Nói đến cuộc đời và văn nghiệp Salman Rushdie, nếu muốn toàn
diện một cách tương đối, lẽ dĩ nhiên không thể bỏ qua “án fatwa” mà ông từng phải
gánh chịu. Tuy nhiên nếu quá nhấn mạnh vào yếu tố này thì ta sẽ dễ đi đến chỗ
thu giảm Salman Rushdie thành “nhà văn từng chịu fatwa”, điều này cũng bất công
không kém nếu bàn về Salman Rushdie mà né tránh fatwa.
Fatwa do lãnh tụ Khomeini tuyên vào năm 1989 đẩy Salman
Rushdie vào một tình thế nguy hiểm đến tính mạng thường trực. Nó ảnh hưởng rất
lớn đến cuộc sống riêng của Rushdie, như ta thấy rõ trong hồi ký Joseph Anton. Sống ở một đất nước xa lạ
nhưng thật ra gần gũi vì đã gắn bó từ thuở nhỏ, tại một xứ tự do nhưng thường xuyên
phải được cảnh sát chăm sóc, Salman Rushdie rơi vào một tình thế nghịch lý kép.
Điều đó khiến cho cuộc xa nhà thực sự trở thành lưu vong (The Satanic Verses cũng nhanh chóng bị cấm
ở Ấn Độ), và điều kiện cuộc sống tự do (thân thể và ngôn luận) bị phá hỏng. Giống
như là hiện tại bỗng dưng bị quá khứ đuổi kịp, mà quá khứ thì lại to lớn khổng
lồ hơn hẳn hiện tại; hoặc giả giống như “hợp đồng với quỷ” (Faustian contract)
do không xem xét kỹ nên Rushdie đã bỏ sót mất một điều khoản về “sự quá đà”.
Vài đoạn nói lên quan điểm riêng của Salman Rushdie về kiểm
duyệt:
“Đâu là các hiệu ứng của kiểm duyệt toàn diện? Rất rõ ràng,
đó là sự vắng mặt của thông tin và sự hiện diện của những lời dối trá. Trong
chiến dịch diệt chủng của Bhutto tại Baluchistan, các hãng thông tấn đều giữ im
lặng. Một cách chính thức, Baluchistan đang yên ổn. Những ai bị chết thì chết một
cách không chính thức. Chắc hẳn họ sẽ được an ủi nhiều lắm khi biết rằng sự thật
của Nhà nước tuyên bố tất cả họ vẫn còn sống. Một ví dụ khác: bạn sẽ không tìm
thấy thông tin về việc giới chóp bu quân sự của Pakistan có dính líu vào sự
bùng nổ của heroin, chủ đề vốn được tranh cãi rất nhiều trên báo chí nước này.
Thế nhưng đó lại là thứ nằm ẩn đằng sau mối quan tâm của Tướng Zia đối với đám
tị nạn Afghanistan. Thương gia Afghanistan góp sức điều hành ngành heroin ở
Pakistan, và họ dư sức hiểu cần phải làm quân đội trở nên giàu có ngang với
mình. May mắn xiết bao vì Qur’an không hề đả động đến đạo đức của việc thúc đẩy
heroin phát triển.
Nhưng hiệu ứng tệ hại, xấu xa nhất của kiểm duyệt nằm ở chỗ,
xét cho cùng, nó làm người ta thui chột trí tưởng tượng. Nơi nào không có tranh
luận, nơi ấy thật khó mà ngày ngày nhớ nổi rằng trong mọi cuộc tranh cãi đều có
một phía bị đục bỏ. Gần như không còn có thể hình dung những thứ bị đục bỏ là
gì nữa. Và thật dễ nghĩ những gì bị đục bỏ là vô giá trị, hoặc nguy hiểm đến mức
chúng cần bị đục bỏ. Khi đó, nhà kiểm duyệt đã hoàn toàn chiến thắng.”
Rất rõ ràng, mạch lạc.
Đến khi thực sự trở thành nạn nhân của áp chế và kiểm duyệt,
Salman Rushdie đã hành xử như thế nào? Câu chuyện được thuật lại rất chi tiết
trong Joseph Anton: các thông tin, sự
hẫng hụt, cay đắng, sự vùng vẫy, sự chứng kiến (ví dụ hình ảnh những người theo
đạo Hồi biểu tình đốt ảnh chân dung Salman Rushdie và/hoặc đốt quyển sách The Satanic Verses). Cả một bản miêu tả
vô cùng tỉ mỉ về tình thế của một con người rơi vào cảnh lưu vong, áp chế và kiểm
duyệt trong thế giới của chúng ta.
Nhưng tôi thấy đoạn cuối của chương II cuốn sách, mang tên
“Manuscripts Don’t Burn” (điển tích “bản thảo cháy” này, dĩ nhiên, lấy từ Nghệ nhân và Margarita của Bulgakov), hết
sức đáng chú ý để hiểu quan điểm sau này của Salman Rushdie đối với fatwa:
“Một lão già đau yếu hấp hối nằm trong căn phòng tối tăm.
Con trai lão kể cho lão nghe về những người theo đạo Hồi bị bắn chết ở Ấn Độ và
Pakistan. Có một cuốn sách đã gây ra chuyện đó, tay con trai nói với lão già, một
cuốn sách chống lại đạo Hồi. Vài giờ sau, đứa con trai cầm một tờ giấy đến trụ
sở đài truyền hình Iran. Thường thì một fatwa hay đạo lệnh phải là một thứ giấy
tờ chính thức, có chữ ký, có người chứng kiến và niêm phong cẩn thận, nhưng đây
chỉ là một tờ giấy với những dòng chữ được gõ bằng máy chữ. Chưa từng có ai
nhìn thấy tài liệu chính thức, đấy là giả dụ nó có tồn tại, nhưng đứa con trai
của lão già đau yếu hấp hối bảo đây là lệnh của cha hắn, thế là chẳng một ai
cãi lại. Tờ giấy ấy được chuyển cho phát thanh viên, thế là anh ta đọc to nó
lên.
Hôm ấy là ngày Valentine.”
[đây là thời điểm đầu năm 1989; Ayatollah Khomeini sẽ chết
sau đó vài tháng; đây cũng đã là tròn mười năm sau khi Khomeini tiến hành “Cách
mạng Iran”]
Rốt cuộc, kiểm duyệt hình như là một vết cắn phi lý của con muỗi, khi ta đã nằm vào trong màn.
Rốt cuộc, kiểm duyệt hình như là một vết cắn phi lý của con muỗi, khi ta đã nằm vào trong màn.
No comments:
Post a Comment