Oct 24, 2025

first

nghl: một ông đi sau một bà khoảng một mét, chắc hai vợ chồng đang đi bộ tập thể dục, ông, mặt rất nghiêm trọng, thậm chí là hằm hè (nhưng, ở một số người, sự hằm hè lại chính là biểu hiện bình thường), nói, như thể với cả thế giới: "Vấn đề nằm ở tư duy."


đã fourth rồi thì bây giờ first

(tiếp tục K113Quadruple)


Nhưng, trước khi first: đã có 113 rồi thì bây giờ 334 đã:


334. Cần phải học yêu

Đây là điều xảy đến với chúng ta ở địa hạt âm nhạc: trước hết cần phải học nghe ra một hình tượng, một giai điệu, biết cách dùng thính giác thấy rõ nó, phân biệt nó, biệt lập hóa nó và định giới hạn cho nó ở tư cách một sự sống cho chính nó: sau đó cần phải có nỗ lực cùng ý chí tốt nhằm chịu đựng nó, mặc cho sự xa lạ của nó, dùng tới sự kiên nhẫn cho ánh mắt của nó và cho biểu đạt của nó, sự dịu dàng cho những gì dị thường ở nó; - tiếp sau sẽ đến khoảnh khắc nơi chúng ta quen được với nó, nơi chúng ta chờ nó, nơi chúng ta cảm thấy là mình sẽ nhớ nó, nếu thiếu mất nó; và kể từ nay nó không ngừng thực thi lên chúng ta sự bó buộc cùng sự hấp dẫn của nó cho đến khi nó biến chúng ta thành những người tình hèn mọn và đầy sung sướng của nó, những kẻ không hình dung được trên cõi đời cái gì tốt đẹp hơn và chỉ còn ham muốn chính nó, và chỉ chính nó. - Nhưng không chỉ trong âm nhạc thì chuyện này mới xảy tới với chúng ta: chính theo cách ấy mà chúng ta đã học yêu tất tật các đối tượng mà giờ đây chúng ta yêu. Lúc nào rốt cuộc chúng ta cũng được thưởng vì ý chí tốt của chúng ta, sự kiên nhẫn của chúng ta, sự công bằng của chúng ta, sự dịu dàng của chúng ta đối với sự xa lạ, do dần dà sự xa lạ tự để lộ mình ra và đến dâng tặng cho chúng ta ở tư cách vẻ đẹp mới, không thể nói ra lời: đấy chính là lòng biết ơn của nó dành cho sự hiếu khách của chúng ta. Kẻ nào tự yêu bản thân chỉ làm được như thế bằng con đường đó: chẳng có đường nào khác đâu. Cả tình yêu cũng phải được học.

(Nietzsche, Biết thì vui, Quyển V)




Nietzsche viết tiểu luận đầu tiên trong loạt Betrachtungen của mình trong hoàn cảnh chiến tranh - nói đúng hơn, khi cuộc chiến tranh Pháp-Phổ còn chưa xa; chính ở đây, Nietzsche sẽ nói đến mối nguy của chiến thắng.

Thomas Mann cũng từng viết trong hoàn cảnh chiến tranh, và đó là một Mann hoàn toàn khác so với thông thường người ta vẫn thấy (ít nhất là cho đến thời điểm của "Không chính trị"; đây không phải chuyển hóa đầu tiên và duy nhất của Mann: Mann sẽ tiếp tục khác hẳn kể từ Thế chiến thứ nhất tới Thế chiến thứ hai); lúc viết những tiểu luận ở đoạn này, lúc nào Mann cũng bị Nietzsche ám.

Đối tượng cho tiểu luận của Nietzsche, David Strauss, là nhân vật trong mắt Nietzsche đại diện cho mọi thứ gì cổ lỗ của nước Đức ở thời kỳ ấy. Trong tiếng Đức, "Strauss" là con đà điểu.



David Strauss, tông đồ và nhà văn


1

Ý kiến công chúng ở Đức dường gần như cấm nhắc đến các hậu quả đáng bực và nguy hiểm của chiến tranh, lại càng như vậy hơn nữa vì cuộc chiến tranh ấy đã kết thúc bằng một thắng lợi; vì thế mà người ta càng thêm sẵn lòng để tai nghe những nhà văn nào, vốn chẳng biết ý kiến nào quan trọng hơn so với ý kiến của công chúng, đua nhau ăn mừng cuộc chiến tranh đó và đầy hân hoan phân tích các sức dội hùng mạnh của nó vào luân lý, văn hóa cùng nghệ thuật. Thế nhưng chúng ta hãy nói điều này: một thắng lợi lớn là một mối nguy lớn. Bản tính con người quen được với nó kém dễ dàng hơn so với một thất bại; thậm chí dường như dễ giành một thắng lợi như vậy hơn so với quen được với nó theo cách giống hệ quả từ một thất bại trầm trọng hơn. Nhưng trong số tất tật những hậu quả đáng bực mà cuộc chiến tranh gần đây chống lại nước Pháp của chúng ta kéo theo, có lẽ đáng bực hơn cả là một nhầm lẫn hết sức phổ biến, nếu không phải là chung: nhầm lẫn khiến ý kiến công chúng và tất tật các kẻ có ý kiến công cộng tưởng rằng văn minh Đức cũng dự phần vào thắng lợi ấy, và do đó phải được choàng vòng hoa như cần vậy sau những sự kiện cùng những thành công ngoạn mục nhường đó. Ảo tưởng này gây hại ở mức cực điểm: không phải vì đó là một ảo tưởng - quả thật, có những nhầm lẫn hoàn toàn tốt lành và mang lại nhiều lợi ích - mà vì nó có khả năng biến thắng lợi của chúng ta thành một thất bại toàn thể: thất bại, thậm chí là sự tuyệt giống của tinh thần Đức nhằm làm lợi cho "Đế chế Đức".

Trước hết, ngay cả khi chấp nhận rằng cuộc vật lộn ấy là cuộc vật lộn giữa hai văn minh, thì người ta cũng sẽ chỉ có ở đây một tiêu chí hoàn toàn tương đối để đánh giá về giá trị của văn minh chiến thắng, không nhất thiết phải là dịp để khải hoàn ầm ĩ hay tự trao cho mình các danh hiệu vinh quang; hẳn cần phải biết cái giá của văn minh thua cuộc. Có lẽ nó chẳng đáng gì nhiều nhặn, nếu vậy thì thắng lợi, dẫu có được đánh dấu bởi những thành công quân sự hào nhoáng nhất, hẳn không chứa đựng, đối với văn minh thứ nhất, bất kỳ chủ đề nào cho khải hoàn. Mặt khác, ở trường hợp của chúng ta, không thể có chuyện một thắng lợi của văn minh Đức, vì lý do đơn giản là, văn minh Pháp vẫn tiếp tục tồn tại như ngày hôm qua và, cũng như hôm qua, chúng ta tiếp tục là những kẻ phải lệ thuộc vào nó. Thậm chí văn hóa của chúng ta đã không đóng góp cho thắng lợi của quân đội chúng ta. Chính kỷ luật quân đội chặt chẽ, sự quả cảm và sức chịu đựng của quân lính, nói ngắn gọn, các yếu tố hoàn toàn độc lập với văn minh, mới là những thứ đã cho phép chúng ta giành chiến thắng trước những địch thủ bị thiếu mất các phẩm chất chính yếu trong số đó: hẳn đúng ra cần phải thấy ngạc nhiên vì việc cái hiện nay được gọi là "văn minh" tại Đức đã ít trái ý những đòi hỏi quân sự của một thắng lợi lớn đến mức ấy. Nhưng có lẽ chỉ là cái được gọi là văn minh đó đã thấy sẽ có nhiều lợi thế hơn, ở lần này, nếu tỏ ra dễ dãi. Nếu người ta để mặc cho nó tăng trưởng và nảy nở, nếu người ta củng cố cho nó trong ảo tưởng đầy phỉnh nịnh rằng chính nó đã giành thắng lợi, thì nó sẽ đủ hùng mạnh để làm tuyệt giống, như tôi đã nói, tinh thần Đức - và lúc đó ai mà biết cái cơ thể Đức này còn dùng để làm gì nữa hay không?

Nếu người ta có thể khơi lên chống lại kẻ thù bên trong, chống lại hình thức dạy dỗ có tính cách lưỡng cực điểm kia và dẫu thế nào thì cũng không quốc gia, mà một hiểu nhầm nguy hiểm ngày hôm nay ở Đức đặt cho cái tên văn hóa, nếu người ta có thể đặt đối lập cho cái đó lòng can đảm không thể lay chuyển và đầy kiên trì mà người Đức đã tỏ ra lúc đối mặt với sự cuồng loạn đầy đột ngột và thống thiết của người Pháp, thì hẳn không phải mọi hy vọng đều đã mất cho việc dựng một văn hóa Đức chân thực, thứ trái ngược hẳn lại văn hóa giả hiệu này. Bởi người Đức chưa từng bao giờ thiếu các chỉ huy cùng thủ lĩnh sáng suốt và táo bạo - chỉ những chỉ huy ấy bị thiếu các người Đức. Nhưng càng lúc tôi càng thấy đáng ngờ hơn và, kể từ chiến tranh, càng ngày càng bớt có thể có chuyện mang đến cho lòng can trường Đức định hướng mới đó; bởi tôi thấy rằng người nào cũng đinh ninh rằng chẳng hề còn bất cứ nhu cầu nào về cả đánh đấm lẫn can đảm nữa, rằng điều chính yếu đã được định trật tự theo lối tốt đẹp nhất trên đời và dẫu thế nào thì từ lâu người ta cũng đã tìm được và thực hiện toàn bộ những gì cần thiết, nói tóm lại, hạt giống tốt nhất của văn minh đã được gieo ở mọi nơi, nhiều chỗ đã xanh um lên và thậm chí, đây đó, đang nở hoa rất rộ. Tại địa hạt này, đang ngự trị còn hơn cả sự thỏa mãn: hạnh phúc cùng nỗi say sưa. Hạnh phúc ấy và sự say ấy, tôi tri nhận được chúng nơi nỗi chắc chắn không gì sánh ngang nổi của các nhà báo Đức, những kẻ viết tiểu thuyết, bi kịch, ca khúc cùng sách lịch sử; quả thật đấy là một đoàn lũ dường đã lập thệ là sẽ chiếm lấy những giờ cho rảnh rỗi và tiêu hóa của con người hiện đại, tức là những giây phút mà anh ta cống hiến cho "văn hóa", nhằm chôn vùi anh ta bên dưới các đống giấy in. Kể từ chiến tranh, đoàn lũ ấy chỉ là hạnh phúc, sự nghiêm trang và lòng tự tin: nó cảm thấy, sau những "thành công của văn minh Đức" kia, mình không chỉ được xác nhận và công nhận, mà còn gần như thánh thiêng; do đó nó chọn lấy một tông giọng trịnh trọng hơn, nó thích thú việc kêu gọi dân tộc Đức, cho in các toàn tập theo cách thức những gì cổ điển và, đúng thế thật, trên các tờ báo to phụng sự nó, nâng một số thành viên của nó lên hàng nhà văn mẫu mực và những nhà cổ điển mới của văn chương Đức. Có lẽ người ta sẽ có thể trông đợi phần nhiều suy nghĩ nhất và có học vấn nhất ở những người Đức có văn hóa sẽ nhận thấy các mối nguy của một lạm dụng thành công như vậy, hoặc ít nhất thì nó cũng cảm thấy cảnh tượng bày ra có những điều thật nặng nề; có lẽ quả thật có những điều còn nặng nề hơn so với phải chứng kiến một kẻ dị dạng vừa vênh vang như một con gà trống trước tấm gương của hắn vừa trao đổi với phản chiếu của hắn những ánh mắt ngưỡng mộ? Nhưng các chốn nhiều học vấn sẵn lòng để mặc mọi điều đi theo dòng của chúng, do đã có đủ việc phải làm với chính mình, không còn muốn tự chất thêm lên người mối lo cho tinh thần Đức. Hơn nữa, tật tật các thành viên của mấy chốn ấy đều có lòng tin đinh ninh không thể lay chuyển rằng văn hóa cá nhân của chính họ là thứ quả chín hơn cả và đẹp hơn cả của thời này, thậm chí của mọi thời, và họ không hiểu được chuyện đi lo âu cho văn hóa Đức vì họ đã vượt qua rất xa, cho chính họ và số đông những người giống họ, thể loại lo âu này. Vả lại không thể thoát khỏi mắt một người quan sát nhiều chú tâm hơn, đặc biệt nếu anh ta là người nước ngoài, việc khác biệt giữa cái mà nhà bác học Đức gọi, ngày hôm nay, là văn hóa và văn hóa đang giành khải hoàn của các nhà cổ điển mới của Đức, chỉ dựa trên mỗi số lượng của cái biết: ở mọi nơi nào vấn đề không phải cái biết mà là tài năng, không phải thông tin mà là nghệ thuật, vậy thì tức là ở mọi nơi nào cuộc sống phải thể hiện cho một típ văn hóa, thì ngày nay chỉ có mỗi một văn hóa Đức - và có phải văn hóa đó đã chiến thắng nước Pháp không?

Được trình bày như thế, lời khẳng định kia có vẻ hoàn toàn không thể hiểu nổi: chính ở những hiểu biết rộng lớn hơn của các sĩ quan, ở sự tập luyện tốt hơn của các đội quân, ở hình dung nhiều tính cách khoa học hơn của chiến lược, mà tất tật các thẩm phán bất thiên ái và cho tới tận chính những người Pháp đều đã nhận ra lợi thế quyết định của người Đức. Nhưng nếu người ta phân biệt giữa văn hóa và sự học hành tập luyện, thì theo nghĩa nào văn hóa Đức có thể nhận là mình đã thắng? Nó chẳng thể làm như vậy theo bất kỳ cách nào, bởi những phẩm chất tinh thần của một kỷ luật chặt chẽ, của một sự nghe lời không chút suy suyển không có gì chung với văn hóa và đặc trưng hóa cho chẳng hạn các đội quân Macedonia đối mặt với lính tráng Hy Lạp, ngược lại đây lại là những người có văn hóa hơn ở mức vô biên. Chỉ có thể do một sự lẫn lộn thì người ta mới có thể nói tới thắng lợi của văn hóa và văn minh Đức, một lẫn lộn được giải thích bằng sự thể tại Đức ý thuần khiết về văn minh đã bị mất đi.

Văn minh, trước hết đấy là nhất thể của phong cách nghệ thuật xuyên qua tất tật các biểu hiện của cuộc sống của một dân tộc. Nhưng sự thể biết nhiều và đã học nhiều không phải là cả một công cụ cần thiết lẫn một dấu hiệu cho văn minh và, nếu cần, ăn nhập một cách hoàn hảo với điều ngược lại của nó, sự man rợ, tức là với sự vắng mặt của phong cách hoặc hỗn hợp loạn đả của tất tật các phong cách.

Thế nhưng chính trong hỗn hợp loạn đả này của tất tật các phong cách mà người Đức thời chúng ta đang sống, và vẫn cứ là một vấn đề trầm trọng cái việc biết xem làm thế nào mà anh ta có thể, mặc cho toàn bộ sự học hành của mình, không nhận thấy điều đó và hết lòng tận hưởng "văn hóa" hiện nay của anh ta. Tuy nhiên lẽ ra mọi sự đều phải soi sáng cho anh ta, một cái nhìn dẫu nhỏ đến đâu hướng vào quần áo của anh ta, phòng ngủ của anh ta, ngôi nhà của anh ta, cuộc đi dạo dẫu nhỏ đến đâu trên các phố của những thành phố, chuyến viếng thăm dẫu nhỏ đến đâu tới các cửa hàng mốt của anh ta. Lẽ ra anh ta phải thức nhận được, ở xã hội, nguồn gốc cho những cung cách cùng cử chỉ của anh ta; khi nếm hưởng các niềm vui từ công xe, từ nhà hát và từ viện bảo tàng, giữa những cơ sở dành cho nghệ thuật, lẽ ra anh ta phải thức nhận được sự đặt kề nhau ấy và sự dồn tụ thô kệch ấy của tất tật các phong cách khả dĩ. Người Đức dồn đống ở quanh anh ta các hình thức, các màu, các sản phẩm và những thứ kỳ quặc của mọi thời và mọi khí hậu, và bằng cách đó tạo ra sự sặc sỡ đầy tính cách carnaval kia mà sau đó các trí thức của anh ta được giao việc nghiên cứu và định nghĩa như là "yếu tính của cái hiện đại", trong khi chính anh ta thì vẫn bình thản ngồi ở giữa cái đống inh ỏi tất tật các phong cách kia. Nhưng với dạng "văn minh" ấy, thứ thật ra chỉ là một sự thờ ơ đầy hờ hững đối với văn minh, người ta chẳng thắng được bất cứ kẻ thù nào, nhất là những người, như người Pháp, sở hữu một văn minh chân thực và nhiều sức sinh sôi, dẫu cho giá trị của nó có là gì, và từ đó cho tới giờ chúng ta đã vay mượn tất, thường xuyên hơn cả chẳng với chút tài năng nào.

Nếu thực sự ngừng bắt chước họ, thì hẳn sẽ không phải vì thế mà chúng ta thắng họ; chúng ta sẽ chỉ tự giải thoát mình khỏi họ mà thôi. Chỉ khi nếu chúng ta áp đặt cho họ một văn hóa độc đáo thì mới có thể cũng nói tới một khải hoàn của văn minh Đức. Từ giờ đến lúc đó, hãy cẩn thận trước việc chúng ta vẫn và mãi phải phụ thuộc vào Paris về toàn bộ những gì động chạm tới hình thức - và chuyện sẽ không thể khác, bởi cho đến lúc này không có văn minh Đức độc đáo.

Đấy là những gì mà lẽ ra tất tật chúng ta đều phải biết về chính mình; do đó một trong số những người hiếm hoi từng có quyền trách cứ người Đức đã nói hết sức công khai: "Người Đức chúng ta, một hôm Goethe nói với Eckermann, chúng ta thuộc về ngày hôm qua. Chắc chắn là từ một thế kỷ nay chúng ta đã tiến bộ nhiều trên con đường của văn minh; nhưng sẽ vài thế kỷ nữa trôi qua thì tổng thể các đồng bào của chúng ta mới thấm đẫm được tinh thần và văn hóa tận đến độ khiến người ta phải nói về họ: họ từng là đám mọi rợ từ trước đây rất lâu rồi."


2

Nhưng nếu cũng hiển nhiên là cuộc sống công cộng và riêng tư của chúng ta không mang dấu ấn của một văn hóa nhiều sinh sôi và đầy phong cách, nếu hơn thế nữa







Schop quad


No comments:

Post a Comment