Đối với Nietzsche, thậm chí đến cả Kant cũng không phải là một triết gia.
Còn chính Nietzsche? có thể coi đó là một Platon mới không? Như vậy, đã có thể thấy hai cặp, Nietzsche-Platon và Kierkegaard-Socrate.
1. Lý tính nổ chậm
Tất tật những thứ gì có thời độ dài đều dần dà thấm đẫm lý trí đến mức thật không thể tin được là chúng đã có thể có nguồn gốc từ sự mất trí. Chẳng phải cái lịch sử chính xác của một sinh ra gần như lúc nào cũng được cảm thấy như là đầy nghịch lý và như sự báng bổ? Không phải là sử gia giỏi xét sâu xa dành thời gian để nói ngược à?
2. Định kiến của các nhà bác học
Các nhà bác học đánh giá thật đúng đắn rằng con người của mọi thời kỳ đều tưởng tượng là mình biết cái gì là tốt cái gì là xấu, đáng ca ngợi hay đáng chê trách. Nhưng định kiến của các nhà bác học nằm ở chỗ nghĩ rằng ngày nay chúng ta biết điều đó rõ hơn so với bất kỳ thời nào khác.
3. Cái gì cũng có thời của nó
Khi con người gán giống cho mọi thứ [chủ đề lặp lại nhiều lần trong suy nghĩ của Nietzsche], anh ta đã không thấy ở đây một trò chơi mà tưởng tượng mình đã có được một trực giác sâu sắc: - mãi rất muộn thì anh ta mới tự thú nhận, thậm chí có lẽ anh ta vẫn chưa làm sao mà hoàn toàn tự thú nhận được độ rộng gớm ghiếc của nhầm lẫn đó. - Cũng vậy, mọi thứ gì tồn tại, con người đều đã, đầy võ đoán, đặt chúng vào tương quan với mo ran và anh ta đã phủ lên thế giới một biểu nghĩa đạo đức. Rồi một ngày điều này sẽ có giá trị không nhiều hơn cũng không ít hơn so với giá trị mà ngày nay lòng tin đặt vào đực tính hay vào nữ tính của mặt trời có được.
4. Chống lại cái gọi là thiếu hụt hài hòa của các tầng cầu
Chúng ta phải gỡ đi khỏi thế giới vô số sự lớn lao giả của nó vì chúng đi ngược lại công lý mà mọi thứ đều có thể đòi từ chúng ta! Tuy thế không được tìm cách thấy là thế giới kém hài hòa hơn so với nó vốn dĩ!
5. Hãy biết ơn!
Thành tựu lớn mà chúng ta nợ nơi loài người đi trước chúng ta, ấy là việc không còn bị buộc phải sống trong nỗi kinh hoàng thường trực đối với lũ thú dữ, bọn mọi rợ, các vị thần và những giấc mơ của chính chúng ta nữa.
6. Nhà ảo thuật và trái ngược của anh ta
Những gì gây ngạc nhiên trong khoa học thì trái ngược với những gì gây ngạc nhiên ở nghệ thuật của nhà ảo thuật. Kẻ kia muốn lôi kéo chúng ta tới chỗ thấy một nhân quả rất đơn giản ở chỗ trên thực tế một nhân quả rất phức tạp hoạt động. Ngược lại, khoa học bắt chúng ta phải từ bỏ lòng tin vào các nhân quả đơn giản chính ở chỗ mọi thứ dường thật dễ hiểu, nơi chúng ta bị vẻ bề ngoài đánh lừa. Những thứ "đơn giản hơn cả" thì rất phức tạp - người ta chẳng thể nào kinh ngạc về điều này đủ được đâu!
7. Sự biến đổi của cảm giác về không gian
Cái gì đã đóng góp nhiều nhất vào hạnh phúc của loài người, những thứ có thật hay những thứ được tưởng tượng ra? Chắc chắn là khoảng cách phân tách hạnh phúc cực điểm khỏi bất hạnh sâu sắc hơn cả đã chỉ có được toàn bộ độ rộng của nó nương theo những điều tưởng tượng ra. Dạng cảm giác về không gian này sau đó thường trực bị thu nhỏ lại dưới tác động của khoa học: cũng giống khoa học đã dạy cho chúng ta và vẫn dạy cho chúng ta cảm thấy rằng trái đất thì nhỏ và chính hệ mặt trời cũng chỉ là một điểm.
8. Hiển dung
Đau đớn không hy vọng, mơ mẩn rối mù, sướng vui siêu trần thế - chỉ ba mức đấy được Raphael trao cho con người. Chúng ta không còn nhìn thế giới như thế nữa - và chính Raphael hẳn kể từ nay cũng không có quyền làm thế: hẳn cặp mắt ông sẽ khiến ông nom thấy một hiển dung khác.
9. Khái niệm luân lý của phong hóa
Trong tương quan với thức sống trong suốt hàng nghìn năm vốn dĩ từng là thức sống của loài người, chúng ta, những con người ngày hôm nay, sống trong một thời kỳ hết sức vô luân: quyền lực của phong hóa đã suy yếu đáng kinh ngạc và ý thức về luân lý đã được tinh luyện, nó đã chiếm lấy một độ cao tới nỗi hẳn người ta cũng có thể nói rằng nó đã bốc hơi mất. Do đó đối với chúng ta, những kẻ đến muộn, thật khó mà đạt tới được những cái nhìn nền tảng vào sự sinh ra của mo ran và, khi dẫu thế nào thì chúng ta cũng làm được điều đó, chúng mắc lại trong cổ họng của chúng ta và không muốn được diễn tả ra: vì chúng phát ra một âm thanh thô thiển! Hoặc vì dường như chúng vu khống luân lý! Chẳng hạn định đề sau đây: luân lý chẳng là gì khác (và như vậy, nhất là, không gì hơn) ngoài sự vâng lời các tập quán, cho dù các tập quán có là gì đi chăng nữa; thế nhưng các tập quán là cách thức truyền thống của hành động và đánh giá. Ở những hoàn cảnh nơi không có bất cứ truyền thống nào được áp đặt, thì không có luân lý; và cuộc sống càng ít bị quy định bởi truyền thống, địa hạt của luân lý càng giảm bớt. Con người tự do thì vô luân vì anh ta muốn, trong mọi sự, phụ thuộc vào chính anh ta chứ không phải vào một truyền thống: đối với tất tật các hình thức của loài người nguyên thủy, "xấu" đồng nghĩa với "cá nhân", "tự do", "võ đoán", "không thường lệ", "bất ngờ", "không được dự liệu". Vẫn theo những tiêu chí của các văn minh nguyên thủy ấy, nếu người ta hành động không phải vì truyền thống muốn thế mà vì các mô típ khác (chẳng hạn lợi ích cá nhân), và ngay cả vì chính những mô típ xưa kia từng lập ra truyền thống đó, thì hành động sẽ bị xếp vào loại vô luân và bản thân tác giả của nó cũng coi như như vậy: bởi nó không nảy sinh từ sự vâng lời truyền thống. Truyền thống là gì? Một uy quyền vượt trội mà người ta vâng theo không phải vì nó ra lệnh những gì hữu ích với chúng ta, mà vì nó ra lệnh. - Ở điểm nào tình cảm về truyền thống này được phân biệt với tình cảm về nỗi sợ? Đấy là nỗi sợ khi ở trước một trí năng vượt trội, thứ ra các mệnh lệnh của nó tại đây, ở trước một quyền năng không thể hiểu và thiếu cụ thể, ở trước một cái gì đó vượt quá cái cá nhân - có sự mê tín trong nỗi sợ ấy. Ở khởi đầu, toàn bộ giáo dục và vệ sinh cơ thể, hôn nhân, thuốc, nông nghiệp, chiến tranh, lời nói hay sự e dè im lặng, những mối quan hệ giữa các con người với nhau và với thần đều từng thuộc vào địa hạt của luân lý: nó đòi người ta phải theo các giới luật mà không đưa những vấn đề cá nhân can thiệp vào. Như vậy, ở khởi đầu, mọi thứ đều từng là phong hóa, và bất kỳ ai muốn vươn lên cao hơn chúng đều phải trở thành nhà lập pháp, người chữa bệnh và cách nào đó, á thần: tức là anh ta phải tạo ra các phong hóa - việc gây hoảng sợ và mang nguy cơ chết người! Ai là người nhiều luân lý hơn cả? Trước hết là cái người thường xuyên nhất hành động theo luật: tức là, giống brahmane, ở mọi nơi, vào mọi khoảnh khắc và mọi giây phút, cái người lưu giữ luật hiện diện trong tâm trí, thành thử người đó thường trực chế ra các cơ hội để vâng lời luật ấy. Sau đó, người nào vâng lời nó kể cả ở các hoàn cảnh ngặt nghèo nhất. Người nhiều tính cách luân lý hơn cả là người hy sinh nhiều nhất cho phong hóa: nhưng đâu là những hy sinh lớn nhất? Tùy theo lời đáp mang đến cho câu hỏi này, người ta có thể phân biệt nhiều típ mo ran: tuy nhiên khác biệt cốt yếu vẫn cứ là khác biệt phân tách các mo ran của sự vâng lời hay gặp hơn cả khỏi các mo ran của sự vâng lời ngặt nghèo hơn cả. Không được nhầm lẫn các mô típ của thứ mo ran đòi hỏi, như là dấu hiệu cho luân lý, sự vâng lời ngặt nghèo hơn cả! Sự chiến thắng chính mình không được đòi hỏi để nhằm đến những hệ quả hữu ích của nó cho cá nhân, mà là để phong hóa, tức truyền thống, biểu lộ được quyền năng thống trị của mình, mặc cho toàn bộ nỗi kinh tởm và mọi lợi thế cá nhân: cá nhân phải tự hy sinh - luân lý của phong hóa đòi hỏi như vậy. Ngược lại các luân lý gia nào, giống những luân lý giá đi theo các dấu vết của Socrate, đặt lên cao nhất cho cá nhân một mo ran về làm chủ chính mình và sự kiêng khem nơi họ thấy lợi ích riêng nhất của người đó và chìa khóa cá nhân nhất cho hạnh phúc của người đó, tạo dựng ngoại lệ - và chúng ta nhìn mọi sự khác đi là vì chúng ta từng được nuôi dạy dưới ảnh hưởng của họ: tất tật đều mượn lấy một con đường mới, nó khiến họ phải chịu sự không tán thành nghiêm khắc hơn cả từ tất tật những đại diện cho luân lý của phong hóa - họ bị loại trừ khỏi cộng đồng như là vô luân và là xấu, trong nghĩa sâu sắc nhất. Chính theo cách này mà đối với một người La Mã đức hạnh thuộc phái cũ, mọi Ki-tô hữu nào "trước hết khát khao tới cứu rỗi riêng của mình" đều dường xấu. Khắp nơi nào có cộng đồng và do đó có luân lý của phong hóa, người ta đều thấy ngự trị ý theo đó sự trừng trị cho việc vi phạm phong hóa trước nhất rơi trở lại xuống cộng đồng: sự trừng trị siêu nhiên ấy, mà các biểu lộ cùng các biên giới hết sức khó nắm bắt và được nghiên cứu với một nỗi hoảng sợ vô cùng nhiều mê tín. Cộng đồng có thể buộc cá nhân phải sửa chữa đối với một cá nhân hay cộng đồng tổn thất tức thì mà hành động của anh ta đã kéo theo, nó cũng có thể trả thù bằng một cách thức nào đó lên cá nhân vì chuyện, do lỗi của anh ta, được cho là tiếp theo sau hành động của anh ta, những đám mây cùng những cơn giông từ sự giận dữ thần thánh đã dồn đống lại phía trên cộng đồng - thế nhưng trước hết nó cảm thấy lỗi của cá nhân như là lỗi của nó, và nó chịu đựng sự trừng trị người kia như là sự trừng trị của nó: "các phong hóa đã bị buông lỏng", người nào cũng than vãn trong tâm hồn mình, "thì mới có những hành động như thế được". Mọi hành động cá nhân, mọi cách nhìn cá nhân đều khơi lên nỗi hoảng hốt; người ta không thể ước lượng nổi những gì mà các tinh thần hiếm hơn cả, tinh xảo hơn cả, độc đáo hơn cả đã phải gánh chịu trong dòng lịch sử, luôn luôn bị coi là xấu và nguy hiểm, còn hơn thế nhiều, từng luôn luôn tự coi bản thân mình như vậy. Dưới sự thống trị của luân lý phong hóa, tất tật những hình thức của sự độc đáo đều mang ý thức xấu: cho đến giờ, chân trời của những người giỏi nhất đã bởi thế mà trở nên còn u tối hơn mức lẽ ra nó nên u tối.
10. Ý thức về luân lý và ý thức về nhân quả tỉ lệ nghịch với nhau
Ý thức về nhân quả càng tăng, thì địa hạt nơi quyền uy của luân lý được thực thi lại càng giảm: bởi ngay khi người ta hiểu được tất yếu của các kết quả và đã biết cách lập luận, loại trừ đi toàn bộ những gì là ngẫu nhĩ, liên tiếp (post hoc) ngẫu nhiên, người ta đã phá hủy được vô số nhân quả tưởng tượng cho tới lúc ấy người ta từng tưởng như là nền móng của phong hóa - thế giới thực nhỏ hơn nhiều so với thế giới tưởng tượng - và ở mỗi lần một chút hoảng sợ cùng bó buộc đã biến mất, ở mỗi lần một chút sự kính trọng dành cho uy quyền của các phong hóa: tính tổng lại, chính luân lý đã phải trả phí tổn cho điều này. Bất kỳ ai, ngược lại, muốn củng cố nó, đều phải hết sức cẩn thận việc những kết quả trở nên có thể kiểm soát.
11. Mo ran bình dân và y học bình dân
Người nào cũng liên tục ra sức nhằm hoàn hảo hóa mo ran ngự trị tại một cộng đồng: phần lớn chất đống các hình mẫu về cái được gọi là tương quan nhân quả, của lỗi với trừng trị, họ xác nhận nền vững của nó và làm tăng thêm uy tín của nó: một số người lao mình vào những quan sát mới về các hành động cùng những hệ quả của chúng và rút từ đó ra các kết luận cùng luật: thiểu số vấp chân ở đây ở kia và làm suy yếu uy tín của truyền thống ở một số điểm. - Nhưng tất tật giống nhau bởi cách tiến hành thô thiển, không khoa học hoạt động của mình; dẫu có là những hình mẫu ví dụ, những quan sát hay những dè chừng, hay chứng cứ, sự xác nhận, phát biểu hay phản bác một luật - vật chất và hình thức cũng đều không mang giá trị hệt như vật chất cùng hình thức của mọi y học bình dân. Y học bình dân và mo ran bình dân đi đôi với nhau và hẳn không được đánh giá khác hẳn nhau như người ta vấn cứ cố làm nữa: đấy là hai thứ ngụy khoa học nguy hiểm hơn cả.
12. Hệ quả thêm vào
Xưa kia người ta từng nghĩ rằng thành công của một thể động không phải là hệ quả của nó mà từ chỗ khác đến tự thêm mình vào, một cách ngẫu nhĩ - và cái đó là nhờ Chúa. Người ta có thể tưởng tượng nổi sự mù mờ nào tệ hơn được chăng! Đã phải có những nỗ lực nổi bật nhằm hành động và đạt tới một kết quả: một mặt là các phương tiện, mặt khác là các thực hành!
13. Vì một giáo dục mới cho giống người
Giúp đi nào, hỡi những con người thích trợ sức và có ý chí tốt đẹp, một việc đang đợi các anh đây: gỡ bỏ đi khỏi thế giới khái niệm trừng trị, thứ đã nhiễm bẩn toàn bộ nó! Chẳng có sự nhiễm bẩn nào tệ hơn. Người ta đã không chỉ đặt khái niệm đó vào các hệ quả từ những thể động của chúng ta - và thế nhưng, sự gớm ghiếc mới đã lớn làm sao, sự mất trí đã mới lớn làm sao, khi coi nguyên nhân và kết quả như là nguyên nhân và trừng phạt! - người ta còn đã làm nhiều hơn và, do sự nhơ bẩn nhuốm màu quỷ biện của khái niệm trừng trị, người ta đã hoàn toàn tước đi khỏi sự vô tội của nó sự ngẫu nhiên thuần túy của những gì xảy đến. Thậm chí người ta còn từng đẩy sự say cuồng tận tới chỗ ra lệnh phải cảm thấy chính tồn tại như một sự trừng trị - hẳn người ta có thể nói rằng sự giáo dục loài người cho đến giờ đã bị điều khiển bởi trí tưởng tượng loạn đả của đám cai ngục và lũ đao phủ thủ!
14. Biểu nghĩa của rồ dại trong lịch sử luân lý
Nếu mặc cho sức ép đáng hoảng sợ của "luân lý của phong hóa" dưới đó tất tật các cộng đồng người đều đã sống suốt hàng nghìn năm trước khi có lịch, và thậm chí nhìn chung cả khi đã có lịch, cho đến thời chúng ta (bởi đối với chúng ta, chúng ta đang sống trong vũ trụ nhỏ bé của các ngoại lệ và có thể nói, ở vùng tệ hại): - nếu mặc cho mọi sự, tôi đang nói, những suy nghĩ, những khuynh hướng cùng những đánh giá về giá trị mới và thiếu đều đặn đã không bao giờ ngừng nở rộ, thì luôn luôn là với kẻ đi cùng đáng kinh khiếp: gần như khắp nơi sự rồ dại là thứ vạch con đường cho suy nghĩ mới, nó hất bỏ sự cấm đoán của một tập tục, của một sự mê tín được kính trọng. Bạn có hiểu tại sao đã phải là sự rồ dại không? Một cái gì đó cũng đáng hoảng sợ và khó dự đoán trong giọng nói và các cử chỉ như những thất thường quỷ quái của giông và của biển, và do vậy cũng xứng với nỗi e sợ và chú ý như chúng? Một cái gì đó rõ ràng cũng mang dấu hiệu của cái không thể kiểm soát như các quặn thắt cùng dãi nhớt của kẻ động kinh, thứ dường như, bằng cách ấy, chỉ định kẻ mất trí như là mặt nạ và người mang giọng của một thần thánh? Một cái gì đó đem lại cho tới tận người mang một ý mới sự sợ và run trước chính mình chứ không phải sám hối, và đẩy người đó trở thành nhà tiên tri và kẻ tuẫn đạo cho nó? - Trong khi ngày nay người ta cứ không ngừng khiến chúng ta hiểu rằng thiên tài được điểm xuyết không phải bằng một nhúm muối mà bằng một nhúm rồ dại, tất tật con người xưa kia lại từng có nhiều khuynh hướng hơn về phía nghĩ rằng mọi nơi nào có rồ dại cũng đều có một nhúm của thiên tài cùng sự thông thái - một cái gì đó "thần linh" như người ta từng hay thì thào vào tai nhau. Hay nói đúng hơn người ta, khá mạnh mẽ, tự giải thích về điều đó. "Chính là nhờ sự rồ dại mà những gì tốt đẹp lớn lao nhất đã đến với Hy Lạp", Plato nói, cùng toàn bộ loài người cổ đại. Chúng ta hãy tiến thêm một bước: tất tật những con người vượt trội cảm thấy bị thúc đẩy theo lối không thể cưỡng tới chỗ bẻ gãy cái ách của một luân lý nào đó và thiết lập các luật mới đã chẳng có giải pháp nào khác, nếu họ không thực sự rồ dại, ngoài tự biến mình thành rồ dại hay tự cho mình là như vậy - và điều này đúng với những người đổi mới tại tất tật các địa hạt, chứ không chỉ địa hạt của các thiết chế thờ cúng và chính trị: - ngay cả người sáng chế ra vận luật thơ cũng đã phải dùng rồ dại để tăng uy tín cho mình. (Cho tới những thời êm đềm hơn nhiều, một quy ước nhất định về rồ dại vẫn cứ được buộc chặt vào với các nhà thơ: Solon, chẳng hạn, đã dẫn chiếu đến nó nhằm kêu gọi người Athens tái chinh phục Salamine. "Làm thế nào mà người ta lại tự biến mình thành rồ dại được khi người ta không rồ dại và không dám vờ là mình bị như thế?" Gần như tất tật những con người có giá trị của các văn minh cổ đều đã đưa bài học gớm ghê này vào những suy ngẫm của họ; một học thuyết bí mật, các hỗn hợp của những trò xảo cùng những chỉ dẫn về ăn kiêng, đã được lan truyền về chủ đề này, đi kèm với cảm giác về sự vô tội và thậm chí về thánh tính của các mối bận tâm như vậy và các chủ đề như vậy. Những công thức để trở thành "người-thuốc" ở người Ấn Độ, thánh ở các Ki-tô hữu, "anguécoque" ở người Groenland, "paje" ở người Braxin, xét về cốt yếu là một: nhịn ăn lối mất trí, kiêng khem kéo dài, ẩn trú chốn sa mạc, hoặc nữa, trên đỉnh một ngọn núi hay một cây cột, hay "kỳ lưu trú trên một cây liễu cổ nhìn được xuống một cái hồ", với sự nghiêm cấm nghĩ tới gì khác ngoài những gì có cơ kéo sự xuất thần cùng mất trật tự của tinh thần đến. Vậy thì ai mạo hiểm mà đi ném một ánh mắt xuống vực thẳm của các hoảng loạn tinh thần, những gì chua cay và vô tích sự hơn cả, nơi đáy của nó có vẻ như là những người giàu sức sinh sôi nhất của tất tật các thời từng đờ đẫn! Hoặc dỏng tai lắng nghe những tiếng thở dài kia, của các kẻ cô độc mặt mũi phờ phạc: "A! Ít nhất thì cũng hãy cho tôi sự rồ dại, hỡi các quyền năng trên trời! Sự rồ dại, để rốt cuộc thì tôi cũng tin được vào chính mình! Hãy cho tôi sự điên rồ cùng những quặn thắt, những soi rọi cùng những bóng tối đột nhiên, hãy làm tôi kinh hãi bằng các luồng run rẩy và các cơn nồng nhiệt như chưa từng bao giờ có kẻ phàm nào cảm thấy, các ầm ào và các hình dạng lang thang, hãy làm cho tôi hú lên và rên rỉ và trườn như một con thú: nhưng rồi tôi có được niềm tin vào chính tôi! Nỗi nghi ngờ ngốn ngấu tôi, tôi đã giết luật, luật ám tôi như một xác chết ám một người sống; nếu chỉ còn là luật, thì tôi chính là kẻ vét đĩa nhất trong số những ai bị đọa. Tinh thần mới ở trong tôi đây, nó từ đâu đến, nếu chẳng phải từ người? Vậy thì hãy chứng tỏ cho tôi thấy tôi thuộc về người; chỉ sự rồ dại mới chứng mình được cho tôi điều này." Và quá thường xuyên nhiệt hứng ấy đã quá mức trúng được vào đích của nó: vào cái thời nơi Ki-tô giáo tự khẳng định mình dồi dào các vị thánh cùng các ẩn sĩ hơn cả, qua đó mà tưởng tượng nó đang tự khẳng định mình, đã có tại Jerusalem những trại điên rộng lớn cho các vị thánh bị đắm, cho những ai đã dùng hạt tinh thần cuối cùng của mình cho công việc.
15. Những an ủi cổ xưa nhất
Chặng thứ nhất: con người thấy ở mọi nỗi khó ở hoặc nghịch cảnh một điều gì vì đó anh ta phải làm cho một người khác, chọn ngẫu nhiên, phải đau đớn - làm như thế anh ta thức nhận được những gì thuộc quyền năng còn lại với anh ta và cái đó an ủi anh ta. Chặng thứ hai: con người thấy ở mọi nỗi khó ở hoặc nghịch cảnh một trừng trị, tức là sự chuộc lại cho một lỗi cùng phương tiện thoát khỏi sự quyến rũ ngây ngất hiểm ác của một sự thiên ái thực hay tưởng tượng của số phận. Ngay khi anh ta đã thấy được lợi thế ấy, mà bất hạnh lúc nào cũng đi cùng, anh ta ngừng tin vào tất yếu của việc làm một ai đó khác phải đau đớn vì điều kia nữa - anh ta tách được khỏi dạng thỏa mãn ấy, bởi kể từ nay anh ta có một sự thỏa mãn khác.
16. Nguyên tắc thứ nhất của văn minh
Nơi các dân chúng man dã, có một hạng mục phong hóa, tập tục mà mục tiêu dường là tập tục vì chính nó: những quy định tỉ mỉ và xét cho cùng thừa thãi (như ở người Kamtchadale sự cấm đoán dùng dao cạo tuyết khỏi giày, dùng dao khơi lửa, cho sắt vào lửa - và cái chết giáng xuống người nào vi phạm các mệnh lệnh đó!), nhưng chúng thường trực duy trì có ý thức hiện diện thường trực của các phong hóa, bổn phận không bị ngắt quãng phải hành động chiểu theo các phong hóa: trong mục đích củng cố nguyên tắc lớn vốn dĩ nằm ở khởi nguồn của các văn minh: bất kỳ tập tục nào cũng đáng giá hơn sự vắng mặt của tập tục.
17. Tự nhiên tốt và Tự nhiên xấu
Thoạt tiên con người bị đẩy bắn vào tự nhiên: họ tự thấy mình ở khắp nơi, họ và đồng loại của họ, tức là tính cách độc ác và thất thường của họ, bị giấu đi, hẳn có thể nói thế, đằng sau những đám mây, những cơn giông, lũ thú dữ, các cái cây to cây nhỏ: họ bèn bịa ra "tự nhiên xấu". Rồi đến một thời kỳ nơi họ tách đi một cách rõ rệt khỏi tự nhiên, thời kỳ của Rousseau: người ta thấy mệt mỏi với nhau tới nỗi nhất định lưu giữ một góc nơi con người sẽ không đến mang theo các hành hạ của mình: người ta đã chế ra "tự nhiên tốt".
18. Mo ran của đau đớn có chủ ý
Đâu là niềm sung sướng lớn hơn cả của những người đang tham chiến, trong cái cộng đồng nhỏ thường trực bị đe dọa ấy, nơi ngự trị thứ luân lý nghiêm ngặt nhất? Tức là đối với các tâm hồn mạnh, thích trả thù, đầy căm hận, xảo trá, nhiều ngờ vực, sẵn sàng cho điều tồi tệ nhất và trở nên cứng đanh do những thiếu thốn cùng luân lý? Niềm sung sướng của sự tàn nhẫn: cũng vậy, ở các hoàn cảnh đó, người ta tính đức hạnh cho một tâm hồn nào đó vì giàu sức sáng chế và không biết thỏa trong sự tàn nhẫn. Cộng đồng được tái tạo nhờ những hành động của con người tàn nhẫn, nhờ thế nó quên đi được nỗi buồn u tối nơi các hoảng sợ của mình cùng những cẩn trọng liên tục của mình. Sự tàn nhẫn là một trong những niềm sung sướng cổ nhất của loài người. Do vậy người ta tưởng tượng ra rằng các thần cũng được tái tạo và có tâm trạng tốt khi người ta dâng cho bọn họ cảnh tượng của tàn nhẫn - bằng cách ấy mà luồn lỏi vào thế giới cái ý theo đó đau đớn có chủ ý, sự hành hạ được lựa chọn theo lối tự do sở hữu một nghĩa và một giá trị rất cao. Dần dà tập tục sản sinh tại cộng đồng các thực hành phù hợp với ý này: kể từ bấy càng lúc người ta càng nghi ngại mọi quá đà về sướng thân và càng lúc người ta càng cảm thấy tin tưởng vào những thời kỳ nặng nhọc và đau đớn; người ta tự nhủ: rất có thể các vị thần chĩa vào chúng ta ánh mắt ác ý những lúc chúng ta sung sướng, từ tâm những lúc chúng ta chịu đau đớn - và hoàn toàn không đáng thương! Bởi sự thương hại bị coi là đáng khinh và không xứng với một tâm hồn mạnh và đáng gờm - nhưng từ tâm vì đau đớn của chúng ta khiến bọn họ cảm thấy sung sướng và làm họ có tâm trạng tốt: bởi sự tàn nhẫn tạo ra cảm giác về quyền năng đẫm nhục cảm hơn cả. Vậy là được đưa vào ý niệm về "con người nhiều luân lý nhất" của cộng đồng đức hạnh của đau đớn thường xuyên, của thiếu thốn, của khó nhọc cuộc đời, của dấm dứt đau khổ tàn nhẫn - không, cần phải nói đi nói lại điều này, như phương tiện cho kỷ luật, cho làm chủ bản thân, cho sự xâm nhập hạnh phúc cá nhân - mà như là một đức hạnh mang tới cho cộng đồng danh tiếng tốt đẹp ở chỗ những vị thần độc ác và đi lên về phía bọn họ giống khói của một hiến sinh nhằm chuộc tội không ngừng được đổi mới trên ban thờ bọn họ. Tất tật các thủ lĩnh tinh thần của những dân tộc từng tỏ ra là mình có khả năng làm trồi lên một cái gì đó từ đống lầy trơ ì và nhiều sức sinh nở nơi phong hóa của họ từng rất cần, ngoài sự rồ dại, màn hành hạ có chủ ý nhằm lấy điểm - và, như mọi khi, trước hết và nhất là ở chính họ! Tinh thần họ càng dấn mình vào các con đường mới, chính thế, thì do đó nó lại càng bị hành hạ nhiều hơn bởi những sám hối cùng hoảng sợ, họ lại càng tàn nhẫn điên cuồng hơn đối với da thịt chính họ, các ham muốn của chính họ và sức khỏe của chính họ - như để dâng cho thần một thế phẩm của khoái lạc, trong trường hợp thần nổi cáu vì thấy các tập quán bị lơ là và bị đánh đập nhằm làm lợi cho những mục tiêu mới. Chúng ta đừng tự tạo quá nhiều ảo tưởng: ngày nay chúng ta vẫn chưa hoàn toàn được giải thoát khỏi một logic về tình cảm như vậy! Các tâm hồn nhiều tính cách anh hùng hơn cả cứ thật thẳng thắn mà tự đặt câu hỏi cho mình. Bất kỳ bước chân nào dù nhỏ đến đâu trên con đường của một suy nghĩ tự do, của một hình thức sống cá nhân, lúc nào cũng đã phải trả giá bằng những tra tấn tinh thần và thể chất: và không chỉ là bước tiến về phía trước, không! Trước mọi bước tiến, chuyển động, sự thay đổi đã đòi hỏi, suốt hàng nghìn năm cống hiến cho việc tìm các con đường và tạo những nền móng, vô số hành xác mà, tất nhiên, người ta chẳng hề nghĩ tới những khi nói, theo thói quen, đến "lịch sử phổ quát", cái mẩu nhỏ tới lố bịch của cuộc đời loài người; và ngay cả trong cái được gọi là lịch sử phổ quát ấy, vốn dĩ xét sâu xa chỉ là một sự rầm rĩ xung quanh những gì mới nhất, tuyệt đối không có chủ đề nào quan trọng hơn so với bi kịch không tính được tuổi của các hành xác, chúng cứ muốn làm cho đầm lầy chuyển động. Chẳng gì tốn kém hơn cái phần lý trí con người và cảm giác về tự do, điều tạo dựng sự kiêu ngạo của chúng ta ngày nay. Vả lại chính sự kiêu ngạo đấy là thứ giờ đây làm cho đối với chúng ta gần như là không thể, một cộng đồng của tình cảm với các thời kỳ bất tận của "luân lý của phong hóa" kia, vốn đi trước "lịch sử phổ quát" và tạo ra trên thực tế lịch sử cốt tử và quyết định, cái lịch sử đã cố định hóa tính cách của loài người một cách chung quyết: vào lúc đau đớn được coi là đức hạnh, tàn nhẫn là đức hạnh, sự che giấu là đức hạnh, trả thù là đức hạnh, sự khước từ lý trí là đức hạnh, và khi, ngược lại, nỗi sướng thân bị xem như một mối nguy, sự thèm khát cái biết là một mối nguy, yên bình là một mối nguy, thương xót là một mối nguy, việc kích thích lòng thương là một nỗi xấu hổ, công việc là một nỗi xấu hổ, sự rồ dại là một cảm hứng thần thánh, thay đổi là một phi luân trĩu nặng nguy hiểm! - Bạn nghĩ người ta đã biến đổi toàn bộ những cái đó và bằng cách ấy loài người hẳn đã thay đổi tính cách rồi? Ồ, hỡi những kẻ sành sỏi trái tim người, hãy học cách tự biết mình rõ hơn đi!
19. Luân lý và ngu đần hóa
Các phong hóa trình hiện kinh nghiệm mà loài người trước đây đã giành được về những gì nó coi là hữu ích hay có hại - nhưng cảm giác về phong hóa (luân lý) không có tương quan với kinh nghiệm ấy ở tư cách chính nó, mà với thời cổ đại, thánh tính và sự không thể tranh cãi của phong hóa. Như vậy cảm giác này chống đối lại việc người ta có được các kinh nghiệm mới và sửa chữa phong hóa: tức là luân lý chống đối lại sự sinh ra của những phong hóa mới và tốt đẹp hơn: nó ngu đần hóa.
20. Các diễn viên tự do và những người nghĩ tự do
Các diễn viên tự do chịu bất lợi trong tương quan với những người nghĩ tự do, bởi con người chịu đau đớn, theo lối rõ ràng, những hệ quả từ các thể động thì nhiều hơn là những hệ quả từ các suy nghĩ. Nhưng nếu nhìn nhận rằng cả hai bên đều tìm kiếm sự thỏa mãn của mình và chỉ cần, cho sự thỏa mãn của những người nghĩ tự do, việc suy nghĩ và diễn tả những điều bị cấm, thì người ta thấy ngay rằng, về phần các động cơ, hai bên giống hệt nhau: về phần các hệ quả, thậm chí cán cân còn nghiêng về phía thiệt cho người nghĩ tự do, nếu đặt giả định là người ta không đánh giá dựa trên chứng cứ đầu tiên và thô thiển hơn cả - tức là giống tất cả mọi người. Có đầy đủ cơ sở để quay trở lại với những lời vu khống mà người ta từng dùng nhằm o ép tất tật những ai, thông qua các thể động của mình, phá vỡ đi sự cấm đoán của một tập tục - theo quy tắc chung người ta gọi họ là lũ tội phạm. Mọi con người nào từng lật đổ luật luân lý đang tồn tại đều, cho đến lúc này, từng trước hết luôn luôn bị coi là một người xấu; nhưng nếu như, khi sau đó người ta không còn có thể thiết lập được luật, khi người ta đã quen với sự đã rồi, vị từ dần dà được biến đổi; - lịch sử gần như chỉ chuyên nhất bàn về những người xấu đó, mà về sau này người ta tuyên bố là tốt.
21. "Tựu thành của luật"
Khi sự vâng lời một giáo huấn luân lý kéo theo một kết quả khác với kết quả đã được hứa và được trông đợi, và bất hạnh cùng hoảng loạn giáng xuống người công chính ngược lại mọi chờ mong, thay vì hạnh phúc đã được hứa, lúc nào vẫn cứ còn lại một lối thoát cho những kẻ cẩn thận và nhiều lo lắng: "người ta đã phạm một lỗi trong sự thực thi". Ở trường hợp tệ hại hơn cả, thậm chí một loài người chịu đau đớn và bị áp bức một cách sâu sắc sẽ tuyên: "không thể nào thực thi đúng cách giáo huấn, chúng ta chỉ toàn là yếu ớt và tội lỗi, và ở nền tảng không có khả năng về luân lý: do đó chúng ta chẳng có bất cứ quyền nào với hạnh phúc và thành công. Các lời hứa cùng các giáo huấn luân lý được tạo ra cho những con người tốt đẹp hơn chúng ta."
22. Các tác phẩm và niềm tin
Các tiến sĩ Tin lành vẫn tiếp tục lan truyền nhầm lẫn nền tảng sau đây: chỉ niềm tin là đáng kể, và từ niềm tin nhất thiết tuôn ra các tác phẩm. Ý này tuyệt đối sai, nhưng nó gây nhiều quyến rũ đến nỗi từng hấp dẫn được nhiều trí năng khác chứ không chỉ Luther (tôi đang nghĩ đến trí năng của Socrates và của Plato): cho dù tất tật các kinh nghiệm của mỗi ngày hiển nhiên chứng minh điều ngược lại. Hiểu biết hay niềm tin chắc chắn nhất không có khả năng trao sức mạnh cùng sự khéo léo cho hành động, nó không có khả năng thay thế sự tập luyện từ trước của cái cơ chế tinh tế và phức tạp ấy, sự tập luyện không thể thiếu để một yếu tố nào đó của một trình hiện có thể biến được thành hành động. Thoạt tiên phải là các tác phẩm, trước mọi sự! Tức là luyện tập, luyện tập, luyện tập! "Niềm tin" thích ứng sự tự được thêm vào - cứ chắc chắn về điều này đi.
23. Sự tinh xảo lớn nhất của chúng ta nằm ở đâu
Do sự thể trong vòng nhiều nghìn năm người ta từng nghĩ rằng các vật (tự nhiên, các công cụ, những sở hữu thuộc đủ mọi dạng) cũng sống và sống động, có khả năng gây hại và thoát đi khỏi những ý đồ của con người, ở con người cảm giác bất lực đã mạnh hơn nhiều và phổ biến hơn nhiều so với lẽ ra cần phải vậy: cần thiết phải được đảm bảo về các vật, giống hệt như về con người cùng thú vật, nhờ sức mạnh, sự bó buộc, sự phỉnh nịnh, các hiệp ước, các hy sinh - đấy là nguồn gốc cho phần lớn những thực hành mê tín, tức là cho một phần quan trọng và có lẽ chiếm thế thượng phong, và tuy nhiên bị lãng phí và vô tích sự, nơi mọi hoạt động mà con người bày ra, cho tới tận hôm nay! - Nhưng vì cảm giác bất lực và sợ hãi từng bị kích thích, gần như theo lối thường trực, lâu đến vậy và dữ dội đến vậy, cảm giác quyền lực đã phát triển với một sự tinh xảo lớn tới nỗi giờ đây con người có thể cân nó bằng cái cân tiểu ly tinh tế hơn cả. Nó đã trở nên xu hướng mạnh nhất ở con người; những phương tiện được khám phá nhằm đến được đó gần như tạo dựng lịch sử văn hóa.
24. Chứng cứ của một giới luật
Nhìn chung, sự chuẩn hoặc sự chính xác của một giới luật - chẳng hạn về nướng bánh - được chứng minh bằng việc kết quả hứa trước có được đạt tới hay không, tất nhiên với điều kiện nó đã được làm đúng theo một cách nghiêm ngặt. Chuyện khác hẳn đối với các giới luật luân lý: bởi ở đây những kết quả lại không thể được đánh giá trong tổng thể của chúng, nếu chẳng phải là bằng cách diễn giải, và là theo cách thức thiếu cụ thể. Những giới luật đó được đặt trên các giả thuyết có giá trị khoa học nhỏ nhất, cho nên xét sâu xa không thể cả chứng tỏ hay phản bác từ những kết quả được: - nhưng xưa kia, lúc mọi khoa học hẵng còn ở trong sự xù xì nguyên thủy của mình và người ta ít đòi hỏi về chứng cứ - xưa kia người ta đã thiết lập sự chuẩn hay sự chính xác của một giới luận luân lý chính xác như ngày nay sự chuẩn của bất cứ giới luật nào khác: bằng cách triệu tới các kết quả. Nếu ở những người bản địa châu Mỹ thuộc Nga giới luật ra lệnh: mi không được ném xương thú vào lửa hay cho chó ăn - thì chứng cứ của nó được quy định như sau: "nếu làm thế, mi sẽ không gặp may khi đi săn". Thế nhưng, theo một nghĩa nhất định, người ta không bao giờ "gặp may khi đi săn"; chẳng mấy dễ dàng, việc phản bác trên địa hạt của sự chuẩn xác nơi giới luật này, nhất là nếu người ta coi cộng đồng chứ không chỉ cá nhân phải gánh chịu sự trừng trị; vậy thì lúc nào cũng sẽ có một hoàn cảnh dường biện minh cho giới luật.
25. Phong hóa và vẻ đẹp
Khi các phong hóa trút ra, phải thú nhận rằng ở mỗi người trong số những ai hoàn toàn quy phục trước chúng, từ đáy trái tim và ngay từ khởi đầu, các bộ phận dùng để tấn công và tự vệ - về thể chất hay tinh thần - bị què cụt đi: tức là càng lúc họ càng trở nên đẹp hơn! Bởi chính sự tập luyện của những bộ phận kia và các năng lực trí tuệ tương ứng là những thứ duy trì sự xấu xí và làm cho người ta còn xấu hơn. Chính vì thế con khỉ đầu chó già thì xấu hơn con khỉ đầu chó trẻ, và con cái của khỉ đầu chó trông giống người hơn cả: và do vậy đẹp nhất. - Người ta cứ việc rút từ đây một kết luận về nguồn gốc vẻ đẹp của phụ nữ.
26. Các động vật và mo ran
Những thực hành được dự liệu trước tại xã hội tốt đẹp hơn cả: mối lo tránh toàn bộ những gì lố bịch, ầm ĩ, tự phụ, sự từ chối biểu lộ những đức hạnh của mình cũng như những thèm khát dữ dội nhất của mình, ý chí muốn mình giống những người khác, muốn nhập vào một trật tự, tự làm giảm bớt mình đi - toàn bộ những gì tạo dựng mo ran xã hội đều tìm lại được theo lối thô thiển cho tới tận mức thấp nhất của thế giới động vật - và chỉ ở trình độ thấp hơn này thì chúng ta mới nhận thấy hậu ý của các bố trí dễ mến kia: người ta muốn thoát khỏi những kẻ truy đuổi mình và được tạo thuận lợi trong cuộc tìm kiếm con mồi. Chính vì thế các động vật học cách tự làm chủ và đóng giả như là, chẳng hạn, một số đổi màu của mình giống hệt màu môi trường xung quanh (nhờ cái mà người ta gọi là "chức năng đổi sắc"), giả chết hoặc khoác lên mình những hình thức cùng màu sắc của một loài động vật khác, hay cát, lá, địa y, bọt biển (cái mà các nhà tự nhiên học Anh chỉ định bằng cái tên mimicry). Bằng cách này cá nhân trốn vào bên dưới sự phổ quát của khái niệm "người", hoặc vào giữa xã hội, hoặc nữa anh ta tự thích ứng mình với các prince, với các đẳng cấp, với các đảng, với các ý kiến của thời anh ta và môi trường của anh ta: và với tất tật những cách thức tinh tế của chúng ta nhằm tỏ ra sung sướng, biết ơn, hùng mạnh, yêu, người ta đều sẽ dễ dàng tìm được tương ứng ở động vật. Ngay cả ý thức về sự thật, thứ xét đến cùng chỉ là một ý thức về an toàn, con người cũng có nó chung với động vật: người ta không muốn mình bị lừa, bị lạc bởi chính mình, người ta nghi ngại lắng nghe các lời khuyên từ những dục vọng riêng, người ta tự chế ngự và người ta cảnh giác với bản thân; toàn bộ những cái đó, con thú cũng biết rõ như con người, cả ở nó sự làm chủ chính mình cũng sinh ra từ ý thức về cái thực (từ trí năng). Nó cũng quan sát các hiệu ứng mà nó tạo ra lên năng lực trình hiện của những con thú khác, nó học cách tự nhìn mình phát xuất từ đó, tự nhìn nhận "một cách khách quan", theo cách riêng của mình nó sở hữu một hiểu biết về bản thân. Con thú có một đánh giá lên các cử động của những đối thủ và bạn bè nó, nó học thuộc lòng các điểm đặc biệt của chúng, nó tự điều chỉnh mình theo đó: chống lại các đại diện đơn lẻ của một số loài nó chối bỏ đánh nhau một lần là xong luôn, cũng như nó đoán được ở sự tiến lại gần của nhiều loại con thú những ý đồ hòa bình và hòa giải. Các nguồn gốc của công lý và của trí năng, của sự chừng mực, của sự gan dạ - nói ngắn gọn, của toàn bộ những gì mà chúng ta chỉ định bằng cái từ các đức hạnh socratic đều thuộc động vật: hệ quả từ những bản năng học cách tìm thức ăn và thoát khỏi kẻ thù kia. Nếu giờ đây chúng ta nhìn nhận rằng ngay cả con người vượt trội cũng đã chỉ vươn lên cao và trở nên tinh xảo ở cách thức ăn uống của anh ta và ở cái ý anh ta tự tạo cho mình về những gì có hại cho anh ta, thì chúng ta sẽ không bị cấm, việc đánh giá con thú là hiện tượng mo ran đầy đủ.
27. Giá trị của lòng tin cho các dục vọng siêu nhân
Thiết chế hôn nhân say cuồng duy trì lòng tin theo đó tình yêu, cho dù là một dục vọng, ở tư cách chính nó có khả năng về thời độ, và thậm chí tình yêu lâu dài, suốt đời, có thể được dựng thành quy tắc. Bằng sự ương bướng của lòng tin cao quý ấy, và dẫu nó từng rất thường xuyên và gần như theo lối có hệ thống bị các sự vị phế bỏ, thành thử nó tạo dựng một pia fraus, nó đã trao cho tình yêu một sự cao quý vượt trội. Tất tật các thiết chế nào mang lại cho một dục vọng niềm tin vào thời độ của nó và biến cái đó thành thứ chịu trách nhiệm cho thời độ kia, trái với chính yếu tính của dục vọng, đều đã công nhận cho nó một hạng mới: kể từ nay người nào rơi vào một dục vọng như vậy không còn thấy ở đó, như xưa kia, một sự trật cấp hay một đe dọa nữa, mà ngược lại, một sự vượt trội trong tương quan với chính anh ta và với những người ngang hàng với anh ta. Chúng ta hãy nghĩ tới những thiết chế cùng phong hóa từng làm phun trào từ sự bỏ rơi điên cuồng của một giây phút lòng trung thành vĩnh cửu, từ cơn điên giận sự trả thù vĩnh cửu, từ niềm tuyệt vọng sự để tang vĩnh cửu, từ lời nói đột nhiên và duy nhất sự gắn kết vĩnh cửu. Lần nào cũng thế, rất nhiều đạo đức giả và dối trá đã được đưa vào thế giới làm lợi cho một chuyển hóa như vậy: và lần nào cũng thế, với cái giá đó, một khái niệm siêu nhân mới, gây phấn khích cho con người.
28. Tâm trạng ở tư cách lập luận
Đâu là nguyên nhân của một sự kiên quyết đầy vui tươi cho hành động? - Câu hỏi này từng khiến con người bận trí rất nhiều. Câu trả lời cổ xưa hơn cả, vẫn cứ thông dụng hơn cả, là như sau: Chúa là nguyên nhân cho cái đó, qua đấy ông ta khiến chúng ta hiểu là ông ta nhất trí với ý chí của chúng ta. Xưa kia những lúc người ta hỏi các lời sấm về một dự đồ, thì người ta muốn thuật lại quyết định vui tươi ấy; và người nào cũng làm dịu đi những nghi ngờ của mình, khi nhiều hành động khả dĩ được dâng cho tâm hồn anh ta, bằng cách tự nhủ: "mình sẽ thực hiện cái hành động đi cùng với tình cảm này". Vậy là người ta không quyết định chọn lấy giải pháp hữu lý hơn cả, mà vì dự đồ mà ý đổ đầy lòng can đảm cùng hy vọng vào tâm hồn. Tâm trạng vui tươi từng đè nặng lên cân như một lập luận nhiều tính cách quyết định hơn là hữu lý: vì người ta diễn giải tâm trạng theo lối mê tín bằng cách thấy ở đó hành động của một Chúa hứa hẹn thành công và bằng cách này để cho lý trí của mình nói, được coi như là mức tối cao của cái hữu lý. Giờ đây người ta cứ việc nhằm vào những hệ quả của một định kiến như thế lúc những con người khéo léo và thèm khát quyền năng sử dụng chúng - khi họ vẫn sử dụng chúng! "Hãy điều khiển con người!" - với đó người ta có thể thay thế tất tất các lý lẽ và chiến thắng tất tật những phản đối!
29. Các diễn viên của đức hạnh và của tội lỗi
Giữa những người thời cổ đại đã trở nên lừng danh nhờ đức hạnh của mình, từng có, dường như vậy, một số lượng phi thường những người tự trao cho mình vở hài kịch: nhất là người Hy Lạp, các diễn viên bẩm sinh ấy, hẳn làm điều theo theo cách thức hoàn toàn ngoài ý chí và thấy thế là tốt. Ngoài ra, mỗi người, với đức hạnh của mình, đều ở trong sự đua với đức hạnh của một người khác hoặc tất tật những người khác: làm sao mà người ta lại không dùng tất tật các trò xảo nhằm đưa đức hạnh của mình trở thành sự biểu diễn trước tiên cho chính mình, chỉ để tập luyện! Một đức hạnh mà người ta không thể trưng bày, hoặc không sẵn sàng để được trưng bày, thì để làm gì đây! - Ki-tô giáo đã phanh vở hài kịch của đức hạnh ấy lại: ngược lại, nó đã chế ra lòng tự kiêu vặt vãnh đáng buồn nôn, cuộc diễu hành của tội lỗi, nó đưa ý thức tội lỗi vờ vịt vào thế giới (cho đến thời chúng ta, nó vẫn được coi là "rất hay" giữa các Ki-tô hữu).
30. Sự tàn nhẫn tinh xảo ở tư cách đức hạnh
Đây là một luân lý được đặt toàn bộ trên nhu cầu nổi bật - đừng có ý kiến quá tốt đẹp về nó! Đúng ra thì nhu cầu này là gì, và hậu ý của nó là gì? Chúng ta muốn rằng chỉ việc nhìn thấy chúng ta thôi đã kẻ khác thấy đau, đánh thức sự đố kỵ của kẻ đó, cảm giác về sự bất lực cùng sự suy sụp của kẻ đó; chúng ta muốn khiến kẻ đó nếm sự chua cay nơi Fatum của mình bằng cách tiết ra trên lưỡi kẻ đó một giọt mật ngọt của chúng ta và bằng cách cho đi kèm cái được gọi là việc tốt ấy một ánh mắt của ma mãnh sắc như cắt, thẳng vào mắt kẻ đó. Kẻ này đã trở nên khiêm nhường và giờ đây hoàn hảo trong sự hèn mọn của mình - hãy tìm những người nào mà từ lâu kẻ đó đã muốn đặt vào sự tra tấn như vậy! Bạn sẽ chẳng khó nhọc gì mà tìm được họ thôi! Kẻ kia tỏ ra thương xót các con vật, và người ta ngưỡng mộ anh ta vì thế - nhưng anh ta lại muốn bằng cách ấy thả tự do cho sự tàn nhẫn của mình đối với một số người. Giờ đây thì đến một nghệ sĩ lớn: nhục cảm mà sự đố kỵ từ đám đối thủ bị choáng ngợp của anh ta tạo ra từ trước đã ngăn không cho sức mạnh của anh ta ngủ, cho tới khi anh ta trở thành lớn lao - anh ta đã phải trả bao nhiêu phút chua cay cho các tâm hồn khác để giành được sự lớn lao đó! Sự trinh bạch của nữ tu sĩ: bằng con mắt oán hận nào cô ta nhìn chằm chằm vào mặt những phụ nữ sống theo cách khác! Nhục cảm nhiều tính cách trả thù nào bùng cháy trong cặp mắt cô ta! - Chủ đề thật ngắn, còn các biến tấu của nó thì hẳn có thể là vô số mà không mắc phải nguy cơ gây buồn chán - bởi lúc nào đấy cũng là một sự mới mẻ quá mức nghịch lý và gần như đau đớn, thành thử xét cho đến cùng luân lý về nổi bật chỉ là khoái lạc của một sự tàn nhẫn tinh xảo. Xét cho đến cùng, cái đó muốn nói ở đây: ở mọi lần, tại thế hệ đầu tiên. Bởi khi người ta thừa kế dưới hình thức thói quen một cách thức nổi bật nào đó, thì người ta không cùng lúc thừa kế hậu ý đi cùng nó (người ta chỉ thừa kế những tình cảm, chứ không phải các ý nghĩ): và chỉ trừ phi giáo dục nhắm tới chỗ lại ghi khắc hậu ý ấy, cách thức hành động kia đã không còn tại ra một khoái lạc của tàn nhẫn nữa ở thế hệ thứ hai, mà chỉ khoái lạc của chính thói quen. Nhưng khoái lạc đó là mức thứ nhất của "tốt".
31. Lòng kiêu hãnh của tinh thần
Lòng kiêu hãnh của con người nổi dậy chống lại luận đề về tiền bối động vật của mình và đào hố sâu giữa tự nhiên và con người - lòng kiêu hãnh ấy phát xuất từ một định kiến về bản tính của tinh thần: và định kiến đó tương đối gần đây. Trong suốt thời tiền sử dài của loài người, người ta từng đặt tiền giả định về tinh thần ở mọi nơi, chẳng hề nghĩ đến việc kính ngưỡng ở đó một đặc quyền của con người. Ngược lại, sau khi đã biến cái tinh thần (cũng như tất tật các bản năng, những sự độc ác, những khuynh hướng) thành một tài sản của cộng đồng và như vậy là chung, người ta không thấy xấu hổ vì là hậu duệ của thú vật hay cây cối (các dòng giống cao quý từng nghĩ mình được vinh dự nhờ những chuyện bịa đó) và người ta thấy ở tinh thần cái nối chúng ta vào với tự nhiên chứ không phải cái phân tách chúng ta khỏi nó. Bằng cách ấy người ta được đào tạo để khiêm tốn - nhưng cũng cả do một định kiến nữa.
32. Trở ngại
Đau đớn theo lối luân lý, rồi nghe thấy bảo thể loại đau đớn này được đặt trên một nhầm lẫn, điều đó gây phẫn nộ. Bởi có một niềm an ủi ngoại lệ trong việc thông qua đau đớn của mình khẳng định một "thế giới của sự thật sâu hơn" so với mọi thế giới khác, và người ta thích hơn, ở mức vô biên, việc đau đớn và thông qua đó cảm thấy vượt trội thực tại (nhờ ý thức mà tiến được lại gần cái "thế giới sâu hơn của sự thật" ấy như vậy), so với sống mà không có đau đớn nhưng cũng không có cảm giác vượt trội kia. Như vậy chính lòng kiêu hãnh và cách thức thỏa mãn nó quen thuộc là những thứ đối lập lại hình dung mới về mo ran. Thế thì phải dùng lực nào để loại trừ trở ngại này? Không còn lòng kiêu hãnh nữa ư? Một lòng kiêu hãnh mới ư?
33. Niềm khinh bỉ
<3
ReplyDelete