Oct 10, 2025

Nietzsche: Bình minh

ja


Đối với Nietzsche, thậm chí đến cả Kant cũng không phải là một triết gia.

Còn chính Nietzsche? có thể coi đó là một Platon mới không? Như vậy, đã có thể thấy hai cặp, Nietzsche-Platon và Kierkegaard-Socrate.


(đã 5-6-7) (tiếp tục D)



1. Lý tính nổ chậm

Tất tật những thứ gì có thời độ dài đều dần dà thấm đẫm lý trí đến mức thật không thể tin được là chúng đã có thể có nguồn gốc từ sự mất trí. Chẳng phải cái lịch sử chính xác của một sinh ra gần như lúc nào cũng được cảm thấy như là đầy nghịch lý và như sự báng bổ? Không phải là sử gia giỏi xét sâu xa dành thời gian để nói ngược à?


2. Định kiến của các nhà bác học

Các nhà bác học đánh giá thật đúng đắn rằng con người của mọi thời kỳ đều tưởng tượng là mình biết cái gì là tốt cái gì là xấu, đáng ca ngợi hay đáng chê trách. Nhưng định kiến của các nhà bác học nằm ở chỗ nghĩ rằng ngày nay chúng ta biết điều đó rõ hơn so với bất kỳ thời nào khác.


3. Cái gì cũng có thời của nó

Khi con người gán giống cho mọi thứ [chủ đề lặp lại nhiều lần trong suy nghĩ của Nietzsche], anh ta đã không thấy ở đây một trò chơi mà tưởng tượng mình đã có được một trực giác sâu sắc: - mãi rất muộn thì anh ta mới tự thú nhận, thậm chí có lẽ anh ta vẫn chưa làm sao mà hoàn toàn tự thú nhận được độ rộng gớm ghiếc của nhầm lẫn đó. - Cũng vậy, mọi thứ gì tồn tại, con người đều đã, đầy võ đoán, đặt chúng vào tương quan với mo ran và anh ta đã phủ lên thế giới một biểu nghĩa đạo đức. Rồi một ngày điều này sẽ có giá trị không nhiều hơn cũng không ít hơn so với giá trị mà ngày nay lòng tin đặt vào đực tính hay vào nữ tính của mặt trời có được.


4. Chống lại cái gọi là thiếu hụt hài hòa của các tầng cầu

Chúng ta phải gỡ đi khỏi thế giới vô số sự lớn lao giả của nó vì chúng đi ngược lại công lý mà mọi thứ đều có thể đòi từ chúng ta! Tuy thế không được tìm cách thấy là thế giới kém hài hòa hơn so với nó vốn dĩ!


5. Hãy biết ơn!

Thành tựu lớn mà chúng ta nợ nơi loài người đi trước chúng ta, ấy là việc không còn bị buộc phải sống trong nỗi kinh hoàng thường trực đối với lũ thú dữ, bọn mọi rợ, các vị thần và những giấc mơ của chính chúng ta nữa.


6. Nhà ảo thuật và trái ngược của anh ta

Những gì gây ngạc nhiên trong khoa học thì trái ngược với những gì gây ngạc nhiên ở nghệ thuật của nhà ảo thuật. Kẻ kia muốn lôi kéo chúng ta tới chỗ thấy một nhân quả rất đơn giản ở chỗ trên thực tế một nhân quả rất phức tạp hoạt động. Ngược lại, khoa học bắt chúng ta phải từ bỏ lòng tin vào các nhân quả đơn giản chính ở chỗ mọi thứ dường thật dễ hiểu, nơi chúng ta bị vẻ bề ngoài đánh lừa. Những thứ "đơn giản hơn cả" thì rất phức tạp - người ta chẳng thể nào kinh ngạc về điều này đủ được đâu!


7. Sự biến đổi của cảm giác về không gian

Cái gì đã đóng góp nhiều nhất vào hạnh phúc của loài người, những thứ có thật hay những thứ được tưởng tượng ra? Chắc chắn là khoảng cách phân tách hạnh phúc cực điểm khỏi bất hạnh sâu sắc hơn cả đã chỉ có được toàn bộ độ rộng của nó nương theo những điều tưởng tượng ra. Dạng cảm giác về không gian này sau đó thường trực bị thu nhỏ lại dưới tác động của khoa học: cũng giống khoa học đã dạy cho chúng ta và vẫn dạy cho chúng ta cảm thấy rằng trái đất thì nhỏ và chính hệ mặt trời cũng chỉ là một điểm.


8. Hiển dung

Đau đớn không hy vọng, mơ mẩn rối mù, sướng vui siêu trần thế - chỉ ba mức đấy được Raphael trao cho con người. Chúng ta không còn nhìn thế giới như thế nữa - và chính Raphael hẳn kể từ nay cũng không có quyền làm thế: hẳn cặp mắt ông sẽ khiến ông nom thấy một hiển dung khác.


9. Khái niệm luân lý của phong hóa

Trong tương quan với thức sống trong suốt hàng nghìn năm vốn dĩ từng là thức sống của loài người, chúng ta, những con người ngày hôm nay, sống trong một thời kỳ hết sức vô luân: quyền lực của phong hóa đã suy yếu đáng kinh ngạc và ý thức về luân lý đã được tinh luyện, nó đã chiếm lấy một độ cao tới nỗi hẳn người ta cũng có thể nói rằng nó đã bốc hơi mất. Do đó đối với chúng ta, những kẻ đến muộn, thật khó mà đạt tới được những cái nhìn nền tảng vào sự sinh ra của mo ran và, khi dẫu thế nào thì chúng ta cũng làm được điều đó, chúng mắc lại trong cổ họng của chúng ta và không muốn được diễn tả ra: vì chúng phát ra một âm thanh thô thiển! Hoặc vì dường như chúng vu khống luân lý! Chẳng hạn định đề sau đây: luân lý chẳng là gì khác (và như vậy, nhất là, không gì hơn) ngoài sự vâng lời các tập quán, cho dù các tập quán có là gì đi chăng nữa; thế nhưng các tập quán là cách thức truyền thống của hành động và đánh giá. Ở những hoàn cảnh nơi không có bất cứ truyền thống nào được áp đặt, thì không có luân lý; và cuộc sống càng ít bị quy định bởi truyền thống, địa hạt của luân lý càng giảm bớt. Con người tự do thì vô luân vì anh ta muốn, trong mọi sự, phụ thuộc vào chính anh ta chứ không phải vào một truyền thống: đối với tất tật các hình thức của loài người nguyên thủy, "xấu" đồng nghĩa với "cá nhân", "tự do", "võ đoán", "không thường lệ", "bất ngờ", "không được dự liệu". Vẫn theo những tiêu chí của các văn minh nguyên thủy ấy, nếu người ta hành động không phải vì truyền thống muốn thế mà vì các mô típ khác (chẳng hạn lợi ích cá nhân), và ngay cả vì chính những mô típ xưa kia từng lập ra truyền thống đó, thì hành động sẽ bị xếp vào loại vô luân và bản thân tác giả của nó cũng coi như như vậy: bởi nó không nảy sinh từ sự vâng lời truyền thống. Truyền thống là gì? Một uy quyền vượt trội mà người ta vâng theo không phải vì nó ra lệnh những gì hữu ích với chúng ta, mà vì nó ra lệnh. - Ở điểm nào tình cảm về truyền thống này được phân biệt với tình cảm về nỗi sợ? Đấy là nỗi sợ khi ở trước một trí năng vượt trội, thứ ra các mệnh lệnh của nó tại đây, ở trước một quyền năng không thể hiểu và thiếu cụ thể, ở trước một cái gì đó vượt quá cái cá nhân - có sự mê tín trong nỗi sợ ấy. Ở khởi đầu, toàn bộ giáo dục và vệ sinh cơ thể, hôn nhân, thuốc, nông nghiệp, chiến tranh, lời nói hay sự e dè im lặng, những mối quan hệ giữa các con người với nhau và với thần đều từng thuộc vào địa hạt của luân lý: nó đòi người ta phải theo các giới luật mà không đưa những vấn đề cá nhân can thiệp vào. Như vậy, ở khởi đầu, mọi thứ đều từng là phong hóa, và bất kỳ ai muốn vươn lên cao hơn chúng đều phải trở thành nhà lập pháp, người chữa bệnh và cách nào đó, á thần: tức là anh ta phải tạo ra các phong hóa - việc gây hoảng sợ và mang nguy cơ chết người! Ai là người nhiều luân lý hơn cả? Trước hết là cái người thường xuyên nhất hành động theo luật: tức là, giống brahmane, ở mọi nơi, vào mọi khoảnh khắc và mọi giây phút, cái người lưu giữ luật hiện diện trong tâm trí, thành thử người đó thường trực chế ra các cơ hội để vâng lời luật ấy. Sau đó, người nào vâng lời nó kể cả ở các hoàn cảnh ngặt nghèo nhất. Người nhiều tính cách luân lý hơn cả là người hy sinh nhiều nhất cho phong hóa: nhưng đâu là những hy sinh lớn nhất? Tùy theo lời đáp mang đến cho câu hỏi này, người ta có thể phân biệt nhiều típ mo ran: tuy nhiên khác biệt cốt yếu vẫn cứ là khác biệt phân tách các mo ran của sự vâng lời hay gặp hơn cả khỏi các mo ran của sự vâng lời ngặt nghèo hơn cả. Không được nhầm lẫn các mô típ của thứ mo ran đòi hỏi, như là dấu hiệu cho luân lý, sự vâng lời ngặt nghèo hơn cả! Sự chiến thắng chính mình không được đòi hỏi để nhằm đến những hệ quả hữu ích của nó cho cá nhân, mà là để phong hóa, tức truyền thống, biểu lộ được quyền năng thống trị của mình, mặc cho toàn bộ nỗi kinh tởm và mọi lợi thế cá nhân: cá nhân phải tự hy sinh - luân lý của phong hóa đòi hỏi như vậy. Ngược lại các luân lý gia nào, giống những luân lý giá đi theo các dấu vết của Socrate, đặt lên cao nhất cho cá nhân một mo ran về làm chủ chính mình và sự kiêng khem nơi họ thấy lợi ích riêng nhất của người đó và chìa khóa cá nhân nhất cho hạnh phúc của người đó, tạo dựng ngoại lệ - và chúng ta nhìn mọi sự khác đi là vì chúng ta từng được nuôi dạy dưới ảnh hưởng của họ: tất tật đều mượn lấy một con đường mới, nó khiến họ phải chịu sự không tán thành nghiêm khắc hơn cả từ tất tật những đại diện cho luân lý của phong hóa - họ bị loại trừ khỏi cộng đồng như là vô luân và là xấu, trong nghĩa sâu sắc nhất. Chính theo cách này mà đối với một người La Mã đức hạnh thuộc phái cũ, mọi Ki-tô hữu nào "trước hết khát khao tới cứu rỗi riêng của mình" đều dường xấu. Khắp nơi nào có cộng đồng và do đó có luân lý của phong hóa, người ta đều thấy ngự trị ý theo đó sự trừng trị cho việc vi phạm phong hóa trước nhất rơi trở lại xuống cộng đồng: sự trừng trị siêu nhiên ấy, mà các biểu lộ cùng các biên giới hết sức khó nắm bắt và được nghiên cứu với một nỗi hoảng sợ vô cùng nhiều mê tín. Cộng đồng có thể buộc cá nhân phải sửa chữa đối với một cá nhân hay cộng đồng tổn thất tức thì mà hành động của anh ta đã kéo theo, nó cũng có thể trả thù bằng một cách thức nào đó lên cá nhân vì chuyện, do lỗi của anh ta, được cho là tiếp theo sau hành động của anh ta, những đám mây cùng những cơn giông từ sự giận dữ thần thánh đã dồn đống lại phía trên cộng đồng - thế nhưng trước hết nó cảm thấy lỗi của cá nhân như là lỗi của nó, và nó chịu đựng sự trừng trị người kia như là sự trừng trị của nó: "các phong hóa đã bị buông lỏng", người nào cũng than vãn trong tâm hồn mình, "thì mới có những hành động như thế được". Mọi hành động cá nhân, mọi cách nhìn cá nhân đều khơi lên nỗi hoảng hốt; người ta không thể ước lượng nổi những gì mà các tinh thần hiếm hơn cả, tinh xảo hơn cả, độc đáo hơn cả đã phải gánh chịu trong dòng lịch sử, luôn luôn bị coi là xấu và nguy hiểm, còn hơn thế nhiều, từng luôn luôn tự coi bản thân mình như vậy. Dưới sự thống trị của luân lý phong hóa, tất tật những hình thức của sự độc đáo đều mang ý thức xấu: cho đến giờ, chân trời của những người giỏi nhất đã bởi thế mà trở nên còn u tối hơn mức lẽ ra nó nên u tối.


10. Ý thức về luân lý và ý thức về nhân quả tỉ lệ nghịch với nhau

Ý thức về nhân quả càng tăng, thì địa hạt nơi quyền uy của luân lý được thực thi lại càng giảm: bởi ngay khi người ta hiểu được tất yếu của các kết quả và đã biết cách lập luận, loại trừ đi toàn bộ những gì là ngẫu nhĩ, liên tiếp (post hoc) ngẫu nhiên, người ta đã phá hủy được vô số nhân quả tưởng tượng cho tới lúc ấy người ta từng tưởng như là nền móng của phong hóa - thế giới thực nhỏ hơn nhiều so với thế giới tưởng tượng - và ở mỗi lần một chút hoảng sợ cùng bó buộc đã biến mất, ở mỗi lần một chút sự kính trọng dành cho uy quyền của các phong hóa: tính tổng lại, chính luân lý đã phải trả phí tổn cho điều này. Bất kỳ ai, ngược lại, muốn củng cố nó, đều phải hết sức cẩn thận việc những kết quả trở nên có thể kiểm soát.


11. Mo ran bình dân và y học bình dân

Người nào cũng liên tục ra sức nhằm hoàn hảo hóa mo ran ngự trị tại một cộng đồng: phần lớn chất đống các hình mẫu về cái được gọi là tương quan nhân quả, của lỗi với trừng trị, họ xác nhận nền vững của nó và làm tăng thêm uy tín của nó: một số người lao mình vào những quan sát mới về các hành động cùng những hệ quả của chúng và rút từ đó ra các kết luận cùng luật: thiểu số vấp chân ở đây ở kia và làm suy yếu uy tín của truyền thống ở một số điểm. - Nhưng tất tật giống nhau bởi cách tiến hành thô thiển, không khoa học hoạt động của mình; dẫu có là những hình mẫu ví dụ, những quan sát hay những dè chừng, hay chứng cứ, sự xác nhận, phát biểu hay phản bác một luật - vật chất và hình thức cũng đều không mang giá trị hệt như vật chất cùng hình thức của mọi y học bình dân. Y học bình dân và mo ran bình dân đi đôi với nhau và hẳn không được đánh giá khác hẳn nhau như người ta vấn cứ cố làm nữa: đấy là hai thứ ngụy khoa học nguy hiểm hơn cả.


12. Hệ quả thêm vào

Xưa kia người ta từng nghĩ rằng thành công của một thể động không phải là hệ quả của nó mà từ chỗ khác đến tự thêm mình vào, một cách ngẫu nhĩ - và cái đó là nhờ Chúa. Người ta có thể tưởng tượng nổi sự mù mờ nào tệ hơn được chăng! Đã phải có những nỗ lực nổi bật nhằm hành động và đạt tới một kết quả: một mặt là các phương tiện, mặt khác là các thực hành!


13. Vì một giáo dục mới cho giống người

Giúp đi nào, hỡi những con người thích trợ sức và có ý chí tốt đẹp, một việc đang đợi các anh đây: gỡ bỏ đi khỏi thế giới khái niệm trừng trị, thứ đã nhiễm bẩn toàn bộ nó! Chẳng có sự nhiễm bẩn nào tệ hơn. Người ta đã không chỉ đặt khái niệm đó vào các hệ quả từ những thể động của chúng ta - và thế nhưng, sự gớm ghiếc mới đã lớn làm sao, sự mất trí đã mới lớn làm sao, khi coi nguyên nhân và kết quả như là nguyên nhân và trừng phạt! - người ta còn đã làm nhiều hơn và, do sự nhơ bẩn nhuốm màu quỷ biện của khái niệm trừng trị, người ta đã hoàn toàn tước đi khỏi sự vô tội của nó sự ngẫu nhiên thuần túy của những gì xảy đến. Thậm chí người ta còn từng đẩy sự say cuồng tận tới chỗ ra lệnh phải cảm thấy chính tồn tại như một sự trừng trị - hẳn người ta có thể nói rằng sự giáo dục loài người cho đến giờ đã bị điều khiển bởi trí tưởng tượng loạn đả của đám cai ngục và lũ đao phủ thủ!


14. Biểu nghĩa của rồ dại trong lịch sử luân lý

Nếu mặc cho sức ép đáng hoảng sợ của "luân lý của phong hóa" dưới đó tất tật các cộng đồng người đều đã sống suốt hàng nghìn năm trước khi có lịch, và thậm chí nhìn chung cả khi đã có lịch, cho đến thời chúng ta (bởi đối với chúng ta, chúng ta đang sống trong vũ trụ nhỏ bé của các ngoại lệ và có thể nói, ở vùng tệ hại): - nếu mặc cho mọi sự, tôi đang nói, những suy nghĩ, những khuynh hướng cùng những đánh giá về giá trị mới và thiếu đều đặn đã không bao giờ ngừng nở rộ, thì luôn luôn là với kẻ đi cùng đáng kinh khiếp: gần như khắp nơi sự rồ dại là thứ vạch con đường cho suy nghĩ mới, nó hất bỏ sự cấm đoán của một tập tục, của một sự mê tín được kính trọng. Bạn có hiểu tại sao đã phải là sự rồ dại không? Một cái gì đó cũng đáng hoảng sợ và khó dự đoán trong giọng nói và các cử chỉ như những thất thường quỷ quái của giông và của biển, và do vậy cũng xứng với nỗi e sợ và chú ý như chúng? Một cái gì đó rõ ràng cũng mang dấu hiệu của cái không thể kiểm soát như các quặn thắt cùng dãi nhớt của kẻ động kinh, thứ dường như, bằng cách ấy, chỉ định kẻ mất trí như là mặt nạ và người mang giọng của một thần thánh? Một cái gì đó đem lại cho tới tận người mang một ý mới sự sợ và run trước chính mình chứ không phải sám hối, và đẩy người đó trở thành nhà tiên tri và kẻ tuẫn đạo cho nó? - Trong khi ngày nay người ta cứ không ngừng khiến chúng ta hiểu rằng thiên tài được điểm xuyết không phải bằng một nhúm muối mà bằng một nhúm rồ dại, tất tật con người xưa kia lại từng có nhiều khuynh hướng hơn về phía nghĩ rằng mọi nơi nào có rồ dại cũng đều có một nhúm của thiên tài cùng sự thông thái - một cái gì đó "thần linh" như người ta từng hay thì thào vào tai nhau. Hay nói đúng hơn người ta, khá mạnh mẽ, tự giải thích về điều đó. "Chính là nhờ sự rồ dại mà những gì tốt đẹp lớn lao nhất đã đến với Hy Lạp", Plato nói với toàn bộ nhân tính cổ đại. Chúng ta hãy tiến thêm một bước: tất tật những con người vượt trội cảm thấy bị thúc đẩy theo lối không thể cưỡng tới chỗ bẻ gãy cái ách của một luân lý nào đó và thiết lập các luật mới đã chẳng có giải pháp nào khác, nếu họ không thực sự rồ dại, ngoài tự biến mình thành rồ dại hay tự cho mình là như vậy - và điều này đúng với những người đổi mới tại tất tật các địa hạt, chứ không chỉ địa hạt của các thiết chế thờ cúng và chính trị: - ngay cả người sáng chế ra vận luật thơ cũng đã phải dùng rồ dại để tăng uy tín cho mình. (Cho tới những thời êm đềm hơn nhiều, một quy ước nhất định về rồ dại vẫn cứ được buộc chặt vào với các nhà thơ: Solon, chẳng hạn, đã dẫn chiếu đến nó nhằm kêu gọi người Athens tái chinh phục Salamine. "Làm thế nào mà người ta lại tự biến mình thành rồ dại được khi người ta không rồ dại và không dám vờ là mình bị như thế?" Gần như tất tật những con người có giá trị của các văn minh cổ đều đã đưa bài học gớm ghê này vào những suy ngẫm của họ; một học thuyết bí mật, các hỗn hợp của những trò xảo cùng những chỉ dẫn về ăn kiêng, đã được lan truyền về chủ đề này, đi kèm với cảm giác về sự vô tội và thậm chí về thánh tính của các mối bận tâm như vậy và các chủ đề như vậy. Những công thức để trở thành "người-thuốc" ở người Ấn Độ, thánh ở các Ki-tô hữu, "anguécoque" ở người Groenland, "paje" ở người Braxin, xét về cốt yếu là một: nhịn ăn lối mất trí, kiêng khem kéo dài, ẩn trú chốn sa mạc, hoặc nữa, trên đỉnh một ngọn núi hay một cây cột, hay "kỳ lưu trú trên một cây liễu cổ nhìn được xuống một cái hồ", với sự nghiêm cấm nghĩ tới gì khác ngoài những gì có cơ kéo sự xuất thần cùng mất trật tự của tinh thần tới. Vậy thì ai mạo hiểm mà đi ném một ánh mắt xuống vực thẳm của các hoảng loạn tinh thần, những gì chua cay và vô tích sự hơn cả, nơi đáy của nó có vẻ như là những người giàu sức sinh sôi nhất của tất tật các thời từng đờ đẫn! Hoặc dỏng tai lắng nghe những tiếng thở dài kia, của các kẻ cô độc mặt mũi phờ phạc: "A! Ít nhất thì cũng hãy cho tôi sự rồ dại, hỡi các quyền năng trên trời! Sự rồ dại, để rốt cuộc thì tôi cũng tin được vào chính mình! Hãy cho tôi sự điên rồ cùng những quặn thắt, những soi rọi cùng những bóng tối đột nhiên, hãy làm tôi kinh hãi bằng các luồng run rẩy và các cơn nồng nhiệt như chưa từng bao giờ có kẻ phàm nào cảm thấy, các ầm ào và các hình dạng lang thang, hãy làm cho tôi hú lên và rên rỉ và trườn như một con thú: nhưng rồi tôi có được niềm tin vào chính tôi! Nỗi nghi ngờ ngốn ngấu tôi, tôi đã giết luật, luật ám tôi như một xác chết ám một người sống; nếu chỉ còn là luật, thì tôi chính là kẻ vét đĩa nhất trong số những ai bị đọa. Tinh thần mới ở trong tôi đây, nó từ đâu đến, nếu chẳng phải từ người? Vậy thì hãy chứng tỏ cho tôi thấy tôi thuộc về người; chỉ sự rồ dại mới chứng mình được cho tôi điều này." Và quá thường xuyên nhiệt hứng ấy đã quá mức trúng được vào đích của nó: vào cái thời nơi Ki-tô giáo tự khẳng định mình dồi dào các vị thánh cùng các ẩn sĩ hơn cả, qua đó mà tưởng tượng nó đang tự khẳng định mình, đã có tại Jerusalem những trại điên rộng lớn cho các vị thánh bị đắm, cho những ai đã dùng hạt tinh thần cuối cùng của mình cho công việc.


15. Những an ủi cổ xưa nhất

Chặng thứ nhất:


No comments:

Post a Comment