Oct 20, 2017

Quyển sách tranh không có tranh

Tôi sẽ kết thúc chuyến đi qua thế giới những câu chuyện của Andersen (một chuyến đi mới gần đây thôi vẫn còn là hết sức bất ngờ đối với bản thân tôi) bằng câu chuyện Quyển sách tranh không có tranh dưới đây, câu chuyện hẳn đủ sức hé lộ về một Andersen như chưa mấy ai từng biết.

"Quyển sách tranh" là một hình ảnh xuất hiện rất nhiều trong các truyện của Andersen. Đặc biệt, Quyển sách tranh của ông bố đỡ đầu là một câu chuyện mà tôi đã định dịch đợt này, nhưng rồi lại thôi. Ai có điều kiện thì nên tìm đọc nó, đó là một truyện gói gọn toàn bộ lịch sử Đan Mạch.

Quyển sách tranh không có tranh nằm bên ngoài các truyện thuộc vào corpus truyện của Andersen mà thông thường người ta vẫn biết. Một cách chính thức, tổng cộng có 156 câu chuyện. Quyển sách tranh không có tranh không nằm trong đó. Đây là một tác phẩm được Andersen viết từ rất sớm (ngay năm 1839) nhưng không thuộc vào đâu. Nó cũng cho thấy một điều dễ bị quên khỏi tiểu sử Andersen: Andersen còn là một họa sĩ.

Một tháng vừa rồi, chúng ta đã đi qua không ít câu chuyện của Andersen (danh sách cụ thể xem ở dưới). Ít nhất, tôi nghĩ đã có thể hình dung đầy đủ hơn về một Andersen tác giả của một văn chương đặc biệt đa dạng, với một vị trí duy nhất không chỉ trong văn chương Đan Mạch, văn chương Bắc Âu hay văn chương "kỳ ảo", mà là trong văn chương nói chung, một văn chương theo nghĩa phổ quát nhất.

Câu chuyện dưới đây, Quyển sách tranh không có tranh, cũng cho thấy không ít điều về cái nhìn đặc biệt của Andersen: một nhà văn đích thực thì có cái nhìn riêng, đó là quy luật không thể phổ quát hơn.


nhân tiện: đã tiếp tục một câu chuyện khác của Andersen, Hòn đá triết học




Quyển sách tranh không có tranh


Thật lạ! khi tôi cảm thấy cao hứng nhất và thoải mái nhất, thì cứ như thể hai tay và lưỡi của tôi bị trói lại, tôi không thể thuật truyện, tôi không thể diễn tả mọi sự đúng như tôi cảm nhận ở bên trong tôi; và thế nhưng, tôi lại là họa sĩ, con mắt tôi nói với tôi điều đó, và tất cả những ai từng xem các bức phác họa và tranh vẽ của tôi đều công nhận như vậy.

Tôi là một thằng bé nghèo, sống tại một trong những phố chật hẹp nhất, nhưng tôi không bị thiếu ánh sáng, bởi vì tôi ở tít trên cao, từ đó nhìn được xuống mọi mái nhà. Những ngày đầu tiên sống tại thành phố, tôi cảm thấy quá chật chội và cô đơn; thay vì rừng và những ngọn đồi màu lục, giờ đây đường chân trời chỉ còn là các ống khói xám xịt. Tại đây tôi chẳng có đến một người bạn, không có đến một khuôn mặt quen thuộc để chào tôi.

Một tối nọ, tôi ngồi bên cửa sổ, hết sức buồn rầu, tôi mở cửa và nhìn ra bên ngoài. Ồ! sao mà tôi sung sướng! tôi trông thấy một khuôn mặt mà tôi từng biết, một khuôn mặt tròn, thân thiện, người bạn thân nhất của tôi, ở đó, nơi từng có tổ ấm của tôi: đó là trăng, mặt trăng già nua yêu quý ấy, không đổi thay, dáng vẻ của nó vẫn chằn chặn giống hệt như khi nó nhìn tôi giữa những cây liễu mọc quanh đầm lầy. Tôi gửi cho nó một nụ hôn trên đầu các ngón tay và nó bừng sáng chiếu thẳng vào phòng tôi rồi hứa mọi buổi tối nào có đi ra ngoài, nó sẽ tới đây thăm tôi một chốc lát; nó đã làm như vậy kể từ bấy, đầy trung tín, thật tệ vì nó chỉ có thể nán lại không nhiều thời gian. Mỗi lần tới, nó lại kể cho tôi một điều gì đó mà nó đã trông thấy vào đêm hôm trước, hoặc cũng có thể ngay trong tối hôm ấy. “Hãy vẽ những gì tôi kể cho cậu đi, nó nói vào chuyến thăm đầu tiên, như vậy cậu sẽ làm ra một quyển sách tranh rất là xinh đấy.” Đó chính là việc tôi đã làm từ nhiều buổi tối. Hẳn tôi cũng có thể, theo cách riêng của tôi, tạo ra những câu chuyện Nghìn lẻ một đêm mới bằng hình ảnh, nhưng chắc hẳn như thế thì sẽ có quá nhiều; những gì tôi bày ra không hề được chọn lựa, chúng đúng như là tôi đã nghe kể; một họa sĩ thiên tài vĩ đại, một nhà thơ hoặc một nhà soạn nhạc nếu muốn sẽ có thể từ đó mà làm ra nhiều thứ còn hay hơn; những gì tôi trình bày chỉ là các đường viền mơ hồ trên giấy, và thỉnh thoảng những ý nghĩ của chính tôi, bởi vì chẳng phải tối nào trăng cũng đến, rất thường có một hai đám mây che mất nó đi.




TỐI THỨ NHẤT

“Đêm qua - chính mặt trăng nói vậy - tôi trượt trong làn không khí trong vắt của Ấn Độ, và phản chiếu xuống sông Hằng: các tia sáng của tôi tìm cách băng qua hàng giậu dày tạo nên từ những cây tiêu huyền già nua, một cái vòm trông giống mai rùa. Một nàng thiếu nữ Hindu từ bụi rậm đi ra, nhẹ nhõm như linh dương, đẹp như Eva; có một cái gì đó thực sự bay bổng, và thế nhưng cũng căng mọng, tràn đầy, ở cô thiếu nữ Ấn Độ này, tôi có thể nhìn thấy ý nghĩ của cô xuyên làn da mỏng; các loại cây leo đầy gai xé rách đôi xăng đan của cô, nhưng dẫu có thế cô vẫn bước đi thoăn thoắt; con thú hoang đang đi ra sông uống nước hoảng hốt nhảy vọt sang một bên để tránh đường, vì cô thiếu nữ cầm trên tay một ngọn đèn thắp sáng; tôi có thể trông thấy dòng máu tươi của cô gái trong những ngón tay thanh mảnh mà cô gập lại để giữ cho lửa khỏi tắt. Cô tới bờ sông, giao phó cái đèn cho dòng nước chảy, và đèn trôi dạt trên mặt nước; ánh lửa chập chờn, chừng như sắp tắt mất đến nơi, nhưng dẫu vậy thì nó vẫn cháy, và cặp mắt đen lóng lánh của cô thiếu nữ dõi theo nó, vẻ ưu tư, đằng sau hai hàng mi dài rợp như lụa trên mí mắt; cô gái biết rằng nếu đèn tiếp tục cháy lâu đến chừng nào cô còn có thể nhìn thấy nó, thì có nghĩa người mà cô yêu vẫn còn sống, nhưng nếu đèn tắt, thì anh đã chết; cái đèn cháy và run rẩy, và trái tim cô gái run rẩy và rực cháy, cô quỳ xuống cầu nguyện; cạnh bên cô, trong đám có, có một con rắn người đầy nhớt, nhưng cô chỉ nghĩ tới Brahma và chàng trai vị hôn phu của cô. “Anh ấy vẫn sống!” cô hào hứng thốt lên và, từ các ngọn núi, tiếng vọng nhắc lại: “Anh ấy vẫn sống!””




TỐI THỨ HAI

“Đó là hôm qua, trăng kể với tôi, tôi nhìn từ trên cao xuống cái sân nhỏ nằm giữa các ngôi nhà, ở đó có một con gà mái cùng mười một gà con, một đứa bé gái tươi tắn nhảy nhót quanh chúng, con gà mái kêu cục cục và, vì sợ hãi, nó dang rộng hai cánh trùm lên lũ con. Ông bố của đứa bé gái xuất hiện đúng vào lúc đó, ông mắng nó; và tôi đi khỏi, không để ý thêm; nhưng tối nay, cách đây mới vài phút, tôi đã lại nhìn xuống cái sân ấy. Khung cảnh thật tịch mịch, nhưng đứa bé gái hiện ra, nó nhẹ nhàng luồn lách tới chỗ chuồng gà, nhấc cái then lên để đến chỗ con gà mái cùng lũ gà con; chúng liền gào toáng lên và bay loạn xạ, đứa bé gái đuổi theo, tôi nhìn thấy rõ lắm, bởi vì tôi nhìn xuyên qua một lỗ thủng trên tường. Tôi rất giận dữ vì cái đứa trẻ độc ác kia và tôi lấy làm sung sướng khi bố nó chạy tới và lại mắng nó, còn tàn tệ hơn hôm qua, rồi túm lấy tay nó; nó cúi gằm mặt, trong cặp mắt xanh của nó có những giọt nước lớn. “Con làm gì ở đây?” ông hỏi. Nó vừa khóc vừa đáp: “Con chỉ muốn vào trong đó để ôm hôn gà mái và xin lỗi nó vì chuyện hôm qua, nhưng con không dám nói với bố!” Và ông bố hôn lên trán sự ngây thơ dễ thương; về phần tôi, tôi hôn cô bé lên mắt và lên miệng.”




TỐI THỨ BA

“Trên phố chật hẹp, ngay gần đây thôi - nó hẹp đến nỗi tôi chỉ có thể cho các tia sáng trườn đi dọc theo bức tường trong vòng một phút, nhưng trong một phút ấy, tôi nhìn thấy đủ để biết cặn kẽ về cái thế giới sống ở đó - tôi từng trông thấy một thiếu nữ. Cách đây mười sáu năm cô gái vẫn còn là một đứa trẻ; cô chơi đùa ở vùng nông thôn, trong khu vườn của nhà mục sư cổ; các giậu hoa hồng đã già cỗi, không còn ra hoa nữa, ở tình trạng hoang dã, chúng xâm chiếm lối đi và từ chúng mọc ra các cành thật dài vươn lên trên những cây táo; chỉ có lác đác đây đó một bông hoa hồng, và nó không đẹp, không đẹp như nữ hoàng các loài hoa có thể đẹp; và thế nhưng, có đủ các màu, cũng có cả hương thơm nữa; tôi thấy đứa con gái của ông mục sư là một bông hồng xinh đẹp hơn nhiều; cô bé ngồi trên cái ghế đặt bên dưới hàng giậu mọc hoang và hôn lên má con búp bê làm bằng giấy bìa đã nát. Mười năm về sau, tôi lại nhìn thấy cô ấy; tôi nhìn thấy lại cô ấy trong phòng khiêu vũ tuyệt đẹp; cô là người vợ xinh đẹp của một thương gia giàu có; tôi sung sướng khi được chứng kiến hạnh phúc của cô, và tôi đi tìm cô ấy trong những buổi tối yên bình; hỡi ôi! chẳng ai nghĩ tới con mắt sáng ngời của tôi, đến ánh mắt chắc chắn của tôi! Bông hồng của tôi cũng trở nên hoang dại, giống những bông hồng trong khu vườn của nhà mục sư xưa kia! Cuộc sống hằng ngày cũng có vở bi kịch riêng của nó, tối nay, tôi đã xem màn cuối. Trên phố hẹp, cô ấy đang nằm trên giường, ốm nặng sắp chết, và ông chủ nhà độc ác, thô thiển và lạnh lùng, giật cái chăn, thứ duy nhất bảo vệ cô chống lại cái lạnh, khỏi người cô: “Dậy đi! lão nói. Trông mặt cô sợ quá đấy, trang điểm đi! kiếm tiền cho tôi, nếu không, tôi sẽ ném cô ra ngoài đường! dậy mau lên! - Tôi đã thấy cái chết dâng lên đến ngực rồi! cô ấy đáp. Ôi! để cho tôi được nghỉ!” và thế là lão lôi cô ra khỏi giường, thoa phấn lên má cô, cài hoa hồng lên tóc cô, đặt cô ngồi bên cửa sổ, ngọn nến cháy sáng ngay bên cạnh, rồi đi khỏi đó. Tôi chăm chú nhìn cô ấy: cô ngồi bất động, tay buông thõng trong lòng. Một luồng gió đóng sập cửa sổ lại làm một ô kính bị vỡ, nhưng cô vẫn ngồi yên, tấm ri đô bay phấp phới quanh cô giống như một ngọn lửa, cô ấy đã chết. Nơi cửa sổ để mở, người phụ nữ đã chết ngồi đó, giảng giải về tội lỗi - bông hồng khốn khổ của tôi trong khu vườn của nhà mục sư!”




TỐI THỨ TƯ

“Tối qua, tôi đã xem một hài kịch Đức, trăng nói. Đó là tại một thành phố nhỏ, một tòa nhà dùng làm chuồng ngựa đã được sửa sang thành nhà hát, nghĩa là người ta đã giữ nguyên các ngăn chuồng và lau rửa chúng để biến chúng thành các lô, mọi thứ gì làm bằng gỗ thì được dán giấy nhiều màu lên; một chùm đèn nhỏ bằng sắt treo trên trần thấp và, để nó có thể tự nhấc mình lên rồi biến đi mất giống như tại các nhà hát lớn khi chuông của người nhắc vở vang lên “tinh tang”, người ta đã lồng vào bên trên nó một cái thùng úp ngược. “Tinh tang!” và thế là chùm đèn nhỏ bằng sắt nhảy đi một cú dài tận nửa bộ và biến mất vào thùng; như thế, người ta biết ngay là vở kịch đã bắt đầu. Một ông hoàng trẻ tuổi đi ngang qua thành phố, cùng vợ của chàng, đến xem buổi biểu diễn, chính vì thế mà căn phòng đông nghẹt người, chỉ bên dưới chùm đèn có một chỗ giống như cái hố. Tại chỗ ấy, không có lấy một mống người, các giọt sáp rơi từ những ngọn nến, “tốc! tốc!” Tôi thấy tất tật những điều ấy, bởi vì trong đó nóng tới mức người ta buộc phải mở hết mọi cửa sổ trên tường, và từ bên ngoài, đám trẻ, cả gái lẫn trai, nhòm vào qua tất tật các cửa sổ kia, mặc cho đám cảnh sát, bên trong, bọn họ giơ gậy lên dọa nạt. Ngay gần dàn nhạc, người ta nhìn thấy vợ chồng ông hoàng trẻ tuổi trong hai cái phô tơi cũ, thông thường ông thị trưởng và vợ ông được ngồi đó, nhưng tối qua, họ phải ngồi trên các ghế băng bằng gỗ giống như tất cả các nhà tư sản khác. “Đấy, đúng là ngoài trời lại có trời cao hơn!” bà vợ nhủ thầm, và bởi thế mọi sự lại càng trở nên hay ho hơn; chùm đèn thì cứ nhảy, đám đông thì bị vụt vào các ngón tay, còn tôi - ừ thì! trăng tham gia toàn bộ vở hài kịch.”




TỐI THỨ NĂM

“Hôm qua, trăng nói, tôi đã nhìn Paris cùng sự nhộn nhịp của nó, phía bên dưới, mắt tôi đã xâm nhập các căn phòng của điện Louvre. Một bà già ăn vận nghèo nàn, thuộc tầng lớp bình dân, đi theo một nhân viên cấp thấp vào căn phòng lớn nơi đặt ngai vàng không người ngồi; chính căn phòng này là thứ bà muốn thấy, bà tuyệt đối phải thấy; điều này đã khiến bà phải thực hiện nhiều sự hy sinh nhỏ, bà đã phải thể hiện nhiều tài hùng biện, trước khi tới được đây. Bà chắp hai bàn tay gầy guộc lại và nhìn xung quanh, vẻ trang trọng, như thể đang ở trong một nhà thờ. “Chính là ở đây! bà nói. Ở đây!” vừa nói bà vừa tiến lại gần ngai vàng từ đó rủ xuống thứ vải nhung diễm lệ viền vàng. “Ở đây! bà nói. Ở đây!” rồi bà quỳ xuống và hôn lên tấm thảm tía - tôi nghĩ là bà ấy khóc. “Không phải miếng nhung này đâu”, người nhân viên cất tiếng, miệng nở một nụ cười. “Nhưng dẫu sao thì cũng đúng là ở đây! người đàn bà đáp. Mọi thứ đã được bố trí giống như thế này. - Phải, ông ta nói, và thế nhưng cũng không đúng; các cửa sổ đã bị phá, cửa ra vào thì bị giật tung và trên sàn nhà đầy máu!… Dẫu thế bà vẫn có thể nói: thằng cháu tôi đã chết trên ngai vàng nước Pháp! - Chết!” bà già nhắc lại… Tôi không nghĩ họ có nói thêm điều gì nữa, họ sớm rời căn phòng, ánh sáng hoàng hôn đã lụi, và ánh sáng của tôi chiếu sáng mạnh gấp đôi tấm nhung rực rỡ trên ngai vàng nước Pháp. Bạn nghĩ bà già đó là ai nào?… Tôi sẽ kể cho bạn một câu chuyện. Đó là hồi nổ ra cuộc cách mạng tháng Bảy, quãng buổi tối, ngày rực rỡ nhất của chiến thắng, vào lúc đó mỗi ngôi nhà là một pháo đài, mỗi cửa sổ là một bức thành; dân chúng a la xô chiếm lấy điện Tuileries. Trong hàng ngũ các chiến binh có cả phụ nữ và trẻ em; họ phá cửa xông vào các căn hộ và phòng ốc lâu đài. Một thằng bé, nghèo khổ, ăn mặc rách rưới, chiến đấu can đảm giữa các chiến sĩ lớn hơn; bị tử thương bởi nhiều nhát lưỡi lê, nó ngã gục xuống đất, chuyện xảy ra trong căn phòng để ngai vàng, và người ta bèn đặt thằng bé người đầy máu lên ngai vàng nước Pháp, người ta lấy vải nhung băng bó các vết thương cho nó, máu chảy thành dòng lên màu tía hoàng gia, một bức tranh mới ghê gớm làm sao! căn phòng tuyệt diệu, các nhóm chiến binh! một lá cờ gãy nằm trên sàn nhà, lá cờ tam tài tung bay phía trên những ngọn lưỡi lê, và trên ngai vàng, thằng bé khốn khổ mặt mũi nhợt nhạt, biến dạng, mắt nhìn lên trời, trong khi chân tay nó co rút lại chuẩn bị cho cái chết; bộ ngực trần của nó, những áo quần nghèo khó của nó, nửa người được phủ thứ vải nhung tráng lệ trang trí hoa ly bạc. Người ta đã tiên tri khi nó còn nằm trong nôi: “Nó sẽ chết trên ngai vàng nước Pháp!” Mẹ nó, trong lòng, đã mơ đến một Napoléon mới. Các tia sáng của ta từng hôn lên vòng hoa cúc bất tử đặt trên mộ, và đêm ấy chúng đã hôn lên trán bà của nó, khi bà nằm mơ và thấy bức tranh mà giờ đây bạn có thể vẽ: “Thằng bé nghèo khổ trên ngai vàng nước Pháp!””




TỐI THỨ SÁU

“Tôi đã ở Uppsala! trăng nói. Từ trên cao tôi đã nhìn xuống cánh đồng lớn lơ thơ cỏ mọc, những khoảng ruộng thưa. Tôi đã soi mình xuống sông Fyris, trong lúc con tàu hơi nước khiến lũ cá vội vã bỏ trốn giữa đám sậy. Bên dưới tôi, những đám mây bay và chiếu các bóng dài xuống mộ Odin, Thor và Frey, như người ta vẫn hay gọi họ. Trên bãi cỏ lác đác phủ lên các mảnh đất, những cái tên đã được hình thành. Ở đây, không có bia tưởng niệm nơi lữ khách có thể khắc tên mình lên, không có vách đá nơi anh ta có thể viết tên mình lên, chính vì thế những người đến thăm đã xén cỏ, làm lộ mặt đất trần trụi, tạo thành các chữ và những cái tên với kích cỡ lớn, chúng tạo nên một mạng lưới trải rộng trên nhiều gò đất. Một sự bất tử mà một lớp cỏ mới lại phủ lên trên. Ở đây, có một người, một ca sĩ, chàng uống cạn tù và đựng đầy rượu mật ong gắn cái vòng bạc lớn và thì thầm một cái tên, bảo gió không được để lộ, nhưng tôi nghe thấy cái tên, tôi có biết nó, một vương miện bá tước sáng lấp lánh bên trên và bởi thế mà chàng không nói thật to lên; tôi mỉm cười, một vương miện nhà thơ sáng lấp lánh phía trên tên chàng! Sự cao quý của Éléonore d’Este gắn vào với tên của Le Tasse [một nhà thơ rất nổi tiếng]. Tôi cũng biết bông hoa hồng của cái đẹp mọc ở đâu!…”

Đó là những gì trăng nói, một đám mây bay qua che mất nó… Miễn sao đừng có đám mây nào giữa nhà thơ và bông hoa hồng!




TỐI THỨ BẢY

“Dọc theo bờ sông trải rộng một khu rừng sồi nhiều loại, rậm rạp và rất thơm, mùa xuân nào nó cũng đón tiếp hàng trăm con họa mi; biển ở gần sát, biển biến đổi vĩnh hằng, và giữa chúng có một con đường cái quan rộng. Những cỗ xe nối tiếp nhau đi qua phía trước, tôi không dõi theo chúng, mắt tôi chủ yếu chăm chăm nhìn vào một điểm duy nhất: ở đó có một mộ phần; các cành dâu và mận gai ken dày giữa những tảng đá. Nơi đây có thứ thơ ca đích thực trong tự nhiên. Làm sao bạn có thể nghĩ con người tri nhận được nó? Ừ thì! tôi sẽ kể bạn nghe những gì tôi đã nghe thấy ở đó, chỉ mới tối và đêm hôm qua thôi. Trước hết có hai người nông dân giàu có đi xe ngựa đến. “Mấy cái cây đẹp quá! một người nói - Tha hồ mà lấy củi đun! người kia đáp. - Mùa đông sẽ khắc nghiệt; năm ngoái, người ta trả cho chúng ta mười bốn rixdale cho mỗi bó củi!” Và rồi họ biến mất. “Đoạn này đường xấu quá! một lữ khách khác nói. - Đấy là do đám cây đáng nguyền rủa kia! người bên cạnh đáp, không khí chẳng lưu thông được, ngoại trừ gió từ bờ biển!” và họ đi xa dần. Cỗ xe chở khách cũng đi qua; tất cả đều ngủ ở đúng đoạn đẹp nhất; người xà ích thổi tù và, nhưng anh ta chỉ nghĩ: “Mình thổi nghe thật hay, mình tự hỏi những người trong kia có thích không?” Và cỗ xe biến mất. Có hai chàng thanh niên lao ngựa tới. Đây là tuổi trẻ và trong máu họ có rượu sâm banh, tôi nghĩ; họ cũng nhìn, nụ cười nở trên môi, gò đất phủ rêu và những bụi cây u tối. “Tôi rất thích được đi dạo ở đây cùng Christine, con gái ông chủ cối xay bột!” một người nói, rồi họ đi. Những bông hoa tỏa hương thơm ngát, mọi luồng không khí ngủ thiu thiu, biển như thể là một phần của bầu trời đang trải rộng phía trên thung lũng sâu; một cỗ xe đi qua, trên xe có sáu người, bốn đang ngủ, người thứ năm nghĩ đến cái áo choàng mùa hè mới chắc phải hợp với anh ta lắm, còn người thứ sáu chồm về phía người xà ích hỏi đống đá đằng kia có gì đặc biệt hay không. “Không, người xà ích đáp, đó chỉ là một đống đá, nhưng mấy cái cây kia thì đặc biệt! - Kể cho tôi đi! - Vâng, chúng có một cái gì đó vô cùng đặc biệt; ông có thấy không, khi tuyết mùa đông tạo thành một lớp dày và mọi thứ trộn lẫn vào với nhau, tôi dùng mấy cái cây này làm điểm mốc, tôi có thể định hướng dựa theo chúng và không bị lao xuống biển; chính điều đó làm chúng có cái gì đó đặc biệt!…” Và cỗ xe đi khỏi. Sau đó xuất hiện một họa sĩ, mắt anh ta sáng lấp lánh, anh ta không nói một lời, mà huýt sáo, lũ họa mi hót, con này đua sức hót to hơn con kia. “Im đi nào!” anh ta kêu lên, giờ đây đã thấy khá cụ thể mọi màu sắc: “Xanh, tím, nâu sẫm!” Tất tật hẳn sẽ trở thành một bức tranh tuyệt đẹp! Anh ta hình dung nó giống như tấm gương hình dung hình ảnh, và trong quãng thời gian ấy, anh ta huýt sáo một điệu hành khúc của Rossini. Một cô bé nghèo khổ xuất hiện cuối cùng, cô ngồi nghỉ gần mộ phần, đặt gánh nặng đang mang xuống, khuôn mặt xinh đẹp nhợt nhạt của cô ngoái về phía khu rừng để lắng nghe, cặp mắt cô sáng lấp lánh khi cô nhìn lên trời, phía bên kia biển, hai tay cô chắp lại, tôi nghĩ cô đang đọc Kinh Lậy Cha. Bản thân cô cũng không hiểu tình cảm đang lướt qua cô, nhưng tôi biết rằng, trong suốt nhiều năm, giây phút này, khi cô được tự nhiên vây quanh, sẽ nhiều lần quay trở lại trong ký ức của cô, đẹp hơn nhiều, thậm chí còn trung thành hơn so với lúc họa sĩ ghi lại với những màu cụ thể. Các tia sáng của tôi đi theo cô bé, cho tới khi ánh sáng ban ngày hôn lên trán cô!”




TỐI THỨ TÁM

Trên trời có những đám mây nặng nề, trăng hoàn toàn không xuất hiện, tôi thấy cô độc gấp đôi trong căn phòng nhỏ và tôi nhìn lên trời, nơi lẽ ra nó phải chiếu sáng. Suy nghĩ của tôi bay đi xa để tới gặp người bạn lớn của tôi, người tối tối vẫn kể cho tôi những câu chuyện đẹp đến thế, cho tôi xem các hình ảnh. Quả thật, còn có gì mà nó còn chưa nhìn thấy? Nó bồng bềnh trôi phía trên nước của cơn hồng thủy và nở nụ cười với con thuyền Nô-ê, cũng như với tôi, và mang lại niềm an ủi về một thế giới mới rồi một ngày sẽ nở hoa. Khi dân tộc Israel khóc bên bờ những con sông ở Babylon, nó nhìn, vẻ sầu muộn, qua các cành liễu, nơi những cây đàn hạc được treo. Khi Romeo trèo lên ban công, và nụ hôn tình yêu vươn lên từ mặt đất giống như ý nghĩ của một thiên thần, trăng tròn trốn đi một nửa giữa đám cây bách màu đen trong không khí trong suốt. Nó đã trông thấy người anh hùng của đảo Sainte-Hélène, khi ông ngắm nhìn Đại Dương từ tảng đá đơn độc, trong lúc những ý nghĩ lớn lao náo động trong lồng ngực ông [Napoléon, nếu có ai còn chưa đoán ra]. Quả thật, còn có gì mà nó không kể nữa, mặt trăng! Cuộc sống của thế giới là một câu chuyện đối với nó. Tối nay tôi không nhìn thấy bạn rồi, người bạn thân của tôi! tôi không thể vẽ tranh khi nhớ lại chuyến thăm của bạn!… và đúng vào lúc, đầy mơ mộng, tôi ngẩng đầu về phía các đám mây, thì có ánh sáng; đó là một tia tỏa xuống từ trăng, nhưng nó lại tắt ngấm, những đám mây đen bay qua, nhưng dẫu sao đó cũng là một lời chào, một lời chào buổi tối của tình bạn, mà trăng gửi đến cho tôi.




TỐI THỨ CHÍN

Bầu không khí lại trở nên trong vắt; nhiều buổi tối đã trôi qua, trăng đang ở kỳ khuyết; tôi lại nảy ra ý tưởng về một bản phác họa… Hãy nghe những gì trăng kể.

“Tôi dõi theo con chim vùng cực và con cá voi đang bơi về phía bờ phía Đông của Greenland; những ngọn núi trần trụi phủ băng và các đám mây bao bọc một thung lũng nơi liễu và các bụi việt quất um tùm; cây liệt nữ thơm ngát tỏa mùi dịu ngọt; ánh sáng của tôi mờ, cái đĩa tròn của tôi thì nhợt giống như một chiếc lá hoa súng trôi dạt theo dòng nước suốt nhiều tuần, bị giật rời ra khỏi cành của nó; quầng cực quang cháy bỏng, vòng tròn của nó thì rộng và những tia sáng tỏa ra từ đó chạy hết cả bầu trời giống như các cột lửa xoáy lốc, chơi nghịch với những phản chiếu màu lục và màu đỏ của chúng. Dân cư các vùng lân cận tập hợp lại để nhảy múa và vui chơi, nhưng họ chẳng hề bày tỏ một chút ngạc nhiên nào trước vẻ rực rỡ đó, mà họ đã quá quen thuộc: “Cầu cho các hồn ma được chơi bóng bằng đầu của con moóc!” họ nghĩ, theo tín ngưỡng của họ, và các ý nghĩ của họ, ánh mắt họ hòa lẫn hoàn toàn vào lời hát và điệu nhảy. Ở chính giữa vòng tròn, một người Greenland, không mặc áo choàng lông, trống cầm tay, gầm lên một khúc ca có chủ đề là đi săn hải cẩu, và dàn đồng ca đáp lời bằng những “Eia, eia, ah!” và các ca sĩ mặc áo lông màu trắng nhảy tưng tưng, vừa nhảy vừa di chuyển theo vòng tròn, cứ như thể đó là một vũ hội của lũ gấu; mắt họ và đầu của họ tạo ra các chuyển động táo bạo nhất. Chính vào lúc ấy phiên tòa bắt đầu. Những ai có xích mích đứng ra, và người bị xúc phạm ứng tác một bài nói trong đó anh ta trình bày các lầm lỗi của đối thủ, bằng một cái giọng đầy khiêu khích và nhạo báng, nhưng vẫn tiếp tục nhảy theo tiếng trống, còn bị cáo thì đáp lại cũng với sự khéo léo tương đương, trong lúc những người tham dự cười vang và cho biết ý kiến của mình. Một tiếng động lớn vang lên từ những ngọn núi, các sông băng vỡ ra, những khối lớn chuyển động biến thành bụi trong cuộc rơi của chúng, đó là một đêm mùa hè Greenland tuyệt diệu. Cách đó vài trăm bước chân, dưới túp lều làm bằng da mở rộng cửa, một người ốm đang nằm, cuộc sống vẫn còn chảy qua dòng máu nóng của người đó, nhưng dẫu có thế nào thì ông cũng sắp chết, bởi vì ông tin và tất cả những ai vây quanh ông cũng đều tin, chính vì thế vợ ông đã bắt đầu khâu tấm chăn bằng da bọc lấy ông, để không phải chạm tay vào người chết sau đó, và bà hỏi: “Ông có muốn được chôn trên núi, trong tuyết cứng? Tôi sẽ trang trí nơi đó bằng thuyền kayak và những mũi tên của ông! Thầy pháp Angelokken sẽ nhảy múa trên đó! hay ông muốn được ném ra ngoài biển?… - Ra ngoài biển! ông thì thầm, gật đầu, với một nụ cười sầu muộn. - Biển đúng là một túp lều mùa hè êm ái! người vợ nói. Hàng nghìn con hải cẩu nhảy nhót ở đó, con moóc sẽ nằm ngủ dưới chân ông, và săn bắn ở đó thì chắc chắn và vui tươi!” Và lũ trẻ con vừa hú hét vừa giật tấm da chăng ở cửa sổ, để người ta có thể đưa người hấp hối ra biển, biển đang trào sóng, thứ từng cung cấp thực phẩm cho ông suốt cả cuộc đời và giờ đây sẽ tạo cho ông chỗ nghỉ ngơi trong cái chết. Các tảng băng trôi đổi thay đêm ngày là nấm mộ của ông. Con hải cẩu thiu thiu ngủ nằm ngang mẩu băng, con chim giông bão bay qua phía bên trên.”





TỐI THỨ MƯỜI

“Tôi từng biết một quý cô đã già, trăng nói, mỗi mùa đông bà ấy mặc một cái áo khoác bằng xa tanh màu vàng, lúc nào cũng mới, đó là thứ mốt duy nhất mà bà ấy chịu theo; mỗi mùa hè, bà lại đội cùng một cái mũ rơm và, tôi nghĩ, mặc cùng cái váy màu xanh sẫm. Bà chỉ hay đến thăm một bà bạn già, sống ở bên kia đường; nhưng những năm gần đây, bà không làm việc ấy nữa, bởi vì bà bạn đã chết. Cô độc, quý cô già nua của tôi chộn rộn tay chân đằng sau cửa sổ, nơi, suốt mùa hè, có những bông hoa đẹp và, mùa đông, một cây cải xoong tuyệt diệu. Những tháng gần đây, bà không còn xuất hiện ở cửa sổ, nhưng bà vẫn còn sống, tôi biết rõ, bởi vì tôi vẫn chưa nhìn thấy bà ấy thực hiện chuyến đi lớn mà họ từng vẫn hay nhắc đến, bà cùng bà bạn của bà. “Ừ thì, hồi ấy bà nói, ngày nào tôi chết, tôi sẽ được đi nhiều hơn so với trong suốt đời tôi; cách đây sáu dặm, có hầm mộ gia đình, người ta sẽ đưa tôi đến đó, chính tại đó tôi sẽ ngủ gần các thành viên khác trong nhà tôi.” Đêm qua, một cỗ xe dừng lại trước ngôi nhà, người ta khiêng từ trên đó xuống một cỗ quan tài, khi ấy tôi biết là bà đã chết; họ chèn rơm vào quanh quan tài rồi ra đi. Bà ấy nằm đó ngủ êm đềm, quý cô già nua, suốt năm vừa qua bà không hề ra khỏi nhà; và cỗ xe đi ra khỏi thành phố, rất nhanh, như thể đó là một cuộc dao chơi đầy hân hoan. Đến đường cái quan, nó còn phóng nhanh hơn nữa; người đánh xe thỉnh thoảng liếc nhìn về phía đằng sau, tôi nghĩ anh ta sợ nhìn thấy bà ngồi đó trong cái áo khoác bằng xa tanh màu vàng, ở đó, đằng sau quan tài; chính vì thế mà anh ta quất roi vô hạn độ lên lũ ngựa, giật dây cương dữ đến mức hàm chúng sùi bọt; chúng còn trẻ và rất hăng, một con thỏ băng ngang đường và chúng cuống cuồng lên. Quý cô già nua tĩnh tại, người, trong suốt nhiều năm, không làm gì khác ngoài loay hoay trong nhà mình, giờ đây đang phóng như bay, đã chết, trên đường cái quan vắng hoe. Cỗ quan tài, được bọc bên trong các bó rơm, bị lật úp và rơi xuống đường, trong khi lũ ngựa, người xà ích và cỗ xe lao đi như tên bắn. Con chim chiền chiện bay vọt lên, vừa bay vừa hót trên cánh đồng, nhí nhách bài ca buổi sáng của nó bên trên cỗ quan tài, đậu xuống đó và lấy mỏ mổ vào đám rơm, như thể nó muốn xé toang thứ vỏ bọc. Chim chiền chiện lại lao lên trời và hót, và tôi rút lui đằng sau những đám mây đỏ của buổi sáng.”




TỐI THỨ MƯỜI MỘT

“Đó là một đám cưới! trăng kể. Người ta hát rất nhiều bài, người ta chúc tụng nhau, mọi thứ đều tráng lệ và rực rỡ; khách khứa đi khỏi, đã quá nửa đêm; các bà mẹ ôm hôn cô dâu chú rể; tôi nhìn thấy chỉ còn lại họ, nhưng những tấm rèm gần như đã được kéo hoàn toàn; đèn rọi sáng căn phòng êm ái. “Chúa lòng lành, họ đi cả rồi!” anh nói, hôn tay và hôn lên môi vợ; cô mỉm cười và bật khóc, nép vào ngực anh, người run rẩy, giống như bông hoa sen nương tựa lên dòng nước chảy; rồi họ nói với nhau những lời dịu dàng, hết sức ngọt ngào. “Ngủ ngon nhé!” cô kêu lên và kéo rèm cửa sổ ra. “Sao mà trăng sáng thế! cô nói. Nhìn xem nó êm đềm chưa này, sáng chưa này!” rồi cô tắt đèn, bóng tối trùm xuống căn phòng êm ái, và thế nhưng, ánh sáng của tôi chiếu rọi, cũng như cặp mắt chú rể bừng sáng… Nét duyên dáng của người phụ nữ, hãy hôn lên cây đàn hạc của nhà thơ, khi chàng hát về những điều bí ẩn của cuộc đời!”





TỐI THỨ MƯỜI HAI

“Tôi muốn tặng cho bạn một hình ảnh về Pompeii, trăng nói, tôi ở vùng ngoại ô, trên phố của những ngôi mộ, như người ta vẫn hay gọi, tại đó có các công trình đẹp, nơi đám thanh niên vui vẻ hết mức, hoa hồng cài trước trán, từng khiêu vũ với các chị em Laïs [nghĩa là các nàng kỹ nữ thời cổ đại Hy Lạp]; giờ đây, nơi ấy chỉ còn lại sự im lặng chết chóc; những người lính Đức đánh thuê cho người Napoli canh gác và chơi bài, chơi đổ xúc xắc; một nhóm người ngoại quốc từ bên kia núi tiến vào thành phố, có lính canh đi kèm; trong luồng ánh sáng chói lọi mà tôi chiếu xuống, họ muốn nhìn ngắm thành phố hồi sinh từ nấm mộ, và tôi chỉ cho họ những vết xe ngựa trên các phố lấm đầy dung nham, tôi chỉ cho họ những cái tên trên các cánh cửa và những biển hiệu vẫn còn treo ở đó; họ nhìn, tại những cái sân nhỏ, bồn phun nước trang trí vỏ sò đủ loại; nhưng không tia nước nào phun lên, không tiếng hát nào vang ra từ những căn phòng treo đầy tranh, nơi lũ chó bằng đồng nằm canh ngoài cửa. Đó là thành phố của người chết, chỉ độc Vesuvius còn cất lên vang dội trong tiếng sấm ầm ào bài ca vĩnh hằng của nó: mỗi đợt phun trào mới, người ta lại thấy đó như thể là một khổ thơ độc lập. Chúng tôi đi tới đền thờ Venus, toàn bộ làm bằng đá hoa cương, màu trắng nhức nhối, ban thờ chính nằm phía trước cầu thang lớn và những cây liễu rủ tươi tắn đã mọc lên giữa các cây cột; không khí trong suốt, xanh lơ, và về phía hậu cảnh, là núi Vesuvius đen như than, từ đó lửa phụt lên, giống như một gốc thông; đám mây khói sáng bừng trông giống ngọn thông, trong im lìm của đêm, nhưng đỏ màu của máu. Trong số các thành viên của nhóm người, có một nàng ca sĩ, một ca sĩ đích thực, vĩ đại, tôi từng trông thấy nàng được hoan hô nhiệt liệt tại những chốn danh giá nhất của châu Âu. Khi tiến lại gần nhà hát bi kịch, tất cả họ đều ngồi lên các bậc thính đài bằng đá, một khoảng nhỏ của nơi này lại có người, giống như cách đó hàng nghìn năm. Cảnh tượng nơi ấy vẫn giống như trước đây, với các cánh gà xây tường, cùng hai vòm cong phía sau, xuyên qua đó người ta nhìn thấy cùng sự bài trí của thời đó, chính là tự nhiên: những ngọn núi giữa Sorrente và Amalfi. Nàng ca sĩ, để cho vui, leo lên sân khấu cổ đại và hát; nơi này truyền cảm hứng cho nàng, tôi không thể tự ngăn mình nghĩ đến con ngựa hoang xứ Ả rập, những lúc nó hí lên, rung bờm và lao đi hết tốc lực, cũng có cùng sự nhẹ nhõm và vững chãi như thế; tôi không thể tự ngăn mình nghĩ đến người mẹ bị giằng xé trong nỗi đau dưới chân cây thánh giá đồi Golgotha, cũng là cùng nỗi đau được cảm nhận sâu xa ấy. Và khắp xung quanh, cũng như cách đây nhiều nghìn năm, là các biểu hiện của niềm vui và những tiếng vỗ tay lại ào lên: “Sao mà cô ấy may mắn! với những tài năng thiên bẩm!” tất cả họ đều nói, trong một cơn hứng khởi của niềm vui. Ba phút sau, khung cảnh lại trống vắng, tất cả họ đều đã đi khỏi, không còn nghe thấy chút âm nhạc nào nữa; nhóm người đã đi, nhưng đống đổ nát thì còn ở lại, không chút thay đổi, cũng như vẫn sẽ vậy trong nhiều thế kỷ nữa, và lúc đó, chẳng ai sẽ còn biết gì về những tiếng vỗ tay hoan hô của hôm nay, về nàng ca sĩ xinh đẹp, về âm nhạc mà nàng đã khiến vang lên cũng như nụ cười của nàng, mọi thứ sẽ bị lãng quên và trôi qua; ngay cả với tôi, giây phút này cũng sẽ là một kỷ niệm biến mất.”




TỐI THỨ MƯỜI BA

“Tôi đã nhìn qua cửa sổ của một nhà biên tập, trăng nói, đâu đó tại nước Đức. Ở đó có những thứ đồ đạc thật tốt, rất nhiều sách và một đống báo chồng chất lộn xộn. Nhiều thanh niên đang ở đó; bản thân nhà biên tập thì ngồi trước bàn, ông đang viết bài phê bình về hai cuốn sách nhỏ, cả hai đều do những tác giả trẻ viết ra!… “Một người đã gửi cho tôi, ông nói, tôi còn chưa đọc, nhưng cuốn sách được trình bày đẹp quá, anh nói gì về nội dung?…” - “Ồ! một người đáp - đó là một nhà thơ đích thực đấy - rất hay, có những đoạn rườm, nhưng Chúa ơi! đó là một chàng thanh niên, hẳn các câu thơ vẫn còn có thể hay hơn! Các ý tưởng thì lành mạnh, chắc chắn đó là những ý tưởng thông thường! nhưng nói gì đây? Chẳng phải lúc nào người ta cũng tìm được cái gì đó mới mẻ. Ông có thể nói những điều tốt đẹp về anh ta, tôi không có gì chống lại điều đó! tuy nhiên, thành thực mà nói, tôi không nghĩ anh ta có bao giờ trở thành được một nhà thơ lớn. Nhưng anh ta đọc sách nhiều, đó là một nhà Đông phương học đáng chú ý, sự đánh giá của anh ta rất chuẩn xác. Chính anh ta đã viết một bài rất hay về tác phẩm Những phăng te zi về cuộc sống nơi tổ ấm của tôi đấy. Cần phải rộng lượng với một chàng thanh niên.

“- Nhưng đó chỉ là một con lừa! một ông khác đang có mặt trong phòng lên tiếng. Trong thơ ca chẳng gì còn có thể tồi tệ hơn so với sự tầm thường được nữa, và anh ta sẽ chẳng bao giờ lên cao hơn được!

“- Anh chàng tội nghiệp! người thứ ba nói, cứ nghĩ bà dì của anh ta hài lòng về anh ta đến mức nào. Chính bà ấy, thưa ông, là người đã thu thập được rất nhiều tiền quyên góp để in bản dịch mới nhất của ông…

“- Bà già trung hậu! đúng thế thật, tôi đã viết một bài ngắn về cuốn sách. Một tài năng không thể chối cãi! một thiên bẩm cần chào đón! Một bông hoa trong khu vườn thơ ca; trình bày rất đẹp, v.v… Nhưng cuốn sách kia! chắc hẳn anh ta muốn tôi mua nó!… Tôi được biết người ta khen ngợi lắm! Anh ta có thiên tài! các ông không nghĩ thế à?

“- Có chứ, đó là điều tất cả mọi người đều khẳng định, nhà thơ đáp, nhưng có một cái gì đó thật hoang dã! Đặc biệt, cách ngắt câu thì tuyệt đỉnh.

“- Chắc chắn sẽ là tốt cho anh ta nếu bị cánh phê bình riềng mẻ, bị trái ý một chút ít, nếu không, anh ta sẽ tự coi trọng mình quá đáng cho mà xem.

“- Nhưng vậy là không công bằng! người thứ tư kêu lên. Ta đừng sa đà vào những khiếm khuyết nhỏ chứ, mà hãy tận hưởng các khía cạnh tốt đẹp, mà chúng thì có đến là nhiều! dẫu sao thì anh ta cũng vượt qua tất cả!

“- Cầu trời che chở! nếu thực sự anh ta có thiên tài, thì chắc chắn anh ta sẽ có thể chịu đựng được một sự chê bai nghiêm khắc! đã có đủ người ca ngợi anh ta ở chỗ riêng tư rồi! nhất là chúng ta không được khiến anh ta bị quay cuồng đầu óc!

“- Một tài năng không thể chối cãi! nhà biên tập viết. Những điểm lơ là vẫn thường hay thấy; anh ta cũng có khả năng viết những câu thơ bất hạnh, như có thể thấy ở trang 25, nơi có hai chỗ ngắt. Nên nghiên cứu thêm các nhà thơ cổ điển, v.v…” Tôi đi khỏi đó, trăng nói, và tôi liếc vào qua cửa sổ nhà của bà dì, nhà thơ được vinh danh đang ở trong, ngoan ngoãn, được tất tật khách khứa khen ngợi, và anh ta rất sung sướng.

“Tôi tìm nhà thơ kia, con người hoang dại; anh ta cũng đang ở cùng đông người tại nhà một người bảo trợ, nơi người ta đang nói đến cuốn sách của nhà thơ kia… “Tôi cũng sẽ đọc cuốn sách của anh! vị mạnh thường quân nói, nhưng, trung thực mà nói, anh cũng biết tôi không bao giờ nói với anh về những điều mà tôi nghĩ, tôi không chờ đợi quá nhiều đâu. Anh quá hoang dại đối với tôi! quá huyền ảo… nhưng tôi công nhận rằng với tư cách con người, anh hết sức đáng tôn trọng!” Một cô thiếu nữ ngồi trong góc phòng, đọc một cuốn sách:

Thiên tài và vinh quang rồi tắt ngấm
Nhưng tài năng hằng ngày sẽ bù đắp
Một câu chuyện quá cũ
Và thế nhưng chẳng lúc nào hết mới




TỐI THỨ MƯỜI BỐN

Trăng kể: “Có hai ngôi nhà lợp mái rạ của nông dân nằm trên con đường dẫn vào rừng; cửa thì thấp, các cửa sổ lệch lẹo hết cả, nhưng khắp xung quanh, mọc lên đầy táo gai và hoàng liên, mái nhà thì phủ rêu, lan đầy hoa vàng và tầm gửi; trong khu vườn nhỏ chỉ có cải xoăn và khoai tây, nhưng ở bờ giậu một bụi cơm cháy nở hoa và bên dưới đó, có một cô bé con; cô bé dõi cặp mắt nâu chăm chăm nhìn cây sồi già mọc giữa các ngôi nhà. Cái cây này có thân cao, khô quắt, bị cưa bớt đi phía trên, tại đó cò làm tổ; nó ở trên cao ấy, kêu quẹc quẹc. Một thằng bé bước ra, đến bên cạnh đứa bé gái; chúng là anh trai và em gái. “Em nhìn gì thế? thằng bé hỏi… - Em đang quan sát con cò! con bé đáp. Bà hàng xóm đã nói với em rằng tối nay nó sẽ mang tới cho chúng ta một thằng em trai hoặc một đứa em gái; giờ, em đang tập trung để nhìn xem chừng nào chúng tới…! - Cò không mang ai đến đâu! thằng bé nói. Em có thể chắc chắn rằng bà hàng xóm cũng đã kể điều đó với anh, nhưng bà ấy vừa kể vừa cười, thế nên anh đã hỏi bà ấy có dám lấy Chúa ra để thề không!… Bà ấy đã không dám, thế nên anh biết mấy câu chuyện về lũ cò đó chỉ là do người ta bịa ra để nói với bọn trẻ con chúng ta thôi… - Nhưng nếu vậy đứa bé có thể từ đâu tới? con bé hỏi. - Là do Đức Chúa của chúng ta mang đến, thằng bé đáp. Chúa để nó bên dưới quần áo của Người, nhưng không ai có thể nhìn thấy Chúa, cho nên chúng ta không thể nhìn thấy chính là Người mang nó đến…!” Cùng lúc đó, các cành của bụi cơm cháy bị gió thổi rung rinh, lũ trẻ chắp tay lại và nhìn nhau: chắc chắn đó là Chúa, đang mang đứa bé tới… Và chúng cầm lấy tay nhau: cửa nhà bật mở, bà hàng xóm hiện ra: “Vào đi, bà ta nói, nhìn xem cò đã mang gì đến này; một đứa em trai…” Và lũ trẻ nhất trí; chúng biết rõ là nó đã tới.”





TỐI THỨ MƯỜI LĂM

“Tôi đã lướt qua phía bên trên truông Luneborg, trăng nói, có một cái lán nhỏ nằm trơ trọi bên lề đường; vài bụi cây trụi lá kề sát bên, và một con họa mi bay lạc đang hót ở đó. Chắc chắn là nó sắp chết, trong cái lạnh của màn đêm; đó là bài ca thiên nga của nó, mà tôi nghe thấy. Ngày bắt đầu rạng, một đoàn người xuất hiện, các gia đình nông dân, những người di cư muốn đến Bremen hoặc Hamburg, rồi sau đó đi tàu thủy sang Mỹ, nơi chắc hẳn hạnh phúc sẽ bừng nở, hạnh phúc mà họ mơ đến. Phụ nữ cõng trên lưng những đứa con nhỏ nhất, bọn lớn hơn thì nhảy nhót quanh họ; một con ngựa thảm hại kéo cái xe trên đó chất vài thứ đồ dùng. Gió lạnh thổi buốt; chính vì thế con bé con nép sát vào mẹ nó, bà ngẩng nhìn lên cái đĩa tròn của tôi đang sắp lặn, và bà nghĩ đến nỗi khốn đốn nhọc nhằn giáng xuống họ, bà nghĩ đến các khoản thuế nặng nề, mà họ không sao trả nổi. Bà nghĩ cùng một điều với cả đoàn người; bởi vậy mà rạng đông ánh hồng trùm ánh sáng lên giống như ánh sáng của Tin Mừng, nó nhắc đến một mặt trời của hạnh phúc sẽ lại mọc; họ nghe tiếng con họa mi hấp hối hót, đó không phải một nhà tiên tri giả, mà là một kẻ thông báo về hạnh phúc. Gió rít mạnh, họ không hiểu bài ca của nó: “Hãy băng qua biển an toàn! Chuyến đi dài ấy, ngươi đã trả giá bằng mọi thứ gì mà ngươi có; ngươi sẽ đặt chân lên vùng đất Canaan của ngươi, nghèo khó và trần trụi. Ngươi sẽ phải tự bán thân, cũng như vợ ngươi, các con ngươi. Thế nhưng, các ngươi sẽ không phải chịu đau khổ lâu! Đằng sau phiến lá rộng thơm hương, nữ thần cái chết đã đợi sẵn; nụ hôn chào mừng của nàng ấy sẽ gây cho ngươi một cơn sốt chết người ở trong máu! đi đi, hãy đi qua những sóng nước ào ạt!…” Và đoàn người lắng nghe, đầy vui tươi, khúc ca của chim họa mi, bởi vì nó hứa hẹn hạnh phúc. Những đám mây nhẹ đã bừng lên ánh sáng của ngày; những người nông dân băng ngang truông rộng để tới nhà thờ; phụ nữ thì vận đồ đen, khăn trắng quấn quanh đầu, trông thật giống các nhân vật bước ra từ những bức tranh cổ treo trong nhà thờ; khắp xung quanh, chỉ có độc khung cảnh chết chóc rộng lớn, thạch thảo màu nâu khô kiệt, những khoảng cỏ u tối, cháy sém, giữa các dải cát trắng. Những người phụ nữ cầm theo tập thánh thi và họ đi tới nhà thờ. Ôi! hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện cho những người đang di cư về phía các nấm mồ, ở phía bên kia những bọt nước ào ạt!”





TỐI THỨ MƯỜI SÁU

“Tôi biết một Polichinelle, trăng nói, công chúng sướng mê tơi khi xem anh ta biểu diễn; cử động nào của anh ta cũng hài hước và làm cả khán phòng phá lên cười, và thế nhưng, chẳng gì trong đó được tính toán, chính đó là điểm đặc biệt. Khi anh ta còn bé, hay đánh nhau với lũ trẻ khác, anh đã là một Polichinelle, hồi ấy đã vậy, tự nhiên đã tạo ra anh ta như thế, nó đã trao cho anh ta một khối lớn trên lưng, thêm một cục trước ngực; còn bên trong, ngược lại, ở phương diện tinh thần, anh ta được trang bị rất dồi dào: chẳng ai có sự nhạy cảm sâu sắc hơn, sự mềm dẻo về tinh thần lớn hơn so với anh ta. Nhà hát là thế giới lý tưởng của anh ta. Nếu có thân hình cân đối, thanh mảnh, hẳn anh ta sẽ trở thành diễn viên bi kịch vĩ đại nhất, trên bất kỳ sân khấu nào; sự anh hùng, sự kỳ vĩ chất đầy trong tâm hồn anh ta, và thế nhưng, anh ta đã phải trở thành Polichinelle. Bản thân nỗi đau của anh, sự sầu muộn của anh lại càng làm tăng thêm vẻ khô kiệt hài hước của khuôn mặt góc cạnh và gây cười cho một công chúng đông đảo, họ vỗ tay hoan hô diễn viên ưa thích nhất của họ. Cô Columbine xinh đẹp của anh dễ thương và tốt bụng đối với anh, nhưng dẫu sao thì vẫn thích lấy Arlequin làm chồng hơn; mà quả thật, hẳn sẽ phải buồn cười lắm nếu “Giai Nhân và Quái Vật” kết hợp với nhau. Khi Polichinelle cảm thấy nản chí hơn cả, chỉ cô mới có thể làm cho anh mỉm cười, thậm chí là cười phá lên; ban đầu cô cùng sầu muộn với anh, rồi cô trở nên bình tĩnh hơn một chút, nhưng rồi cuối cùng, cô nói đùa không ngừng. “Em biết chuyện gì không ổn rồi! cô nói, ừ thì, là bởi tình yêu đó! - Phải, bởi tình yêu đó!…” và anh không thể nhịn cười. “Tôi và tình yêu! anh kêu lên, sẽ hay ho lắm! công chúng sẽ vỗ tay hoan hô nhiệt liệt!… - Đó là tình yêu” cô nhất quyết, nói thêm với giọng bi thương và hài hước: “Chính em là người mà anh yêu!…” Người ta hoàn toàn có thể nói những điều như thế, ở nơi nào không có tình yêu! và Polichinelle nhảy dựng lên, tha hồ cười; giờ đây, nỗi sầu muộn đã tan biến. Và thế nhưng, cô đã nói sự thật, anh yêu cô, yêu cô rất nhiều, giống như anh yêu sự trác tuyệt và kỳ vĩ trong nghệ thuật. Cái ngày cô lấy chồng, anh là nhân vật vui tươi nhất, nhưng, đêm đến, anh khóc; nếu công chúng được nhìn thấy khuôn mặt biến dạng của anh, hẳn họ sẽ vỗ tay hoan hô… Những ngày này, Columbine đã chết; ngày đưa tang, Arlequin được miễn không phải lên sân khấu; bởi vì anh ta đã góa vợ và đang đau khổ. Ông giám đốc buộc phải cho diễn một cái gì đó thật buồn cười để cô nàng Columbine xinh đẹp và Arlequin khéo léo không khiến khán giả thấy nhớ nhung quá đáng; vậy nên Polichinelle phải gây cười thật nhiều; anh khiêu vũ, anh nhảy vọt lên, trái tim mang nặng nỗi tuyệt vọng, và người ta hoan hô, người ta thể hiện một niềm vui vô bờ bến: “Bravo! bravissimo!” Người ta gọi Polichinelle quay trở lại; ồ! anh thật là vô giá… Đêm hôm qua, sau buổi diễn, con quái vật nhỏ một mình rời khỏi thành phố, và đi đến nghĩa địa đơn côi. Vòng hoa đã tàn úa trên mộ Columbine; anh ngồi xuống đó; hẳn người ta có thể vẽ một bức tranh; má tì lên bàn tay, hai mắt nhìn về phía tôi; trông cứ như một tòa công trình, một Pilichinelle trên nấm mộ, kỳ lạ và hài hước. Nếu công chúng được nhìn thấy diễn viên ưa thích của họ, hẳn họ sẽ vỗ tay: Bravo, Polichinelle, bravo, bravissimo!”




TỐI THỨ MƯỜI BẢY

Hãy nghe những gì mà trăng kể: “Tôi đã thấy chàng học viên trở thành sĩ quan và lần đầu tiên mặc lên người bộ quân phục rực rỡ, tôi đã thấy cô gái trẻ tới dự vũ hội trong trang phục tuyệt trần, người vợ trẻ của hoàng tử, sung sướng trong bộ quần áo dự tiệc, nhưng niềm hạnh phúc của bất kỳ ai cũng chẳng thể nào so sánh được với hạnh phúc mà tôi đã thấy tối nay ở một đứa trẻ, một đứa bé gái bốn tuổi; người ta tặng cho nó một cái váy màu xanh mới toanh, một cái mũ màu hồng cũng mới toanh; nó vừa mang lên người những thứ đồ đẹp đẽ ấy, và tất cả mọi người đòi phải thắp đèn lên, bởi vì tia sáng trăng lọt qua cửa sổ quá yếu, phải có ánh sáng mạnh hơn thật nhiều. Cô bé ở đó, cứng đờ như một con búp bê, cô khuỳnh hai tay thật xa khỏi cái váy, và các ngón tay thì xòe ra, ồ! sao mà đôi mắt cô và toàn bộ khuôn mặt cô rạng ngời hạnh phúc. “Ngày mai, con sẽ đi ra phố!” mẹ cô nói, và cô bé ngước mắt lên để nhìn cái mũ rồi lại cụp mắt xuống để nhìn cái váy và cô bé mỉm cười, đầy sung sướng: “Mẹ, cô nói, lũ chó sẽ có thể nghĩ gì nhỉ, khi thấy con với những thứ đồ đẹp như thế này!””





TỐI THỨ MƯỜI TÁM

“Tôi từng kể cho bạn, trăng nói, về Pompeii, cái xác chết của thành phố ấy, được đặt ngang hàng với các thành phố sống, tôi còn biết một thành phố khác, lạ hơn nhiều, đó không phải một xác chết, mà là một bóng ma thành phố… Mọi nơi nào tia nước rơi xuống bồn đá hoa cương kêu tí tách, tôi đều có cảm giác mình đang nghe kể câu chuyện về thành phố bay lơ lửng. Ừ thì! chính tia nước kể những gì liên quan đến nó! Những đợt sóng vỗ bờ hát về nó! Phía trên mặt biển, thường xuyên lơ lửng một lớp sương mù, đó là tấm voan của bà góa: biển đã mất đi người chồng, lâu đài của nó và thành phố của nó giờ đây đã biến thành lăng mộ! Bạn có biết thành phố đó không? Chưa từng bao giờ nó nghe thấy tiếng bánh xe lăn hay tiếng vó ngựa gõ cộp cộp trên phố, cá bơi ở đó và, giống một bóng ma, thuyền gondola màu đen lướt đi trên làn nước lục. Tôi sẽ - trăng kể tiếp - chỉ cho bạn quảng trường lớn của thành phố, và bạn sẽ nghĩ mình đang ở trong thành phố của các câu chuyện cổ tích; cỏ mọc giữa các phiến đá, và vào lúc bình minh, hàng nghìn con bồ câu được thuần hóa bay quanh tòa tháp cao đơn độc. Về ba phía, các vòm tường vây quanh. Người Thổ ngậm ống tẩu dài bình thản ngồi đó, Người Hy Lạp trẻ tuổi và thật đẹp tựa lưng vào cây cột ngắm nhìn các chiến quả được dựng lên ở đó: những cột buồm cao, kỷ niệm về sức mạnh xưa cũ. Những lá cờ rủ xuống như một tấm voan tang tóc; một cô gái ngồi nghỉ ở đó, cô đã đặt xuống hai cái xô đựng đầy nước, đòn gánh mà cô dùng để gánh chúng đặt trên vai, cô dựa vào cột buồm chiến thắng. Đó không phải một tòa lâu đài của tiên, mà là một nhà thờ, những gì bạn đang nhìn thấy! các vòm tròn mạ vàng, những khối tròn bằng vàng, rải rác khắp nơi, bừng lên dưới ánh sáng của tôi; những con ngựa bằng đồng tuyệt đẹp, phía trên, từng có những chuyến đi giống con ngựa đồng trong truyện cổ tích, chúng đã tới đây, lại đi khỏi, rồi quay trở về. Bạn có thấy vẻ rực rỡ sặc sỡ trên bức tường và các ô kính không? Hẳn người ta có thể nói rằng vị thần đã chiều ý một đứa trẻ con bằng cách trang trí cho ngôi đền lạ thường này. Bạn có thấy con sư tử có cánh trên cây cột không? Vàng vẫn ánh lên, nhưng cặp cánh thì được gắn vào, con sư tử đã chết, bởi vì ông vua trị vì biển đã chết, những căn phòng lớn hoang vắng và nơi các bức tranh quý từng được treo, giờ đây là bức tường trần trụi ánh lên. Người ăn mày ngủ dưới vòm tường, chốn ấy xưa kia chỉ quý tộc cao cấp mới được đặt chân. Từ các giếng sâu - hoặc giả cũng có thể là từ nhà tù Chì gần cầu Than Thở [Venice]? - người ta nghe thấy vọng tới một tiếng thở dài, giống cái thời tiếng trống vẫn còn vang lên trên những thuyền gondola nhiều màu, khi chiếc nhẫn của cô dâu bay từ Bucentaure sang Adria, nữ hoàng biển. Adria, hãy náu mình vào trong sương mù! hãy để tấm voan người vợ góa phủ lên ngực, hãy dùng nó che lăng mộ chồng của nàng: Venice với các tòa nhà bằng đá hoa cương, ma quái!…”




TỐI THỨ MƯỜI CHÍN

“Tôi đã cúi nhìn xuống một nhà hát lớn, trăng nói. Trong phòng đông đặc khán giả; bởi vì có một diễn viên mới diễn buổi đầu tiên; tia sáng của tôi rọi xuống cửa sổ nhỏ trổ trên bức tường, một khuôn mặt trang điểm đậm tì trán vào ô kính: đó là nhân vật chính của buổi diễn. Bộ râu hiệp sĩ của anh ta xoăn lại trên cằm, nhưng mắt của người đàn ông thì đầy nước, bởi vì người ta đã huýt sáo la ó, và người ta làm thế là đúng. Anh chàng khốn khổ! nhưng người ta không thể chịu đựng người bất hạnh trong vương quốc của nghệ thuật. Anh ta có một sự nhạy cảm sâu sắc và yêu nghệ thuật một cách cuồng nhiệt, nhưng nghệ thuật thì lại chẳng yêu anh ta… Chuông đã kêu… can đảm và bạo dạn, đó là tính chất của vai diễn, nhân vật chính xuất hiện… anh phải xuất hiện trước một công chúng cười cợt anh… Khi vở kịch kết thúc, tôi nhìn thấy một người đàn ông quấn mình trong một cái áo choàng, kín đáo bước xuống cầu thang; đó là anh ta, chàng hiệp sĩ bị tàn phá của buổi tối; đám thợ phụ trách phông màn xì xầm với nhau; tôi theo kẻ thủ phạm về nhà anh ta, vào trong phòng ngủ của anh ta. Treo cổ tự sát là một cái chết xấu xí và chẳng phải bao giờ người ta cũng có sẵn thuốc độc. Tôi biết anh ta nghĩ đến cả hai cách. Tôi thấy anh ta nhìn khuôn mặt tái nhợt của mình trong gương, nhắm hờ mắt lại, để xem mình có thể đẹp đẽ khi đã biến thành xác chết hay không. Anh ta có thể vô cùng bất hạnh, ấy thế nhưng vẫn giữ một phong thái vô cùng kịch nghệ. Anh ta nghĩ đến cái chết, đến tự sát, tôi nghĩ anh ta khóc thương thân mình… anh ta khóc rất nhiều, và khi người ta đã khóc hết nước mắt ở trong người, thì người ta sẽ không tự tử. Cả một năm đã trôi qua kể từ ngày ấy. Họ diễn hài kịch, nhưng là tại một nhà hát nhỏ, đó là một đoàn kịch lưu động nghèo khổ; tôi lại nhìn thấy khuôn mặt quen, cặp má bôi phấn, bộ râu xoăn. Anh ta lại nhìn tôi, mỉm cười… và thế nhưng, anh ta đã bị huýt sáo la ó, chỉ mới một phút trước đó, bị huýt sáo tại một nhà hát thảm hại, bị huýt sáo bởi một công chúng thảm hại!… Tối hôm đó, một cỗ xe tang nghèo nàn rời cửa ô thành phố, không có lấy một người đi theo. Ai đó đã tự sát, chính là người anh hùng bôi mặt và bị huýt sáo la ó của chúng ta. Người xà ích đánh chiếc xe là người duy nhất đi cùng anh ta, không ai đi theo, không ai hết, trừ trăng. Trong một góc sát bức tường nghĩa địa, người ta chôn người tự sát, đám tầm ma sắp từ dưới đất trồi lên, người phu đào huyệt sẽ ném các cành gai xuống đó và lũ cỏ dại lan sang từ những ngôi mộ khác.”




TỐI THỨ HAI MƯƠI

“Tôi vừa từ Rome về, trăng nói, ở đó, giữa thành phố, trên một trong bảy ngọn đồi, có đống đổ nát của cung điện hoàng đế; cây sung hoang mọc lên giữa các khe tường và dùng thứ lá to lớn màu xanh sẫm của nó che đi sự trần trụi: giữa những đống lộn xộn, con lừa giẫm nát các hàng giậu nguyệt quế và đánh chén cây gai đã héo khô. Tại cái nơi từ đó những cánh đại bàng của Rome xưa kia bay vọt lên - chúng đã tới, đã thấy và đã chiến thắng - giờ đây người ta bước vào một ngôi nhà xập xệ nghèo khó giữa hai cây cột đá hoa cương gãy; nho rủ xuống giống một vòng hoa tang phía bên trên cái cửa sổ méo mó. Một bà già sống ở nơi đây cùng một đứa trẻ, cháu gái của bà, giờ đây họ ngự trị tại cung điện hoàng đế và họ chỉ cho người ngoại quốc các kho báu bị chôn vùi. Căn phòng tráng lệ đặt ngai vàng giờ đây chỉ còn lại một bức tường trần trụi, cây bách đen với cái bóng vươn dài của nó chỉ nơi từng có ngai hoàng đế. Một lớp đất rất dày hình thành trên sàn nhà vỡ, đứa bé, giờ đây là người sống trong cung điện, hay ngồi ở đó trên ghế khi những cái chuông buổi tối rung lên. Về phần cái ổ khóa của cánh cửa ngay gần đó, nó gọi là ban công của nó, từ đó có thể nhìn thấy một nửa Rome, cho đến tận vòm tròn to lớn của nhà thờ Saint-Peter. Tối hôm ấy, cũng như mọi khi, thật yên tĩnh, và phía dưới kia, được ánh sáng rọi chiếu, đứa bé gái xuất hiện. Trên đầu nó mang một cái bình đất nung hình dáng cổ xưa, đựng đầy nước, nó đi chân trần, cái váy ngắn và hai tay áo sơ mi rách rưới, tôi hôn lên hai bờ vai thanh mảnh và tròn trịa của đứa trẻ, đôi mắt đen và mái tóc nâu lấp lánh của nó; nó leo lên cầu thang của ngôi nhà, cầu thang dốc, làm từ các mẩu tường và từ một đoạn đầu cột bị gãy. Lũ thằn lằn sặc sỡ lao qua, sợ sệt, giữa hai chân nó, nhưng nó không sợ, nó đã giơ tay lên để bấm chuông cửa, một thanh sắt buộc vào một đoạn dây, đó là những gì còn lại từ chuông của cung điện hoàng đế. Nó dừng lại một lúc, nó nghĩ gì: có lẽ là đến Jesus Hài Đồng đẹp đẽ, vận đồ bạc và vàng, phía dưới kia trong nhà nguyện, nơi những ngọn đèn bằng bạc rọi sáng, nơi những đứa bạn nhỏ của nó hát thánh thi, nó cũng có biết. Tôi thì chẳng biết gì! nó lại có một cử động, và vấp chân, cái bình đất rơi từ trên đầu nó xuống, vỡ tan trên mặt sàn bằng đá hoa cương. Nó òa lên khóc, đứa bé gái xinh đẹp của cung điện hoàng đế khóc vì cái bình đất khốn khổ bị vỡ; nó ở đó, hai chân trần, và nó khóc, không dám kéo sợi dây, chuông cửa của cung điện hoàng đế.”




TỐI THỨ HAI MỐT

Trong vòng hơn hai tuần, trăng không sáng, giờ đây tôi lại thấy nó, nó tròn và rạng, phía bên trên các đám mây đang chầm chậm dâng lên; hãy nghe những gì mà trăng kể cho tôi. “Từ một trong những thành phố vùng Fezzan, tôi dõi theo đoàn người; trên sa mạc cát, tại một bình địa muối, sáng rực như mặt băng và chỉ đôi chỗ bị cát nhẹ phủ lên, họ dừng lại. Người già nhất, bầu nước treo ở thắt lưng, một cái túi đựng đầy bánh mì không lên men gần đầu của ông, dùng cây gậy vẽ lên mặt cát một hình vuông rồi viết vài từ của kinh Koran; cả đoàn người bước qua cái điểm thiêng này. Một lái buôn trẻ tuổi, một đứa con của mặt trời, tôi nhìn thấy điều đó trong cặp mắt anh ta, tôi nhìn thấy điều đó trong vẻ đẹp các đường nét trên người anh ta, tư lự cưỡi trên con ngựa trắng đầy nôn nóng của anh ta. Có lẽ anh nghĩ đến người vợ trẻ xinh đẹp? Cách đây mới hai ngày con lạc đà, chất đầy những tấm da và khăn san quý, chở nàng trên lưng, cô dâu trẻ tuổi rực rỡ, để đi khắp một vòng thành phố; tiếng trống và kèn túi vang lên, đám phụ nữ hát và khắp xung quanh con lạc đà, người ta nghe thấy những tiếng súng vui tươi, đó là chàng chú rể trẻ tuổi, anh bắn rất nhiều, tiếng đạn nổ rất lớn, thế mà giờ đây… giờ đây, anh đang băng qua sa mạc cùng đoàn người. Tôi đi theo họ suốt nhiều đêm, tôi thấy họ nghỉ lại gần những cái giếng, giữa các cây cọ gầy guộc; họ đâm dao vào ức con lạc đà gục xuống và nướng thịt trên đống lửa. Tia sáng của tôi làm dịu lại cát nóng bỏng, tia sáng của tôi chỉ cho họ thấy những khối đá đen, những hòn đảo chết giữa biển cát mênh mông. Họ không gặp phải các tộc người thù địch trên con đường không dấu vết, không cơn bão nào nổi lên, không cột cát nào đi qua, đầy hung hiểm, chồm lên đoàn người. Ở nhà, người vợ kiều diễm cầu nguyện cho chồng và cha. “Họ có chết không?” nàng hỏi hình bán nguyệt vàng rực của tôi. “Họ có chết không?” nàng hỏi đĩa tròn ngời sáng của tôi… Giờ đây, họ đã băng qua sa mạc, tối nay, họ ngồi dưới những cây cọ cao, nơi con sếu cánh dài đến cả một bộ bay vần vũ quanh họ; bồ nông nhìn họ từ trên các cành mimosa. Các bụi rậm ken dày bị giẫm đạp bởi những chân voi nặng nề, một toán người da đen từ một cái chợ đến, xa hơn về phía nội địa; các phụ nữ, với những núm đồng trên mái tóc đen và váy màu chàm, dắt đi những con bò chở nặng trên đó lũ trẻ con da đen trần truồng nằm ngủ. Một người mọi dắt theo một con sư tử nhỏ mà anh ta đã mua; họ tiến lại gần đoàn người; chàng lái buôn trẻ tuổi bất động, lặng im, anh nghĩ đến người vợ xinh đẹp, tại đất nước của người da đen anh mơ về bông hoa màu trắng tỏa hương của anh ở bên kia sa mạc; anh ngẩng đầu lên!…” Một đám mây lướt qua trước trăng rồi thêm một đám mây nữa. Buổi tối hôm đó tôi đã không nghe được nhiều hơn.




TỐI THỨ HĂM HAI

“Tôi đã nhìn thấy một đứa bé gái khóc, trăng nói. Nó khóc vì sự độc ác của thế giới. Người ta đã tặng cho nó con búp bê đẹp nhất, ồ! đó là một con búp bê vô cùng xinh xẻo và tinh tế, nó không hề được tạo ra cho những buồn đau của cõi đời này. Nhưng mấy thằng anh của con bé, bọn nhóc lớn, đã giật lấy con búp bê, đặt nó lên tít trên cao một cái cây mọc trong vườn, rồi chạy biến đi mất. Con bé không thể với tới búp bê, hoàn toàn không thể giúp nó xuống, và chính vì thế mà nó khóc; chắc chắn con búp bê cũng khóc, nó giơ hai cánh tay giữa đám cành cây màu lục và có vẻ rất bất hạnh. Quả thật, đó chính là nỗi sầu muộn của thế giới, như mẹ nó vẫn hay nói. Ôi, con búp bê khốn khổ! Trời bắt đầu tối, đêm sắp buông! nó sẽ phải một mình mắc lại trên cây suốt đêm ư? Không, trái tim của con bé không thể chịu nổi điều đó. “Tôi sẽ ở lại đây với bạn!” nó nói, dẫu nó hoàn toàn chẳng hề can đảm chút nào; nó nghĩ đã nhìn thấy rất rõ đám yêu tinh nhỏ, đội những cái mũ bon nê cao nhọn hoắt, hiện ra giữa các bụi rậm, và về phía dưới, nơi con đường u tối, nhảy múa những bóng ma to lớn; chúng mỗi lúc một tiến lại gần hơn, chìa tay về phía cái cây có con búp bê, chúng cười, đưa tay chỉ chỏ. A! sao mà con bé sợ thế! “Nhưng khi mà người ta không phạm tội lỗi nào, nó nghĩ, cái ác sẽ chẳng thể làm gì được ta! mình có phạm tội lỗi không?” Và nó suy nghĩ. “À, mà có! nó nói. Mình đã cười con vịt khốn khổ có lớp da màu đỏ ở chân, nó đi khập khiễng trông đến là buồn cười, chính vì thế mà mình đã cười, nhưng cười các con thú là một tội lỗi!” Và nó ngẩng đầu lên nhìn con búp bê: “Bạn có cười các con thú không?” nó hỏi, và dường như con búp bê lắc đầu.”





TỐI THỨ HĂM BA

“Tôi đã nhìn vùng núi Tyrol từ trên cao, trăng nói, tôi làm cho những cây thông u tối vươn bóng của chúng, thật rõ, xuống các tảng đá. Tôi quan sát thánh Christopher với Jesus Hài Đồng trên vai, đúng như họ hay được vẽ trên các bức tường nhà, to lớn, suốt từ dưới chân tường lên đến mái; thánh Florian thì trút nước xuống ngôi nhà cháy, và Đức Ki-tô người đầy máu bị treo lên những thập tự lớn cắm dọc con đường. Đó là các hình ảnh cũ kỹ đối với thế hệ mới, nhưng về phần những gì liên quan đến tôi, tôi đã nhìn thấy khi người ta dựng chúng lên, tôi đã thấy chúng tiếp nối nhau. Trên cao vách núi, giống như một tổ chim én, có một tu viện dành cho nữ tu hẻo lánh, hai xơ đang ở trên tháp cao để rung chuông; họ còn trẻ, và bởi vậy ánh mắt họ bay qua những ngọn núi, về phía thế giới. Một cỗ xe ngựa trạm đang lăn bánh phía dưới, trên đường cái quan, tiếng tù và của người phu vang lên và hai nữ tu khốn khổ nhìn chằm chằm xuống đó, cùng nghĩ đến một điều; trong mắt cô gái trẻ hơn có một giọt nước… Và tiếng tù và mỗi lúc một yếu dần, chuông của tu viện nuốt nốt những âm thanh hấp hối của nó…”




TỐI THỨ HĂM TƯ

Hãy nghe những gì mà trăng kể: “Cách đây đã nhiều năm, ở Copenhagen; tôi nhìn qua cửa sổ vào một ngôi nhà lợp mái rạ nghèo khổ. Ông bố và bà mẹ đang ngủ, nhưng đứa con trai nhỏ của họ thì không; tôi nhìn thấy tấm rèm hoa che giường lay động và thằng bé ngó ra ngoài; thoạt tiên tôi cứ ngỡ nó nhìn cái đồng hồ treo tường Bornholm trong căn phòng, sơn màu đỏ và lục, với một con chim cúc cu phía trên, những khối chì lớn và quả lắc đồng thau rực sáng văng qua văng lại, “tíc, tắc!” nhưng không phải; không! nó nhìn cái xa kéo chỉ của mẹ nó, ngay bên dưới đồng hồ. Đây là thứ đồ vật mà thằng bé thích nhất trong nhà, nhưng nó không dám sờ tay vào, vì sẽ bị quật vào các ngón tay; suốt nhiều tiếng đồng hồ, trong lúc mẹ nó xe chỉ, nó cứ ngồi im ở đó mà nhìn con thoi kêu vù vù và guồng tròn quay, cảnh tượng tạo cho nó rất nhiều suy nghĩ. A! giá mà nó cũng được xe chỉ như thế! Bố mẹ nó đang ngủ; nó nhìn họ, nó nhìn cái xa, và không lâu sau đó, một bàn chân nhỏ xíu để trần thò ra từ giường và rồi một bàn chân để trần khác, đã thấy hai cẳng chân, bùm! nó đứng trên sàn nhà. Nó ngoái lại thêm một lần nữa để nhìn bố mẹ đang ngủ; đúng, họ đang ngủ; và rồi nó nhẹ nhàng, rất nhẹ nhàng, trên người chỉ có độc cái áo sơ mi ngắn, đi tới chỗ cái xa và bắt đầu xe chỉ; sợi chỉ bay vọt lên từ cái guồng, guồng quay mỗi lúc một nhanh thêm. Tôi hôn lên mái tóc vàng của nó, cặp mắt xanh nhạt của nó; đó là một hình ảnh thật rực rỡ. Mẹ nó thức giấc đúng vào lúc ấy. Tấm rèm che cái giường nhúc nhích, bà nhìn ra ngoài và nghĩ đến con tinh hay một con ma nhỏ nào đó. “Chúa ơi!” bà nói và, hoảng sợ, bà đưa khuỷu tay huých sang chồng; ông mở mắt, đưa tay dụi và nhìn thằng bé con đang hết sức bận rộn. “Nhưng đó là Bertel mà!” ông nói.

Và mắt tôi dịch chuyển khỏi ngôi nhà mái rạ… phải nói rằng tôi nhìn được rất xa xung quanh! cùng lúc đó tôi nhìn những căn phòng của Vatican, nơi có những vị thần bằng đá hoa cương: tôi soi sáng nhóm tượng Laocoon; đá như thể thở dài; tôi đặt nụ hôn câm lặng lên ngực các nữ thần Muse, tôi nghĩ lồng ngực khẽ nhô lên. Nhưng các tia sáng của tôi nán lại lâu nhất trên nhóm tượng sông Nile, trên vị thần khổng lồ. Vị thần dựa vào con nhân sư, tư lự, mơ mộng, như thể đang nghĩ tới những năm tháng đã trôi qua; các thần Amour nhỏ bé, xung quanh ngài, chơi đùa với lũ cá sấu; trong cái tù và đựng trân phẩm, hai tay khoanh lại, ánh mắt chăm chăm nhìn vị thần nghiêm trang của dòng sông, có một Amour nhỏ xíu, hình ảnh trung thành của thằng bé xe chỉ, cùng các đường nét ấy; thằng bé bằng đá hoa cương ở đó, sống động và duyên dáng, và thế nhưng guồng quay của năm đã quay hơn nghìn lần kể từ khi nó hiện ra từ đá. Trước khi thời đại tạo ra các vị thần bằng đá hoa cương giống như những vị thần này, vòng quay lớn hơn kia hẳn đã quay nhiều đúng bằng số vòng mà thằng bé đã quay guồng xe chỉ, nơi ngôi nhà mái rạ.

Vậy đó, tất tật những thứ ấy, cách đây đã nhiều năm! Thế nhưng, hôm qua, trăng nói tiếp, tôi đã từ trên cao nhìn xuống một vịnh biển, dọc theo bờ Đông của Đan Mạch; ở đó có những khu rừng đẹp, các ngọn đồi cao, một tòa lâu đài cũ với những bức tường màu đỏ, lũ thiên nga bơi trên hào nước, và một thành phố nhỏ với nhà thờ nằm giữa các khu vườn táo. Rất nhiều con thuyền nhỏ, tất tật đều được trang bị đèn đuốc, lướt đi trên mặt nước lặng; không phải người ta dùng đuốc để đi bắt lươn đâu, không, bầu không khí tràn ngập tiệc tùng! Nhạc vang lừng, người ta hát một khúc ca, và trên một con thuyền, người được tổ chức tiệc ăn mừng đứng đó: đó là một người đàn ông cao lớn, bề thế, khoác một cái áo choàng lớn, ông có cặp mắt màu xanh, mái tóc dài bạc trắng; tôi nhận ra ông và nghĩ đến Vatican với nhóm tượng sông Nile cùng tất tật các vị thần bằng đá hoa cương, tôi nghĩ tới ngôi nhà lợp mái rạ nghèo khổ, thậm chí tôi còn nghĩ nó nằm trên phố Grønne-Gade tại Copenhagen, nơi thằng bé Bertel trên người chỉ có độc cái áo sơ mi cộc đang xe chỉ. Vòng quay của thời gian đã quay; những vị thần mới đã hiện ra từ trong đá… Từ con tàu vang lên tiếng hu-ra, một tiếng “hu-ra cho Bertel Thorvaldsen!…”




TỐI THỨ HĂM LĂM

“Tôi muốn tặng cho bạn một hình ảnh của Frankfurt! trăng nói; ở đó, tôi đã quan sát một tòa nhà đặc biệt; đó không phải ngôi nhà nơi Goethe sinh ra, cũng không phải tòa thị chính cổ, nơi, xuyên qua những cửa sổ có song sắt bảo vệ, người ta vẫn còn thấy cái đầu với cặp sừng của lũ bò mà người ta đã rô ti và phân phát vào dịp đăng quang của hoàng đế; đó là một ngôi nhà tư sản, sơn màu lục với dáng dấp bình thường! ở góc phố hẹp của người Do Thái, đó là nhà của gia đình Rothschild. Tôi nhìn vào bên trong, qua cánh cửa để mở, cầu thang được thắp đèn sáng trưng; có các gia nhân cầm giá nến bạc khối và kính cẩn rạp người chào bà già ngồi trên ghế đang được người ta đưa xuống cầu thang. Chủ nhà để đầu trần và trọng thị hôn tay bà già. Đó là mẹ của ông; bà thân ái gật đầu với ông, cũng như với các gia nhân, rồi họ đi theo phố hẹp và tối, đưa bà tới một ngôi nhà nhỏ; đó là nơi bà sống, nơi bà đã sinh những đứa con, chính từ đó mà hạnh phúc của họ đã bừng nở; nếu giờ đây bà rời bỏ cái phố bị khinh bỉ này, ngôi nhà nhỏ này, có lẽ hạnh phúc cũng sẽ rời bỏ họ! ít nhất đó là điều mà bà nghĩ…” Trăng không kể thêm nữa; tối nay nó chỉ đến thăm rất ít thời gian thôi, nhưng tôi nghĩ đến bà già trên cái phố hẹp bị khinh bỉ; chỉ cần bà nói một lời thôi là sẽ có ngay ngôi nhà tuyệt đẹp trên bờ sông Thames; chỉ cần bà nói một lời thôi là dinh thự của bà sẽ nằm ở vịnh Napoli. “Nếu mình rời bỏ ngôi nhà khiêm nhường này, từ đó hạnh phúc các con trai của mình đã nảy sinh, thì có lẽ hạnh phúc sẽ rời bỏ chúng!…” Đó là sự mê tín, nhưng với một bản tính mà khi người ta biết câu chuyện và nhìn thấy hình ảnh, chỉ cần một lời bình luận rất ngắn ngủi là đủ hiểu tất tật: Một người mẹ.




TỐI THỨ HĂM SÁU

“Đó là hôm qua, trong ánh sáng ban ngày!” Chính đó là những lời mà trăng đã dùng; “không có lấy một ống khói còn chưa tỏa khói trong thành phố lớn, và tôi cũng đang nhìn chính các ống khói; từ một trong số chúng, một cái đầu nhô lên đúng lúc ấy, rồi một nửa thân người, hai cánh tay tì lên gờ ống khói. “Hu-ra!” đó là một chú thợ thông ống khói bé nhỏ, lần đầu tiên trong đời lên đến hết một ống khói và thò được đầu ra khỏi đó. “Hu-ra!” Phải công nhận rằng chuyện thật là khác khi trườn đi trong những cái ống hẹp và các ống khói chật! Không khí thật mát mẻ, có thể nhìn thấy toàn bộ thành phố, cho tới khu rừng màu lục; vừa lúc mặt trời đang lên; tròn trịa và to béo, nó chiếu sáng rực khuôn mặt cậu ta, và cậu ta ngời lên hạnh phúc, dẫu cho cả người lấm bẩn nhọ nồi. “Giờ thì cả thành phố có thể trông thấy mình! cậu ta nói, và trăng có thể nhìn thấy mình, cả mặt trời nữa! Hu-ra!” và cậu ta vung vẩy cây chổi…”




TỐI THỨ HĂM BẢY

“Đêm qua, tôi đã từ trên cao nhìn xuống một thành phố của Trung Quốc, trăng nói, các tia sáng của tôi chiếu lên những bức tường dài ngăn cách các phố; đây đó, có một cánh cửa, nhưng đóng chặt, bởi vì thế giới bên ngoài thì liên quan gì tới người Trung Hoa đây? Nhờ những bức mành, các cửa sổ trở nên kín mít im ỉm, đằng sau bức tường của ngôi nhà, chỉ có, trong ngôi đền, đèn sáng, mờ tỏ, xuyên qua các ô kính. Tôi nhìn vào bên trong, tôi thấy sự rực rỡ nhiều màu sắc ấy; từ sàn lên đến trần, có các hình ảnh chói màu và sơn son thếp vàng, tái hiện các chiến công của thần linh trên trái đất; trong mỗi cái hốc là bức tượng, nhưng gần như bị che giấu đằng sau những diềm vải sặc sỡ và cờ xí, và trước mỗi vị thần - tất tật đều bằng thiếc - lại có một ban thờ nhỏ với nước tinh khiết, hoa và nến cháy sáng, nhưng tít phía trên của ngôi đền, có thần Fu [thật ra là thần gì nhỉ?], vị thần tối cao, khoác trên người một cái áo chùng bằng lụa màu vàng, đó là màu thiêng liêng. Dưới chân ban thờ, một nhân vật sống, một thầy tu ngồi đó, trông như thể đang cầu nguyện, nhưng chừng như cầu nguyện giữa chừng thì anh ta buông mình vào những suy nghĩ riêng, và chắc hẳn đó là một tội lỗi, bởi vì hai má anh ta nóng bừng, đầu thì cúi gằm thêm xuống! Soui-houng khốn khổ! Có lẽ anh mơ mình đang ở đằng sau bức tường ngoài phố, xới đất trồng hoa trên khoanh vườn nhỏ trước mỗi ngôi nhà, và công việc này đối với anh quý giá hơn nhiều so với trông coi các ngọn nến trong đền? Hay anh muốn ngồi trước cái bàn bày biện thịnh soạn và hết mỗi món lại chùi miệng bằng giấy bạc? hay tội lỗi của anh lớn đến mức nếu anh cả gan nói ra thành lời, thiên đình sẽ buộc phải trừng phạt anh, bắt anh chết? Ý nghĩ của anh có dám bay cùng những con tàu của đám người mọi về tổ ấm của chúng, xứ Hồng Mao xa xôi? Không, ý nghĩ của anh không bay xa đến vậy, thế nhưng nó cũng đậm tội lỗi ngang với những ý nghĩ mà dòng máu nóng tuổi trẻ có thể sinh ra, nơi đây, trong ngôi đền, trước Fu và các bức tượng thần linh thiêng. Tôi biết suy nghĩ của anh đang ở đâu. Cuối thành phố, trên mái nhà phẳng lợp đá phiến, nơi hàng lan can như thể làm bằng sứ, nơi có những cái bình thật đẹp với các bông hoa lớn màu trắng trông như những cái chuông, có nàng Pe kiều diễm, với cặp mắt một mí đong đưa, cặp môi dày và bàn chân nhỏ xíu; giày siết chặt vào chân nàng, nhưng trái tim nàng còn siết mạnh hơn và nàng giơ hai cánh tay thanh mảnh tròn lẳn lên, vải xa tanh kêu sột soạt. Trước mặt nàng, có một bồn nước thủy tinh với lũ cá vàng, nàng nhẹ nhàng khuấy làn nước bằng một thanh gỗ nhỏ sơn nhiều màu, ô! thật chậm, bởi vì nàng đang bận suy nghĩ; có lẽ nàng nghĩ đến những thứ trang phục mạ vàng của lũ cá, đến sự an toàn mà chúng được hưởng trong cái bồn thủy tinh, đến thức ăn dồi dào mà người ta rắc xuống cho chúng, và đến niềm hạnh phúc lớn hơn nhiều mà dẫu thế nào chúng cũng sẽ cảm thấy nếu được sống ngoài tự do, và đúng, nàng Pe xinh đẹp hiểu điều đó; ý nghĩ của nàng rời tổ ấm của nàng, ý nghĩ của nàng bay tới nhà thờ, nhưng không phải vì Chúa mà nàng đến đó. Nàng Pe khốn khổ! Soui-houng khốn khổ! những ý nghĩ nơi hạ giới của họ gặp nhau, nhưng giữa họ có tia sáng lạnh lẽo của tôi, như thanh kiếm của một thiên thần!…”





TỐI THỨ HĂM TÁM

“Biển lặng tờ, trăng nói, nước cũng trong như làn không khí mà tôi đang băng qua, tôi có thể trông thấy, tận dưới sâu, bên dưới mặt nước của biển, những thứ cây lạ thường, chúng giống đám cây khổng lồ trong rừng, vươn về phía tôi những thân và cành cao nhiều bộ; lũ cá bơi bên trên ngọn của chúng. Tít trên cao trong không trung, một đàn thiên nga hoang bay qua, một trong số chúng, mỏi cánh, mỗi lúc một sà xuống thấp hơn, cặp mắt dõi theo đoàn chim trên không, càng lúc chúng càng thêm xa, về phần mình, nó dang rộng cặp cánh, và hạ xuống, giống như bong bóng xà phòng hạ xuống trong không khí yên bình, nó chạm vào mặt nước, đầu quay về đằng sau rúc vào trong cánh, nó bất động ở đó, giống như hoa sen trắng trên mặt hồ lặng. Và gió thổi mát bầu không khí, làm gợn mặt nước sáng lóng lánh, cũng rạng ngời như thể đó là khí ê-te đang ào ra thành những đợt sóng rộng và lớn, và con thiên nga ngẩng đầu lên, và nước lấp lánh, giống một thứ lửa xanh, tưới ướt lên ngực và lưng nó. Rạng đông làm bừng lên những đám mây đỏ, và con thiên nga vươn dậy, đã hồi sức, và nó bay về phía mặt trời đang lên, về phía dải bờ màu xanh nhạt, nơi đoàn chim đã bay về, nhưng nó bay một mình, trong ngực ngập tràn nỗi hoài nhớ, nó bay, một mình, phía trên làn nước màu xanh, cuộn sóng…”




TỐI THỨ HĂM CHÍN

“Tôi muốn tặng thêm cho bạn một hình ảnh của Thụy Điển, trăng nói; giữa các khu rừng thông đen kịt, gần bờ sông sầu muộn Roxen, có một nhà thờ cổ thuộc tu viện Wreta. Tia sáng của tôi đã chui qua hàng rào lưới sắt và tiến vào vòm cao rộng rãi nơi các ông vua nằm ngủ trong các mộ quách to lớn. Trên tường, phía trên họ, hình ảnh của vinh quang trần thế, có một vương miện hoàng gia, nhưng nó được làm bằng gỗ, sơn và mạ vàng, nó được treo trên một thanh gỗ nhỏ cắm vào trong tường, sâu mọt đã gặm mất thứ gỗ mạ vàng, nhện đã giăng tấm lưới của nó từ vương miện xuống quách, đó là một lá cờ tang lễ, mỏng manh, giống như tang ma vốn dĩ vẫn vậy đối với người phàm tục! Sao mà họ ngủ êm đềm thế! tôi còn nhớ họ rất rõ! tôi vẫn nhìn thấy nụ cười dạn dĩ trên các làn môi, nó diễn tả niềm vui hoặc nỗi lo âu, vô cùng mạnh mẽ, vô cùng cả quyết. Khi tàu hơi nước, giống một con tàu thần, lướt qua phía trên các ngọn núi, một người ngoại quốc hay tới nhà thờ, thăm viếng hầm mộ này, tìm hiểu tên các ông vua đã bị lãng quên và đã chết; ông ta nhìn những vương miện bị lũ sâu mọt tàn phá, mỉm cười, và đó là một tâm hồn thực sự sùng đạo, cho nên vào giây phút ấy nụ cười của ông thấm sầu muộn. Hãy ngủ đi, những người chết, có trăng nhớ đến các bạn, trong màn đêm trăng gửi tia sáng lạnh lẽo của nó tới vương quốc im lìm của các bạn, phía trên đó lơ lửng vương miện thông!…”




TỐI THỨ BA MƯƠI

“Rất gần đường cái quan, trăng nói, có một nhà trọ, và ngay đối diện với nó, một nhà kho lớn chứa các cỗ xe, người ta đang lợp mái cho nó, ánh mắt tôi chui qua giữa đám rui, lọt vào lỗ hổng giữa trần và luồn vào căn phòng chẳng mấy duyên dáng; con gà tây ngủ trên xà nhà, và yên cương bị vứt vào máng ăn trống hoác. Giữa nhà kho, có một cỗ xe, những người ngồi trên đó tha hồ ngủ an toàn, trong khi người ta cho lũ ngựa uống nước và người xà ích thì vươn vai duỗi chân, mặc dù - tôi ở vào vị trí thích hợp nhất để biết điều đó - anh ta đã ngủ suốt, phải đến hơn một nửa chặng đường. Cửa căn phòng của người coi chuồng ngựa để mở, giường của anh ta trông thật bừa bãi, ngọn đèn thì đặt dưới đất và bấc đã cháy gần hết. Gió lạnh thổi qua nhà kho và đã gần bình minh hơn là nửa đêm. Tại đó, trong ô chuồng, một gia đình nhạc công lưu động nằm ngay trên đất mà ngủ, bà mẹ và ông bố hẳn mơ thấy thứ nước nóng bỏng vẫn còn lại trong cái chai, còn con bé gái mặt mũi nhợt nhạt thì mơ thấy thứ nước nóng bỏng trong con mắt; cây đàn hạc đặt ngay gần đầu của họ, còn con chó nằm dưới chân họ…”




TỐI THỨ BA MƯƠI MỐT

“Đó là tại một thành phố nhỏ, trăng nói, tôi đã nhìn thấy chuyện ấy hồi năm ngoái, nhưng cũng chẳng sao, tôi đã nhìn rất rõ;



(còn nữa)



các truyện của Andersen:

Andersen: Hòn đá triết học
Andersen: Một câu chuyện từ những đụn cát
Andersen: Anne Lisbeth
Andersen: Đứa bé gái giẫm chân lên ổ bánh mì
Andersen: Mộc thần nữ
Andersen: "Năm hạt đậu nhỏ chui ra từ vỏ đậu", "Đứa trẻ tật nguyền", "Thiên thần"
Andersen: Cây đèn đường cũ
Andersen: Con gái chúa tể đầm lầy
Trở về cổ điển: Andersen



1 comment:

  1. "Nơi đây có thứ thơ ca đích thực trong tự nhiên."!
    và trong muôn thứ cây và con ríu rít hiện ra trong bài thơ ấy có cả con người.

    ReplyDelete