- Cuốn sách của tháng: Nghĩa địa Praha (Umberto Eco, Lê Thúy Hiền dịch)
- Thông báo nhanh:
Bộ manga Itto - Sóng gió cầu trường (thời Itto học cấp ba) đã được nhà Kim Đồng ra trọn bộ 26 tập. Đây là hình ảnh:
Showing posts with label frederic-beigbeder. Show all posts
Showing posts with label frederic-beigbeder. Show all posts
Jun 17, 2014
Jul 24, 2013
Beigbeder cầu cứu
đoạn đầu tiểu thuyết Cứu với, xin tha thứ, sắp in tại Việt Nam; nó là một trong những tiểu thuyết "thuần chất" nhất của Frédéric Beigbeder, cũng là một lời "bộc bạch" (nhưng là bộc bạch hư cấu) thêm vào trào lưu những lời bộc bạch nổi tiếng gần đây, của Jean-Jacques Rousseau, của Márai Sándor
Jul 3, 2013
The Great Gatsby: Chúa. Thiên Đường. Sa đọa
Trước tiên là sự đọa. Những bữa tiệc trong The Great Gatsby ấy dậy mùi Decadence,
thời Suy đồi, fin de siècle, mà
Moulin Rouge, Montmartre chính là một biểu tượng; nhưng chúng cũng như thể bước
thẳng ra từ Satyricon của Petronius,
những bữa tiệc của Trimalchio: Petronius đã miêu tả cực kỳ tinh vi sự xa hoa của
đời sống La Mã. Cộng thêm nữa: ông chủ lâu đài vừa từ tòa lâu đài nghiêm ngắn,
chuẩn mực với những gia nhân tôi tớ đi lại đều răm rắp lao thẳng tới cuộc orgy, truy hoan điên loạn. Suy đồi kiểu
cuối thế kỷ và Suy đồi La Mã trộn lẫn vào với nhau theo một lối vô cùng
cynical: cynical và satyrical là hai phương diện tâm lý trọng
yếu của những nhà văn hiện đại, mà Scott Fitzgerald là một thành viên xuất sắc.
Bởi The Great Gatsby
cũng là một magnum opus của văn
chương phương Tây, nên dự đồ của nó cũng không hề nhỏ. La Mã là một mẫu hình,
vì để nói đến lost world, một thế giới
đã mất, không gì hiệu quả hơn là khéo léo đưa các yếu tố cổ xưa của văn hóa
phương Tây vào. La Mã, rồi thì đạo diễn Baz Luhrmann đã cực kỳ khéo léo với một
chi tiết nhỏ: ở đoạn đầu, khi miêu tả Nick Carraway mộng ước trở thành nhà văn,
có lúc Nick nhấc một quyển sách lên, đó là Ulysses:
vừa là Ulysses gợi đến cả một truyền thống mưu mẹo của Hy Lạp, vừa là Ulysses của James Joyce.
Apr 7, 2013
đoạn kết của một cảm thức :p
Lần đầu tiên hé lộ đôi chút nhiều về công việc bếp núc của xuất bản sách tại Việt Nam :p
Cuốn tiểu thuyết The Sense of an Ending đoạt giải Man Booker năm 2011. Cái giải thưởng này là cớ tuyệt vời để đưa một tác phẩm của Julian Barnes đến Việt Nam; giả sử như không có nó, sẽ rất khó justify cho lựa chọn Julian Barnes, mặc dù với riêng tôi, Barnes thuộc vào chừng ba hay bốn nhà văn lớn nhất của nước Anh từ khoảng hai mươi năm nay. Nhất là khi rất hiếm giải Man Booker nào mỏng đến thế :p
Nhưng mỏng không phải dễ xơi :p
Tháng Ba có bản dịch hoàn chỉnh.
Trong tháng Bảy là cuộc tranh luận "tay bo" :p để đi đến một nhan đề tiếng Việt: Đoạn kết đã thấy. Với bản thân tôi, cái tên này là ổn.
Cuốn tiểu thuyết The Sense of an Ending đoạt giải Man Booker năm 2011. Cái giải thưởng này là cớ tuyệt vời để đưa một tác phẩm của Julian Barnes đến Việt Nam; giả sử như không có nó, sẽ rất khó justify cho lựa chọn Julian Barnes, mặc dù với riêng tôi, Barnes thuộc vào chừng ba hay bốn nhà văn lớn nhất của nước Anh từ khoảng hai mươi năm nay. Nhất là khi rất hiếm giải Man Booker nào mỏng đến thế :p
Nhưng mỏng không phải dễ xơi :p
Tháng Ba có bản dịch hoàn chỉnh.
Trong tháng Bảy là cuộc tranh luận "tay bo" :p để đi đến một nhan đề tiếng Việt: Đoạn kết đã thấy. Với bản thân tôi, cái tên này là ổn.
May 29, 2012
Trò chuyện với Frédéric Beigbeder
Phải đợi rất lâu tôi mới thực hiện xong cuộc trò chuyện này, nhưng kết quả thì tương đối thỏa mãn. Frédéric Beigbeder là một nhà văn "vớ vẩn" trong mắt rất nhiều người, nhưng tôi tin trường hợp Beigbeder cũng sẽ giống như trường hợp Romain Gary trước đây, cũng như tin rằng giá trị của sự phù phiếm là chuyện hay ho hơn rất nhiều so với sự phù phiếm của giá trị.
“Nghệ thuật là một sự bất công,
đọc sách phải trở thành một niềm hạnh phúc
ích kỷ”
Tôi hoàn toàn không biết gì về ông, nhưng cùng lúc, tôi
lại biết rất nhiều, vì ông đã kể mọi thứ trong những quyển sách của mình, ngay
cả các suy nghĩ xấu xa nhất. Tình huống này làm tôi thấy có chút bối rối, vậy
nên tôi sẽ bắt đầu bằng một câu hỏi có phần ngớ ngẩn: kể chuyện cuộc đời và
sống nó, đâu là lựa chọn tốt đẹp hơn của một dandy [từ dùng để chỉ người đặc
biệt có gu về trang phục, rất chăm chút vẻ bên ngoài] hay châm chọc? Đời một ai
đó có thể nào hay ho đến nỗi anh ta cứ kể đi kể lại nó mãi không ngừng được
không?
Ông nói có lý, đời tôi thì không
đặc biệt hay ho gì, nhưng tôi không có lựa chọn: tôi chẳng biết viết cách nào
khác, ngoài viết về mình! Tôi thích những cuốn sách để lộ cá nhân, tôi nghĩ
rằng người ta đọc sách là để tận dụng trải nghiệm của một người khác. Lúc nào
tôi cũng cảm thấy một khoái cảm không gì sánh nổi khi đọc nhật ký hoặc sổ ghi
chép cá nhân của các nhà văn, rất giống như khi ta nhìn vào một phòng ngủ qua
lỗ khóa… Tôi không biết mình có phải một “dandy hay châm chọc” như cách nói rất
thú vị của ông hay không, hoặc giả tôi chỉ là một kẻ theo chủ nghĩa phô bày bản
thân không biết tưởng tượng.
Chưa bao giờ ông nghĩ đến chuyện thay đổi hết mọi thứ à,
chẳng hạn như viết về những người hoàn toàn khác ông? Cửa sổ trên Tháp Đôi
có phải là một toan tính theo hướng này không?
Đúng thế, tôi đã thử chọn một sự
kiện lịch sử, tức là ngày 11 tháng Chín, một sự kiện rất xa bản thân tôi. Nhưng
ông cũng thấy đấy, ngay cả trong Cửa sổ
trên Tháp Đôi, rốt cuộc tôi cũng phải xen kẽ các chương, cứ hai chương thì
lại có một chương về tôi đang viết cuốn sách. Vậy là tôi đã không sao mà tìm
cách xóa bỏ mình đi hoàn toàn cho được!
Apr 30, 2012
Đương đầu với đơn giản
Nhà văn người Pháp Frédéric Beigbeder, một “tay chơi” có
danh tiếng lẫy lừng trong nhiều ngón nghề, từng khẳng định: “Sau ba năm, một
cặp đôi phải bỏ nhau, tự sát, hoặc sinh con, đó là ba cách xác nhận kết cục của
họ”. Một mối tình kết thúc bằng việc hai con người hoặc lủi thủi hoặc hằm hè
chia tay nhau, điều này rất không đáng bị coi là lạ. Mối tình có đoạn kết là
một cú nhảy từ trên cầu xuống sông, lao vào đầu máy xe lửa, hoặc tanh bành hơn
nữa là có mùi vị của thuốc ngủ quá liều hay thuốc súng đủ liều, phim ảnh văn
chương cũng chẳng hiếm khi cung cấp ví dụ. Điều lạ ở đây là Beigbeder xếp ngang
hàng việc có con với bỏ nhau và tự sát.
Trong mọi trường hợp xuất hiện “người thứ ba” xen vào giữa
một cặp yêu nhau, chắc chắn một đứa trẻ con ít gây nghi kỵ nhất. Chẳng ai nghĩ
đến chuyện so sánh đứa bé với nỗi nguy hiểm từ một gã đàn ông sát gái mặt đầy
sẹo nhưng tâm hồn bay bổng, một cô gái xinh đẹp mềm mại buồn nhưng lại rất cứng
rắn trong công cuộc gây thương nhớ, hoặc thậm chí một bà mẹ chồng tai quái
quyết chí chiếm trọn chỗ trong trái tim đứa con trai. Thế nhưng câu chuyện tình
yêu vẫn cứ rẽ ngoặt vào lúc khả năng hoặc thực tế về một đứa trẻ xuất hiện.
Feb 29, 2012
(Brand New Ones) Beigbeder người đọc sách
Các vị quý tộc không chỉ quẩn quanh với điền địa, gia huy và tước hiệu, mà còn dấn sâu vào vòng chữ nghĩa và sở hữu đầu óc đầy tinh quái, thích bỡn cợt, hiện tượng ấy lịch sử nước Pháp không còn lạ gì. Ở thời hiện tại, Frédéric Beigbeder là một “di chứng” của truyền thống đó. Beigbeder dòng dõi quý tộc, một ông cụ tổ từng được nhà thơ vĩ đại Ronsard làm thơ tặng, chi tiết được nói tới trong Một tiểu thuyết Pháp (giành giải Renaudot danh giá năm 2009) mới xuất bản tại Việt Nam gần đây.
Ở Việt Nam đã có một số tác phẩm của nhà văn sinh năm 1965 này, trong đó đáng kể nhất là 99 francs và Tình yêu kéo dài ba năm (cuốn tiểu thuyết vừa được làm thành phim). Nhưng sự nghiệp văn chương của Frédéric Beigbeder, sau sự nghiệp một chuyên gia quảng cáo và song hành cùng sự nghiệp một khách quen của những bữa tiệc thượng lưu, còn bao gồm một mảng quan trọng nữa: viết về sách.
Là một nhà phê bình văn học nổi tiếng, Frédéric Beigbeder viết vô số bài điểm sách, ông giữ chuyên mục điểm sách trên tạp chí và có giọng viết hài hước, cay độc có thể so sánh với Angelo Rinaldi và khả năng đọc nhiều, bao quát như Pierre Assouline. Ở khía cạnh này, Frédéric Beigbeder rất đặc trưng cho nhiều thế hệ nhà văn Pháp vừa thành công về tác phẩm hư cấu vừa là nhà phê bình cự phách, sở hữu vốn hiểu biết sách vở lớn đến đáng kinh ngạc.
Feb 23, 2012
(ghi chép biên tập) Beigbeder làm tình
- về các cô gái theo khuynh hướng cộng sản (chính xác thì là những người tham gia fête de l'Huma - cái này thì các trí thức cánh tả Việt kiều biết rõ lắm :p): "Họ thường mang tên Michèle hoặc Cécile, đi giày basket (...) không hề nhõng nhẽo trong đêm làm tình đầu tiên, với điều kiện đừng nói quá xấu về Fidel Castro trước mặt họ."
- "Sao lúc làm tình mà không đeo bao cao su lại dễ chịu như vậy? Đó là bởi ta có thể gặp phải hai nguy cơ chính yếu: mang lại sự sống và cận kề cái chết."
- "Trốn chạy, luôn luôn, và bỏ chạy không mệt mỏi. Và rồi, một ngày kia, dừng lại nhìn thẳng vào mắt ai đó và nói với họ: em thực sự chính là người anh cần. Và tin chắc như thế. Hẳn sẽ đẹp biết bao, nếu ta không phá lên cười, nếu ta không lo sợ đôi chút, và nếu ta chấp nhận rủi ro, làm những chuyện nực cười, như tặng hoa vào một ngày không phải ngày 14 tháng Hai hoặc làm tình không trong tình trạng say xỉn."
Feb 7, 2012
(ghi chép biên tập) Beigbeder làm toán
Trên hành tinh này có 6 tỉ người, trong đó 3,5 tỉ là nữ. Giả sử cứ 1.000 nữ có một nàng cực ngon (một giả sử rất là bi quan) thì trên Trái đất sẽ có 3.500.000 phụ nữ tuyệt hảo, đứng trước họ bất kỳ tay dị giới tính dục nào cũng không chần chừ hiến dâng đời mình. Trong số 3,5 triệu sinh thể này, chừng một trăm là ngôi sao điện ảnh, chừng một trăm khác là siêu mẫu, vậy là chúng ta còn lại 3.499.800 mỹ nhân nghiêng nước nghiêng thành không ai biết đến. Để ngủ được với tất cả họ, tôi đã tính là sẽ phải làm tình mười lần mỗi ngày trong vòng một nghìn năm. Nếu đem con số này chia cho 2,5 tỉ gã đàn ông đói tình không mệt mỏi thèm khát một tuyệt sắc giai nhân, cơ may thỏa mãn tình dục sẽ là 3.499.800 chia cho 2.500.000.000 = chưa tới một phần nghìn. Xét về mặt toán học, 999 trên 1.000 con đực trên thế giới bị nền độc tài sắc đẹp xử phũ: không phải tự dưng mà người ta đi gọi những người phụ nữ ấy là "đại bác" [canon] hay "quả bom" [bombe].
(Kẻ ích kỷ lãng mạn, hay Kẻ lãng mạn ích kỷ, 2005)
(Kẻ ích kỷ lãng mạn, hay Kẻ lãng mạn ích kỷ, 2005)
Jan 20, 2012
Thuốc trị chứng trầm cảm
“Bữa sáng ở Tiffany’s” (Phạm Hải Anh dịch, NXB Trẻ), thuộc loại truyện ngắn dài, truyện vừa hay tiểu thuyết ngắn, mang lại tên tuổi như cồn cho Truman Capote, một nhà văn thực sự tài năng nhưng cũng thường có chút bị nghi ngại, do lừng danh quá; tác phẩm này cũng khiến lịch sử điện ảnh có thêm một kinh điển: bộ phim cùng tên của Blake Edwards (năm 1961, nghĩa là ba năm sau khi cuốn sách được xuất bản), một bộ phim rất thành công nhưng xem lại thì có lẽ không còn thấy hay cho lắm.
“Bữa sáng ở Tiffany’s” nằm trong bộ sách “Truyện & kịch bản phim nổi tiếng thế giới” mà Nhà xuất bản Trẻ đang ấn hành. Bộ sách này rất hay và nhiều ý nghĩa, nhất là đối với những người mê điện ảnh đồng thời mê văn học, nhưng rất đáng tiếc là bộ sách này trộn lẫn tác phẩm văn học gốc với kịch bản phim, mà mọi cuốn trong bộ này đều được dán kín mít, lại không có chỉ dẫn bên ngoài, thành thử người nào chỉ muốn đọc truyện thì sợ mua nhầm kịch bản, người muốn xem kịch bản thì lại e mua phải sách truyện. Cũng dịp này, cuốn tiểu thuyết lớn “Máu lạnh” của Capote (bản dịch cũ của Trần Đĩnh được tái bản, có sửa chữa) hoàn thiện thêm sự hình dung của độc giả Việt Nam đối với Truman Capote, đã được Philip Saymour Hoffman thủ vai tuyệt vời trong bộ phim “Capote” làm năm 2005.
Jan 11, 2012
Một năm sách vở
báo Tết :d
Lại thêm một lần nữa, khi năm sắp kết thúc, giới xuất bản có cảm giác u ám vì những khó khăn gặp phải, còn độc giả thì thở dài vì hình như trong năm, tình hình vẫn là sách in ra thì nhiều nhưng đại đa số là sách dán mác best-seller.
Khó khăn chung thì vẫn muôn thuở: kinh tế khủng hoảng, cạnh tranh khốc liệt, sách lậu hiện ra ở mọi ngõ ngách, thêm cả một điều mới mẻ bắt đầu xuất hiện sau chừng dăm bảy năm ngành xuất bản thực sự đi theo một hướng mới: có vẻ như số lượng sách in ra đã đạt tới mức bão hòa, độc giả thể hiện một sự thờ ơ nhất định với cả những mảng sách theo truyền thống rất được quan tâm.
Như một “triệu chứng”, ngay đầu năm 2011 cuốn tiểu thuyết những ngã tư và những ngọn đèn (Trần Dần) được in ra, số phận tác phẩm của nhà thơ tự nhận mình “được cái hoạn nạn” này như thể tương ứng với một năm nhiều sự kiện mang tính chất hoạn nạn của ngành xuất bản, cũng như vẽ ra những ngã tư vô hình cho các hướng đi của sách vở.
Labels:
1Q84,
bouquin,
david-lodge,
dazai-osamu,
doc-sach,
frederic-beigbeder,
haruki-murakami,
italo-calvino,
marai-sandor,
marcel-mauss,
natsume-soseki,
nguyen-ngoc-tu,
philip-roth,
ta-chi-dai-truong,
tran-dan
Nov 21, 2011
Từ trên cao nhìn xuống
(tên bài máu không :p)
“Từ trên cao nhìn xuống, châu Mỹ có màu be”, đó là một câu văn ở trang 21 trong cuốn tiểu thuyết “Cửa sổ trên tháp đôi” của Frédéric Beigbeder (Thanh Phương dịch, NXB Văn hóa-Văn nghệ). Đây là tác phẩm thứ tư của Beigbeder trong tiếng Việt, sau “99 francs”, “Tình yêu kéo dài ba năm” và “Một tiểu thuyết Pháp”.
Frédéric Beigbeder luôn luôn tuyên bố mình muốn làm một “nhà văn hiện thực”, cả ở những cuốn sách khác, cả trong các tuyên bố trên báo chí, và ở đầu “Cửa sổ trên tháp đôi” ông cũng trích dẫn làm đề từ một câu của Tom Wolfe, nhà văn lừng danh của trường phái tiểu thuyết dưới hình thức phóng sự có tham vọng ghi lại thực tại chân xác hơn so với hư cấu thông thường. Tom Wolfe hay một người nữa cùng “dòng”, Hunter S. Thompson đã viết lại những mảng lịch sử văn hóa nước Mỹ bằng cách tham dự thực tế, thậm chí cả lăn lộn với đối tượng trong thời gian dài. Lối viết này có thể nói là thoát thai từ Truman Capote của “In Cool Blood” (Máu lạnh) về hai kẻ sát nhân ở một vùng heo hút nước Mỹ. Beigbeder, cũng như nhiều nhà văn trẻ tuổi của Pháp khác, bị hấp dẫn bởi văn chương Mỹ hơn rất nhiều so với văn chương châu Âu.
Nhưng “tiểu thuyết hiện thực” kiểu Beigbeder không giống với tiểu thuyết của “chủ nghĩa hiện thực” truyền thống. Đây cũng là một trò chơi (chơi với khái niệm chuẩn mực) xuất hiện rất nhiều trong tác phẩm của Beigbeder. “Một tiểu thuyết Pháp” là cái nhan đề không thể “hiện thực chủ nghĩa” hơn, giống như “Lối sống Mỹ” trước đây chúng ta từng biết, nhưng thật ra văn chương của Beigbeder lúc nào cũng đi lệch khỏi các chuẩn mực. Là nhà văn hay nói đùa, Beigbeder làm người đọc lúc nào cũng phải thường trực tập trung để tránh rơi vào những cái bẫy ý tưởng và ngôn từ của ông.
Một đề tài cụ thể và nóng hổi như vụ 11/9 ở Mỹ đã được Beigbeder xử lý đúng bằng “chủ nghĩa hiện thực” riêng có của mình. Trước hết cần kể đến những câu văn, cách nhìn đượm mùi hiện thực cổ điển, như câu khái quát “Từ trên cao nhìn xuống, châu Mỹ có màu be” như đã nói ở trên, rồi rất nhiều câu khác (chẳng hạn ông nói taxi ở New York giống những con kiến vàng), nhưng hiệu ứng và dụng ý của cách viết đó không nhằm đến một bối cảnh cho tâm trạng, hay mở màn cho một phân tích kiệt cùng về chi tiết (kiểu Balzac), mà cứ đứng sững đó, bất ngờ lộ diện, rồi không thấy tiếp nối ở đâu nữa. Cách viết này làm tác phẩm cứ treo lại mãi lơ lửng đâu đó. Và cũng bởi vậy mà có sự hợp lý của “ở trên cao nhìn xuống”: nhà văn sở hữu nhu cầu được ở trên cao, tách biệt nhưng vẫn đủ sức quan sát, nhu cầu đó đi kèm với nhu cầu nối kết với thế giới.
Sự nối kết này, ở trong “Cửa sổ trên tháp đôi”, được Beigbeder xử lý bằng một hình ảnh (Beigbeder luôn luôn đầy ắp hình ảnh, văn chương của ông vì vậy mà nhiều lúc tạo cảm giác lỏng lẻo vì tác giả chỉ chăm chăm nhảy sang một ý tưởng mới hấp dẫn hơn mà lờ tịt đi những gì đã có): nhân vật Carthew Yorston kể cho hai con trai “rằng vào năm 1974, một người Pháp tên là Philippe Petit đã làm xiếc trên dây cáp, đi từ tháp bên này qua tháp bên kia” (tr. 19). Câu chuyện này được kể vào đúng buổi sáng định mệnh 11/9 năm ấy, không lâu trước khi thảm họa xảy ra, cái thảm họa được báo ngay từ mở đầu: “chúng ta đều biết, kết cục cuối cùng là tất cả mọi người đều sẽ chết” (tr. 7) - cái chết đó được cay đắng nhắc lại ở cuối: “Chúng tôi chết chẳng vì cái gì” (tr. 295).
Hình ảnh đi dây này, đầy tinh tế và khéo léo (những phẩm chất này khiến Beigbeder trở thành một nhà văn đặc biệt duyên dáng, mặc dù văn chương của ông không thuộc dạng được giới phê bình văn học nước Pháp ca ngợi), được “buộc” vào với sự kiện nhà văn viết ra câu chuyện về quán “Cửa sổ trên tháp đôi” (Windows on the World) cũng ngồi tại một cái quán ngất ngưởng trên trời: quán “Le Ciel de Paris” (Bầu trời Paris) ngự ở tầng cao nhất tòa tháp Montparnasse. Câu chuyện của Beigbeder nhiều lần triển khai xoay quanh mối quan hệ giữa nước Mỹ và nước Pháp, và câu chuyện ấy cũng đi, theo lối rất nguy hiểm, trên sợi dây cáp nối điểm cao nhất của Paris với điểm cao nhất của New York. Để chống trả sự kinh hoàng mà các sự kiện bạo lực tạo ra, nhà văn đã chọn phương án lên cao, tuy biết rằng như thế cũng không giảm bớt nguy cơ. Vì ở trên cao, ông hiểu rõ hơn mọi chuyện, từ đó mà có phát biểu đầy cay đắng:
Nhị Linh
-----------
về Cửa sổ trên tháp đôi Trần Nhã Thụy đã viết một bài ở đây (vẫn không thể vào được trang Tuổi trẻ nên phải dùng bản cache)
bác TNT nhiễm ngôn ngữ báo mạng quá rồi: có mấy trăm chữ mà nào "ngơ ngác", "nuối tiếc" với chả "hụt hẫng"
Đoạn này: "Chẳng hạn, ở trang 42 có đoạn: “Bạn có biết từ đâu có tiêu đề Kẻ đi săn trong cánh đồng lúa mạch (The catcher in the rye)?”. Những ai yêu thích văn chương đều biết The catcher in the rye của nhà văn Mỹ J. D. Salinger từng được chuyển ngữ tiếng Việt với nhan đề Bắt trẻ đồng xanh (Phùng Khánh dịch, NXB Lá Bối, 1965). Năm 2008, Nhã Nam và NXB Văn Học tái bản với nhiều chỉnh lý, bổ sung nhưng vẫn giữ lại tựa sách này. Bắt trẻ đồng xanh là một tựa sách quá hay (chuyển tải đúng tinh thần tiểu thuyết) và quá nổi tiếng (với nhiều thế hệ độc giả) nay được dịch thành Kẻ đi săn trong cánh đồng lúa mạch khiến người đọc không khỏi bị hụt hẫng."
Lôi ra như thế này thì không được ổn lắm, cả đoạn có liên quan ở trang 42 là: "Năm 1951, tại Manhattan, nhà văn Salinger đã viết tác phẩm "Kẻ đánh cắp trái tim" rồi trước đó cả cuốn "Grand Meaunles [sic]" nữa. "Grand Meaulnes" được dựng thành phim năm 1949. Bạn có biết từ đâu mà có tiêu đề "Kẻ đi săn trong cánh đồng lúa mạch" (The Catcher in the Rye)?"
Đoạn tối mù này đáng nói, nó có vài lỗi cơ bản nữa. Viết như thế kia thì người ta sẽ nghĩ Salinger là tác giả "Le Grand Meaules" (tức Anh Môn bản dịch Mặc Đỗ hay Anh Meaulnes cao kều bản dịch Nguyễn Văn Quảng - bản dịch Nguyễn Văn Quảng này còn in một lần khác lấy tên gì rất buồn cười, "Bí mật lâu đài" gì gì đó") và tác giả là Alain-Fournier (vẫn được coi là một tương ứng của Salinger bên Pháp). Nhưng "Kẻ đánh cắp trái tim" là gì? Hehe cái này mới hay, và cho thấy Trần Nhã Thụy chưa nhìn thấy hết vấn đề. "Kẻ đánh cắp trái tim" là dịch từ "L'attrape-coeur" (Túm tim, Tóm tim), tức tên tiếng Pháp của The Catcher in the Rye.
Đoạn tiếp trong bài của Trần Nhã Thụy thú thật tôi không hiểu:
"Cũng trong cuốn sách nói trên, ở trang 149 có đoạn: “Tôi lảo đảo đi về phía quầy bar được Hemingway liệt kê trong cuốn Paris là một ngày hội”... Paris là một ngày hội là cuốn sách nào của Hemingway? Ðọc kỹ lại thì thấy tác giả muốn nói đến cuốn A moveable feast (chứ không phải bản tiếng Pháp là Paris est une fête) mà Phan Triều Hải đã dịch là Hội hè miên man (Nhã Nam & NXB Hội Nhà Văn, 2009)."
Tức là thế nào nhỉ? Paris est une fête là tên bản dịch tiếng Pháp của A Moveable Feast mà nhỉ.
Bản dịch Cửa sổ trên tháp đôi này tôi thấy cũng bình thường, mắc một số lỗi tôi hay gọi là "lỗi độc giả văn học". 99 francs trước đây thì người dịch không hiểu rất nhiều chỗ. Văn Beigbeder không hề khó, nhưng để dịch đúng cái chất ấy thì không dễ. Bản dịch Tình yêu kéo dài ba năm và Một tiểu thuyết Pháp có vài đoạn thấy được rõ phong cách đó.
Dec 20, 2009
Sách (II)
Bây giờ vẫn có tiếng rao hàng ngoài đường vào ban đêm, bán bánh mì, bán những thứ đồ ăn vặt như sắn luộc khoai luộc. Nhưng rất nhiều đã chuyển sang hình thức rao qua loa, giống như bán báo đợt trước ra rả tin tức đã thu sẵn, giọng thường xuyên có âm sắc Hải Phòng, Hải Dương hay ngoại thành Hà Nội. Đợt vừa rồi kiếm được quyển Người ven thành của Tô Hoài, một bản in rất đẹp, chưa kịp đọc nhưng nghe "ven thành" đã thấy hay rồi, văng vẳng như cái tên quyển sách Ngoại ô của Nguyễn Đình Lạp. Tô Hoài vừa rồi trở thành nhân vật cho Vương Trí Nhàn, bài viết "Tô Hoài nhìn từ một khoảng cách gần" chắc đã nhiều người đọc. Đến cả mấy ông bên CAND cũng đọc thì chắc dân tình ối người đọc rồi hehe. Nhìn vào mấy bản khác nhau, kể cả bản ghi có chỉnh lý, sửa sang, tất tật đều thấy từ "blaser" trong câu nói của Tô Hoài về Vương Trí Nhàn: "Còn Nhàn thì ông blaser quá, tức là chai sạn mất rồi..." Hình như không ai biết ý Tô Hoài muốn nói "blasé" (gần nghĩa với "nonchalant"), ơ hờ, thờ ơ, hờ hững, còn "blaser" chẳng có nghĩa gì cả.
Nov 2, 2009
Đấy biết ngay
Giải Goncourt năm nay đã được trao cho Marie Ndiaye, tiểu thuyết Trois femmes puissantes. Thế là đoán đúng được một bác hehe.
Đợi xem nốt Vincent Message có được cái giải gì không. Sẽ cập nhật thông tin và đi một đường (chết thật, cái này lại đi thuổng :) về Trois femmes puissantes, tức Ba người đàn bà hùng hậu (à lại dịch lăng nhăng đấy).
Cập nhật: Frédéric Beigbeder, nhà văn thời thượng, đã đoạt giải Renaudot năm nay. Cuốn tiểu thuyết Un Roman français (Một tiểu thuyết Pháp) mở đầu bằng một câu đại ý năm nay tôi già hơn cả cụ cố tôi. Sắp tới gần đây thôi các bác sẽ được đọc một quyển của Beigbeder, là quyển này.
Giải Renaudot về non-fiction cuối cùng không về tay Alain Finkielkraut, người quen của bạn Đỗ Quốc Anh :) Quyển Un coeur intelligent của Finkielkraut đọc rất ngon.
Cập nhật nữa: Quyển sách của Marie Ndiaye có vẻ như được đặt tên như vậy, Ba người phụ nữ mạnh mẽ/quyền lực, là vì tham vọng của nó nằm ở hai chữ: mạnh mẽ. Đây là một bộ ba tiểu thuyết, triptyque thì đúng hơn là trilogie, về ba người phụ nữ châu Phi ở trong ba hoàn cảnh khác nhau. Mới đầu Ndiaye định chỉ viết một phần, nhưng xong rồi thì thấy chưa đủ (chưa đủ mạnh mẽ?) nên viết tiếp hai phần sau đó.
Sau đây là incipit (tức là đoạn mở đầu) của Trois femmes puissantes:
Và người đón cô hoặc chỉ như thể ngẫu nhiên mà ở trên ngưỡng cửa ngôi nhà lớn xây bằng bê tông, trong cường độ của luồng sáng đột ngột mạnh mẽ tới mức cơ thể tắm trong ánh sáng của ông ta vẻ như tạo ra và trải rộng luồng sáng ấy, cái người đàn ông đang đứng ở kia, thấp lùn, nặng nề, phát ra một chùm sáng trắng như một bóng đèn nê ông, cái người đàn ông hiện ra ở ngưỡng cửa ngôi nhà ngoại cỡ không còn lại gì, ngay lập tức Norah tự nhủ, sót lại của dáng hình, của tuổi trẻ trước kia từng bất biến đầy kỳ diệu đến nỗi cô thấy như là không thể lụi tàn.
+ Tôi thấy hãi hùng với trình độ của tờ evan, tờ báo mạng văn chương của Việt Nam: đưa tin về giải Goncourt đã muộn (mồng 4 mới đưa) mà dám liệt kê một số các nhà văn nữ từng đoạt giải Goncourt như sau: "Marguerite Duras với The Lover, Georges Duhamel với Civilization và Simone de Beauvoir với The Mandarins". Georges Duhamel, tác giả của bộ Chronique des Pasquier (10 quyển) mà là phụ nữ ậc ậc. Chẳng cần nghĩ cũng ra Elsa Triolet và hai nhà văn mới có sách dịch sang tiếng Việt: Pascale Roze và Paule Constant.
+ Cập nhật nữa nữa: như vậy là năm nay chỉ đoán đúng được một cái, Vincent Message chẳng được cái giải rút nào cả. Giải Médicis thuộc về Dany Laferrière, tiểu thuyết L'énigme du retour, còn Femina cho quyển Personne của Gwenalle Aubry.
Đợi xem nốt Vincent Message có được cái giải gì không. Sẽ cập nhật thông tin và đi một đường (chết thật, cái này lại đi thuổng :) về Trois femmes puissantes, tức Ba người đàn bà hùng hậu (à lại dịch lăng nhăng đấy).
Cập nhật: Frédéric Beigbeder, nhà văn thời thượng, đã đoạt giải Renaudot năm nay. Cuốn tiểu thuyết Un Roman français (Một tiểu thuyết Pháp) mở đầu bằng một câu đại ý năm nay tôi già hơn cả cụ cố tôi. Sắp tới gần đây thôi các bác sẽ được đọc một quyển của Beigbeder, là quyển này.
Giải Renaudot về non-fiction cuối cùng không về tay Alain Finkielkraut, người quen của bạn Đỗ Quốc Anh :) Quyển Un coeur intelligent của Finkielkraut đọc rất ngon.
Cập nhật nữa: Quyển sách của Marie Ndiaye có vẻ như được đặt tên như vậy, Ba người phụ nữ mạnh mẽ/quyền lực, là vì tham vọng của nó nằm ở hai chữ: mạnh mẽ. Đây là một bộ ba tiểu thuyết, triptyque thì đúng hơn là trilogie, về ba người phụ nữ châu Phi ở trong ba hoàn cảnh khác nhau. Mới đầu Ndiaye định chỉ viết một phần, nhưng xong rồi thì thấy chưa đủ (chưa đủ mạnh mẽ?) nên viết tiếp hai phần sau đó.
Sau đây là incipit (tức là đoạn mở đầu) của Trois femmes puissantes:
Và người đón cô hoặc chỉ như thể ngẫu nhiên mà ở trên ngưỡng cửa ngôi nhà lớn xây bằng bê tông, trong cường độ của luồng sáng đột ngột mạnh mẽ tới mức cơ thể tắm trong ánh sáng của ông ta vẻ như tạo ra và trải rộng luồng sáng ấy, cái người đàn ông đang đứng ở kia, thấp lùn, nặng nề, phát ra một chùm sáng trắng như một bóng đèn nê ông, cái người đàn ông hiện ra ở ngưỡng cửa ngôi nhà ngoại cỡ không còn lại gì, ngay lập tức Norah tự nhủ, sót lại của dáng hình, của tuổi trẻ trước kia từng bất biến đầy kỳ diệu đến nỗi cô thấy như là không thể lụi tàn.
+ Tôi thấy hãi hùng với trình độ của tờ evan, tờ báo mạng văn chương của Việt Nam: đưa tin về giải Goncourt đã muộn (mồng 4 mới đưa) mà dám liệt kê một số các nhà văn nữ từng đoạt giải Goncourt như sau: "Marguerite Duras với The Lover, Georges Duhamel với Civilization và Simone de Beauvoir với The Mandarins". Georges Duhamel, tác giả của bộ Chronique des Pasquier (10 quyển) mà là phụ nữ ậc ậc. Chẳng cần nghĩ cũng ra Elsa Triolet và hai nhà văn mới có sách dịch sang tiếng Việt: Pascale Roze và Paule Constant.
+ Cập nhật nữa nữa: như vậy là năm nay chỉ đoán đúng được một cái, Vincent Message chẳng được cái giải rút nào cả. Giải Médicis thuộc về Dany Laferrière, tiểu thuyết L'énigme du retour, còn Femina cho quyển Personne của Gwenalle Aubry.
Subscribe to:
Posts (Atom)