Dưới đây là một tiểu luận khác của Linda Lê, sẽ in trong một tập sách tương lai.
Sức mạnh của sự vắng
(“Tôi viết cho bạn từ
một đất nước xa xôi”)
Linda Lê
Năm 1956, đã rời Rumani quê hương và từ hai mươi năm chọn nước
Pháp làm nơi neo đậu, Cioran đăng trên tạp chí La Nouvelle Revue Française “Thư gửi một người bạn xa” về sau sẽ được
đặt ở đầu cuốn sách Lịch sử và Utopia.
Trong bức thư dài, ông hồi đáp một người không được nêu danh tính thúc giục ông
nói về Paris, miêu tả chi tiết cái thế giới “huyền diệu” mà ông có cơ may băng
ngang qua. Thật là một dịp tốt để tác giả tương lai của Đấng tạo hóa xấu xa giăng mắc các nghịch lý, đề nghị người bạn ở xa
phòng ngừa niềm hào hứng hoặc lòng ghen tị đối với các “cơ may” của người lưu
đày, cơ may được chuyển đi nơi khác, khả năng sống đời du mục, vong bản, cách
xa “quê hương đã tiêu tan” của mình. Và Cioran kết thúc những lời tâm sự bằng
cách trích dẫn Chamfort, nói rằng ở Paris, bốn phần năm dân cư “chết vì sầu muộn”.
Vừa hết sức tránh rơi vào một hình thức hoài nhớ khô kiệt,
ông vừa nhắc nhở, tất cả chúng ta đều bị nguồn gốc của mình truy đuổi: là người
lữ khách phải lòng những chân trời mới, nhưng ông sẵn sàng cho đi mọi phong cảnh
trên đời để đổi lại phong cảnh của tuổi thơ ông (không phải vì phong cảnh ấy điền
viên êm ái, ông nói thêm, mà những màn ảo thuật của ký ức ông huyền ảo đến mức
mọi thứ gì ở đó đều như thể nhiễm từ tính). Hẳn ông cũng có thể nói, giống như
Marina Tsvetaeva, rằng từ “tổ quốc” trộn lẫn với từ “số phận”, thứ mà ông mang
đi khắp nơi bên mình. Hẳn ông cũng có thể nói giống như bà, rằng ông tuyệt đối
không quan tâm nơi nào sẽ che chở nỗi cô đơn của ông, không quan tâm đến việc
chẳng ai hiểu mình (bằng ngôn ngữ nào đây?). “Tôi chỉ là một tâm hồn/Một ngày
kia sinh ra, đâu đó”, nữ thi sĩ vĩ đại tuyên bố, thậm chí bà còn thách thức cả
tiếng mẹ đẻ của mình, “đầy những âm thanh ngọt”. Cioran không thúc thủ trước “bụi
quê hương” như người bạn xa, nhưng sống ở phương Tây, ông luôn luôn cảm thấy bị
ám ảnh bởi cảm giác mình “ở giữa những người văn minh, như một tên đột nhập, giống
như một kẻ thô lậu mọi rợ đắm đuối với rụng héo, chìm nghỉm vào trong những lời
cầu nguyện tàn hủy, thường trực nỗi sợ hãi không thoát thai từ một thế giới
quan mà từ những co rút thịt da và bóng tối của máu”.
Trong số các văn bản đầu tiên mà Cioran viết bằng tiếng Pháp
có vài trang, chính xác đến rợn người, về từ “dor”, nghĩa là “hoài nhớ” trong tiếng Rumani. Tuy nhiên từ này, được
dùng theo cách thức trữ tình bởi người cố công tìm lối diễn đạt cho nỗi nhớ từ xa, cũng giống Sehnsucht, yearning, saudade hay cảm hoài trong tiếng Việt, không thể dịch
được. Marina Tsvetaeva từng nói, suốt một thời gian dài bà phủ nhận nỗi nhớ quê, nỗi nhớ cứng đầu. “Sung sướng thay kẻ vô tổ quốc”, Hannah Arendt khẳng định
trong một bài thơ, cũng được viết cho những người, tràn ngập lòng lạc quan gắng
gượng, từ chối không chịu tự hỏi mình có phải, đối với mảnh đất tiếp nhận, những
kẻ không được mong muốn, không thích bị gọi là những “kẻ tị nạn” mà thích cụm từ
“những người mới đến” hơn và cho rằng cái đất nước mà họ hy vọng sẽ thành nơi
tiếp nhận mới có thể hé lộ cho họ một tổ quốc đích thực nghĩa là gì.
“Mọi nỗi hoài nhớ, Cioran viết trong các suy tư về từ dor, đều là sự vượt qua hiện tại. Cuộc đời
chỉ có thể mang nội dung trong sự cưỡng bức thời gian. Nỗi ám ảnh nơi khác chính là sự bất khả của khoảnh
khắc.” Và sự bất khả này là bản thân nỗi hoài nhớ, nó buộc tâm hồn phải trôi nổi
trong tình trạng bất xác định, phải sống phơi
mình trong thời gian. Trong số tất tật utopia, Cioran kết luận, chốn kỳ lạ
nhất lại chính là chốn của một thế giới quê
hương, nơi con người ngơi nghỉ khỏi chính bản thân mình, khỏi những mệt nhọc
của mình.
Người lưu đày, chúng ta đã biết, có xu hướng choàng vinh
quang lên nỗi hoài nhớ. Milan Kundera, người cũng, giống như Cioran, đổi ngôn
ngữ, chọn tiếng Pháp để tạo dựng một thế giới của người dịch chuyển, nhắc nhở,
trong Vô tri, sự thật này: rất hiếm
người di cư không bị choáng ngợp trước ma thuật vĩ đại của sự trở về. Ulysse ở
thời điểm nhìn thấy lại hòn đảo của mình sau nhiều năm phiêu bạt là hình ảnh gốc
đeo đuổi những ai từng sống lâu dài nơi đất lạ: “Cuộc trở về trong tiếng Hy Lạp
là nostos. Algos thì có nghĩa đau đớn. Như vậy hoài nhớ là nỗi đau đớn gây ra
bởi ham muốn trở về không được thỏa mãn.”
Nhân vật Người Di Cư, vẫn theo Milan Kundera, thường trộn lẫn
vào với nhân vật Kẻ Phản Bội hoặc Người Chịu Đau Khổ Vĩ Đại. Lưu đày đồng nghĩa
với mất chỗ và mất sở hữu. Đó là một thảm họa vũ trụ, theo Norman Manea, tuy
nhiên lại là người ít nhất cũng đã mang theo mình ngôn ngữ mà ông sử dụng để sống,
yêu, mơ, và sẽ dựng nên, cách xa quê hương, tại New York, một tác phẩm hoàn
toàn được xây trên những gì còn lại trong ông của tiếng Rumani. Nhưng ai đã đổi
ngôn ngữ và viết bằng những từ đi mượn thì gần như buộc phải gánh lấy vai trò Kẻ
Quay Lưng, phản bội ngôn ngữ của mình, cũng như vai trò của Người Chịu Đau Khổ
Vĩ Đại: từ Ovide cho tới Günther Anders, thư từ và nhật ký của lưu đày ngập
tràn lời than thở của những người, trước cả khi học được ngôn từ khác, cảm thấy
tiếng mẹ đẻ của mình rạn vỡ trầm trọng đến mức nào. “Anh muốn biết tôi có ý định
rồi một ngày sẽ quay trở lại với ngôn ngữ của chúng ta hay không, Cioran viết
cho người bạn ở xa, hay tôi vẫn sẽ trung thành với thứ tiếng khác này, nơi anh
cứ vu vơ mà tưởng đâu đối với tôi là dễ dàng lắm, nhưng không, sẽ chẳng bao giờ
dễ dàng đâu.” Ông hoài nhớ những gì mà tiếng Rumani cho phép, trong sự “lộn xộn
tuyệt diệu” của nó, và than van vì phải, mà vốn dĩ ông cảm thấy châu Á cuồn cuộn
trong mạch máu, đánh vật với những thứ cứng đờ áp đặt bởi một cú pháp mang “phẩm
hạnh của xác chết”, nếu ông muốn để lại một dấu vết giữa những người gây mê hoặc,
ảo thuật gia ngôn từ từng vượt qua được cơn ác mộng sinh ra từ mối quan hệ giữa
ông và tiếng Pháp.
Bằng cách vứt bỏ đi mọi tính chất oặt ẹo của nỗi hoài nhớ,
Cioran chưa bao giờ để mình sa vào vòng bi lụy. Tuy nhiên ông đong quá tay sức
mạnh của sự vắng, khi thực tại bắt kịp ông trong đời lưu đày. Câu chuyện “Thư gửi
một người bạn xa” có một vĩ thanh vượt xa mức bi thảm: một năm sau khi nó xuất
hiện trên tờ NRF, người bạn Rumani
không được nêu tên, trên thực tế là triết gia Constantin Noica, bị an ninh của
Đảng bắt, cùng khoảng hai mươi trí thức. Tại phiên tòa xử họ năm 1960, “Thư gửi
một người bạn xa”, cùng toàn bộ thư từ giữa triết gia lưu đày và người ở lại
Bucarest, được coi là bằng chứng buộc tội, Noica bị cáo buộc âm mưu lật đổ và bị
kết án hai mươi lăm năm tù khổ sai (tuy nhiên ông được thả vào năm 1964).
Norman Manea, nhắc lại lời Kafka theo đó viết thư “là phơi
mình trần truồng trước lũ ma, chúng hau háu đợi thời điểm ấy”, có lẽ là nhà văn
lưu đày tự chất vấn nhiều nhất về các ngõ cụt nơi đâm bổ vào mọi con người tìm
kiếm dấu vết, chuếnh choáng mang niềm hy vọng về Cuộc Trở Về Vĩ Đại và trở nên
rồ dại trước viễn cảnh lại phải hòa hoãn với cái đã biết, mà vốn dĩ họ đã luôn
luôn phải sống giữa nhiều điều bất khả do Kafka phát biểu: bất khả không viết,
bất khả viết bằng những từ đi mượn, bất khả viết bằng một thứ tiếng khác, nhưng
hẳn ta còn cần thêm vào đó nỗi bất khả viết, hết sức giản dị vậy thôi, và cả
“điều bất khả thứ năm” nữa, do Norman Manea nêu lên: lưu đày nội tâm, mà hiện
thân theo cách thức tuyệt đối là Kafka, người khuyên chúng ta, trong cuộc đối đầu
với thế giới, hãy đứng về phía thế giới, Kafka, con người tự đặt mình, đầy chủ
đích, ra ngoài rìa và không ngừng trở đi trở lại với sự bất lực tham gia cuộc
chơi của mình. “Hãy xem có đến bao nhiêu điều bất khả trong những bức thư của
chúng ta, ông viết cho Felice Bauer. Đâu đâu cũng là những bất khả!”
Viết thư, đó là gọi tên sự vắng, quay trở lại nỗi trống rỗng
hoác miệng do chia ly xới lên. Viết thư từ cuộc lưu đày hiếm khi nào đồng nghĩa
nối lại với những gì thuộc về ta nhưng còn chưa rời khỏi quê hương, mà ngược lại,
thường nói lên sự trở về bất khả và cúi mình khuất phục trước sức mạnh của sự vắng.
Chủ yếu, người ngự trị nhờ sức mạnh của sự vắng lại không phải kẻ lưu đày, Heimatlos, mà là người cứ mãi đậu thuyền
nơi bến cảng xưa cũ, người đã không phản
bội, cái người không hề thường trực tìm kiếm những con đường còn in dấu bước
chân lạc của tuổi thơ, có lẽ anh ta được phép nói Antée là đồng minh của mình,
rằng sức mạnh đi cùng anh ta đến mọi nơi. Anh ta không tự đặt câu hỏi về chuyện
có thuộc về một ngôn ngữ hay không, anh ta không trở thành con mồi cho “điện ảnh
gia của tiềm thức” ấy, kẻ, Milan Kundera nói trong Vô tri, ban ngày thì gửi đến cho anh ta các mẩu phong cảnh quê
hương như những hình ảnh của hạnh phúc nhưng đêm đến lại tổ chức những cuộc trở
về gây khiếp hãi, vẫn là tới đất nước kia - đã bao giờ người ta hình dung được
“giấc mơ di cư”, những giờ khuya khoắt, theo rất nhiều dị bản, viếng thăm những
ai từng bỏ đi khỏi nhà, tin mình đã nhất quyết quay lưng lại mọi biểu hiện gốc
rễ, những ai chẳng còn biết nữa mình đang tiến lên trong cuộc tồn tại với bệ đỡ
là các mối liên hệ giả tưởng mà họ còn giữ được với thiên đường đã mất hay cái
ý nghĩ rằng, vượt qua đường biên giới tổ quốc mình cũng có nghĩa họ đã trốn
thoát một địa ngục?
Trong các bức thư lưu đày, ít người thể hiện mình là kẻ trốn
chạy không “tự kể lể” cơn say của Cuộc Trở Về Vĩ Đại, tuy rằng lẽ sống của họ,
kể từ khi nhổ neo, là trở thành, cũng giống các bạn đồng hành của Ulysse, những
Kẻ Ăn Hoa Quên, lãng quên con đường đưa họ quay về Ithaque quê hương. Thư lưu
đày là nơi hằn rõ điều mà Norman Manea gọi bằng cái tên sự hội tụ đầy mâu thuẫn
và nhiều tính chất sáng tạo của mọi sự bất khả bên trong người di cư: anh ta có
ý thức mình ở giao điểm các cơn gió, nuôi dưỡng những bóng ma bằng cách không
ngừng nhắc đi nhắc lại cùng những câu chuyện hoài nhớ, nhưng anh ta cũng có ý
thức rằng những gì một ngày kia anh ta sẽ nhận ra nếu quay về cái chốn đã chứng
kiến anh ta ra đời, là “điều tốt đẹp nhất”, thứ quý giá nhất trong số mọi tài sản
mà anh ta sở hữu, lại nằm bên ngoài các vùng đất thân thuộc ấy, trong những năm
anh ta từng sống không ràng buộc, khi anh ta chơi đùa và hưởng thụ một ngôn ngữ
khác, ngôn ngữ của xa xôi, nó thì thầm với anh ta là phải trở về nhà nhưng đồng
thời mang đi xa mất những gì máu thịt với anh ta và nhắc anh ta nhớ rằng tổ quốc
anh ta cũng chính là miền đất của những mối bất hòa của anh ta.
Người lưu đày nào, mỗi lúc đọc được một bản dịch tuyệt vời,
mà không nghĩ, giống như Jacques Roubaud, rằng đó là một con thú kỳ dị, nó nói:
“Tôi viết cho bạn từ một đất nước xa xôi”? Người lữ thứ không ngoảnh đầu nào, cập
vào những bến bờ xa lạ, lại không hy vọng, giống như Nelly Sachs, rằng những biến
hình của thế giới sẽ trở thành quê hương cho mình? Nhớ đến một tác phẩm thời trẻ
của Aristote, trong đó ông so sánh cuộc đời nhà tư tưởng với cuộc đời người nước
ngoài, Paolo Virno, trong Sử dụng cuộc đời
và các chủ đề gây lo lắng khác, nhắc rằng triết gia cũng như người lưu đày,
trong lúc giữ mình xa khỏi “những giọng nói hỗn loạn của Quảng Trường”, dành một
“lòng tin tưởng chuyên nhất cho cú pháp khái niệm của toàn thể giống loài: triết
gia thì tìm kiếm ở đó sự thật, còn người lưu đày tìm sự an toàn”. Và nhấn mạnh
rằng cư dân các thành phố lớn lúc nào cũng là người nước ngoài, luôn luôn vươn
tới thân phận “người xa xứ”, vì cứ bị bắt buộc phải “vĩnh viễn phụng sự các phạm
trù thiết yếu nhất thuộc trí năng ngôn ngữ”, dẫu cho anh ta “phải bị tra tấn” mới
chịu đọc một cuốn sách nào đó. Xuất phát từ các nhìn nhận về hiện tượng đô thị
và tu từ học - thành phố lớn ngày nay lấy ngôn ngữ làm hình mẫu và hiện ra như
một mê cung các ẩn dụ, phát ngôn, trật nghĩa và hàm ngụ - Paolo Virno dẫn dắt một
suy tư về các địa điểm: địa điểm chung của tâm trí, địa điểm đặc biệt của tập quán, địa điểm quen của luân lý, nghĩa là của
cuộc sống tốt lành.
Từ nơi nào sẽ cất tiếng người viết thư chơi đùa với sức mạnh
mà sự vắng ban cho anh ta? Những bức thư mà hai người bạn ở xa viết cho nhau,
hai cư dân của những thành phố lớn nằm tại các đối cực, hai cư dân, dẫu một
trong đó chưa từng bao giờ rời khỏi hàng rào khu vườn của mình, đều là những
người lưu đày tự thân, có phải nhất
thiết những bức thư sẽ mang dấu ấn của một nỗi hoài nhớ không thể chữa trị, một
cú xé toang không thể vá víu, vì lúc nào các bóng ma cũng hoạt náo nhằm giũa mòn những gì còn lại của hiện diện,
nhằm tước đoạt hiện thân những gì đã
có nguy cơ sắp rơi vào sự trừu tượng? Sẽ là nhầm nếu tưởng những từ ngữ bay từ
người đã đi xa khỏi biên giới tổ quốc đến người cố định mãi ở nơi neo đậu chỉ
nói lên sự trống rỗng: sự bất khả hiện ra từ những trò chuyện qua thư giữa người
được ở đây lựa chọn và người du hành ở kia hé lộ những điều có thể rất khó ngờ.
Sự vắng, sự xa cách, thậm chí cả cảm giác cô lập, có lẽ, được chuyển hóa thành
các năng lượng ngầm. Người lưu đày sẽ không còn nói đến một nơi mọi thứ đều bị
tàn hủy và sẽ không còn cất tiếng hướng tới một thế thân giả định may mắn hơn
mình bởi vì không phải trải qua sự bùng vỡ bên trong mà, người ta hay nói, luôn
luôn bị kích động bởi lời giã biệt quê hương, anh ta sẽ có thể rời khỏi những
ngõ cụt bị dồn vào khi nhận thức được thân phận mình, không còn là Kẻ Khôn
Nguôi Tấm Tức ở phương diện siêu hình, mà trở thành người cải biến các kỳ tang
chế và những cái chết liên tiếp của mình thành chừng ấy chuyến đi, trong đó, mở
lòng mình với người kia, cái người vẫn gắn bó không rời với bờ bến thân quen,
anh ta sẽ không nối lại theo đường lối giả tạo với nguồn gốc của mình, mà sẽ
làm nổ tung những gì cầm tù tất tật, nhốt chặt và bủa vây - thư lưu đày, thay
vì nói lên “hiểu biết về đau khổ”, khi ấy lại trở thành một sự ở bên ngoài đầy cứu rỗi.
Marina Tsvetaieva
Linda Lê, năm nay (2016)
Par ailleurs (exils)
Lame de fond
Linda Lê, năm nay (2012)
Trò chuyện với Linda Lê
À l'enfant que je n'aurai pas
Dịch giả Nguyễn Khánh Long
Viết văn và mặc cảm Caliban
In memoriam
Cronos
Au fond de l'Inconnu pour trouver du nouveau
"Pour saluer Cioran"
Lại chơi với lửa
Linda Lê viết tiểu luận ghê thật, mà in trong tập sách tương lai là tập tiểu luận hay là tập tiểu thuyết đính kèm bài này hả bác?
ReplyDelete"Mỗi sự vật đều thiếu vắng chút ít mùi vị hiện thực." - Tazaki Tsukuru không màu và Những năm tháng hành hương. Cho nên đúng thực cái bất khả của "ở lại" chẳng khác cái bất khả của "ra đi" mà nỗi"hoài nhớ" trong khi "vượt qua" đã luôn che khuất chân tướng của những tình cảnh ấy.
ReplyDeleteThe power of vắng.
ReplyDeletesẽ in trong một tập tiểu luận chứ
ReplyDeleteTiểu luận tiếng Việt chứ?
ReplyDeletetìm đâu được một nhà xuất bản Việt Nam sẵn sàng in một tập tiểu luận văn học đây? cái sự này chưa hề bao giờ tồn tại hehe
ReplyDeleteTìm đâu thấy sức mạnh của sự im lặng và của sự vắng ở giải Nobel Văn Chương năm 2016? Hic, thương Bob Dylan quá đi, người ơi...
ReplyDelete- GC.
Linda
ReplyDelete