Và đây sẽ là Roland Barthes ở tư cách độc giả của Claude Lévi-Strauss (điều này đã nói qua ở kia). Tất nhiên, phải là Lévi-Strauss: tinh thần của thế kỷ 20 có được hay không là nhờ vài người, trong số đó, Lévi-Strauss. Muốn hiểu bất kỳ điều gì, điều không thể khác là phải đọc Lévi-Strauss, và đọc tất tật, đọc cho đến cả những cuốn ít được biết đến như Histoire de Lynx, La Voie des masques, cả đến cuốn sách viết rất muộn, về mặt trăng, nhân dịp đi Nhật Bản, trong đó Lévi-Strauss kể hồi bé mình say mê sưu tầm những món đồ nhỏ bé của nước Nhật như thế nào.
Sự kiện nho nhỏ là tôi đã đọc đến tập thứ ba bộ toàn tập Barthes:
Cho đến giờ, đã có ai "theo" vụ này không nhỉ? (chuyện "theo", xem ở kia). Nói đúng hơn, tôi đã đọc gần hết tập ba này, đang rất máu lửa với tiểu luận của Barthes về thánh Loyola, người lập ra dòng Tên. Sau đây sẽ chỉ còn hai tập nữa.
Barthes viết "Sociologie và socio-logique" (nhan đề quá rõ ràng, và lại có hàm nghĩa rất hay nên tôi để yên không dịch) nhân hai cuốn sách của Lévi-Strauss mới xuất bản vào thời điểm ấy, đó là Le Totémisme aujourd'hui và La Pensée sauvage (trong cuốn này, Lévi-Strauss gạt Jean-Paul Sartre ra). Bài đăng trên tờ Information sur les sciences sociales, tháng Chạp năm 1962.
Barthes và Lévi-Strauss có mối quan hệ rất đặc biệt. Một hôm, có một nhà ngôn ngữ học nổi tiếng (Greimas, nếu tôi nhớ không nhầm, chắc không nhầm) dẫn Barthes đến nhà Lévi-Strauss, rồi ngồi dưới quán cà phê bên kia đường đợi. Barthes lên nhà Lévi-Strauss để thuyết phục Lévi-Strauss làm giáo sư hướng dẫn luận án tiến sĩ cho mình. Lévi-Strauss đã từ chối. Barthes sẽ không bao giờ có bằng tiến sĩ (về một số bằng tiến sĩ đáng nhớ, xem ở kia).
Như trên đã nói: không thể không đọc Lévi-Strauss. Tôi dịch bài dưới đây để cho thấy một độc giả của Lévi-Strauss nghĩa là như thế nào. Điều này tương đối quan trọng, vì sắp tới chúng ta sẽ cần đề cập một độc giả khác của Lévi-Strauss: Nguyên Ngọc.
nhân tiện: đã tiếp tục tiểu luận về phong cách Proust của Leo Spitzer và thêm những bài thơ của Baudelaire (à, mà có ai để ý không nhỉ: nếu Proust nghĩa là hạnh phúc thì Baudelaire nghĩa là bất hạnh; nếu mở rộng hơn: ta có Stendhal hạnh phúc rồi Baudelaire bất hạnh rồi Proust hạnh phúc rồi Céline bất hạnh; tắt bật không ngừng)
Sociologie và socio-logique
Nghiên cứu tổ chức tâm lý xã hội các village de toile [loại
“làng” (village) đại loại gồm những túp lều hoặc cũng có thể kiên cố hơn “lều”,
đặt tại những nơi nghỉ mát], được dựng lên bởi các câu lạc bộ lữ hành tại một số
điểm ven bờ Địa Trung Hải, một nhà xã hội học người Pháp [chú thích trong sách:
“Henri Raymond, trong một tác phẩm chưa in. Tuy nhiên có thể xem cùng tác giả,
về chủ đề này: “Nghiên cứu một ngôi làng nghỉ mát”, Revue française de sociologie, tháng Bảy-tháng Chín 1960”] có nhận
xét sau đây: cấu trúc của những ngôi làng nhân tạo này, bố trí bên trong các “địa
điểm” của chúng, nửa công năng, nửa có tính chất nghi thức, dường như thờ ơ với
phong cảnh trong đó chúng phát triển: chẳng gì ngăn cản việc dựng ra một ngôi
làng hoàn chỉnh, với những cái lều, các nơi ăn uống, khiêu vũ, trò chuyện, trò
chơi và tắm, tại một nơi sầu não, với các hình thức xấu xí: rõ ràng không có
xung đột nào giữa chức năng hội hè của làng lữ hành và sự khắc kỷ, thậm chí sự
thiếu hài hòa, của chốn tiếp nhận nó. Một ví dụ như vậy hẳn sẽ khiến Cl.
Lévi-Strauss quan tâm: hoàn toàn không phải, một cách hời hợt, bởi vì có tương
đồng về đối tượng giữa village de toile và làng “nguyên thủy”, mà bởi cả hai đều
được xây dựng theo một số quan hệ không gian, nghĩa là theo một logic nhất định,
và logic này liên quan đến, trong cả hai trường hợp, cả một trình hiện thế giới,
như vậy làm chứng rằng khắp mọi nơi, từ Úc “nguyên thủy” cho đến Địa Trung Hải
văn minh hóa, đều có một trách nhiệm của các hình thức [cụm từ “trách nhiệm của
hình thức” nên được coi là một trong những chủ
âm trong toàn bộ trước tác của Roland Barthes]. Bởi vì nếu nhận xét của
Henri Raymond là có cơ sở, nếu village de toile, rõ ràng là sự kiện hiện đại và
ở khía cạnh này cho thấy một xã hội học về giải trí, có thể được định nghĩa, ở
bên ngoài tất định luận địa dư hay tâm lý, như một tổ chức của các chức năng,
thì sẽ xuất hiện bổn phận phải tiến hành các phân tích theo típ mới, và sự sinh
ra khả dĩ của một xã hội học cấu trúc (hoặc ít nhất, sự gặp giữa dân tộc học và
xã hội học trong lòng một nhân học cấu trúc). Với những điều kiện nào? Đó là điều
cần xem xét.
Hai tác phẩm gần đây nhất của Claude Lévi-Strauss, Le Totémisme aujourd’hui [cuốn sách này
gần đây đã có bản dịch tiếng Việt: nhưng tại sao lại “định chế totem” nhỉ? và
“định chế totem” nghĩa là gì?] và La
Pensée sauvage, mời gọi cuộc kiểm tra ấy (dẫu cho nó ngắn đến đâu, ở đây):
cuốn sách thứ nhất là bởi, mặc cho đối tượng đặc chất dân tộc học (totémisme) của
nó, nó tấn công vào một trong những thái độ thường hằng của khoa học hiện thời,
nghĩa là cung cấp một sự ưu việt cho các nội dung của những biểu tượng xã hội,
chứ không phải cho các hình thức của chúng; cuốn thứ hai là vì, ngoài sự đào
sâu và mở rộng suy tư cấu trúc mà nó thể hiện, nó còn gợi ý và phác họa ở nhiều
chỗ các phân tích những sự kiện hiện đại, tuân theo đặc tính xã hội học
(bricolage, nghệ thuật đương đại, đồ ăn, các tên riêng, trang phục). Nhà xã hội
học, hay, để nói rộng hơn, nhà phân tích xã hội hiện thời như vậy có được những
nguyên tắc nghiên cứu và các ví dụ mà anh ta có thể lấy để đối chiếu với suy tư
của chính mình.
Ta đã thấy rằng village de toile tạo ra một đối tượng tuyệt
hảo cho phân tích cấu trúc, trong chừng mực sự xây dựng nó (và do đó sự sử dụng
nó) hàm ý một socio-logique, mà người phân tích có nhiệm vụ tái cấu tạo. Ví dụ
này có lạ thường không? Đâu là những đối tượng của xã hội hiện đại bày ra cho
phân tích cấu trúc? Đâu có thể là trường của một xã hội học về các chức năng
(theo nghĩa logic của từ này)? Chính ở đây định đề của phương pháp tự trả lời:
có khả năng, đối với Cl. Lévi-Strauss, tất cả những “sản xuất” con người, đồ vật,
nghi thức, nghệ thuật, thiết chế, vai trò, sử dụng, chẳng bao giờ đến được sự tiêu
thụ nếu không bị đặt bởi tay chính xã hội vào trung gian intellect; không có một
praxis nào mà tinh thần con người
không chiếm lấy, mà nó không tẽ nhỏ và tái cấu tạo dưới hình thức một hệ thống
các thực hành [trích dẫn một câu (dài) từ La
Pensée sauvage]. Nếu intellect là một trung gian tối cao, nếu nó nhất thiết
áp đặt một hình thức cho vật chất và cho các hành động chuyển hóa nó hoặc tiêu
thụ nó (nhưng hình thức này dĩ nhiên biến đổi tùy theo các xã hội), thì chẳng
có lý do gì để loại bỏ đi từ phân tích cấu trúc bất kỳ đối tượng nào, dẫu có
tính chất xã hội (nhưng có gì khác ngoài đó không?): người ta có bày ra cho anh
ta cái gì đi nữa, thì nhà phân tích cũng phải tìm thấy lại ở đó dấu vết của
tinh thần, công việc tập thể đã được thành tựu bởi suy nghĩ nhằm đặt cái thực
vào tuân thủ trong một hệ thống logic của các hình thức; như vậy dẫu cho đó là
một ngôi làng, một thứ quần áo, một bữa ăn, một lễ hội, một sử dụng, một vai
trò, một dụng cụ, một thiết chế hay một hành động, dẫu là hành động sáng tạo, nếu
nó được chuẩn hóa, dẫu tất tật các yếu tố này của vật chất xã hội đều thuộc về
một xã hội “nguyên thủy”, lịch sử hay hiện đại, thì tất cả chúng đều hé lộ cái
sociologique kia, được định ra, được gọi đến và ở nhiều điểm được tạo lập bởi
tác phẩm của Cl. Lévi-Strauss. Nhìn chung, đối với cái cốt yếu của các thượng tầng
kiến trúc, chẳng gì có thể, xét về lệ, phân chia dân tộc học khỏi xã hội học và
lịch sử (với điều kiện nó ngừng là một lịch sử sự kiện): đấy là bởi cái khả tri
thì ở khắp mọi nơi, cho nên không thể có trong các khoa học nhân văn các đối tượng
bị biệt lập; đấy là bởi xã hội, dẫu nó là gì, làm cái việc là cấu trúc hóa ngay
tức thì cái thực, cho nên phân tích cấu trúc là cần thiết.
Như vậy dân tộc học cấu trúc do Cl. Lévi-Strauss tạo dựng,
thông qua phương pháp và các mục đích của nó, hàm ý một tính chất phổ quát của
trường, cái khiến ông gặp tất tật mọi đối tượng của xã hội học. Tuy nhiên cần
phải nêu nhận xét (mà không nhắc lại một cuộc tranh luận cũ [chú thích trong
sách: “Về các mối quan hệ của dân tộc học, nhân học và xã hội học, cf. Cl.
Lévi-Strauss, Anthropologie structurale”])
rằng đối tượng xã hội học khác với đối tượng dân tộc học ở hai điểm (ở đây chỉ
nói đến những khác biệt có ích lợi về mặt cấu trúc). Trước hết là điều này: cái
mà người ta gọi là massification [từ
masse/mass] dường như gây thất bại cho phương pháp cấu trúc trong chừng mực số
[nombre], dường như vậy, chỉ có thể được chế ngự bằng các phương pháp thống kê:
nơi mà phân tích cấu trúc tìm các sự lệch [écart] về số lượng (giữa các đơn vị),
thì xã hội học thống kê lại tìm các trung bình; phân tích cấu trúc hướng đến sự
kiệt cùng, còn xã hội học thì đến tính chất bao trùm. Ngoài ra cũng cần nói rõ
số thì làm biến đổi điều gì. Xã hội masse được đặc trưng hóa bởi sự nhân lên
theo đường lối cơ học của mỗi mẫu mà nó lập dựng: một tờ báo, một chiếc xe ô
tô, một cái áo măng tô được tái sản xuất ở mức hàng nghìn bản; cùng village de
toile như thế còn được tìm thấy tại mười điểm quanh Địa Trung Hải. Nhưng nếu
các nguyên mẫu có số lượng hạn chế (và đúng vậy) thì, nói cho đúng, chẳng gì
ngăn cấm sự cấu trúc: cấu trúc [structurer] (có cần nhắc lại không?) hoàn toàn
không phải là đếm các đơn vị, mà làm hé lộ các khác biệt; chẳng quan trọng mấy,
từ quan điểm của cái khả tri, nếu số lượng xe 2 CV Citröen vượt rất xa số lượng
xe của Facel-Vega; điều đáng quan tâm, nhằm hiểu không phải thị trường xe ô tô,
mà “hình ảnh” xe ô tô, là hai mẫu này tồn tại thông qua một khối [một cơ thể]
(một “hệ thống”) gồm các khác biệt ở mặt thiết chế. Ở khía cạnh này, một xã hội
học cấu trúc hẳn có cơ may tôn trọng hơn nhiều so với một xã hội học khác những
nét tinh tế, lệch lạc, chệch lối, của xã hội masse, những gì mà xã hội học thống
kê cho là không mấy quan trọng [insignifiants]: không có chuyện vì một sự kiện
là hiếm cho nên nó biểu nghĩa kém đi; bởi vì cái biểu nghĩa không phải bản thân
hiện tượng, mà là mối quan hệ của nó với các hiện tượng khác, hoặc đối nghịch
[antagoniste] hoặc tương liên [corrélatif]; xã hội học thống kê ít nhiều hàm ý
một xã hội học theo chuẩn; điều mà, ngược lại, người ta có thể hy vọng từ một
xã hội học cấu trúc là nó thực sự là một xã hội học về tính chất toàn thể, bởi
vì, trong mắt nó, không mối quan hệ nào, dẫu có kết hợp được những yếu tố hiếm,
có thể trở nên “ngoại lệ”: có ít người điên hơn nhiều so với người tỉnh; nhưng
điều hết sức quan trọng ngay lúc đầu,
nằm ở chỗ xã hội, trên phương diện thiết chế, tiến hành một mối quan hệ thuộc dạng
loại trừ [Roland Barthes nhắc ngay tới cuốn sách về điên của Michel Foucault ở
đây]; văn chương tốt là một thứ sản phẩm có sự tiêu thụ hiếm; nhưng điều quan
trọng nằm ở chỗ tự thân xã hội lập ra một quan hệ có tính chất cấu trúc giữa
hai văn chương: tốt và dở: cái định nghĩa văn chương “tốt” không phải, ngay lúc đầu, là một nội dung cảm năng,
mà là một vị trí nhất định trong một hệ thống chung của các sản xuất những sự
viết. Cho nên hẳn sẽ chỉ cần hé lộ các mẫu, vốn không nhiều, mà các xã hội của
chúng ta dồn dập ném vào trong lưu thông là đã có thể vươn tới được khối các
hình thức, rồi khối các quan hệ, nhờ đó mà xã hội tự nó biến được những văn
chương của nó và những xe ô tô của nó trở nên khả tri, hay chính xác hơn, biến
được thế giới trở nên khả tri thông qua những xe ô tô của nó và những văn
chương của nó.
Tuy nhiên còn một điểm nữa, nơi các xã hội dân tộc học và xã
hội học khác nhau theo một cách thức, dường như vậy, quan trọng hơn so với tại
điểm liên quan đến số. Các xã hội được gọi là nguyên thủy là những xã hội không
có chữ viết. Từ đó mà viết và tất cả các hình thức có tính chất thiết chế của
*discours* phái sinh từ đó được dùng để định nghĩa trong chính sự đặc thù của
chúng các xã hội xã hội học (kể cả, dĩ nhiên, các xã hội lịch sử): xã hội học
là sự phân tích các xã hội “viết”. Điều này hoàn toàn không bó hẹp vai trò của
nó: thật khó hình dung bất cứ điều gì, trong xã hội hiện đại, không trải qua,
vào một thời điểm nào đó, trung gian viết; không chỉ viết thì nhân đôi mọi chức
năng ở các nơi khác dành cho giao tiếp miệng (huyền thoại, truyện, thông tin,
chơi), mà nó còn phát triển rất mạnh mẽ để phục vụ cho những phương tiện giao
tiếp khác: phục vụ cho hình ảnh (trong báo chí có minh họa), phục vụ cho bản
thân các vật (các vật “gặp” viết ở mức catalog và quảng cáo, chúng, ta có thể
ngờ điều này, là những thành tố hùng mạnh của sự cấu trúc hóa [chú thích trong
sách: “Quảng Cáo cho tới lúc này vẫn được nghĩ bằng các khái niệm thuộc
“motivation”, chứ không phải bằng các khái niệm thuộc “signification”.” - chính
ở giai đoạn này, Roland Barthes đặc biệt quan tâm đến quảng cáo, với tư cách ký
hiệu]. Thế nhưng, viết có chức năng cấu tạo nên các kho chứa của ngôn ngữ
[langage: langage là sự kết hợp của langue và parole]; những kho này, theo đường
lối định mệnh, được gắn với một quá trình cô đặc hóa nhất định của giao tiếp
ngôn ngữ (người ta đã có thể nói đến một quá trình vật hóa của ngôn ngữ [chú
thích trong sách: “Cf. J. Gabel, La
Fausse Conscience”]): viết sản sinh ra những
viết, hoặc, nếu thích hơn, những “văn chương”, và chính thông qua những viết hoặc
những văn chương này mà xã hội masse đúc thực tại của nó thành các thiết chế,
thực hành, vật và thậm chí thành các sự kiện, bởi vì kể từ nay sự kiện luôn
luôn được viết. Nói cách khác, luôn
luôn có một thời điểm khi xã hội masse đi tới chỗ cấu trúc cái thực thông qua
ngôn ngữ, vì nó “viết” không chỉ những gì mà các xã hội khác “nói” (những truyện),
mà còn cả những gì mà các xã hội kia chỉ tạo ra (các dụng cụ) hoặc “hành động”
(nghi lễ, tập tục). Thế nhưng, ngôn ngữ, ta đã biết, bản thân nó đã là một cấu
trúc [điểm vô cùng then chốt] - và thuộc vào những cấu trúc mạnh nhất có thể
có. Như vậy xã hội masse cấu trúc cái thực theo hai cách đồng phát: bằng cách sản
xuất ra nó và bằng cách viết ra nó: một cái xe ô tô cùng một lúc là yếu tố của
một cấu trúc “xe ô tô” và đối tượng của một *discours* (quảng cáo, trò chuyện,
văn chương); nó bày ra trước sự khả tri bằng hai con đường: con đường của các
hình thức và con đường của các từ. Định rõ mối quan hệ giữa hai cấu trúc này hẳn
là điều vô cùng quan trọng: viết xác nhận, uốn cong đi hay nói ngược lại phiên
bản không-viết của cái khả tri đã được cung cấp bởi bản thân các thực hành?
Village de toile có thực (hay ít nhất là có tính chất vật chất) có vẫn là
village de toile trên các tờ bướm quảng cáo và trong những cuộc trò chuyện hay
không? Nói khác đi, ngôn ngữ, tại các xã hội ngả về viết, ngôn ngữ có một chức
năng thuần dénotation hay, ngược lại, chức năng connotation phức tạp [hai khái
niệm lớn của ngôn ngữ học Saussure]? Ở trường hợp thứ hai, phân tích cấu trúc hẳn
sẽ chẳng có thể làm gì khác ngoài phát triển, nếu có thể nói vậy, một xã hội học
về connotation, mà các chất liệu hẳn hiển nhiên sẽ có tính chất ngôn ngữ, mà đối
tượng hẳn sẽ là cấu trúc thứ hai do xã hội áp đặt, bằng cách viết nó ra, cho một
cái thực đã được nó cấu trúc vào thời điểm nó làm ra.
Còn lại vấn đề phương pháp. Vấn đề nằm ở đâu? Ở
chỗ tìm ra hệ thống hoặc các hệ thống phân loại của một xã hội [chú thích trong
sách: trích La Pensée sauvage: “Như
Durkheim dường như từng đôi khi thoáng nhìn thấy, chính trong một sociologique
có nền tảng của sociologie”]: mỗi xã hội sắp xếp các vật theo cách riêng của
nó, và cách này cấu tạo nên bản thân sự khả tri mà nó tự mang lại cho mình:
phân tích xã hội học phải có tính chất cấu trúc, không phải vì các vật được cấu
trúc “một cách tự thân”, mà bởi các xã hội không ngừng cấu trúc chúng [chú
thích trong sách: trích thêm một câu trong La
Pensée sauvage: “Việc đặt thành cấu trúc hẳn sở hữu… một tính hiệu quả nội
tại, dẫu cho các nguyên tắc và phương pháp mà nó lấy làm cảm hứng có thể là gì”];
(còn nữa)
đọc lý thuyết:
Leo Spitzer: Phong cách của Marcel Proust
Jean-Pierre Richard: Hiểu biết và dịu dàng ở Stendhal
Sur Barthes (1)
Roland Barthes: "Michelet, Lịch Sử và Chết"
Roland Barthes: "Văn hóa và bi kịch"
Octavio Paz về André Breton
Jean Paulhan: Les Fleurs de Tarbes
George Steiner: Râu Xanh
Maurice Merleau-Ponty: Văn xuôi thế giới
Lý thuyết văn học và triết học
Michel Foucault: "Thư viện huyền hoặc" (về Flaubert)
Albert Béguin: Tâm hồn lãng mạn và giấc mơ
Nhìn lại lý thuyết
Roland Barthes là một intellect qua đó ta tiêu thụ những cái khả tri, cho dù, như chính ông vừa nói, những cái như thế đầy dẫy trong xã hội.
ReplyDelete"dân tộc học cấu trúc do Cl. Lévi-Strauss tạo dựng, thông qua phương pháp và các mục đích của nó, hàm ý một tính chất phổ quát của trường," và do vậy Bức Màn Sắt chống cấu trúc luận. nhưng có lẽ đáng kể hơn là đến cư dân của hậu-bức màn vẫn chống cấu trúc luận một cách "vô thức": chỉ thích "số", dị ứng với "lệch" và "khác biệt", coi các kiểu "model" là "mẫu" và kiên quyết coi "toàn thể" chỉ là những hệ thống trong duy chỉ một loại quan hệ hệ thống hóa lẫn nhau.
"không có một praxis nào mà tinh thần con người không chiếm lấy, mà nó không tẽ nhỏ và tái cấu tạo dưới hình thức một hệ thống các thực hành" - "xã hội, dẫu nó là gì, làm cái việc là cấu trúc hóa ngay tức thì cái thực," - ", phân tích cấu trúc hẳn sẽ chẳng có thể làm gì khác ngoài phát triển, nếu có thể nói vậy, một xã hội học về connotation, mà các chất liệu hẳn hiển nhiên sẽ có tính chất ngôn ngữ, mà đối tượng hẳn sẽ là cấu trúc thứ hai do xã hội áp đặt, bằng cách viết nó ra, cho một cái thực đã được nó cấu trúc vào thời điểm nó làm ra." vậy, ngôn ngữ, "langage", là "praxis", liệu có phải ở vào vị thế một hệ tiên đề cho xh học ko nhỉ? trong khi các đặc tính cấu trúc của nó, như denotation-connotation, mang quan hệ không gian rõ rệt từ phát âm đến giao tiếp và hiểu, xem như thuộc về socio logique.
ReplyDeletecó lẽ Barthes hướng đến điều đó, ít nhất thì có tương đồng giữa ngôn ngữ học cổ điển (nhất là dòng Ấn-Âu, Schlegel, Humboldt etc.) cùng ngôn ngữ học Saussure và xã hội học thống kê (hoặc thực chứng) cùng một xã hội học kiểu khác
ReplyDelete"Village de toile có thực (hay ít nhất là có tính chất vật chất) có vẫn là village de toile trên các tờ bướm quảng cáo và trong những cuộc trò chuyện hay không?" - câu này đặc biệt Hy Lạp.
ReplyDeletevà "không phải vì các vật được cấu trúc “một cách tự thân”, mà bởi các xã hội không ngừng cấu trúc chúng" thì bống sáng tỏ rằng "một xã hội học về connotation" sẽ là căn bản để nhìn nhận sự khả tri trong "thế giới phẳng", có phỏng?
chính xác, và thế giới là phẳng bởi vì phẳng theo một kiểu khác nhưng vẫn không ngoài tương quan (ở mức độ cấu trúc) với sự phẳng tại các thế giới "nguyên thuỷ", hiến sinh vẫn còn nguyên và potlatch chỉ hơi thay đổi hình thức
ReplyDelete