quả có thế, hắn nói, nếu bốn chục người của ông lúc nào cũng đi trốn, lại còn không vụng về lắm, thì họ có thể hy vọng sẽ không bị người ta đánh; nhưng sau rốt, ông cũng mong có một kết quả nào đó chứ ạ?

- Hẳn đi rồi. Đấy chính là, theo ý ta, cách thức cần dùng để mau chóng đưa Hoàng Thượng Charles Đệ nhị về lại ngai vàng của ngài.

- Dạ! Planchet kêu lên, hắn lại càng thêm chú tâm, cách thức là vậy. Nhưng trước đó, con tưởng chúng ta quên mất một điều đấy ạ.

- Gì?

- Chúng ta đã đặt sang một bên quốc gia, vốn dĩ nó thích hát những bài hát vui hơn là những bài thánh vịnh, cùng quân đội, bởi chúng ta không chiến đấu; nhưng vẫn còn các pắc-lơ-măng, bọn họ thì chẳng hát mấy đâu.

- Chúng cũng chẳng đánh nhau nhiều hơn. Làm sao mà con, Planchet hỡi, con vốn linh lợi lắm cơ mà, con lại đi lo lắng về một mớ rau chỉ biết nói năng lải nhải được gọi là lũ phao câu rồi thì bọn giơ xương! Mấy thứ pắc-lơ-măng chẳng khiến ta phải lo, Planchet hỡi.

- Nếu như mà chúng không làm ông thấy lo, thì ta bỏ qua chúng thôi.

- Phải rồi, ta cứ thế mà tới đích thôi. Con còn nhớ Cromwell không thế, hả Planchet?

- Con đã nghe nói rất nhiều tới ông ta, thưa ông.

- Đó là một chiến binh ác liệt.

- Và ăn cũng khiếp nữa đấy ạ, chủ yếu là vậy.

- Sao cơ?

- Vâng, chỉ đùng một cái ông ta nuốt trọn cả xứ Anh-cát-lị.

- Kìa, Planchet, sau cái ngày ông ta nuốt mất Anh-cát-lị, giả thử có ai đó nuốt luôn ông Cromwell?…

- Ô! thưa ông, một trong những định đề đầu tiên của môn toán pháp là cái dùng để chứa phải lớn hơn nội dung được chứa bên trong đó ạ.

- Con giỏi!… Đấy chính là áp-phe của bọn ta, Planchet ơi.

- Nhưng ông Cromwell chết rồi, cái dùng để chứa ông ta lúc này chính là nấm mồ.

- Planchet yêu quý, ta sung sướng thấy rằng con không chỉ đã trở thành một toán học gia, con lại còn là triết gia nữa đó.

- Thưa ông, trong cái nghề thương mãi thực phẩm của con đây, con phải sử dụng rất nhiều giấy in; con học hỏi được cũng không ít.

- Hoan hô! Như vậy, tức là con biết… vì đã học môn toán cùng môn triết, con cũng đã không khỏi học chút ít lịch sử… rằng sau cái ông Cromwell vĩ đại là vậy, đã có một kẻ bé tí xíu.

- Vâng ạ; kẻ đó tên Richard, và hắn đã làm cái việc đúng như ông làm, thưa ông d’Artagnan, ấy là hắn từ nhiệm.

- Tốt, rất tốt! Sau nhân vật vĩ đại, đã chết mất rồi; sau nhân vật nhỏ xíu, vốn dĩ đã từ nhiệm, xuất hiện thêm kẻ thứ ba. Kẻ này tên ông Monck; đó là một tướng quân rất chi khéo léo, còn chưa từng bao giờ bị thua trận; đó cũng là một nhà ngoại giao tài tình lắm nhé, là do chỗ ông ta chẳng bao giờ nói năng gì, trước khi chào một ai đó, ông ta phải nghiền ngẫm mười hai tiếng đồng hồ đấy, rốt cuộc thế là ông ta sẽ chào buổi tối thay vì chào buổi sáng; mà thế mới kỳ diệu, lúc ông ta chào thì đúng là buổi tối luôn.

- Thế thì giỏi thật đấy ạ, Planchet nói; nhưng con biết một chính trị gia khác rất giống cái ông đó.

- Ông de Mazarin có phải chăng?

- Dạ, là ông ấy.

- Con đúng, Planchet ơi; hiềm một nỗi, ông de Mazarin không thèm khát ngai vàng nước Pháp; điều đó làm thay đổi mọi sự, con thấy không. Kìa, cái ông Monck, kẻ đã đặt được nước Anh quay ròn lên đĩa và đã mở miệng ra để nuốt nó, cái ông Monck đó, cái kẻ nói với người của Charles Đệ nhị và với luôn cả Charles Đệ nhị nữa: Nescio vos

- Con không biết tiếng Anh, thưa ông.

- Phải rồi, nhưng ta thì ta có biết, d’Artagnan đáp. Nescio vos có nghĩa là: Ta không biết ông**********. Cái ông Monck đó, cái nhân vật quan trọng của chính Anh-cát-lị đó, chừng nào ông ta đã nuốt trọn nó…

- Thì sao ạ? Planchet vội hỏi.

- Thì, bạn ơi, ta đi sang đó, cùng bốn chục người của ta, ta bắt cóc ông ta, ta gói ông ta lại, ta vác ông ta sang bên Pháp này, ở đây hai phe sẽ tới trình diện trước cặp mắt sáng trưng của ta đấy.

- Mắt của con nữa ạ! Planchet kêu lên, hắn trở nên hào hứng hết sức. Chúng ta nhốt ông ấy vào một cái lồng, rồi chúng ta thu tiền cho người ta vào tham quan.

- Kìa, Planchet, lại có thêm phe thứ ba lúc nãy ta còn chưa nghĩ tới, nhưng con vừa mới tìm ra đó.

- Ông có nghĩ nó tốt không?

- Chắc chắn đó; nhưng ta tưởng hai phe của ta thì tốt hơn.

- Vậy ta hãy xem xét mấy phe của ông ạ.

- Thứ nhất ta đòi tiền chuộc.

- Bao nhiêu ạ?

- Chậc! một tay như thế hẳn phải đáng giá một trăm nghìn ê-cưu.

- Ôi! vâng ạ.

- Con thấy chưa: thứ nhất ta đòi tiền chuộc, một trăm nghìn ê-cưu.

- Hoặc?…

- Hoặc giả, vậy lại còn tốt hơn nữa đó, ta nộp hắn cho vua Charles, ngài ấy, chẳng còn tướng cầm quân nào để phải lo lắng nữa, cũng chẳng còn nhà ngoại giao để lừa phỉnh, sẽ tự trung hưng lấy, rồi thì, chừng nào trung hưng xong, sẽ tính toán với ta trăm nghìn ê-cưu đang nói đây. Ý ta là vậy đó; con nghĩ sao hử, Planchet ơi?

- Tuyệt quá, thưa ông! Planchet kêu lên, người hắn run rẩy vì nhiều xúc cảm nó dồn lại. Làm sao mà ông lại nảy ra cái ý đó thế ạ?

- Ta đã nảy ra ý đó vào một buổi sáng, bên bờ sông Loire đấy, giữa cái lúc vua Lô y Thập tứ, hoàng thượng mến yêu của chúng ta, khóc lóc nỉ non trên bàn tay cô de Mancini.

- Thưa ông, con xin đảm bảo với ông, ý tưởng thật trác tuyệt. Nhưng…

- A! có một chữ nhưng.

- Ông để con nói! Nhưng xem chừng nó hơi giống bộ da của con gấu đẹp, ông cũng biết đấy ạ, người ta phải bán nó đi, nhưng lại phải lấy từ trên người con gấu còn đang sống kia. Thế nhưng mà, để túm được ông Monck, sẽ phải có ẩu đả.

- Hẳn đi rồi, thì ta gầy dựng cả một đội quân còn gì.

- Vâng ạ, vâng ạ, con hiểu, ối trời! một cú dũng mãnh. Ôi! vậy thì, thưa ông, ông sẽ thắng lợi, bởi chẳng ai sánh nổi với ông trong cái loại công việc này đâu ạ.

- Trong cái trò này ta may lắm, quả đúng thế đấy, d’Artagnan nói, tỏ lộ vẻ giản dị đầy cao ngạo; mi cũng hiểu, nếu như mà ta có A-tố yêu quý của ta, rồi Bô-tố gan hùm của ta, Aramis tinh ranh của ta nữa, thì áp-phe coi như đã xong luôn; nhưng họ biến mất cả rồi, chừng như là vậy, chẳng ai biết phải tìm họ ở đâu. Vậy nên ta phải một mình làm vụ này. Giờ, mi có thấy áp-phe tốt, món tiền đặt có ngon chăng?

- Quá ấy chứ! Quá ấy chứ!

- Sao?

- Dạ, là bởi những điều đẹp đẽ thì chẳng bao giờ vừa xoẳn.

- Vụ này thì không thể nào hỏng được đâu, Planchet con ơi, bằng chứng là ta làm nó mà. Với con đó sẽ là một món hời ngon cơm, còn với ta, một cú khá hấp dẫn. Người ta sẽ bảo: “Tuổi già của ông d’Artagnan đã diễn ra như vậy đấy”; và rồi ta sẽ có một địa vị trong các câu chuyện, gia dĩ lại còn trong Lịch Sử nữa kia, Planchet con ơi. Ta đang rất máu mê vinh dự đây.

- Thưa ông! Planchet kêu lên, khi mà con nghĩ rằng chính tại đây, nhà của con, giữa đống đường, đống mận rồi thì đống quế của con, cái dự đồ kỳ vĩ ấy được chín muồi, con thấy sao như cửa hàng của con chính là một cung điện đấy ạ.

- Cẩn trọng, cẩn trọng, hỡi Planchet; nếu có li hào tin tức nào lọt ra ngoài, thì cả đôi ta sẽ vào ngay nhà ngục Ba-sĩ-đích đó con; cẩn trọng nhé, bạn của ta, bởi ta đang thực hiện cả một âm mưu: ông Monck là đồng minh của ông de Mazarin; phải cẩn trọng đấy!

- Thưa ông, chừng người ta có vinh hạnh là người của ông, thì người ta chẳng sợ gì nữa, và chừng người ta lại còn được liên kết ích lợi với ông, người ta sẽ im thít đấy ạ.

- Tốt lắm con ơi, đây là áp-phe của con còn nhiều hơn của ta, ấy là bởi chỉ tám hôm nữa ta đã ở trên đất Anh-cát-lị rồi.

- Ông cứ đi, ông ơi, ông cứ đi; càng sớm càng tốt đấy ạ.

- Vậy, tiền sẵn sàng chưa?

- Mai là nó sẽ sẵn sàng, chỉ mai thôi ông sẽ nhận từ tay con. Ông muốn vàng hay bạc ạ?

- Vàng, vậy tiện hơn. Nhưng xem thử, ta sẽ sắp xếp như thế nào nhỉ?

- Ôi! Chúa ơi, thì theo cách dễ nhất thôi ạ: ông đưa cho con một tờ biên lai, vậy thôi ạ.

- Không được, không được, d’Artagnan vội nói, trong mọi sự đều phải có quy củ…

- Ấy cũng là ý của con… nhưng với ông, thưa ông d’Artagnan…

- Thế nhỡ ra ta chết đi bên đó, giả như ta bị một viên đạn súng nó bắn trúng, nhỡ ta chết vì uống bia thì sao?

- Thưa ông, con xin ông tin tưởng, nếu quả có vậy, con sẽ buồn phiền vì cái chết của ông lắm, con sẽ chẳng nghĩ gì đến tiền đâu ạ.

- Cám ơn con, Planchet ơi, nhưng dầu có vậy. Chúng ta sẽ, giống hai tên lục sự chỗ biện lý, cùng nhau thảo ra một bản thỏa thuận, một dạng giấy chứng thực, ta hẳn gọi nó là tờ chứng thực mở hãng được.

- Xin sẵn lòng, ông ơi.

- Ta biết sẽ khó mà thảo nó, nhưng ta cứ thử xem sao.

- Ta thử đi ạ.

Planchet chạy đi lấy một cái bút, mực và giấy.

D’Artagnan cầm bút, chấm mực rồi viết như sau:


“Giữa me-xừ d’Artagnan, cựu thống lĩnh ngự lâm quân của nhà vua, hiện trú tại phố Tiquetonne, khách sạn Dê Nhỏ,

“Và xừ Planchet, chủ hiệu thực phẩm, trú tại phố Lombards, cửa hàng Cái Chầy Vàng,

“Đã thỏa thuận như dưới đây:

“Một hãng có vốn bốn mươi nghìn livre được lập ra với mục đích khai thác một ý tưởng của ông d’Artagnan.

“Xừ Planchet, được biết ý tưởng đó, tán thành nó ở mọi điểm, sẽ chi hai mươi nghìn livre cho ông d’Artagnan.

“Và sẽ không đòi cả hoàn lại lẫn tiền lãi trước khi ông d’Artagnan trở về từ một chuyến đi sang Anh-cát-lị.

“Về phần mình, ông d’Artagnan cam đoan bỏ thêm hai mươi nghìn livre vào số hai mươi nghìn mà xừ Planchet đã cấp.

“Ông sẽ dùng món tiền bốn mươi nghìn livre tùy ý, nhưng đảm bảo điều dưới đây.

“Ngày nào ông d’Artagnan, nhờ một phương cách nào đó, giúp được Hoàng Thượng Charles Đệ nhị trở lại ngai vàng nước Anh, ông sẽ đưa cho ông Planchet số tiền…”


- Số tiền năm chục nghìn livre, Planchet ngây thơ nói, lúc thấy d’Artagnan ngừng tay viết.

- Ơ, quỷ thật! không, d’Artagnan đáp, không thể có chuyện chia thành hai phần đều nhau được, vậy là không công bằng.

- Ấy thế nhưng, ông ơi, mỗi người chúng ta bỏ vào phân nửa cơ mà, Planchet rụt rè phản đối.

- Phải rồi, nhưng cứ nghe điều khoản hẵng, Planchet yêu quý của ta, nếu như mà mi thấy như thế là không công bằng chừng nào nó đã được viết ra, vậy thì ta sẽ gạch đi luôn.

Rồi d’Artagnan lại viết:


“Tuy nhiên, vì ông d’Artagnan góp vào liên danh hai mươi nghìn livre của ông, thời gian của ông, ý tưởng của ông, công nghiệp cùng cả tính mạng của ông, những thứ ông rất coi trọng, nhất là cái cuối cùng, ông d’Artagnan sẽ giữ, trên tổng số ba trăm nghìn livre, hai trăm nghìn livre cho ông, tức là phần của ông sẽ là hai phần ba.”


- Rất tốt đấy ạ, Planchet nói.

- Có công bằng chăng? d’Artagnan hỏi.

- Tuyệt đối công bằng ạ, thưa ông.

- Được trăm nghìn, mi sẽ sung sướng thỏa bụng chứ?

- Chà! con cho là vậy. Bỏ hai chục nghìn livre mà thu về tận trăm nghìn!

- Và chỉ trong vòng một tháng thôi đấy nhé, hãy hiểu cho kỹ.

- Sao cơ, chỉ một tháng ạ?

- Phải rồi, ta chỉ đòi một tháng thôi.

- Thưa ông, Planchet hào hiệp nói luôn, con cho ông hẳn sáu tuần.

- Cám ơn, người ngự lâm quân lịch thiệp đáp.

Sau đó, hai liên danh đọc lại biên bản thỏa thuận.

- Hoàn hảo, thưa ông, Planchet nói, ông Coquenard quá cố, người chồng đầu của bà nam tước du Vallon***********, chắc cũng không làm hơn được.

- Mi thấy thế chứ? Nào, vậy thì ta ký tên thôi.

Đôi bên ký tên lên tờ giấy.

- Theo cách này, d’Artagnan nói, ta sẽ chẳng có nghĩa vụ với ai hết.

- Nhưng con thì con sẽ có nghĩa vụ với ông đấy ạ, Planchet nói.

- Không, bởi dẫu ta thiết tha vô ngần, Planchet ạ, với tính mạng của ta, thì ta vẫn có thể để lại nó bên kia, rồi thì con sẽ mất hết. Nhân tiện, chậc! điều này làm ta nghĩ tới chuyện chính yếu, một điều khoản không thể nào thiếu, để ta viết nó ra luôn:


“Trong trường hợp ông d’Artagnan gục ngã trong lúc làm công việc, coi như sự thanh toán đã xong xuôi luôn, xừ Planchet ngay lúc này xóa nợ cho hồn ma của me-xừ d’Artagnan về số hai mươi nghìn livre đã bỏ vào két của liên danh trên đây”.


Điều khoản cuối khiến Planchet phải nhíu mày; nhưng khi nhìn ánh mắt ngời sáng, bàn tay nổi gân rắn chắc kia, rồi thì xương cốt mềm dẻo nhưng cũng thật lực lưỡng của người liên danh với mình, hắn lấy lại được lòng can đảm, và thế là chẳng chút hối tiếc, đầy ngạo nghễ, hắn thêm một nét nữa vào chữ ký. D’Artagnan cũng làm vậy. Thế là đã viết xong tờ chứng thực lập hãng đầu tiên; có lẽ kể từ bấy người ta đã có chút bắt chước hơi quá nhiều, cả hình hài lẫn nội dung của nó.

- Giờ, Planchet nói, rót cốc rượu Anjou cuối cùng cho d’Artagnan, giờ, ông chủ yêu quý của con, ông đi ngủ thôi ạ.

- Không đâu, d’Artagnan đáp, vì lúc này còn cần làm cái việc khó khăn nhất cái đã, tức là ta sẽ phải mơ thấy cái việc khó khăn nhất đó.

- Chà! Planchet nói, con tin tưởng vào ông lắm ạ, thưa ông d’Artagnan, đến mức con sẽ không đổi một trăm nghìn của con lấy chín mươi nghìn đâu.

- Quỷ tha ma bắt ta đi! d’Artagnan nói, ta cho là con đúng đấy.

Nói đoạn, d’Artagnan cầm lấy một ngọn nến, đi lên phòng của ông, rồi nằm ngủ.






XXI

Ở thiên này, d’Artagnan bắt tay chuẩn bị lên đường đi kinh doanh cho hãng Planchet và Compagnie.


D’Artagnan cả đêm mơ tốt quá, cho nên ngay sáng hôm sau kế hoạch của ông đã rất rõ ràng.

- Đây rồi! ông ngồi nhỏm dậy trên giường, chống cùi chỏ lên đầu gối, tay đỡ lấy cằm, đây rồi! Ta sẽ kiếm bốn chục người chắc chắn, vững chãi, thuê giữa đám bị vướng chút vấn đề này kia, nhưng biết kỷ luật. Ta sẽ hứa cho chúng năm trăm livre trong vòng một tháng, nếu chúng trở về; chẳng gì hết, nếu chúng không trở về, hoặc là một nửa, cho thân thích họ hàng bọn chúng. Về chuyện đồ ăn và chỗ nghỉ, cái đó chỉ quan hệ tới tụi Anh, chúng có bò ngoài cánh đồng, thịt thà cất chạn, gà trong chuồng và thóc lúa trong vựa. Ta sẽ tự đến gặp tướng Monck cùng đội quân kia. Y sẽ ưa chuộng ta. Ta sẽ chiếm được lòng tin của y, rồi thì ta sẽ mau chóng lạm dụng cái lòng tin ấy luôn.

Nhưng, chưa kịp đi xa hơn, d’Artagnan đã lắc đầu, ngưng lại giữa chừng.

- Mà không, ông nói, ta hẳn sẽ không dám kể điều này cho anh A-tố; phương cách chẳng được quang minh chính đại cho lắm. Cần dùng tới vũ lực, ông nói tiếp, chắc chắn phải dùng đến nó rồi, sao cho không để phạm tới lòng trung của ta. Cùng bốn chục người ta sẽ đi khắp chốn, nhưng là theo lối bạc-ti-dăng. Phải rồi, nhưng nếu ta gặp, chẳng phải bốn chục nghìn tên Anh, như Planchet đã nói, mà chỉ thuần túy và đơn giản là bốn trăm tên thôi, thì sao? Ta sẽ bị đánh thua, bởi, trên tổng số bốn chục chiến binh của ta, sẽ có ít nhất một chục tên gian xảo, chục nữa bị giết chết ngay lập tức bởi vì ngu quá. Không, thật thế, chẳng thể nào mà có nổi bốn chục người chắc chắn như nhau đâu; cái đó không tồn tại: Cần phải biết hài lòng với ba chục mà thôi. Giảm bớt một chục, ta sẽ có thể tránh đụng độ đánh nhau, vì chỉ có rất ít người, mà nếu như có đánh nhau, thì lựa chọn của ta sẽ chắc chắn hơn, nếu chỉ có ba chục thay vì bốn chục. Ngoài ra, ta sẽ tiết kiệm được năm nghìn quan, tức là một phần tám tổng số vốn của ta, cũng đáng đây. Vậy là được rồi, ta sẽ có ba chục mạng. Ta sẽ phân chúng ra thành ba đội, chúng ta sẽ rải rác ra trên đất nước, giao ước sẽ gặp nhau vào một lúc định sẵn; theo cách đó, chỉ đi theo nhóm mười người một, chúng ta sẽ chẳng gây ra chút nghi ngờ nào, sẽ chẳng ai để ý tới chúng ta sất. Phải rồi, phải rồi, ba mươi là một con số tuyệt diệu. Tức là gồm ba lần một chục; ba, con số thần thánh. Và rồi, thật thế, một đội gồm ba chục người, chừng nào tập hợp lại với nhau, trông uy thế cũng áp đảo lắm. A! mà ta bất hạnh quá, d’Artagnan tiếp, cần phải có ba chục con ngựa; vậy thì lụn bại mất. Đầu óc ta đã bỏ đi đâu, mà lại quên được chuyện ngựa nghẽo này nhỉ? Mà chẳng thể có chuyện làm một cú như thế không ngựa. Thôi được rồi, món hy sinh ấy, chúng ta sẽ phải làm thôi, dầu phải dùng ngựa ở bển; vả, bên đó chúng không tệ. Nhưng mình lại quên, chậc! ba nhóm, vị chi cần ba chỉ huy, thế thì khó rồi: tổng ba chỉ huy thì ta đã có một, chính là ta đây; đúng, nhưng hai tên kia, chỉ riêng chúng thôi cũng đã tốn kém bằng tổng cộng số quân còn lại. Không, nhất quyết, sẽ chỉ được có một tên phó thôi. Nếu mà vậy, ta sẽ giảm đội quân của ta xuống chỉ còn hai chục người. Ta biết, vậy thì ít quá, hai chục; nhưng bởi với ba chục ta đã quyết định sẽ không đi gây chuyện đánh nhau, thì ta sẽ còn đỡ gây chuyện hơn nữa nếu chỉ có hai chục. Hai chục, sao mà tròn vo thế này nhỉ; vả, như thế thì sẽ bớt được hẳn một chục con ngựa, món ấy khá tiền; vậy, nếu có một tên phó khá… Khốn thật! kiên trì tính toán là điều quan trọng thật đó! Chẳng phải ta đã định đổ bộ với bốn chục người, thế mà giờ đây ta giảm xuống chỉ còn hai chục, mà thành công thì vẫn vậy. Đùng một cái tiết kiệm được hẳn mười nghìn live, lại còn chắc cú hơn, tốt quá rồi. Xem nào, lúc này: chỉ còn mỗi một việc là tìm ra cái tên phó kia; cho nên ta hãy tìm hắn, rồi sau đó… Chẳng dễ đâu, ta cần một kẻ can đảm mà tốt, một kẻ nào chính là ta đây, nhưng là chính bản thân ta thứ hai đó. Phải rồi, nhưng một tên phó, hắn sẽ biết bí mật của ta, và do bí mật đó đáng giá ngang một triệu, mà ta sẽ chỉ trả cho cái tên đó một nghìn livre, cùng lắm là một nghìn rưởi, thế thì hắn sẽ đem bán bí mật của ta cho Monck ngay. Không được có tên phó nào, khốn thật! Vả, cứ giả thử cái tay đó nín tịt như một môn đệ của Pythagore đi chăng nữa, thì hắn vẫn sẽ có trong đội một tên lính yêu nào, hắn sẽ cho tên đó làm tay chân thân tín của hắn; kẻ thân tín sẽ được biết bí mật của tên phó, trong trường hợp kẻ kia trung thực, không muốn bán nó đi. Vậy thì kẻ thân tín, kém lòng trung hơn và cũng ít tham vọng hơn, sẽ bán đi tất tật với cái giá năm mươi nghìn livre. Kìa, kìa, chẳng thể được rồi! Nhất quyết, tên phó là chẳng thể nào. Nhưng vậy thì sẽ không còn các phân đội nữa, ta sẽ không thể chia đội lính của ta làm hai phần và hành động tại hai điểm cùng một lúc nếu như mà không có một ta thứ hai… Nhưng hành động tại hai điểm thì để làm gì nhỉ, bởi ta chỉ cần phải bắt cóc đúng một người thôi? Gây suy yếu cho một đội quân do đặt một phần bên hữu, còn phần kia bên tả, để làm gì nhỉ? Chỉ một nhóm thôi, khốn thật! một mà thôi, và nằm dưới quyền chỉ huy của d’Artagnan; tốt quá! Nhưng hai chục người đi cùng nhau sẽ khiến ai ai cũng thấy khả nghi; không được để cho người ta thấy có hai chục kỵ sĩ đi cùng với nhau, bằng không, một đội lính to sẽ được cử tới hỏi mật lệnh, rồi chúng, do chúng ta lúng búng không sao nói được mật lệnh, nã súng vào ông d’Artagnan cùng người của ông ấy, như bắn thỏ. Vậy, ta rút xuống chỉ còn chục người thôi; theo cách này, ta hành động rất đơn giản, mà lại thống nhất; ta sẽ buộc phải thận trọng, vốn nó đã là phân nửa thành công rồi, trong một áp-phe cùng kiểu với áp-phe mà ta đang thực hiện đây. Đông người quá, rất có thể ta sẽ bị lôi cuốn làm điều điên rồ nào đó. Chỉ mười con ngựa thôi thì sẽ rất dễ mua, hoặc bắt lấy. Ồ! ý tưởng tuyệt quá, rồi thì nó lại còn khiến máu trong người ta trở nên yên ả rất mực! Chẳng còn những mối nghi, chẳng còn các mật lệnh, chẳng còn hiểm nguy nữa rồi. Chục người, đó là đám người hầu hoặc lũ cò mi. Chục người đi với chục con ngựa chở đầy hàng hóa nào đó thì ai mà buồn để tâm, đâu đâu cũng được tiếp đón tử tế cả. Chục người đi kinh doanh cho hãng Planchet và Compagnie, nước Pháp. Chẳng có gì để nói. Chục người ấy, ăn vận như thợ thuyền, mang một con dao thợ săn thật tốt, thêm một khẩu mousqueton tốt nữa buộc trên mông ngựa, một khẩu súng ngắn tốt nhét trong túi. Chẳng bao giờ họ phải lo lắng, bởi vì họ làm gì có ý đồ gì xấu. Có lẽ xét cho cùng trông họ cũng hơi có dáng dấp của dân buôn lậu, nhưng vậy thì có làm sao? Buôn lậu thì, cũng như đa thê, đâu có phải tội đáng đem mà treo cổ. Điều tệ hại nhất có thể xảy tới với bọn ta là bị tịch thu mất hàng. Hàng bị tịch thu, áp-phe lại càng tốt! kìa, kế hoạch tuyệt quá đi thôi. Chỉ chục người, chục người mà ta sẽ thuê để làm việc cho ta, chục người nhưng cả quyết bằng với bốn chục mạng, mà lại sẽ chỉ khiến ta tốn kém như chỉ cho bốn người, với bọn họ, để cho mà chắc chắn hơn, ta sẽ không mở miệng nhắc chút nào về ý đồ của ta, mà ta sẽ chỉ nói như sau: “Các bạn ta, có một cú cần làm đây”. Theo cách ấy, Satan chắc sẽ phải ma lanh lắm nếu mà đi chơi ta một cú. Mà lại còn tiết kiệm được mười lăm nghìn livre! sao lại có thể tuyệt đến thế này nhỉ.

Lòng phấn chấn quá đỗi vì điều vừa tính toán rất mực tinh vi, d’Artagnan quyết chọn kế hoạch này, nhất định sẽ không thay đổi gì nữa. Vả, trí nhớ tuyệt luân của ông đã kịp cung cấp cho ông bản danh sách gồm chục con người xuất chúng, chọn từ đám những kẻ ưa phiêu lưu, gặp phải vận hạn xấu hoặc bị pháp luật khiến cho phải e dè. Xong đâu đấy, d’Artagnan đứng dậy, khởi sự đi tìm ngay, bảo Planchet khỏi phải chờ cơm trưa, thậm chí khỏi đợi cơm tối luôn. Chỉ cần một ngày rưỡi đáo qua mấy nơi lộn nhộn của Ba lê là ông đã thu hoạch xong hết, chẳng việc gì phải giới thiệu mấy kẻ ấy với nhau, ông đã xem xét, lọc lựa, tập hợp trong vòng chưa đầy ba mươi tiếng, một bộ sưu tập gồm toàn những bộ mặt tệ hại nói một thứ tiếng Pháp kém thuần khiết hơn so với tiếng Anh, cái ngôn ngữ mà họ sắp dùng tới.

Phần lớn trong số ấy là những người lính gác, được d’Artagnan coi trọng phẩm chất trong các dịp gặp gỡ trước đây, những kẻ do rượu chè be bét, các nhát kiếm bất hạnh, các khoản kiếm được bất ngờ từ trò đổ bác, hoặc do các cải cách kinh tế của ông de Mazarin, đã buộc lòng phải tìm chốn náu mình trong bóng tối, trong nỗi cô đơn, ấy chính là hai nhân vật an ủi lớn lao cho những linh hồn không được ai hiểu, những linh hồn u phẫn.

Bọn họ mang trên mặt, cùng là trên trang phục những dấu vết của nỗi đau lòng từng phải trải qua. Vài kẻ mặt mũi tan nát; tất tật quần áo tan hoang. D’Artagnan ưu ái giảm phần cho những gì cấp bách nhất của các nỗi khốn cùng kết tình huynh đệ với nhau bằng một sự phân chia những đồng ê-cưu của hãng thật khôn ngoan; rồi, sau khi lo sao những đồng ê-cưu đó được dùng kíp cho mục đích làm đội quân trở nên đẹp đẽ hơn, ông hẹn mấy người vừa tuyển mộ được sẽ gặp nhau trên miền Bắc Pháp, đoạn giữa Berghes và Saint-Omer. Thời hạn chờ đợi được nói rõ là sáu hôm, vả d’Artagnan đã quá biết về ý chí, tâm trạng phơi phới cùng là lòng trung tín tương đối của những tay xuất chúng mới mộ được kia, ông chắc chắn sẽ chẳng ai trong số bọn họ vắng mặt đâu.

Các mệnh lệnh đã ra xong rồi, cũng đã có hẹn rồi, ông bèn đi chào từ biệt Planchet, hắn hỏi ông tin tức về đội quân. D’Artagnan thấy rằng chẳng việc gì phải nói cho hắn về sự giảm trừ của ông trên phương diện quân số; ông e nếu nói điều này ra, ông sẽ làm tổn hại lòng tin liên danh của ông. Planchet khoái trá lắm khi biết đội quân đã được gầy dựng xong, rằng hắn, Planchet, giống một nửa với một ông vua, một ông vua nơi quầy hàng, sẽ từ quầy hàng đồng thời cũng là ngai vàng của hắn luôn, bỏ tiền mộ cả một nhóm quân ngũ đàng hoàng sẽ được dùng để chiến đấu chống lại Albion điêu trá************, kẻ thù của tất tật trái tim Pháp đích thực nào.

Planchet liền đếm đủ để đưa cho d’Artagnan hai mươi nghìn livre bằng những đồng lô y đúp đẹp đẽ, đó là phần của hắn, Planchet, cùng là hai mươi nghìn livre khác, vẫn gồm những đồng lô y đúp thật đẹp, ấy là phần của d’Artagnan. D’Artagnan cho hai phần hai chục nghìn quan này vào hai cái túi, rồi mỗi bên tay nhấc nhấc một túi:

- Phiền thật đây, cái món tiền này, Planchet yêu quý của ta, ông nói; con có biết nó nặng lối hơn ba mươi livre không thế hả?

- Chậc! con ngựa của ông sẽ mang nó nhẹ như lông hồng ấy mà.

D’Artagnan lắc đầu.

- Con đừng nói với ta những điều như vậy, Planchet con ơi; một con ngựa chở nặng tận những ba mươi livre, chưa kể bọc quần áo cùng người kỵ sĩ, chẳng dễ mà vượt một con sông đâu, cũng chẳng thể nhẹ nhàng mà nhảy qua một bức tường hay một cái hố, mà không ngựa thì cũng sẽ chẳng còn kỵ sĩ. Nhưng quả đúng, con đâu biết cái đó, Planchet con ơi, cả đời con đã phục vụ trong bộ binh.

- Vậy, thưa ông, phải làm sao? Planchet hỏi, hắn thực sự thấy rối trí.

- Nghe này, d’Artagnan đáp, ta sẽ trả tiền cho đội quân của ta chừng nào nó trở về nhà. Giữ cho ta nửa hai mươi nghìn livre của ta, con sẽ dùng món này kiếm lãi trong lúc chờ đợi.

- Thế nửa của con thì sao ạ? Planchet hỏi.

- Ta mang theo.

- Ông tin tưởng con như vậy, con vinh hạnh quá, Planchet nói; nhưng nếu ông không về thì sao ạ?

- Cũng có thể đó, dầu chuyện ấy khó tin đến đâu. Nếu có vậy, Planchet con ơi, nếu như mà ta không quay trở về, con hãy đưa cho ta một cái bút, để ta viết di chúc luôn.

D’Artagnan cầm lấy bút, giấy, rồi ông viết như sau, chỉ trên một tờ giấy:


“Tôi, d’Artagnan, sở hữu hai mươi nghìn livre nhờ tiết kiệm từng xu từ ba mươi ba năm nay, do phục vụ Đức Hoàng Thượng nhà vua nước Pháp. Tôi xin trích từ đó năm nghìn tặng cho Athos, năm nghìn cho Porthos, năm nghìn cho Aramis, để họ tặng lại, nhân danh tôi cùng họ, cho anh bạn nhỏ Raoul của tôi, tử tước de Bragelonne. Tôi tặng năm nghìn cuối cùng cho Planchet, để hắn đỡ tiếc nuối mà chia mười lăm nghìn kia cho các bạn của tôi.

“Tôi xin ký tên chứng thực những lời trên đây.

                                                           d’ARTAGNAN.”


Planchet tò mò quá đỗi muốn biết d’Artagnan viết gì.

- Đây, viên ngự lâm quân nói với Planchet, con đọc đi.

Đọc xong, cặp mắt Planchet hoen lệ.

- Ông nghĩ con sẽ không chịu đưa tiền nếu không được vậy? Thế thì, còn chẳng muốn năm nghìn livre của ông đâu ạ.

D’Artagnan mỉm cười.

- Nhận đi, Planchet con ơi, cứ nhận đi, bằng cách ấy con sẽ chỉ mất mười lăm nghìn quan thay vì tận hai chục, và rồi con sẽ không bị cám dỗ mà làm trái di huấn của chủ con, cũng là bạn con luôn, nếu tìm cách sao cho chẳng bị mất gì.

Sao mà ông hiểu rõ trái tim con người, cùng là trái tim các chủ tiệm thực phẩm đến vậy, cái ông d’Artagnan thân mến ấy!

Những kẻ nào từng gọi Don Quichotte là thằng điên, bởi vì chàng lên đường đi chinh phục một đế chế cùng chỉ một mình Sancho, giám mã của chàng, và những kẻ từng gọi Sancho là thằng điên, bởi vì hắn đi cùng ông chủ hắn lên đường chinh phục vẫn cái đế chế nói trên, chắc chắn những kẻ ấy sẽ không có lời gọi nào khác cho d’Artagnan cùng Planchet.

Tuy nhiên, người thứ nhất vốn dĩ được coi là trí óc tinh tế bậc nhất giữa những trí óc tinh tế nhất triều đình nước Pháp. Còn nhân vật thứ hai, hắn đã chiếm được, rất xứng đáng, cái danh tiếng một trong những bộ não hùng mạnh nhất giữa các lái buôn chuyên về thực phẩm của phố Lombards, do vậy là của cả Paris, do vậy là của cả nước Pháp.

Vậy nhưng, nếu chỉ xem xét hai kẻ kia từ quan điểm của tất cả mọi người, cùng các phương tiện mà họ định dùng tới nhằm khôi phục một ông vua lên lại ngai vàng của ông ta, chỉ trong đối sánh với những phương tiện khác, trí tuệ non nớt nhất của cả đất nước nơi các trí tuệ đều là non nớt nhất, hẳn sẽ thấy sôi tiết lên trước nỗi táo gan của viên thống lĩnh, cùng là sự ngu xuẩn của người liên danh của ông ta.

Thật may quá, d’Artagnan phải đâu là kẻ chịu để tai mà nghe những lời lếu láo thiên hạ lải nhải quanh ông, cũng như những lời bình luận của người ta về ông. Ông đã chọn câu khẩu hiệu: Cứ làm cho tốt, bọn dốt muốn nói gì xin cứ việc mà nói. Kết quả của điều đó là, theo thói thường nơi mọi thiên tài vượt trội, hai con người ấy tự ngợi khen bản thân intra pectus vì đã đúng, trái ngược hẳn với tất cả những kẻ nghĩ bọn họ đã sai.

Để khởi đầu, d’Artagnan lên đường khi trời đang đẹp tuyệt, không một gợn mây trên cao kia, cũng chẳng chút mây nào trong tâm trí, vui tươi và mạnh mẽ, bình thản và cả quyết, đinh ninh tấc dạ, do vậy mang cùng theo với ông một liều nhân bội lần lên của thứ chất lỏng hùng mạnh mà những dao chuyển của tâm hồn làm vọt ra từ các dây thần kinh, chúng tạo cho cỗ máy con người một sức mạnh cùng là một ảnh hưởng, sẽ được các thế kỷ về sau, điều này là hoàn toàn có thể, nhìn nhận chuẩn xác hơn (về mặt số học) so với chúng ta có thể, ngày hôm nay. Giống những ngày xưa xa, ông lại đi trên cái con đường chi chít những cuộc phiêu lưu ấy, nó từng dẫn ông tới Boulogne*************, lần này là lần thứ tư ông đi trên nó. Đi ở đó, gần như ông có thể nhận biết dấu bước chân ông trên nền đường, cùng dấu vết nắm đấm của ông trên cửa các ngôi khách sạn; trí nhớ của ông, luôn luôn hoạt bát và lúc nào cũng có mặt ở đó, làm sống dậy cái tuổi trẻ kia, sau tận ba mươi năm cả trái tim lớn lao lẫn cổ tay bằng thép của ông hẳn đều không chối bỏ.

Bản tính của con người ấy, sao mà nó phong nhiêu đến vậy! Ông có mọi thị dục, mọi khiếm khuyết, mọi nỗi yếu đuối, và cái tinh thần quật cường quen thuộc với trí năng ông biến tất tật các sơ sẩy ấy thành những phẩm chất tương ứng. D’Artagnan, nhờ vào trí tưởng tượng cứ không ngừng phiêu bạt của ông, sợ một cái bóng, và ngượng vì đã thấy sợ, ông bước vào chỗ cái bóng, và khi ấy trở nên tuyệt đích can đảm, nếu như mà nguy hiểm là có thực; vậy nên, mọi thứ nơi ông đều là những xúc cảm, bởi vậy, đều là khoái thú. Ông rất thích có người khác ở bên, nhưng chẳng bao giờ thấy buồn chán những lúc chỉ một mình, và hơn một lần, nếu như có thể theo dõi ông thật kỹ khi ông một mình, hẳn ta có thể nom thấy ông cười những lời nhạo ông tự nói với chính ông, hoặc là những hình ảnh tưởng tượng kỳ khôi ông tự tạo ra, chỉ năm phút trước khi nỗi buồn chán hẳn sẽ vọt tới.

Chừng như d’Artagnan lần này không thấy vui bằng so với giả như ông có trước mặt viễn cảnh tìm được vài người bạn tốt ở Calais thay vì viễn cảnh sẽ gặp tại đó một chục khố rách áo ôm; dầu có vậy nỗi sầu chẳng đến viếng ông hơn một lần mỗi ngày, vậy nên ông nhận chừng năm chuyến thăm của cái vị thần u tối đó thì đã nhìn thấy bể ở Boulogne, chưa nói những chuyến thăm viếng đó lại còn rất ngắn.

Nhưng, tới đó rồi, d’Artagnan cảm thấy mình sắp phải hành động, thế là mọi thứ tình cảm khác ngoài lòng tin tưởng liền biến đi mất, để rồi chẳng bao giờ quay trở lại nữa. Từ Boulogne, ông men theo bờ biển đến Calais.

Calais là điểm hẹn chung, rồi thì trong Calais ông đã nói cho những kẻ được ông mướn ngôi khách sạn Đại Quân Vương, ở đó giá tiền chẳng hề cao, cũng tại đó đám thủy thủ nhộn nhịp, tại đó những khách cung kiếm thương hồ, lẽ đương nhiên, tìm được chỗ trọ, bàn ăn, đồ đánh chén, cùng là mọi thú vui của cuộc đời, với cái giá một quan rưỡi mỗi ngày.

D’Artagnan muốn bắt quả tang bọn họ đang sống phiêu bạt, ông cũng muốn dựa vào ấn tượng đầu tiên để xem mình có thể trông chờ vào bọn họ là những đồng hành tốt hay không.

Chiều muộn, bốn giờ rưỡi, ông đặt chân tới Calais.






XXII

D’Artagnan lên đường đi kinh doanh cho hãng Planchet và Compagnie


Ngôi khách sạn Đại Quân Vương nằm trên một phố nhỏ chạy song song với bến cảng, nhưng không dẫn ra cảng; vài ngõ cắt ngang nó, giống các thanh ngang cắt hai thanh dài song song nhau của cái thang, hai đường thẳng dài là bến cảng và cái phố. Đi vào mấy ngõ, người ta bất ngờ từ cảng vào phố, hoặc từ phố ra cảng.

D’Artagnan đến trên bến cảng, đi vào một trong những phố ấy, và bất ngờ thấy mình đang đứng trước khách sạn Đại Quân Vương.

Giờ phút được chọn rõ khéo, nó lại còn có thể nhắc cho d’Artagnan nhớ đến khởi thủy sự nghiệp của ông tại ngôi khách sạn Franc-Meunier, ở trấn Meung năm nào**************. Đám thủy thủ vừa chơi trò gieo xúc xắc, đâm ra cãi cọ nhau, đang hung dữ dọa nạt lẫn nhau. Chủ ông, chủ bà cùng hai bồi lo lắng ngó vòng tròn mấy kẻ chơi đổ bác gian lận kia, giữa đó chiến tranh hồ như sắp bùng nổ, tua tủa những dao găm và rìu.

Tuy vậy, trò chơi vẫn tiếp diễn.

Trên một ghế băng dài bằng đá có hai người đàn ông, chừng như bọn họ đang trông chừng cái cửa; tám cái bàn kê trong góc căn phòng chung có tám người khác nữa ngồi. Cả mấy người trên ghế băng lẫn đám ngồi bàn đều không tham gia cãi cọ hay chơi đổ bác. D’Artagnan nhận ra chục người của ông nơi những kẻ khán giả rất mực lạnh lùng và thờ ơ kia.

Cuộc cãi cọ đương hồi gay cấn. Giống như bể, mọi thị dục đều có thủy triều của nó, thủy triều đó cũng dâng lên, hạ xuống. Tới đỉnh điểm của thị dục, một tên thủy thủ hất đổ cái bàn cùng đống tiền đặt trên đó. Cái bàn đổ xuống, tiền lăn đi. Cùng lúc, toàn bộ đám người của ngôi khách sạn lao vào những món cược, và kha khá những đồng tiền màu trắng bị nhặt bởi tay những kẻ sau đó vội chuồn đi mất, trong lúc đám thủy thủ vẫn mải xâu xé lẫn nhau.

Chỉ còn hai người ngồi trên ghế băng cùng tám người phía trong, dầu trông họ như thể hoàn toàn xa lạ với nhau, chỉ họ, chúng tôi xin nói, dường như đã nhất định tỏ ra thản nhiên ở ngay giữa những tiếng la hét tức tối cùng âm thanh của tiền rơi ấy. Chỉ hai người đưa chân gạt lũ người đang đánh nhau, bọn chúng lăn toài tới tận bên dưới bàn của họ.

-----------


* Chư quân hãy đặc biệt lưu tâm cái tên "Colbert" này. Rồi ra chư quân sẽ sớm hiểu là tại làm sao.
** Vốn người Tây phương hồi các thế kỷ trước, họ tin rằng Peru là một xứ phong nhiêu giàu có vô cùng; người Tây phương vốn dĩ thiển cận, ta nên châm chước cho họ.
*** Tên vài đầu lĩnh của Fronde.
**** Chư quân ơi, mời chư quân hãy đọc Virgile đại nhân để biết thêm sự tình.
***** Chi tiết này nhỏ, nhưng rất quan hệ tới câu chuyện; rồi ra chư quân sẽ hiểu là tại sao và bằng cách nào (ấy là giả dụ chư quân đọc được cho đến hết).
****** Chư quân cũng rất nên để ý nhớ kỹ tên của nhân vật này.
******* Ngay dưới sẽ có một lời đùa của ông Dumas - chư quân hẳn rất dễ dàng nhận ra là ông Dumas rất hay đùa - vậy nên viết như thế này.
******** Con trai của Milady; trong cái truyện Ba-dờ-lôn này, một số khi có những ám chỉ tới các chi tiết trong Vingt ans après.
********* Cũng như em trai vua Pháp tự động được phong tước quận công d’Orléans, con trai vua Anh sẽ tự động trở thành một “prince”, và là prince của “xứ Galles”.
********** Đây là tiếng La-tanh, tất nhiên, thưa chư quân.
*********** Chuyện liên quan tới tình ái Bô-tố.
************ Đại khái người Phan lang sa muốn gọi xách mé nước Anh-cát-lị thì sẽ gọi như vậy. Các giống người ở gần nhau thông thường rất ghét nhau: người ở ta những gì xấu tệ đều gọi nó là của Lào. Người Phan lang sa thích chế nhạo người Hồng Mao đến mức nếu mà nói chuồn đi mất theo đường lối chẳng mấy quang minh chính đại thì họ sẽ nói là đi mất theo kiểu Anh; nhưng ngược lại, người Anh cũng nói y hệt như vậy: chuồn lủi đi mất thì họ sẽ nói là đi theo kiểu Pháp.
************* Đây là Boulogne ở biển tận lên phía Bắc nước Pháp, chứ không phải Boulogne cái rừng nơi thành phố Ba lê.
************** Ám chỉ đoạn mở đầu Ba người ngự-lâm pháo-thủ đó chư quân, chư quân có nhớ chăng.



(còn nữa)




Alexandre Dumas: Tử tước de Bragelonne (2) (từ đầu chương IV cho đến hết chương IX)
Alexandre Dumas: Tử tước de Bragelonne (1) (từ đầu cho đến hết chương III)

5 comments:

  1. truyện này đọc có cái nguy hiểm là các câu cứ lôi ng ta đi đến câu tiếp sau nó, mà câu nào cũng nháy mắt làm ra vẻ như nó đang đứng ở ngay trước cái cửa bí mật rồi sẽ dẫn vào một căn phòng bí mật có một cái hộp bí mất ... kkk tệ quá đi!

    ReplyDelete
  2. bí mật mỗi lúc một thêm sâu thẳm

    tiếp tục (đã sang chương 17)

    ReplyDelete