một từ rất Nietzsche? đây: nhầm lẫn; nổi tiếng hơn cả hẳn là "cuộc đời không có âm nhạc hẳn là một nhầm lẫn"; còn ngay tiếp theo đó? tiếp theo đó là, đại ý: thậm chí một người Đức còn tưởng tượng ra Chúa của mình đang hát một bài; cuộc chiến của Nietzsche là cuộc chiến với sự thật, nói đúng hơn, ở sau lưng sự thật; Nietzsche là một người buộc tội cái bóng của sự thật
còn ở trung tâm hơn cả trong thế giới của Nietzsche? hẳn đó phải là transmutation
(tiếp tục RW và viết nốt Quờ Lập Phương)
Nếu Trường hợp Wagner có cùng moment với Hoàng hôn, thì Phả hệ ở ngay trước đó, gần cuốn sách về thiện và ác, tốt và xấu.
Phả hệ của luân lý
Bài thứ nhất
"Tốt và độc ác"
"Tốt và xấu"
1
Những nhà tâm lý học người Anh kia, cho đến giờ chỉ có mỗi họ từng thử thiết lập một phả hệ của luân lý, chính họ đã là một điều bí hiểm không nhỏ đối với chúng ta; tôi phải nhận rằng ở điểm này, trong tư cách điều bí hiểm bằng xương bằng thịt, họ có một lợi thế cốt yếu lên những cuốn sách của họ - bản thân họ đã hấp dẫn rồi! Xét cho cùng thì họ muốn gì, các nhà tâm lý học Anh đó? Có muốn hay không thì người ta vẫn thấy họ lúc nào cũng bận rộn với cùng công việc, cái công việc đặt lên tiền cảnh phần đáng xấu hổ nơi thế giới bên trong của chúng ta, và tìm nguyên tắc thực sự tích cực, hiệu quả, có tính cách quyết định của tiến hóa ở chính cái nơi lòng kiêu ngạo trí năng của con người hẳn ít mong muốn tìm thấy nó hơn cả (chẳng hạn ở vis inertiae của thói quen hay trong sự quên hay nữa trong một sự chằng buộc, một cỗ máy của các ý mù quáng và ngẫu nhĩ, rốt cuộc trong một cái gì đó thuần túy thụ động, tự động, phản xạ, thuộc phân tử và ngu xuẩn xét về gốc rễ) - sự thật thì điều gì luôn luôn lôi kéo những nhà tâm lý học ấy vào chính hướng này? Có phải là một bản năng bí mật, thấp kém và xảo trá, và có lẽ không được thú nhận với bản thân, về biến cho con người nhỏ lại? Hay có lẽ một ngờ vực bi quan, nghi ngại của những người lý tưởng luận bị thất vọng, sầm tối đi, trở nên chỉ còn là mật đắng cùng nọc độc? Hay một thù địch ngầm nhỏ bé, một mối thù hận thậm chí đã không đến được ngưỡng của ý thức, dành cho Ki-tô giáo (và Plato)? Hay đấy là một gu biến thái về cái kỳ quặc, về các nghịch lý đau đớn, về những gì gây ra vấn đề và phi lý nơi tồn tại? Hay rốt cuộc - một chút của toàn bộ những cái đó, một chút của sự thấp kém, một chút của chua cay, một chút của phản-Ki-tô-giáo, nhu cầu đối với một chút kích thích, thêm nếm đậm đà?... Nhưng người ta bảo tôi rằng hết sức đơn giản những người ấy là lũ cóc già lạnh buốt và buồn chán chuyên trườn bò và nhảy nhót xung quanh con người, và cho tới tận anh ta, như thể tại đó bọn họ được ở trong yếu tố đúng của mình, tức là trong một đầm lầy. Tôi không nghe điều này mà không kháng cự, còn hơn thế nữa, tôi không tin điều đó; và nếu được phép, do không biết được, có một ước nguyện, thì bằng cả tấm lòng tôi mong sao đối với họ chuyện là hoàn toàn ngược lại - rằng các nhà tâm lý học dùng kính hiển vi để nghiên cứu tâm hồn kia xét sâu xa là những con thú quả cảm, hào phóng và kiêu hãnh, biết làm chủ trái tim cùng các khổ nhọc của mình, và đã học được cách dâng hiến tất tật những ước nguyện của mình cho sự thật, cho mọi sự thật, ngay cả cho thứ sự thật chán ốm, cay đắng, xấu, đáng kinh tởm, không Ki-tô, vô luân... Bởi có những sự thật như vậy.
2
Vậy thì, tôi xin gửi mọi sự kính trọng của mình cho những tinh thần đầy từ tâm có lẽ đang điều hành các sử gia của luân lý đó! Nhưng hỡi ôi! chắc chắn là họ thiếu mất tinh thần lịch sử - tất tật các tinh thần đầy từ tâm của lịch sử đã bỏ rơi họ. Như chuyện đã vậy, từ lâu, ở chỗ các triết gia, tất tật, đúng như họ vốn dĩ, suy nghĩ theo cách thức ngoài lịch sử [yes, đây là một điều rất Nietzsche] xét về cốt yếu. Sự vụng về thô thiển của họ trong địa hạt phả hệ của luân lý đập vào mắt ngay từ đầu, khi chuyện nằm ở chỗ tìm ra nguồn gốc cho ý niệm và sự đánh giá của "tốt". "Ở khởi đầu, họ ra nghị định, các hành động không vương lợi ích đã được ca ngợi và gọi là tốt bởi những ai vì đó chúng được hoàn thành, do đó bởi những ai với đó chúng hữu ích, về sau, quên mất xuất xứ của sự ngợi ca, người ta đã chỉ cảm thấy như là tốt những hành động không ích kỷ vì chúng, do thói quen, từng lúc nào cũng được ca ngợi như thế, như thể chúng là một cái gì đó tốt tự thân." Ngay lập tức người ta thấy rằng phái sinh đầu tiên này đã chứa đựng tất tật các nét đặc trưng cho sự đặc dị nơi các nhà tâm lý học Anh - chúng ta có "sự hữu ích", "sự quên", "thói quen", và rốt cuộc là "nhầm lẫn", toàn bộ những cái đó phải được dùng làm cơ sở cho một đánh giá về đó cho tới hiện tại con người vượt trội thấy kiêu hãnh như một dạng đặc quyền của con người nói chung. Và thế là người ta phải hạ sự kiêu hãnh ấy xuống, người ta phải đánh trật cấp sự đánh giá ấy: có phải chúng ta đang ở đoạn này không?... Đối với tôi, trước hết rất hiển nhiên là với lý thuyết đó người ta tìm ở chỗ không có cái ổ tạo sinh đích thực của khái niệm "tốt": đánh giá "tốt" không phát xuất từ những ai về phía đó người ta biểu lộ "sự tốt"! Thay vì thế chính những người "tốt", tức là các quý tộc, những người hùng mạnh, những người có điều kiện vượt trội và tâm hồn vươn cao, đã cảm thấy chính mình tốt và coi trọng các thể động tốt của họ, tức là thuộc hạng nhất, trong đối lập với toàn bộ những gì thấp kém, ti tiện, thường và tiện dân. Ngập tràn pathos về khoảng cách ấy, họ đã tự trao cho mình quyền tạo ra các giá trị, mang các cái tên tới cho những giá trị đó: sự hữu ích thì quan trọng gì với họ! Trong tương quan với một nguồn mạnh mẽ như vậy về các đánh giá giá trị tối cao nhằm thiết lập một tôn ti và phân biệt dựa theo thứ hạng, quan điểm vị lợi quả thật xa lạ và không đúng chỗ hết mức: chính tại đây sự nhạy cảm đạt đến đúng đối nghịch của các nhiệt độ thấp kia, mà mọi trí năng nhiều tính toán, mọi tính toán vị lợi, đặt giả định - và điều này không chỉ là một lần, vào một giờ khắc ngoại lệ, mà một cách lâu dài. Như tôi vừa nói, pathos về cao quý và về khoảng cách, tình cảm chung, hết sức nền tảng, hết sức chiếm thế thượng phong, hết sức sống động nơi một loài vượt trội và thống trị trong những tương quan của nó với một loài thấp hơn, với một "bên dưới kia" - ấy là nguồn gốc cho đối lập giữa "tốt" và "xấu". (Quyền được đặt tên của các ông chủ đi xa tới nỗi hẳn sẽ được phép nhìn thấy ở nguồn gốc của chính ngôn ngữ một biểu hiện cho quyền năng của các ông chủ: họ nói "cái này là thế kia thế nọ", và bằng một âm thanh đánh dấu mọi vật và mọi sự kiện, có thể nói họ chiếm luôn lấy chúng.) Nếu đó là nguồn gốc của sự đối lập, thì từ đó nảy sinh chuyện không có theo lối tiên nghiệm dây nối tất yếu giữa từ "tốt" và những hành động không ích kỷ, như sự mê tín của các phả hệ gia của luân lý kia muốn. Ngược lại, chỉ khi các đánh giá giá trị của giới quý tộc phải chịu một suy tàn thì dần dà mới được áp đặt lên ý thức con người đối lập lừng danh "ích kỷ" "không ích kỷ" - chính, để sử dụng ngôn ngữ riêng của tôi, bản năng bu vào nhau là thứ rốt cuộc tìm thấy nơi đối lập này chỗ để nói lời [từ] của nó (và cũng tìm được các từ của nó). Sau đó còn phải trôi đi nhiều thời gian thì bản năng ấy mới giành chiến thắng tận tới nỗi đánh giá luân lý bị sa lầy và có thể nói bị găm chặt vào đối lập kia (như chẳng hạn tại châu Âu ngày nay: người ta thấy ở đó ngự trị, với toàn bộ quyền năng của ý đinh ninh, của căn bệnh tinh thần, định kiến theo đó mấy khái niệm, "luân lý", "không ích kỷ", "không vương lợi ích" tương đương với nhau).
3
Nhưng chúng ta hãy chuyển sang điểm thứ hai:
đã thành một dải:
Về tương lai các cơ sở dạy dỗ của chúng ta
No comments:
Post a Comment