"Pleurs avec des yeux éternellement secs."
- Cioran
xếp tàn y lại
"Tôi không làm gì khác ngoài không làm gì (khác)."
Chắc là phải có chuyện, đến một lúc, những nỗi chua cay của con người phải cuồn cuộn lên ghê gớm lắm. Nếu không thì tại sao lá của cây cối lại vàng hết đi.
Một bài thơ, có một bài thơ, của Yeats:
The Falling of the Leaves
Autumn is over the long leaves that love us,
And over the mice in the barley sheaves;
Yellow the leaves of the rowan above us,
And yellow the wet wild-strawberry leaves.
The hour of the waning of love has beset us,
And weary and worn are our sad souls now;
Let us part, ere the season of passion forget us,
With a kiss and a tear on thy drooping brow.
Thơ của Yeats, càng ngày càng lộ ra là nó lyrical quá mức, nhiều khi không sao chịu nổi. Vào cái thời quốc gia bỗng trở nên lắm ý nghĩa, lại rất hay trộn thêm màu sắc và mùi vị của mystical vào, đã sinh ra các nhân vật tưởng chừng như thế này, nhưng hóa ra lại là thế kia. Yeats, nhưng cả Maeterlinck nữa, nhất là Tagore. Một dạng mysticism như là thứ cặn của Erkhart hay Boehme. Có lẽ điều đó giải thích niềm kinh dị của Yeats khi gặp Ezra Pound.
Từ chỗ tôi hay ngồi có thể nhìn thấy một người đàn ông chăm sóc khu vườn nhỏ của mình rất cẩn thận, đặc biệt là hết sức tỉ mỉ nhặt từng cái lá vàng vẫn còn ở trên cành: một người không chịu nổi những cây cối có lá vàng. Lá vàng gây ngứa, cũng như tóc bạc gây ngứa. Dẫu vậy thì vẫn cứ tốt hơn cảnh tượng mà nhân vật chính nhìn thấy từ cửa sổ của mình, tại một cửa sổ khác có một lão già ngồi cả ngày mà cãi nhau với chim bồ câu: đó là trong Năm của tình yêu.
Ta nhìn những lá đã vàng như ngắm các hoen ố tự nhiên.
Lá vàng, và sa mạc: thế cho nên (tại sao lại "thế cho nên" thì tôi cũng chẳng biết), đối với con người, biển và sa mạc hết sức quan trọng: nếu chỉ có bầu trời mà không có hai cái còn lại (tức là biển và sa mạc) thì hẳn đừng hòng con người có hình dung về infinity, và cả eternity: chắc chắn, cát thì không phải là đất.
Thế cho nên (ở đây thì "thế cho nên" được) làm gì có tôn giáo nào của con người không sinh ra từ sa mạc. Và hiếm có cụm từ nào hay hơn "prêcher dans le désert". Désert, desart. Khi một đoàn người cưỡi lạc đà đi vào sa mạc: đó là hình ảnh chuẩn xác và mạnh mẽ nhất của đi theo cám dỗ.
William Wordsworth (giờ đây đã thấy rõ là khỏi phải đọc Yeats nữa: vậy thì đỡ phải đọc, quá đỡ): "In November days/When vapours, rolling down the valleys, made/A lonely scene more lonesome". William, vậy thì thoát được khỏi cả một đống Thomas, luôn cả Charles. Wordsworth tự nhận mình có bốn tiền thân, Chaucer, Spenser, Milton, nhân vật thứ tư thì lại là một William: Shakespeare. Như vậy thì, Wordsworth, cũng giống một William khác nữa, làm nên orbit quanh William Shakespeare: William Hazlitt; thậm chí có thể tính là có tận ba William xoay quanh William thứ nhất, vì còn có thể kể thêm William Empson. Thơ của Wordsworth có đặc biệt nhiều từ "sweet" và nhất là "beauteous".
Cũng tạo ra một quỹ đạo quanh Shakespeare, tương tự như Hazlitt, là Charles Lamb: vậy thì lại rơi trở vào các Charles; đúng là chẳng làm sao mà thoát được.
Quay trở lại với người đàn ông của tôi, người không muốn những cái cây của mình có lá vàng nào: đấy là một người muốn xóa bỏ những loang lổ hoen ố.
nhân đã nhắc tới Shakespeare:
Khi cánh tay của mùa đông đã bắt đầu ôm, ta sẽ nhận ra, euphoria bao giờ cũng có nền tảng chính là melancholia: nếu không có melancholia thì chẳng thể nào có mặt bên kia của cái đó.
Tiếp tục nhìn quyển sách trên đây:
việc (ở đoạn gần cuối) King James đệ Nhất của nước Anh (và Ê-cốt) được gọi là "Jắc" (Giắc) cho thấy nguồn tài liệu được dùng để viết lời tựa trên đây là tiếng Pháp
(tiếp tục "Sinh nhật" và Một phố)
anh làm em nhớ tới bác sĩ Henry Selwyn của Sebald.
ReplyDelete