Showing posts with label lai-nguyen-an. Show all posts
Showing posts with label lai-nguyen-an. Show all posts
Sep 21, 2016
Oct 6, 2015
Tchya và Phổ thông bán nguyệt san
Mới đây tôi vừa bắt đầu nói đến Tchya, cuốn Ai hát giữa rừng khuya cũng mới in rồi, bây giờ ta nên đi sâu vào Tchya và một tờ báo rất đặc biệt liên quan chặt chẽ đến văn nghiệp của Tchya: Phổ thông bán nguyệt san.
Tôi lại cũng hay tập trung vào Tự Lực văn đoàn, Phong hóa, Ngày nay, nhà xuất bản Đời nay và An Nam xuất bản cục, nhưng tất nhiên giai đoạn giữa thập niên 30 mọi chuyện nhộn nhịp hơn nhiều. Để tìm hiểu, không gì bằng bắt đầu bằng bộ 13 năm tranh luận văn học của Thanh Lãng. Linh mục Thanh Lãng là một nhà nghiên cứu "dân chơi", tôi rất thích, và thật ra ông ấy có công lao vô cùng to lớn, là dân chơi nên nhìn ra những vấn đề ít người để ý đến.
Cuộc tranh đấu dữ dội giữa mấy nhóm đã đi vào dã sử: cách đây mấy năm nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đã công bố tác phẩm Tam động kiếm tiên rất hấp dẫn, các bác nên tìm đọc. Ta có ba đối thủ chính: Tự Lực văn đoàn, Tân Dân và Lê Cường. Lê Cường trông hơi yếu thế hơn nhưng để bù lại, những ấn phẩm huyền thoại bậc nhất của lịch sử văn chương Việt Nam giai đoạn này lại hay nằm ở Lê Cường (Số đỏ 1938 chẳng hạn), tờ Hà Nội báo của bên Lê Cường cũng không đọ được với các tờ của hai nhóm kia, nhưng lại cũng là huyền thoại, chủ yếu nhờ đăng Số đỏ và Giông tố (mục lục tờ Hà Nội báo có thể đọc được ở trang web "Hồ sơ văn học"). Vũ Trọng Phụng có dành cho cả Tự Lực văn đoàn và Tân Dân vài thứ, nhưng đều là những thứ kém nhất :p, chẳng hạn Cạm bẫy người do Đời nay in, còn Dứt tình (có lẽ là tác phẩm tệ nhất của Vũ Trọng Phụng) thì ở chính Phổ thông bán nguyệt san.
Tôi lại cũng hay tập trung vào Tự Lực văn đoàn, Phong hóa, Ngày nay, nhà xuất bản Đời nay và An Nam xuất bản cục, nhưng tất nhiên giai đoạn giữa thập niên 30 mọi chuyện nhộn nhịp hơn nhiều. Để tìm hiểu, không gì bằng bắt đầu bằng bộ 13 năm tranh luận văn học của Thanh Lãng. Linh mục Thanh Lãng là một nhà nghiên cứu "dân chơi", tôi rất thích, và thật ra ông ấy có công lao vô cùng to lớn, là dân chơi nên nhìn ra những vấn đề ít người để ý đến.
Cuộc tranh đấu dữ dội giữa mấy nhóm đã đi vào dã sử: cách đây mấy năm nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đã công bố tác phẩm Tam động kiếm tiên rất hấp dẫn, các bác nên tìm đọc. Ta có ba đối thủ chính: Tự Lực văn đoàn, Tân Dân và Lê Cường. Lê Cường trông hơi yếu thế hơn nhưng để bù lại, những ấn phẩm huyền thoại bậc nhất của lịch sử văn chương Việt Nam giai đoạn này lại hay nằm ở Lê Cường (Số đỏ 1938 chẳng hạn), tờ Hà Nội báo của bên Lê Cường cũng không đọ được với các tờ của hai nhóm kia, nhưng lại cũng là huyền thoại, chủ yếu nhờ đăng Số đỏ và Giông tố (mục lục tờ Hà Nội báo có thể đọc được ở trang web "Hồ sơ văn học"). Vũ Trọng Phụng có dành cho cả Tự Lực văn đoàn và Tân Dân vài thứ, nhưng đều là những thứ kém nhất :p, chẳng hạn Cạm bẫy người do Đời nay in, còn Dứt tình (có lẽ là tác phẩm tệ nhất của Vũ Trọng Phụng) thì ở chính Phổ thông bán nguyệt san.
Oct 18, 2013
Feb 18, 2013
Sách tháng Hai 2013
1. Phan An Sa. Nắng được
thì cứ nắng. Phan Khôi từ Sông Hương đến Nhân Văn. Phương Nam & NXB Tri
thức. 687 tr., 170.000 đ. Lại Nguyên Ân viết “Lời giới thiệu”.
Với cá nhân tôi, tháng vừa rồi quá dễ “xử” vì tôi đã tìm
ngay ra được “cuốn sách của tháng”.
Phan
Khôi, càng nhìn càng thấy là một con người vĩ đại của lịch sử Việt Nam. Một
nhân vật bị khuất lấp, bởi vì thật ra lịch
sử rất bất công, chẳng có cái mai hậu công bằng nào ở đâu ra cả.
Cuốn sách của Phan An Sa (con trai của Phan Khôi) “cắt” hành
trạng của Phan Khôi từ 1936 trở đi cho đến khi Phan Khôi qua đời năm 1959. Lựa
chọn ấy là hợp lý trong tình trạng nghiên cứu Phan Khôi hiện nay, vì bộ sách của
Lại Nguyên Ân đã đi đến năm 1932, gom gần đủ các bài báo của Phan Khôi cho đến
năm ấy, và đã có một sưu tập Sông Hương
do Phạm Hồng Toàn thực hiện trước đây. Năm 1936 là năm Phan Khôi, sau chừng hai
mươi năm lăn lộn với những tờ báo, lần đầu tiên trở thành chủ nhiệm báo, tức là
chủ nhiệm Sông Hương. Đọc sách của
Phan An Sa (kỹ càng và nhiều chi tiết hơn nhiều so với Nhớ cha tôi Phan Khôi của Phan Thị Mỹ Khanh trước đây) ta sẽ biết
Phan Khôi sống trong tình cảnh như thế nào trong quãng thời gian ra 32 số Sông Hương, cũng như biết Phan Khôi đã
viết cuốn tiểu thuyết duy nhất của đời mình, Trở vỏ lửa ra bảo vệ người phụ nữ trong hoàn cảnh ra sao (cuốn này
sau in ở Phổ thông bán nguyệt san).
Cuốn sách cũng gần như khẳng định chắc chắn Phan Khôi bắt đầu viết báo từ Đăng cổ tùng báo, một điều còn tồn nghi
cho đến nay, tuy nhiên vẫn chưa đưa được chứng cứ cụ thể. Sự nghiệp của Phan
Khôi có thật nhiều điểm đặc biệt, và ta đã bắt đầu hình dung sự nghiệp ấy có lẽ
còn đồ sộ hơn cả một nhân vật hồi mấy năm vừa rồi đã được in lại rất nhiều tác
phẩm: Đào Trinh Nhất (cùng Phan Khôi, Đào Trinh Nhất là một trong “tứ đại làng
báo Nam Kỳ”); rất thú vị là trong cuốn sách của Phan An Sa có kể chi tiết Phan
Khôi phê bình Đào Trinh Nhất về quyển Phan
Đình Phùng. Có điều Phan Khôi gần như không in sách trong cả cuộc đời mình,
vĩnh viễn giữ vai trò “con người của các tờ báo”.
Nhan đề cuốn sách rút từ bài thơ mà Phan Khôi làm năm 1956:
Jan 14, 2013
Vũ Trọng Phụng
Troll các bác nhiều quá rồi, mệt ghê :p giờ không troll nữa
mà chuyển sang những cái vấn đề có tầm nghiêm túc và thời đại nhé.
Vũ Trọng Phụng: thật ra thì có thể “sờ” vào Vũ Trọng Phụng
như thế nào, thật ra thì bao nhiêu điều, cả núi bài viết, cuốn sách về Vũ Trọng
Phụng đã thực sự chạm được vào ông ấy chưa? Khó nói lắm. Nguyễn Huy Thiệp từng
có một cách nhìn, cách diễn giải vô cùng độc đáo về Vũ Trọng Phụng, trong một
cái truyện ngắn, mà tôi đã quên mất tên, có phải “Thương cả cho đời bạc” không
nhỉ?
Mar 10, 2010
02. Có mấy loại phê bình?
Phàm đã viết phê bình văn học, người ta không tránh được xu hướng, thậm chí là ham muốn, xếp loại các tác phẩm. Phê bình văn học gần như đồng nghĩa với sắp xếp, định giá, nhưng cũng có người nói rằng xét về từ nguyên, từ “phê bình” (critique) có chung gốc Latinh với từ “tội ác” (crime).
Albert Thibaudet (1874-1936), nhà phê bình Pháp nổi tiếng đầu thế kỷ 20, từng dùng từ “sinh lý học” khi phân loại phê bình văn học. Theo Thibaudet có tổng cộng ba loại: phê bình của nhà báo, phê bình chuyên nghiệp (hay phê bình của các giáo sư) và phê bình của nghệ sĩ (tức bản thân nhà văn viết phê bình văn học). Ngoài sự phân loại đã trở thành kinh điển (và rất thành công) này, trong lĩnh vực văn học sử Thibaudet còn có ý tưởng (không mấy thành công) là chia lịch sử văn học thành các giai đoạn theo thế hệ nhà văn, rất giống với cách làm của linh mục giáo sư Thanh Lãng (1924-1978), tác giả bộ Phê bình văn học thế hệ 1932 (1972) và có dự định viết cả một bộ sách đồ sộ trên chục cuốn về lịch sử văn học Việt Nam theo thế hệ, trong đó đã in được cuốn Văn học Việt Nam: thế hệ dấn thân yêu đời (1969).
Albert Thibaudet (1874-1936), nhà phê bình Pháp nổi tiếng đầu thế kỷ 20, từng dùng từ “sinh lý học” khi phân loại phê bình văn học. Theo Thibaudet có tổng cộng ba loại: phê bình của nhà báo, phê bình chuyên nghiệp (hay phê bình của các giáo sư) và phê bình của nghệ sĩ (tức bản thân nhà văn viết phê bình văn học). Ngoài sự phân loại đã trở thành kinh điển (và rất thành công) này, trong lĩnh vực văn học sử Thibaudet còn có ý tưởng (không mấy thành công) là chia lịch sử văn học thành các giai đoạn theo thế hệ nhà văn, rất giống với cách làm của linh mục giáo sư Thanh Lãng (1924-1978), tác giả bộ Phê bình văn học thế hệ 1932 (1972) và có dự định viết cả một bộ sách đồ sộ trên chục cuốn về lịch sử văn học Việt Nam theo thế hệ, trong đó đã in được cuốn Văn học Việt Nam: thế hệ dấn thân yêu đời (1969).
Mar 9, 2010
01. Họ gọi nhau là bạn
Mở thêm một mục mới, để cho thấy một cách cụ thể báo chí Việt Nam ngày nay đã phỉ nhổ như thế nào vào lịch sử báo chí từng có.
-------------------
Đó là một thời đã xa. Lúc đó, các tờ báo đầu tiên của lịch sử Việt Nam và lịch sử Quốc Ngữ khởi từ Gia Định báo cho tới Nam phong đã đi xong chặng đường với rất nhiều vẻ vang tri thức nhưng cũng không ít bê bối ở mối quan hệ khá nhập nhằng với người Pháp cai trị. Đầu những năm 1930, cả một trào lưu báo chí mới ra đời đầy sức sống và cũng đầy… cạnh tranh.
-------------------
Đó là một thời đã xa. Lúc đó, các tờ báo đầu tiên của lịch sử Việt Nam và lịch sử Quốc Ngữ khởi từ Gia Định báo cho tới Nam phong đã đi xong chặng đường với rất nhiều vẻ vang tri thức nhưng cũng không ít bê bối ở mối quan hệ khá nhập nhằng với người Pháp cai trị. Đầu những năm 1930, cả một trào lưu báo chí mới ra đời đầy sức sống và cũng đầy… cạnh tranh.
Mar 3, 2010
Phan Khôi nhà báo
Tôi cũng giống nhiều người mà tôi quen, đã lâu lắm rồi không mua một tờ báo nào ngoài sạp để đọc cả. Chán. Nhất là báo chí văn nghệ thì không thể chấp nhận được. Chúng ta đang sống trong thời kỳ duy nhất của lịch sử Việt Nam có tình trạng báo chí văn nghệ không có tiếng nói trọng lượng và chán kinh người. Chúng ta cũng sống trong thời kỳ không có nhà báo lớn.
Nhìn vào cách phát triển của báo chí hiện nay, tôi thấy như thể toàn bộ ngành báo chí đang tự chửi vào lịch sử báo chí Việt Nam đã từng có ở sau lưng. Những gì tốt đẹp và có sức sống nhất bị bỏ đi, trong đó quan trọng hơn hết là chuyên mục thường xuyên và hình thức phơi-ơ-tông. Trong khi đó hủ tục thì lại được giữ và phát triển rầm rộ. Một hủ tục rất lớn chính là báo Tết. Năm nay tôi đã làm được một việc tốt là không viết một bài báo Tết nào cả :) mấy năm trước xin tự thú nhận là cũng có dăm ba.
Nhìn vào cách phát triển của báo chí hiện nay, tôi thấy như thể toàn bộ ngành báo chí đang tự chửi vào lịch sử báo chí Việt Nam đã từng có ở sau lưng. Những gì tốt đẹp và có sức sống nhất bị bỏ đi, trong đó quan trọng hơn hết là chuyên mục thường xuyên và hình thức phơi-ơ-tông. Trong khi đó hủ tục thì lại được giữ và phát triển rầm rộ. Một hủ tục rất lớn chính là báo Tết. Năm nay tôi đã làm được một việc tốt là không viết một bài báo Tết nào cả :) mấy năm trước xin tự thú nhận là cũng có dăm ba.
Dec 31, 2009
Mấy cuộc trở lại
+ Cuối năm, thêm một bài bị out báo không cho đăng.
Năm 2009, văn học Việt Nam nếu có sôi động thì cũng chủ yếu là vì một số vụ việc mang lại buồn nhiều hơn vui. Trong một năm có rất ít tác phẩm mới đáng chú ý, thì sự trở lại của những gương mặt thời trước cũng như việc tái bản sách của vài nhà văn trước đây ít được phổ biến tác phẩm thực sự góp phần rất quan trọng cho một đời sống văn chương lành mạnh.
Trước hết là Trần Dần. Trường ca (mà Trần Dần gọi là “hùng ca-lụa”) Đi! Đây Việt Bắc có một hành trình gian khổ đúng như hành trình sáng tạo của tác giả. Sau hơn năm mươi năm, Đi! Đây Việt Bắc mới lần đầu tiên xuất hiện ở dạng nguyên vẹn (Nhã Nam và NXB Hội Nhà văn). Mặc dù đã từng được xuất bản một cách chính thống vào năm 1990 dưới nhan đề Bài thơ Việt Bắc, chương II và chương cuối bài thơ hùng tráng này đến nay mới được trả về chỗ của chúng.
Con đường đi của Đi! Đây Việt Bắc đã được nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân vạch lại kỹ lưỡng ở lời bạt cho cuốn sách. Trích đoạn “Hãy đi mãi” (tức chương cuối) đã in trên báo Văn năm 1957 và nhiều trích đoạn khác in trên một số ấn phẩm sau này, nhưng rõ ràng là với một tác phẩm có tầm vóc như thế này, nếu không có toàn bộ văn bản thì ý nghĩa nghiên cứu sẽ mất đi rất nhiều.
Năm 2009, văn học Việt Nam nếu có sôi động thì cũng chủ yếu là vì một số vụ việc mang lại buồn nhiều hơn vui. Trong một năm có rất ít tác phẩm mới đáng chú ý, thì sự trở lại của những gương mặt thời trước cũng như việc tái bản sách của vài nhà văn trước đây ít được phổ biến tác phẩm thực sự góp phần rất quan trọng cho một đời sống văn chương lành mạnh.
Trước hết là Trần Dần. Trường ca (mà Trần Dần gọi là “hùng ca-lụa”) Đi! Đây Việt Bắc có một hành trình gian khổ đúng như hành trình sáng tạo của tác giả. Sau hơn năm mươi năm, Đi! Đây Việt Bắc mới lần đầu tiên xuất hiện ở dạng nguyên vẹn (Nhã Nam và NXB Hội Nhà văn). Mặc dù đã từng được xuất bản một cách chính thống vào năm 1990 dưới nhan đề Bài thơ Việt Bắc, chương II và chương cuối bài thơ hùng tráng này đến nay mới được trả về chỗ của chúng.
Con đường đi của Đi! Đây Việt Bắc đã được nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân vạch lại kỹ lưỡng ở lời bạt cho cuốn sách. Trích đoạn “Hãy đi mãi” (tức chương cuối) đã in trên báo Văn năm 1957 và nhiều trích đoạn khác in trên một số ấn phẩm sau này, nhưng rõ ràng là với một tác phẩm có tầm vóc như thế này, nếu không có toàn bộ văn bản thì ý nghĩa nghiên cứu sẽ mất đi rất nhiều.
Dec 1, 2009
Không vội
Đọc thấy câu "Tôi còn nói nhiều về Thơ nữa. Không vội, tôi mới 28 tuổi" của Trần Dần trích từ Nhật ký Trần Dần, 1954, đoạn mở đầu bằng "Vào chiến tranh, tôi muốn thơ tôi thế nào?" đặt ở đầu Đi! Đây Việt Bắc! (hùng ca - lụa, 1957), in lại năm nay (Nhã Nam và NXB Hội Nhà văn; cuối sách có lời bạt Lại Nguyên Ân mới viết, tiêu đề "Đôi dòng ghi sau tác phẩm Đi! Đây Việt Bắc! hùng ca - lụa của Trần Dần". Lại nhớ đến Vũ Trọng Phụng: 28 tuổi Vũ Trọng Phụng đã kịp chết, đã kịp "viết để không chết" (theo cách nói của Maurice Blanchot) xong xuôi. Nhớ đến Vũ Trọng Phụng là vì NXB Phụ nữ vừa cho in Hà Nội cũ nằm đây của Ngọc Giao, một trong các nhân vật quan trọng của Tiểu thuyết thứ bảy, tức là một trong những tờ báo "trẻ" ra đời nhằm lật đổ sự thống trị của tập đoàn Tự Lực (tức là Tự Lực văn đoàn) của Phong hóa và Ngày nay (triền miên trên Tiểu thuyết thứ bảy và Hà Nội báo, đều của Tân Dân Vũ Đình Long, đó là chưa kể đến Ích Hữu, ít nhất trong những số đầu, là các tranh cãi liên miên, nhiều khi xúc xiểm nhau nặng nề của hai phái).
Oct 16, 2009
Trẻ tuổi và tranh đấu
+ Một bài còn sót lại chưa đăng báo được, giờ cũng chẳng đăng nữa.
Sự kiện có ý nghĩa nhất của dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hoài Thanh vừa rồi nằm ở việc xuất bản cuốn sách Hoài Thanh trên báo Tràng An (NXB Hội Nhà văn). Những bài báo do Hoài Thanh viết ở thời tuổi trẻ ấy hứa hẹn sẽ làm cho cách hiểu về ông cũng như các sự kiện quan trọng của lịch sử văn học Việt Nam trước 1945 có thay đổi không nhỏ.
Quả thực, lễ kỷ niệm lớn cùng rất nhiều bài báo ca ngợi tài năng và con người Hoài Thanh không đóng góp được điều gì đáng nói cho nhu cầu tìm hiểu sâu hơn một nhân vật lớn, một nhà phê bình luôn ở trung tâm nền văn học Việt Nam trong suốt nhiều năm. Được nhà nghiên cứu Từ Sơn thực hiện cùng giúp đỡ về tư liệu của nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, Hoài Thanh trên báo Tràng An đăng lại các bài Hoài Thanh viết đăng trên báo Tràng An của Bùi Huy Tín tại Huế trong hai năm 1935, 1936, giai đoạn quan trọng trong sự nghiệp của Hoài Thanh: cùng khoảng thời gian cuốn Văn chương và hành động (Hoài Thanh ký tên cùng Lưu Trọng Lư và Lê Tràng Kiều) bị chính quyền thực dân tịch thu, đồng thời với cuộc tranh cãi giữa Hoài Thanh và nhóm Hải Triều, Phan Văn Hùm, và cũng là không lâu trước khi Hoài Thanh viết Thi nhân Việt Nam cùng Hoài Chân.
Sự kiện có ý nghĩa nhất của dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hoài Thanh vừa rồi nằm ở việc xuất bản cuốn sách Hoài Thanh trên báo Tràng An (NXB Hội Nhà văn). Những bài báo do Hoài Thanh viết ở thời tuổi trẻ ấy hứa hẹn sẽ làm cho cách hiểu về ông cũng như các sự kiện quan trọng của lịch sử văn học Việt Nam trước 1945 có thay đổi không nhỏ.
Quả thực, lễ kỷ niệm lớn cùng rất nhiều bài báo ca ngợi tài năng và con người Hoài Thanh không đóng góp được điều gì đáng nói cho nhu cầu tìm hiểu sâu hơn một nhân vật lớn, một nhà phê bình luôn ở trung tâm nền văn học Việt Nam trong suốt nhiều năm. Được nhà nghiên cứu Từ Sơn thực hiện cùng giúp đỡ về tư liệu của nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, Hoài Thanh trên báo Tràng An đăng lại các bài Hoài Thanh viết đăng trên báo Tràng An của Bùi Huy Tín tại Huế trong hai năm 1935, 1936, giai đoạn quan trọng trong sự nghiệp của Hoài Thanh: cùng khoảng thời gian cuốn Văn chương và hành động (Hoài Thanh ký tên cùng Lưu Trọng Lư và Lê Tràng Kiều) bị chính quyền thực dân tịch thu, đồng thời với cuộc tranh cãi giữa Hoài Thanh và nhóm Hải Triều, Phan Văn Hùm, và cũng là không lâu trước khi Hoài Thanh viết Thi nhân Việt Nam cùng Hoài Chân.
Oct 5, 2009
Thu vén cho im lặng
+ “Không bài thơ nào hướng tới độc giả, không bức tranh nào hướng tới người xem, không bản giao hưởng nào hướng tới khán giả”, câu này là của Walter Benjamin. Một câu cần được vang lên vào những lúc người ta, vì không còn biết làm gì, quay trở lại nhấn mạnh vào thông điệp của tác phẩm văn chương, coi đó là cứu cánh cho đầu óc thích dừng lại khoanh vùng hơn là đi tiếp, đi nữa, qua đó cho thấy những niềm tin luôn không có sức mạnh. “Tác phẩm văn chương “nói” cái gì? Nó truyền đạt cái gì? Rất ít, với người hiểu văn chương”, Benjamin, người cùng Roland Barthes tạo ra một đường lối hiểu và nói về văn chương riêng của thế kỷ XX, một đường lối đến giờ nhìn lại cũng không lấy gì làm thắng thế, nhưng cũng cho thấy một sức mạnh kiên trì của một niềm tin mỏng.
+ Miêu tả sự im lặng: Dacia Maraini đã chứng tỏ là làm được điều này trong Nữ công tước Marianna Ucrìa (La lunga vita di Marianna Ucrìa). Một nữ công tước bị câm (và điếc) từ nhỏ. Trước một hiện tượng như vậy, một cái gì đó khác văn chương sẽ tập trung vào việc làm thế nào mà nhân vật vượt qua tật nguyền hoặc bị bệnh tật đánh gục, còn văn chương là chuyện bị câm nghĩa là gì, sự câm lặng nghĩa là gì, và bị câm thì có làm sao.
Dacia Maraini từng là bạn đời (không phải vợ) của Alberto Moravia trong khoảng hai mươi năm, sắp sang đến Việt Nam.
+ Đọc Phía sau nghi can X của Higashino Keigo, tôi thấy không có gì cần phải bàn về tài năng lắt léo (nhưng lại ở trong một môi trường chữ nghĩa và tâm lý rất bình dị) của tác giả. Một tiểu thuyết trinh thám đích thực, cao thủ, đến mức điều duy nhất tôi muốn nhớ (như một sự bấu víu? cũng có thể) là một hình ảnh nào đó không liên quan chút nào tới câu chuyện. Tìm ra được cái này cũng khó lắm, vì Keigo xếp được tất tật những gì xuất hiện vào bức tranh, cái nào cũng có chỗ. Cuối cùng chắc chỉ còn hình ảnh bà già dẫn chó đi dạo vào buổi sáng, ba con, mỗi con một sợi dây buộc cổ màu khác nhau.
+ Về sự im lặng cấp độ khác: những bức thư. Thứ nhất là bức thư của Hemingway gửi Maxwell Perkins, các bạn bên déjà vous đã chịu khó dịch ra. Đấy, người ta viết thư cho editor như thế chứ :) Không hiểu câu “Điều đó khiến việc được có tên trong danh mục Who’s Who thật đáng giá”.
Bức thư thứ hai: Céline gửi Mauriac. Bác Pierre Assouline này đưa nó lên là vì thật kỳ cục khi nghĩ đến việc Céline lại giao thiệp thư từ với Mauriac. Tài liệu mới, được Henri Godard công bố trên NRF mới đây. Thư gửi để cảm ơn mà Céline như chửi Mauriac hehe: “Tuy vậy không gì xích chúng ta lại gần nhau, không gì có thể xích chúng ta lại gần nhau; ông thuộc về một giống loài khác, ông gặp những người khác, ông nghe thấy những giọng nói khác. Với tôi, kẻ giản đơn, Chúa là một thứ trò vè có tác dụng làm người ta suy nghĩ tẹt ga hơn về bản thân mình, khỏi phải nghĩ đến bọn người nữa, nói tóm lại là để đào thoát luôn cho xong.”
Từ phát hiện này đến một công bố khác: có vẻ như thời điểm bắt đầu của Thơ Mới đã phải tính lại sau bài này của Lại Nguyên Ân.
+ Miêu tả sự im lặng: Dacia Maraini đã chứng tỏ là làm được điều này trong Nữ công tước Marianna Ucrìa (La lunga vita di Marianna Ucrìa). Một nữ công tước bị câm (và điếc) từ nhỏ. Trước một hiện tượng như vậy, một cái gì đó khác văn chương sẽ tập trung vào việc làm thế nào mà nhân vật vượt qua tật nguyền hoặc bị bệnh tật đánh gục, còn văn chương là chuyện bị câm nghĩa là gì, sự câm lặng nghĩa là gì, và bị câm thì có làm sao.
Dacia Maraini từng là bạn đời (không phải vợ) của Alberto Moravia trong khoảng hai mươi năm, sắp sang đến Việt Nam.
+ Đọc Phía sau nghi can X của Higashino Keigo, tôi thấy không có gì cần phải bàn về tài năng lắt léo (nhưng lại ở trong một môi trường chữ nghĩa và tâm lý rất bình dị) của tác giả. Một tiểu thuyết trinh thám đích thực, cao thủ, đến mức điều duy nhất tôi muốn nhớ (như một sự bấu víu? cũng có thể) là một hình ảnh nào đó không liên quan chút nào tới câu chuyện. Tìm ra được cái này cũng khó lắm, vì Keigo xếp được tất tật những gì xuất hiện vào bức tranh, cái nào cũng có chỗ. Cuối cùng chắc chỉ còn hình ảnh bà già dẫn chó đi dạo vào buổi sáng, ba con, mỗi con một sợi dây buộc cổ màu khác nhau.
+ Về sự im lặng cấp độ khác: những bức thư. Thứ nhất là bức thư của Hemingway gửi Maxwell Perkins, các bạn bên déjà vous đã chịu khó dịch ra. Đấy, người ta viết thư cho editor như thế chứ :) Không hiểu câu “Điều đó khiến việc được có tên trong danh mục Who’s Who thật đáng giá”.
Bức thư thứ hai: Céline gửi Mauriac. Bác Pierre Assouline này đưa nó lên là vì thật kỳ cục khi nghĩ đến việc Céline lại giao thiệp thư từ với Mauriac. Tài liệu mới, được Henri Godard công bố trên NRF mới đây. Thư gửi để cảm ơn mà Céline như chửi Mauriac hehe: “Tuy vậy không gì xích chúng ta lại gần nhau, không gì có thể xích chúng ta lại gần nhau; ông thuộc về một giống loài khác, ông gặp những người khác, ông nghe thấy những giọng nói khác. Với tôi, kẻ giản đơn, Chúa là một thứ trò vè có tác dụng làm người ta suy nghĩ tẹt ga hơn về bản thân mình, khỏi phải nghĩ đến bọn người nữa, nói tóm lại là để đào thoát luôn cho xong.”
Từ phát hiện này đến một công bố khác: có vẻ như thời điểm bắt đầu của Thơ Mới đã phải tính lại sau bài này của Lại Nguyên Ân.
Aug 10, 2009
Tiếp tục
+ Nhìn chung là nên hiểu tại sao tôi đặt title cho entry trước là "Bỏ qua". Tôi thực sự bỏ qua đấy.
+ Hoài Thanh trên báo Tràng An (Huế 1935-1936)
Quyển sách này do Từ Sơn (con trai Hoài Thanh, cũng là người làm Toàn tập Hoài Thanh, 4 tập). Có đủ toàn văn trên viet-studies, cùng toàn văn Tìm hiểu Hoài Thanh, cũng của Từ Sơn. Hai quyển sách này in ra trong đợt kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hoài Thanh (buổi lễ đã được thực hiện nghe nói rất đông đảo ở Hội Nhà văn Việt Nam).
Không có các tư liệu này thì gần như không thể nói gì đầy đủ về Hoài Thanh và phê bình văn học của Hoài Thanh trước 1945 (nói đúng hơn là trước Thi nhân Việt Nam và trước Văn chương và hành động: cuốn sách thứ hai chưa kịp in đã bị chính quyền tịch thu, đúng vào giai đoạn Hoài Thanh viết cho Tràng An, gần đây nó đã được in lại). Ở mảng tư liệu này vẫn còn thiếu các bài báo Hoài Thanh đăng trên hai tờ báo ở Hà Nội, viết khi Hoài Thanh còn rất trẻ (tầm 20, 21 tuổi) là Phổ Thông và Le Peuple. Một tờ nữa (bằng tiếng Pháp) mà Hoài Thanh viết khi ở Huế cùng thời gian viết Tràng An tên là La Gazette de Hué nghe nói đang được dịch để chuẩn bị in. Các tài liệu đợt này tìm được đều nhờ công lớn của Lại Nguyên Ân.
Mấy điểm có thể rút ra ngay khi đọc các bài báo trên Tràng An: Hoài Thanh không viết nhiều về văn học, mà các mục chủ yếu 1. Miêu tả và thể hiện sự cảm thông với người dân quê 2. Phản đối các chính sách của chính quyền thực dân (mảng này chắc chắn sẽ đậm nét hơn trên La Gazette de Hué, vì như chúng ta đã biết thời đó chỉ báo tiếng Việt mới bị kiểm duyệt chứ báo tiếng Pháp không bị) 3. Thuật lại thông tin nước ngoài qua báo chí Pháp.
Không viết nhiều về văn học, nhưng đây lại chính là giai đoạn Hoài Thanh bị kéo vào cuộc tranh luận nổi tiếng "Nghệ thuật vị nghệ thuật-Nghệ thuật vị nhân sinh" (chủ yếu cãi nhau với Hải Triều và Phan Văn Hùm). Đọc xong quyển này (rất nhiều tài liệu trước đây chưa có) thì có thể thấy rõ cái tên cuộc tranh luận trên đúng là vớ vẩn, chẳng có cái gì là "nghệ thuật vị nghệ thuật" cả (Hoài Thanh chỉ viết loạt bài "Văn chương là văn chương"). Đây chính là lần đầu tiên Hoài Thanh bị lựa chọn (trước đó cái đích ngắm của các ông phê bình bên cộng sản là Thiếu Sơn, nhưng một thời gian ngắn thì Thiếu Sơn chạy mất, đành quay sang Hoài Thanh khi ấy vừa dại dột đăng một bài về Kép Tư Bền trên Tràng An: bài báo này hình như cũng là lần đầu tiên được công bố).
Loạt bài trên Tràng An cũng cho thấy rất nhiều về gu thẩm mỹ của Hoài Thanh. Nó là một cái xuyên suốt, và góp phần giải thích tại sao Thi nhân Việt Nam thiếu vắng một số nhà thơ xuất sắc, cũng như ác cảm của Hoài Thanh đối với một số người (nhất là Nguyễn Vỹ).
Đây mới chỉ là lần thứ nhất Hoài Thanh "bị lựa chọn". Sẽ còn nhiều lần nữa, nhất là sau 1945.
+ Nửa mặt trời vàng, tiểu thuyết của Chimamanda Ngozi Adichie, Nguyễn Thị Hải Hà dịch, Bách Việt & NXB Lao động. Cuốn tiểu thuyết khá dày lấy bối cảnh nội chiến Nigeria, đầu rơi máu chảy và thảm họa về sắc tộc, màu da.
Chúc mừng bác... (:)
+ Hoài Thanh trên báo Tràng An (Huế 1935-1936)
Quyển sách này do Từ Sơn (con trai Hoài Thanh, cũng là người làm Toàn tập Hoài Thanh, 4 tập). Có đủ toàn văn trên viet-studies, cùng toàn văn Tìm hiểu Hoài Thanh, cũng của Từ Sơn. Hai quyển sách này in ra trong đợt kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hoài Thanh (buổi lễ đã được thực hiện nghe nói rất đông đảo ở Hội Nhà văn Việt Nam).
Không có các tư liệu này thì gần như không thể nói gì đầy đủ về Hoài Thanh và phê bình văn học của Hoài Thanh trước 1945 (nói đúng hơn là trước Thi nhân Việt Nam và trước Văn chương và hành động: cuốn sách thứ hai chưa kịp in đã bị chính quyền tịch thu, đúng vào giai đoạn Hoài Thanh viết cho Tràng An, gần đây nó đã được in lại). Ở mảng tư liệu này vẫn còn thiếu các bài báo Hoài Thanh đăng trên hai tờ báo ở Hà Nội, viết khi Hoài Thanh còn rất trẻ (tầm 20, 21 tuổi) là Phổ Thông và Le Peuple. Một tờ nữa (bằng tiếng Pháp) mà Hoài Thanh viết khi ở Huế cùng thời gian viết Tràng An tên là La Gazette de Hué nghe nói đang được dịch để chuẩn bị in. Các tài liệu đợt này tìm được đều nhờ công lớn của Lại Nguyên Ân.
Mấy điểm có thể rút ra ngay khi đọc các bài báo trên Tràng An: Hoài Thanh không viết nhiều về văn học, mà các mục chủ yếu 1. Miêu tả và thể hiện sự cảm thông với người dân quê 2. Phản đối các chính sách của chính quyền thực dân (mảng này chắc chắn sẽ đậm nét hơn trên La Gazette de Hué, vì như chúng ta đã biết thời đó chỉ báo tiếng Việt mới bị kiểm duyệt chứ báo tiếng Pháp không bị) 3. Thuật lại thông tin nước ngoài qua báo chí Pháp.
Không viết nhiều về văn học, nhưng đây lại chính là giai đoạn Hoài Thanh bị kéo vào cuộc tranh luận nổi tiếng "Nghệ thuật vị nghệ thuật-Nghệ thuật vị nhân sinh" (chủ yếu cãi nhau với Hải Triều và Phan Văn Hùm). Đọc xong quyển này (rất nhiều tài liệu trước đây chưa có) thì có thể thấy rõ cái tên cuộc tranh luận trên đúng là vớ vẩn, chẳng có cái gì là "nghệ thuật vị nghệ thuật" cả (Hoài Thanh chỉ viết loạt bài "Văn chương là văn chương"). Đây chính là lần đầu tiên Hoài Thanh bị lựa chọn (trước đó cái đích ngắm của các ông phê bình bên cộng sản là Thiếu Sơn, nhưng một thời gian ngắn thì Thiếu Sơn chạy mất, đành quay sang Hoài Thanh khi ấy vừa dại dột đăng một bài về Kép Tư Bền trên Tràng An: bài báo này hình như cũng là lần đầu tiên được công bố).
Loạt bài trên Tràng An cũng cho thấy rất nhiều về gu thẩm mỹ của Hoài Thanh. Nó là một cái xuyên suốt, và góp phần giải thích tại sao Thi nhân Việt Nam thiếu vắng một số nhà thơ xuất sắc, cũng như ác cảm của Hoài Thanh đối với một số người (nhất là Nguyễn Vỹ).
Đây mới chỉ là lần thứ nhất Hoài Thanh "bị lựa chọn". Sẽ còn nhiều lần nữa, nhất là sau 1945.
+ Nửa mặt trời vàng, tiểu thuyết của Chimamanda Ngozi Adichie, Nguyễn Thị Hải Hà dịch, Bách Việt & NXB Lao động. Cuốn tiểu thuyết khá dày lấy bối cảnh nội chiến Nigeria, đầu rơi máu chảy và thảm họa về sắc tộc, màu da.
Chúc mừng bác... (:)
Subscribe to:
Posts (Atom)