sau khi đã "về N", rồi bao nhiêu "về & về" thì cuối cùng cũng, đây rồi: cần phải N về W
(tiếp tục Cấ)
Trong số Unzeitgemässe Betrachtungen của Nietzsche, Richard Wagner ở Bayreuth là số 4 và cuối cùng (thật ra, không hoàn toàn cuối cùng, nhưng khi Nietzsche còn sống thì có tổng cộng 4 đã in), ngay trước đó, số 3, là Schopenhauer nhà giáo dục (rất nổi tiếng ở Việt Nam: một thời gian dài, ở Việt Nam Nietzsche chủ yếu là Zarathustra, Ecce Homo, Hoàng hôn và text về Schopenhauer ấy, còn bản thân Schopenhauer, một mảnh nhỏ của Thế giới ở tư cách ý lực và ở tư cách biểu hiện). Ta sẽ quay lại 1 và 2 sau (sắp tới).
Hai tiểu luận đầu trong số Unzeitgemässe Betrachtungen là ngay lập tức sau cú début (không hoàn toàn là đầu tiên của đầu tiên) gây tranh cãi điên rồ, nhất là sự chế giễu của Ulrich von Wilamowitz-Moelendorff (Erwin Rohde, bạn của Nietzsche, counter sự chế giễu ấy) cho rằng Nietzsche không đủ mức khoa học trong sự nhìn nhận bi kịch và sự sinh ra của nó. 1 và 2 của loạt mau chóng được in, tổng cộng trong vòng chỉ mười tháng, và Nietzsche đã nghĩ sẽ giữ nhịp điệu đó để đi đến tổng cộng 12 text tương tự - cuối cùng đã chỉ có 4.
Đấy là bối cảnh, nằm ở đoạn Nietzsche quanh tuổi 30. Ở giai đoạn này, mối quan hệ với Wagner và his circle có ý nghĩa rất lớn với Nietzsche, nhất là khi vị trí dạy học của Nietzsche tại Bâle (Basel) bị lung lay dữ dội, các nhà philologue khiến uy tín của Nietzsche sụt giảm, có học kỳ lớp của Nietzsche chỉ có hai sinh viên đăng ký. Số 3, về Schopenhauer, đã khiến Nietzsche được Wagner và những người xung quanh nức nở khen ngợi, vì đấy (Schopenhauer) là thần tượng của họ (tuy nhiên, Wagner, cũng như Jacob Burckhardt - còn có thêm một nhân vật nữa đồng nghiệp, Bachofen, mà Walter Benjamin hết sức quan tâm), rất dè dặt trước số 2, một tiểu luận đặc biệt quan trọng, và là duy nhất trong 4 không có đối tượng là một nhân vật cụ thể). Tất nhiên, số 3 và số 4 không còn giữ được nhịp đặc biệt nhanh (và điên rồ) của số 1 và số 2 nữa.
Richard Wagner ở Bayreuth
5
Wagner đã phóng vào cuộc sống hiện tại và vào quá khứ tia sáng rực rỡ của một hiểu biết đủ mạnh, nó cho phép nhìn thấy một không gian có quảng tính ít thông thường: chính vì thế ông là một người đơn giản hóa thế giới; bởi sự đơn giản hóa thế giới lúc nào cũng đồng nghĩa với việc ánh mắt của người khám phá lại trở thành ông chủ của sự rối loạn và sầu thảm kỳ vĩ của một hỗn độn vẻ ngoài, và đưa về nhất thể những gì trước đó đã bị tản mát đi và không thể hòa giải. Wagner đã làm được điều này bằng cách thiết lập một tương quan giữa hai điều dường sống trong cảnh xa lạ và thờ ơ với nhau, như hai tầng cầu tách biệt, âm nhạc và cuộc sống, nhưng cũng cả âm nhạc và kịch. Không phải là ông đã bịa ra những tương quan ấy, ông cũng không phải là người đầu tiên tạo ra chúng: chúng ở đó và đúng nghĩa là nằm dưới chân mỗi người: hoàn toàn tương tự một vấn đề lớn thì luôn luôn giống viên đá quý mà hàng nghìn người giẫm chân lên cho đến ngày rốt cuộc ai đó nhặt nó. Có nghĩa gì, Wagner tự hỏi, sự thể một nghệ thuật như âm nhạc lại từng trồi lên với lực vô song đó trong cuộc sống của những con người hiện đại? Hoàn toàn không cần phải coi rẻ cuộc sống ấy thì mới thấy ở đó một vấn đề; ngược lại, khi người ta ước lượng tất tật những lực lớn thực sự thuộc về cuộc sống ấy và gợi lên hình ảnh về một tồn tại phải có các nỗ lực dữ dội thì mới tự áp đặt được và tranh đấu vì tự do có ý thức và cho độc lập của suy nghĩ - chỉ lúc ấy âm nhạc mới hiện ra tại thế giới này như một điều bí hiểm. Chẳng phải là cần tự nhủ: âm nhạc đã không thể sinh ra vào thời này? Nhưng thế thì làm sao mà giải thích được tồn tại của nó đây? Nó có phải là một ngẫu nhĩ thuần túy hay chăng? Chắc chắn, chỉ một nghệ sĩ lớn có thể là một ngẫu nhĩ, nhưng sự xuất hiện của tất tật những nghệ sĩ lớn mà lịch sử âm nhạc hiện đại cho thấy, và chỉ có tương đương đúng một lần duy nhất, vào thời của người Hy Lạp, thì khiến người ta nghĩ, không phải ngẫu nhiên mà tất yếu mới là thứ đang ngự trị ở đây. Tất yếu đó, ấy là vấn đề được Wagner mang tới cho một câu trả lời.
Ông là người đầu tiên đã thức nhận được một mối nguy cũng trải rộng ngang mức với ngày nay văn minh đặt các dân tộc vào sự tiếp xúc với nhau: khắp nơi ngôn ngữ bị ốm, và trọng lượng mà căn bệnh gớm ghiếc này đè nặng xuống toàn bộ sự phát triển của loài người. Trong chừng mực ngôn ngữ đã phải thường trực đi lên những bậc cao nhất mà nó có thể lên được, nhằm có thể nắm bắt, trong lúc phải rời xa hết mức khỏi nỗi xúc động mạnh mẽ mà ở khởi đầu nó biết cách diễn tả hết sức đơn giản, những gì đối nghịch với tình cảm, tức là địa hạt của suy nghĩ, sức lực của nó đã bị cạn kiệt trong sự mở rộng vô chừng mực trong quãng thời gian ngắn ngủi của văn minh hiện đại ấy: thành thử nó không còn có khả năng thỏa mãn đòi hỏi duy nhất vì đó nó ở đây nữa: theo đó những ai chịu đau đớn hiểu được nhau về những gì cần thiết sơ đẳng hơn cả của cuộc đời. Con người không còn làm cho mình được biết nổi nữa, trong nỗi hoảng loạn của mình, nhờ ngôn ngữ và như vậy thì không thể thực sự thông giao: ở tình trạng được cảm thấy một cách tăm tối ấy, khắp nơi ngôn ngữ đã tự nó trở thành một quyền năng, nó dùng những cánh tay ma của mình ôm siết lấy những con người và đẩy họ đến cái chỗ nói đúng ra họ không muốn đến: ngay khi họ tìm cách hiểu nhau và tụ họp lại trong cùng một dự đồ, thì sự điên của những khái niệm chung và thậm chí các vang âm thuần khiết liền chiếm lấy họ và do sự thiếu khả năng thông giao ấy, các sáng tạo từ tinh thần chung của họ lại mang dấu ấn của sự thiếu thông hiểu lẫn nhau, vì chúng không tương ứng với những điều cần thiết thực, mà chỉ tương ứng với sự rỗng của những từ đó và những khái niệm đầy tính cách bạo chúa đó; thế là loài người còn thêm vào cho tất tật các nỗi khổ của nó nỗi khổ về quy ước, tức là một sự nhất trí bằng lời lẽ và bằng thể động nhưng không có một nhất trí về tình cảm. Cũng như trong sự chảy về phía hạ lưu của mọi nghệ thuật người ta tới một điểm nơi những phương tiện cùng hình thức giành lấy, trong sự sinh sôi dồi dào bệnh hoạn của nó, một thế thượng phong đầy hống hách lên các tâm hồn trẻ trung của các nghệ sĩ và biến họ thành nô lệ của chúng, người ta cũng đã, trong sự lụi tàn của các ngôn ngữ, trở thành nô lệ của các từ; dưới sự bó buộc này, chẳng ai còn có thể tự tỏ ra đúng như mình vốn dĩ nữa, hay nói năng một cách ngây thơ, và rất ít người cứu được cá nhân tính của mình trong cuộc tranh đấu chống lại một văn hóa tưởng đâu cho thấy thành công của nó không phải bằng cách tỏ ra niềm nở với các nhu cầu và tình cảm sáng sủa, mà bằng cách cuộn cá nhân vào trong những "khái niệm sáng sủa" và bằng cách dạy họ suy nghĩ đúng đắn: như thể là có một giá trị nào đó, việc biến ai đó thành một con người suy nghĩ và lập luận một cách đúng đắn mà trước đó không dạy được cho người ấy cảm thấy theo lối đúng đắn! Do đó những khi, nơi một loài người bị thương tích tận tới mức ấy, vang lên âm nhạc của các bậc thầy Đức của chúng ta, chính xác thì người ta nghe thấy gì? Thì đó! chỉ là tình cảm chuẩn, kẻ thù của mọi quy ước, mọi khoảng cách và mọi sự không hiểu nhân tạo giữa con người với nhau: âm nhạc ấy là một quay trở về với tự nhiên, cùng lúc nó vừa là thanh tẩy lại vừa là chuyển hóa của tự nhiên; bởi chính trong tâm hồn những người yêu nhiều ơn cả đã sinh ra nhu cầu về sự quay về đó và cái vang lên trong nghệ thuật của họ, ấy là tự nhiên đã được biến thành tình yêu.
Chúng ta hãy nhận rằng đấy là một trong những câu trả lời của Wagner cho câu hỏi: âm nhạc vào thời chúng ta có ý nghĩa gì? Còn có thêm một câu trả lời nữa: tương quan giữa âm nhạc và cuộc sống không chỉ là tương quan giữa hai dạng ngôn ngữ, đấy là tương quan giữa thế giới âm thanh được tựu thành và toàn bộ thế giới thị giác. Thế nhưng ở tư cách hiện tượng thị giác, và nếu so với các biểu hiện trước đây của cuộc sống, tồn tại của con người hiện đại bày ra một sự nghèo nàn, một sự kiệt sức không thể nói thành lời, mặc cho sự sặc sỡ khó tin nổi, nó chỉ thỏa mãn được ánh mắt hời hợt hơn cả. Người ta chỉ cần bỏ công nhìn vào đó kỹ hơn và gỡ ấn tượng tạo ra bởi trò chơi của các màu náo động một cách dữ dội ấy ra: chẳng phải là tổng thể thật giống sự lấp lánh hay nhóng nhánh của vô số viên đá nhỏ và rất nhỏ vay mượn từ những văn hóa đã qua ư? Ở đây chẳng phải mọi thứ đều là sự hào nhoáng bị dịch chỗ, chuyển động bị nhái, vẻ ngoài bị giả vờ, ư? Một bộ trang phục được may từ các lá cờ đủ mọi màu cho những ai trần truồng và run lên cầm cập? Một điệu nhảy vui tươi một cách giả dối áp đặt lên những người đang đau đớn? Những vẻ mặt của sự khoa trương ngồn ngộn nơi những người nhận thương tích nặng? Và cứ chốc chốc, chỉ bị giấu và bị che đi bởi sự nhanh của chuyển động và của xoáy lốc, sự bất lực bợt bạt, nỗi bất mãn chua loét, buồn chán cần cù, bần cùng đạo đức giả! Con người hiện đại chỉ còn hiện ra như là một vẻ bề ngoài thuần túy và đơn giản nữa mà thôi; trong những gì anh ta trình hiện ngày hôm nay, còn xa mới tự làm cho mình hiển hiện, anh ta trốn đi; và phần còn lại của tính sáng chế nghệ thuật từng được giữ gìn ở một dân tộc, chẳng hạn ở người Pháp và người Ý, được sử dụng cho nghệ thuật chơi trốn tìm ấy. Khắp nơi nào ngày nay người ta đòi hỏi "hình thức", dẫu là trong xã hội hay trong trò chuyện, trong biểu đạt văn chương hay trong các mối quan hệ giữa những Nhà nước, người ta đều, dẫu không muốn vậy, muốn nói một vẻ bề ngoài tạo nhiều vui thích, cái trái ngược với khái niệm hình thức đúng nghĩa ở tư cách cấu hình cần thiết chẳng có gì chung với cái "tạo vui thích" và cái "gây khó chịu", chính vì nó là tất yếu chứ không phải tùy chọn. Ngay cả ở những nơi người ta không lớn tiếng đòi hình thức, tại các dân tộc văn minh, thì người ta cũng không sở hữu nhiều hơn cấu hình tất yếu kia, mà chỉ kém hạnh phúc hơn, nhưng cũng đầy nhiệt hứng y như vậy trong sự tìm kiếm vẻ bề ngoài vui thú. Vẻ bề ngoài có thể vui thú đến mức nào ở đây hay ở kia, và tại sao ai cũng thấy vui trước việc con người hiện đại ít nhất phải bỏ công mà tỏ vẻ, đấy là điều mà ai cũng cảm thấy trong chừng mực chính anh ta là một con người hiện đại. "Chỉ đám tù khổ sai chèo thuyền mới tự biết mình - Tasso bảo - còn chúng ta thì, chúng ta lịch sự không tự biết mình lắm để đổi lại việc người ta cũng không biết chúng ta lắm."
Nơi cái thế giới của các hình thức và của sự không biết rõ lắm được mong muốn này khi ấy xuất hiện những tâm hồn đầy ngập âm nhạc - vì mục đích gì? Những tâm hồn đó dịch chuyển theo một nhịp rộng và tự do, với đầy trung tín và thanh lịch, nương theo một dục vọng vượt quá mức người; chúng cháy bằng thứ lửa hùng mạnh và bình thản của âm nhạc, nó trào ra bên trong chúng từ các độ sâu không thể vét kiệt - nhưng toàn bộ những cái đó, vì mục đích gì?
Qua trung gian là những tâm hồn ấy, âm nhạc đòi cho mình người chị em của nó, người giống nó, thể dục, thứ như thể là cấu hình tất yếu của nó ở địa hạt của cái hiển hiện [Nietzsche đang nói như Socrate - tức là Socrate của Platon]: trong sự tìm kiếm này và trong đòi hỏi này, nó vươn lên thành thẩm phán cho toàn bộ thế giới của các vẻ ngoài và của các cảnh tượng lừa dối của thời hiện tại. Đấy là câu trả lời thứ hai của Wagner cho câu hỏi: đâu là biểu nghĩa của âm nhạc vào thời chúng ta? Giúp tôi đi, ông gào lên với tất tật những ai biết nghe, giúp tôi khám phá văn hóa mà âm nhạc của tôi dự báo vì nó là ngôn ngữ tìm lại được của tình cảm chuẩn, hãy nghĩ rằng giờ đây tâm hồn của âm nhạc muốn được trao cho một cơ thể và ở tất tật các anh nó tìm cách vạch lấy cho mình một con đường về phía chuyển động, hành động, những thiết chế cùng phong hóa! Có những người, càng lúc càng nhiều hơn, hiểu lời kêu gọi đó; những người này lần đầu tiên lại hiểu được việc dựng Nhà nước trên âm nhạc nghĩa là gì, những gì mà người Hellène [Hy Lạp] cổ không chỉ đã hiểu mà còn tự áp đặt lên chính họ: và cũng chính các tinh thần đã nhận được trí năng này sẽ quật túi bụi vào Nhà nước hiện nay với cùng sự không khoan nhượng như phần lớn con người đã quật túi bụi vào Nhà thờ ở thời chúng ta. Con đường của một mục đích mới như vậy và thế nhưng từng không phải lúc nào cũng lồng lộng như thế dẫn đến chỗ tự thú nhận lỗ hổng đáng xấu hổ hơn cả ở giáo dục của chúng ta và mô típ đích thực của sự thiếu khả năng của nó trong việc thoát khỏi sự mọi rợ nằm chỗ nào: nó thiếu mất tâm hồn hoạt động và khuôn tạo của âm nhạc, ngược lại các đòi hỏi và các thiết chế của nó là sản phẩm của một thời kỳ nơi âm nhạc tại đó kể từ nay chúng ta đặt một lòng tin hết sức nhiều ý nghĩa còn chưa hoàn toàn chào đời. Giáo dục của chúng ta là sự khuôn tạo lạc hậu hơn cả của thời hiện tại và nó lạc hậu chính trong tương quan với lực giáo dục duy nhất mới hiện lên mà con người hiện nay có thể lấy làm thứ khiến mình vượt trội hơn so với con người của những thế kỷ đã qua - hẳn ít nhất người ta cũng sẽ có thể nổi bật được về giá trị, chỉ cần muốn thôi sống theo cách thức thiếu suy tư như vậy, dưới kiềm thúc của khoảnh khắc! Vì cho đến lúc này đã từ chối đón nhận vào mình tâm hồn của âm nhạc, họ cũng vẫn chưa dự cảm được thể dục theo nghĩa Hy Lạp và Wagner của từ này; và đấy lại là lý do khiến các nghệ sĩ ở những tác phẩm tạo hình bị kết án phải rơi vào cảnh tuyệt vọng lâu hết mức mà họ muốn, như chuyện ngày hôm nay đang diễn ra, bỏ qua mất âm nhạc, người dẫn đường hẳn sẽ đưa họ tới một thế giới của các viễn kiến mới: dẫu các tài năng đang phát triển lúc đó có là như thế nào, thì cũng là quá muộn hoặc quá sớm và dù sao đi nữa, ngược thời, bởi vì ngay cả những gì mà các thời đã qua đã mang lại, đã hoàn chỉnh và ở mức cao nhất, và ngày nay tạo dựng mẫu cho các nghệ sĩ, cũng thừa thãi và gần như chẳng có hiệu ứng nào, và gần như không còn đóng góp vào việc đặt một viên đá này lên một viên đá khác nữa. Nếu ở sự chiêm ngưỡng bên trong của mình họ không thấy trồi lên trước mặt các hình thức mới mà vẫn những hình thức sau lưng họ, thì họ phụng sự khoa học lịch sử chứ không phải sự sống và họ đã chết trước cả khi chết: nhưng ngày nay người nào cảm thấy bên trong mình một sự sống thật và nhiều sức sinh nở - và hiện nay điều đó chẳng muốn nói gì khác ngoài âm nhạc - thì anh ta có thể trong chốc lát để mặc cho mình được đưa vào những hy vọng đầy hứa hẹn bởi bất kỳ cái gì trong số những thứ đang kiệt đi về các hình tượng, các hình thức và các phong cách, được chăng? Anh ta ở quá tất tật những phù phiếm thuộc thể loại ấy; và anh ta không nghĩ nhiều tới việc tìm ra các phép mầu về tạo hình bên ngoài thế giới âm thanh lý tưởng của mình hơn so với còn trông đợi từ các nhà văn lớn của những ngôn ngữ đã kiệt lực và xỉn tối của chúng ta. Thay vì dỏng tai tìm nghe vài an ủi vô vọng, anh ta chịu được việc dõi chăm chăm ánh mắt thiếu thỏa mãn một cách sâu sắc của mình vào tồn tại hiện đại của chúng ta: chẳng quan trọng mấy chuyện ở anh ta đầy tràn thứ dịch xấu cùng niềm căm ghét, nếu trái tim anh ta không đủ ấm nóng để mà tự thương thân! Cả sự độc ác và độc địa cũng đáng thích hơn so với phải tự đặt mình lại, theo cách thức của các "a ma tơ nghệ thuật" của chúng ta, vào một nỗi sướng thân đầy lừa phỉnh và vào một sự say xỉn lén lút! Nhưng ngay cả khi anh ta biết làm nhiều thứ hơn chứ không chỉ chối bỏ và nhạo báng, ngay cả khi anh ta biết yêu, thông cảm và hợp tác, thì trước hết anh ta vẫn phải chối bỏ nhằm mở đường cho tâm hồn giàu sức trợ giúp của mình. Để một ngày kia âm nhạc trao được cho nhiều người sự tĩnh tâm và biến họ thành những người tin cẩn để giao phó các ý đồ tối cao của nó, cần phải bắt đầu bằng việc chấm dứt trò thương mại của những sự sung sướng, được thực hiện với một nghệ thuật thiêng như thế; cột trụ đỡ lấy tất tật các giải khuây nghệ thuật của chúng ta, những nhà hát của chúng ta, những viện bảo tàng của chúng ta và những dàn nhạc giao hưởng của chúng ta, tức là "a ma tơ nghệ thuật", phải bị cấm ngặt; ân huệ chính thức được thể hiện cho các ham muốn của nó phải được biến thành thất sủng; một sự đánh giá chuẩn xác hơn phải gạt đi sự đánh giá công cộng trao một giá trị không xứng cho toàn bộ những gì khích lệ cái thứ nghiệp dư kia. Lúc này, chúng ta phải đi tận đến chỗ coi kẻ thù rõ ràng của nghệ thuật như một đồng minh thực và hữu ích bởi những gì chống lại đó anh ta công khai tuyên bố mình là kẻ thù bao giờ cũng chỉ là nghệ thuật giống "a ma tơ nghệ thuật" hiểu: anh ta chẳng hề biết nghệ thuật nào khác! Anh ta cứ mặc sức trách cứ a ma tơ về sự lãng phí tiền gớm ghê mà việc xây dựng các nhà hát của hắn cùng các công trình công cộng của hắn, việc thuê các ca sĩ cùng diễn viên "nổi tiếng" của hắn, việc bảo trì các trường nghệ thuật và gallery tranh hoàn toàn không có sức sinh sôi của hắn, gây ra, đấy là còn chưa tính toàn bộ những gì mà người ta vứt qua cửa sổ, tại mọi tổ ấm, về thời gian cùng tiền bạc dành cho giáo dục cái được gọi là "những mối quan tâm nghệ thuật". Ở đây không có cả nỗi thèm ăn lẫn sự thỏa thuê, mà chỉ một trò chơi lử đi với sự vờ vịt của hai bên, toàn bộ được tưởng tượng ra nhằm đến sự dàn cảnh vớ vẩn hơn cả để lạm dụng đánh giá của người khác có lợi cho mình; hoặc còn tệ hơn: chỉ cần mơ hồ coi nghệ thuật là nghiêm túc thôi, người ta sẽ trông chờ việc nó tạo ra một dạng đói và thèm khát và người ta chỉ định việc cho nó, sự kích thích được tạo ra theo lối nhân tạo đó. Như thể e sợ gục ngã trước nỗi chán ngán của chính mình và trước sự u mê của chính mình, người ta triệu tới tất tật các con quỷ độc ác nhằm bị đám thợ săn ấy truy đuổi như một con mồi: người ta có một nỗi khát sự đau đớn, sự giận dữ, niềm căn hận, sự sưởi ấm, nỗi hoảng đột nhiên, căng thẳng hổn hển, và người ta gọi nghệ sĩ đến giúp ở tư cách phản lại cuộc săn địa ngục kia. Nơi hệ thống tâm thần của những con người có học vấn chúng ta, giờ đây nghệ thuật là một nhu cầu tuyệt đối dối trá, hoặc nhơ nhớp và làm mất danh dự, hoặc giả một hư vô hay một thói tật. Nghệ sĩ có giá trị nào đó, có sự hiếm nào đó, như thể bị túm lấy bởi một giấc mơ gây ngây độn vì không nom thấy toàn bộ những cái đó và bằng giọng đầy do dự, thiếu chắc chắn anh ta nhắc đi nhắc lại những lời đẹp đẽ ma quái, mà anh ta tưởng đâu mình nghe thấy phát xuất từ các chốn rất xa xôi nhưng lại không tri nhận được đủ rõ; ngược lại, nghệ sĩ thuần gốc hiện đại thì tiến lên lòng ngập tràn khinh bỉ đối với các dò dẫm cùng các lời lẽ mơ màng của người đồng hành cao quý hơn, và anh ta cầm dây buộc toàn bộ lũ loạn đả kêu oai oái của những dục vọng cùng những thứ thối tha để thả chúng ra theo yêu cầu của những con người hiện đại: bởi những người này thích bị truy sát, bị thương thích, bị xé xác hơn so với phải sống trong im lặng, mặt đối mặt với chính mình. Với chính mình! - ý nghĩ này làm lay chuyển các tâm hồn hiện đại, đấy là nỗi hoảng sợ của họ, từ đó mà có nỗi sợ ma của họ.
Những khi, tại những thành phố đông lúc nhúc, nhìn các đám đông đặc đi ngang qua với biểu đạt u mê hay vội vã của họ, tôi luôn luôn tự nhủ: chắc họ không cảm thấy thoải mái. Nhưng đối với họ, toàn bộ nghệ thuật chỉ ở đó nhằm khiến cho họ còn thấy khó ở hơn, làm cho họ trở nên còn u mê hơn, hay biến họ trở nên ngây ngô hơn, sốt ruột hơn và hau háu hơn. Bởi tình cảm không phù hợp cưỡi lên họ và quất roi vào họ không ngưng nghỉ, và tuyệt đối không cho phép họ tự thú nhận sự bần cùng của riêng họ; dẫu có muốn nói, thì quy ước cũng thì thào điều gì đó vào tai họ, nó khiến họ ngay tắp lự quên mất những gì mình vừa định nói; họ có muốn hiểu nhau thì niệm năng của họ cũng như thể bị các thứ bùa làm cho tê liệt, thành thử họ gọi là hạnh phúc những gì đối với họ là bất hạnh và chăm chỉ kết thành liên minh với nhau, cho chính nỗi thiếu may mắn của họ. Vậy là họ hoàn toàn bị chuyển hóa và bị giáng xuống hàng nô lệ cho tình cảm không phù hợp.
6
Tôi chỉ muốn cho thấy, với hai ví dụ vừa rồi, một điều: vào thời chúng ta cảm giác bị truy đuổi lớn đến mức nào và chính nó hoàn toàn không có ý thức về điều đó ra sao. Xưa kia, người ta nhìn từ trên cao xuống, với một cảm giác về sự vượt trội đáng kính, vào những người làm công việc thương mại với tiền, ngay cả khi người ta cần họ; người ta chấp nhận rằng xã hội nào cũng phải có nội tạng của nó. Giờ đây, họ là quyền năng thống trị trong tâm hồn loài người hiện đại, và là thành tố đáng ghen tị hơn cả của nó. Xưa kia, không sự cảnh báo nào từng sánh được với sự cảnh báo bảo người ta đừng coi là quá nghiêm túc ngày, giây phút, người ta từng khuyên nhủ nil admirari cùng mối lo âu cho những điều vĩnh cửu; giờ đây chỉ còn lại một dạng nghiêm túc nơi tâm hồn hiện đại, ấy là sự nghiêm túc mà người ta dành cho các tin tức mà báo chí hay điện báo mang tới. Dùng giây phút, và để thu được lợi từ đó, ước lượng nó càng mau chóng càng tốt! - hẳn có thể nghĩ, đã chỉ còn lại cho con người ngày nay độc một đức hạnh, sự tỉnh trí. Thật không may, sự thật thì nói đúng hơn nó là sự toàn hiện của một thói hau háu nhơ bẩn và khôn thỏa, thuộc nỗi hiếu kỳ vốn dĩ lúc nào cũng rình mò ở tất tật. Về phần biết xem hiện nay tinh thần nhìn chung có hiện diện hay chăng - chúng ta để lại cho các thẩm phán rồi sẽ đến, rồi một ngày kia bọn họ sẽ bắn phá vào những con người hiện đại - cái việc tìm hiểu điều đó. Nhưng thời này thô lậu, người ta nhận thấy sự này chỉ cần căn cứ vào chuyện nó vinh danh những gì mà các thời kỳ cao quý trước đây từng khinh bỉ; nếu mặc cho mọi điều nó đã tự thu vào mình toàn bộ kho báu của sự thông thái và nghệ thuật của quá khứ và nếu nó vênh vang trong các bộ trang phục lộng lẫy, thì nó cho thấy một ý thức đáng lo lắng về sự thô lậu của mình ở chỗ nó không dùng cái áo khoác ấy mặc cho ấm người mà chỉ nhằm tự lừa gạt bản thân. Sự cần thiết phải giả trang và trốn đi đối với nó khẩn cấp hơn so với việc không bị lạnh cóng. Chính bằng cách đó mà các nhà thông thái và các triết gia ngày nay không dùng sự thông thái của người Hindu và người Hy Lạp cho sự khôn ngoan và sự thanh thản riêng của họ: công việc của họ chỉ là làm sao cung cấp cho hiện tại một danh tiếng đầy lừa dối về thông thái. Các nhà nghiên cứu về động vật học cố công bày ra như là những luật tự nhiên bất di bất dịch các cơn bạo lực thú vật, mưu mẹo cùng trả thù được biểu lộ trong những quan hệ hiện nay giữa các Nhà nước và giữa những con người với nhau. Các sử gia thì cho thấy một nhiệt hứng đầy lo lắng nhằm chứng minh rằng thời nào cũng có quyền riêng cùng những điều kiện riêng của nó - để ngay lập tức chuẩn bị cho lập luận có tính cách quyết định trong sự biện hộ tại phiên tòa mà trong tương lai người ta sẽ tổ chức xét xử thời chúng ta. Lý thuyết về Nhà nước, về dân chúng, về kinh tế, về thương mại, về luật - kể từ nay toàn bộ những cái đó khoác lên mình cái tính cách cẩn trọng biện hộ ấy; thậm chí dường như những gì còn lại từ tinh thần tích cực, vốn dĩ không bị thiêu rụi trong việc phụng sự cơ chế lớn của quyền năng và lợi nhuận, chỉ có độc một việc là bảo vệ và biện minh cho hiện tại.
Trước kẻ buộc tội nào? Người ta ngây ra tự hỏi. Trước ý thức xấu của chính mình.
Và đột nhiên việc của nghệ thuật hiện đại hiện ra rất rõ ràng: sự u mê hoặc sự say! Ru ngủ hoặc làm người ta đờ ra! Đưa ý thức, theo cách này hay cách khác, tới với bên ngoài ý thức! Giúp tâm hồn hiện đại trút bỏ cảm giác tội lỗi của nó đi chứ không phải tìm lại cảm giác về sự vô tội của nó! Và cái đó, ít nhất là trong các khoảnh khắc! Bảo vệ con người trước mắt chính anh ta bằng cách ép buộc anh ta phải im bên trong chính anh ta, không được nghe! - Số lượng nhỏ những người từng, dẫu chỉ một lần, thực sự cảm thấy cái công việc đê nhục ấy, thông qua đó nghệ thuật bị mất danh dự theo lối đáng hoảng sợ, sẽ vĩnh viễn có tâm hồn đầy ngập than van và thở than: nhưng cũng cả một nỗi hoài nhớ mới và hùng mạnh hết sức. Người nào muốn giải thoát cho nghệ thuật, tái dựng tính thánh còn chưa bị xâm phạm của nó, hẳn trước đó sẽ phải tự giải phóng mình khỏi tâm hồn hiện đại: chỉ khi có được sự trong trắng ấy rồi thì anh ta mới được quyền tìm lại sự vô tội của nghệ thuật, và anh ta phải quy phục trước hai sự thanh tẩy phi thường. Nếu khải hoàn, anh ta sẽ nói với những con người bằng nghệ thuật đã được giải phóng của mình và bằng một tâm hồn đã được giải thoát, chỉ lúc đó anh ta mới đương đầu với mối nguy lớn hơn cả, trận chiến kinh khiếp hơn cả; con người thích xé nát anh ta cùng nghệ thuật của anh ta hơn so với thú nhận là mình chết vì xấu hổ trước anh ta và nghệ thuật của anh ta. Có thể sự cứu chuộc nghệ thuật, tia sáng duy nhất mà người ta có thể hy vọng vào thời hiện đại, sẽ vẫn cứ là một sự kiện đối với vài tâm hồn cô độc, trong khi phần lớn sẽ tiếp tục, chẳng hề suy suyển chút nào, nhìn chăm chăm vào ngọn lửa chập chờn tỏa đầy khói của nghệ thuật đúng như họ hình dung ra nó: họ không muốn ánh sáng, mà sự mù, họ căm ghét ánh sáng... nào chiếu xuống họ.
Do đó họ tách xa ra khỏi người mang lại một ánh sáng mới; nhưng người đó đi theo họ, bị ép buộc bởi tình yêu từ đó anh ta sinh ra, và anh ta muốn ép buộc họ. "Các người phải đi qua các bí ẩn của tôi, anh ta hét lên với họ, các anh cần những thanh tẩy và những rung chuyển của chúng. Hãy cả gan làm điều này vì sự cứu rỗi của các anh và từ bỏ luôn vạt của tự nhiên và của cuộc sống đặt bên dưới một sự rọi sáng đáng ngờ mà các anh dường chỉ biết tới kia đi; tôi sẽ dẫn các anh đến một vương quốc cũng thực như thế, và chính các anh sẽ nói, chừng nào từ cái hang của tôi quay về với ánh sáng ban ngày của các anh, đâu là cuộc sống thực hơn, đâu mới đúng là ban ngày, và đâu là cái hang. Tự nhiên, ở các độ sâu của nó, phong phú hơn, dữ dội hơn, hạnh phúc hơn, khủng khiếp hơn nhiều; như thông thường các anh vẫn sống, các anh không biết nó đâu: chính các anh hãy học cách quay trở lại thành tự nhiên và lúc ấy hãy để cho mình được chuyển hóa cùng nó và trong nó nhờ phép thuật của tình yêu và ngọn lửa của tôi."
Giọng nghệ thuật của Wagner nói với những con người như vậy. Việc chúng ta, những đứa con của một thế kỷ đáng thương, chúng ta đã có thể là những người đầu tiên nghe thấy các âm sắc của nó, điều này cho thấy thực sự thế kỷ này xứng với sự thương hại tới nỗi nào, điều này nhìn chung cho thấy âm nhạc đích thực là một mảnh của số phận và của luật nguyên thủy; bởi tuyệt đối không thể nào quy cho một ngẫu nhiên trống rỗng và phi lý sự thể nó được nghe thấy vào đúng khoảnh khắc này; một Wagner của ngẫu nhĩ hẳn sẽ bị nghiền nát bởi sự toàn năng của yếu tố khác nơi ông bị ném vào. Nhưng trong triển hạn của Wagner đúng nghĩa ngự trị một tất yếu có tính các hiển dung và có sức biện minh. Được nhìn nhận trong tạo sinh của nó, nghệ thuật của ông là cảnh tượng tuyệt vời nhất, dẫu cho triển hạn kia có thể đau đớn đến mức nào, vì lý trí, luật, mục đích được biểu hiện khắp nơi. Sung sướng vô vàn trước cảnh tượng ấy, người nào nhìn thấy nó sẽ đi tận tới chỗ ăn mừng chính triển hạn đau đớn kia, đầy mừng vui anh ta sẽ coi như thể mọi thứ đều đóng góp cho cứu rỗi và cho lợi ích của bản tính cùng tài năng tiền định, dẫu chúng có phải kinh qua cái trường khắc nghiệt đến độ nào. Anh ta sẽ cho mỗi hoàn cảnh nhiều cam go làm cho mạnh mẽ thêm tới mức nào một bản tính như thế, mỗi chiến thắng khiến nó trở nên khôn ngoan hơn tới mức nào, bằng cách nào mà, được nuôi dưỡng bằng thuốc độc và bất hạnh, nó lại lấy được từ đó sức khỏe và sự mạnh mẽ; tiếng la ó cùng sự ngăn trở của thế giới vây quanh đối với nó là một chất kích thích và một sự thúc đẩy; có đi lạc thì nó cũng quay trở về được từ sự lạc đường và mất lối của mình với thứ chiến lợi phẩm tuyệt diệu hơn cả; dẫu nó có ngủ thì đấy là nhằm "lấy được trong giấc ngủ những lực mới". Chính nó làm cho cơ thể cứng đanh lại và biến nó trở nên cường tráng hơn; nó lại càng ít gặm nhấm cuộc đời hơn vì nó biến cuộc đời trở nên sống hơn; nó điều hành con người như một dục vọng có cánh và mang lại cho anh ta cặp cánh đúng vào lúc chân anh ta sa lầy vào cát hay bị trầy xước do giẫm lên đá. Nó không thể tự ngăn mình thông giao, ai cũng phải đóng góp cho tác phẩm của nó, nó không hà tiện các món cho đi của mình. Bị đẩy ra, nó bèn nhân gấp đôi sự rộng rãi; bị người mà nó đã cho rất nhiều sử dụng kém, nó còn thêm vào những gì đã cho món đồ quý nhất của mình, và người ta còn chưa từng bao giờ thấy những người nhận các cái đó hoàn toàn xứng đáng, nếu tin vào kinh nghiệm cũ nhất cũng như mới nhất. Chính vì thế bản tính được tiền định thông qua đó âm nhạc hướng đến thế giới hiện tượng là điều đánh đố hơn cả dưới mặt trời, một vực thẳm nơi sức mạnh và lòng tốt hội vào nhau nghỉ ngơi, một cây cầu bắc từ chính mình sang không phải chính mình. Ai mà có thể chỉ định một cách chính xác mục đích vì đó nó tồn tại đây, ngay cả khi chính mục đính tính ở cách thức nó dùng để đến cũng đã phải đoán rồi? Thế nhưng, một dự cảm đầy sung sướng có thể đưa đến chỗ tự hỏi: chẳng phải sự thật là những gì lớn lao chỉ tồn tại cho tình yêu của những gì nhỏ bé hơn, món quà lớn nhất cho món quà nhỏ nhất, đức hạnh và thánh tính tối cao cho tình yêu của những người tàn phế? Có phải âm nhạc đích thực đã phải vang lên vì con người ít xứng đáng với nó nhất, nhưng họ lại cần nó nhất? Chỉ cần trong chốc lát chìm vào phép mầu phi thường của khả năng ấy: khi người ta đưa ánh mắt từ đó quay sang cuộc đời, thì nó sáng bừng lên, dẫu trước đấy có thể có vẻ ảm đạm và mù sương đến độ nào.
7
Không có khả năng nào khác: người nào được nhìn thấy một bản tính như bản tính của Wagner thỉnh thoảng, đầy chủ ý, được đưa về với chính mình, anh ta bị gửi trả lại cho sự nhỏ xíu của mình và sự khuyết tật của mình và tự hỏi: Với mi nó có nghĩa là gì? Và mi, nói cho đúng, vì mục đích nào mà mi lại ở đây? - Có khả năng anh ta sẽ không trả lời được và thế là anh ta cứ câm lặng, rối bời, nín thinh trước chính anh ta. Có thể là khi đó anh ta hài lòng với việc đã sở nghiệm điều này; có thể là, cảm thấy xa lạ với chính mình, anh ta lắng nghe câu trả lời cho những câu hỏi ấy. Bởi anh ta dự phần, thông qua chính cảm giác đó, vào biểu lộ thuộc sống dữ dội hơn cả của Wagner, vào trung tâm của những gì làm nên sức mạnh cho ông, vào năng lực thuộc quỷ về chuyển dịch và về lột trần nơi bản tính ông, cũng có khả năng thông giao với những người khác và và thông giao với chính nó, mà sự lớn lao vừa nằm ở cho đi vừa nằm ở lấy về. Vừa có vẻ quỵ ngã trước bản tính tràn trề và đầy tính cách xâm chiếm của Wagner, chính khán giả vừa dự vào sức mạnh của ông và theo cách nào đó anh ta trở nên hùng mạnh nhờ ông, về phía và chống lại ông; và bất kỳ ai chăm chú tự xem xét đều biết rằng ngay cả sự chiêm ngưỡng cũng chẳng phải không kèm một sự đương đầu bí hiểm, sự đương đầu của những ánh mắt giương vào nhau. Nếu nghệ thuật của ông khiến chúng ta sống qua toàn bộ những gì mà một tâm hồn học được trong các hành trình gian khổ của nó, hội mình vào với các tâm hồn khác và chia sẻ số phận, học cách nhìn thế giới bằng nhiều con mắt khác, thì chính chúng ta, vượt khoảng cách và sự xa xôi, nhìn được đích thân ông, sau khi đã sống qua ở bên trong mình những gì là ông. Chúng ta cảm thấy điều này với sự chắc chắn lớn nhất: toàn bộ cái hiển hiện của thế giới muốn được đào sâu xuống và được nội tâm hóa bằng cách trở nên khả thính ở Wagner, toàn bộ thế giới khả thính tìm cách trồi lên và lộ ra trước con mắt và trước ánh sáng, theo cách nào đó nó muốn mang hình hài. Nghệ thuật của ông luôn luôn đưa ông đi trên con đường nhân đôi ấy, nó dẫn từ một thế giới của sự nghe tới một thế giới bằng cách thức ma thuật thuộc về kịch thị giác, và ngược lại; ông thường trực bị buộc - và khán giả cùng ông - phải chép lại thành các từ của tâm hồn và của cuộc sống sơ đẳng nỗi náo động của cái hiển hiện, và trở ngược lại coi như là hiện tượng cái lõi bí mật hơn cả của tính bên trong, khoác lên cho nó một vẻ bề ngoài của cơ thể. Toàn bộ những cái đó, ấy chính là yếu tính của kịch tác gia ca ngợi tuyệt cùng, nếu hiểu ý niệm ấy theo nghĩa đầy của từ, nó bao gồm cùng một lúc diễn viên, nhà thơ và nhạc sĩ: nghĩa nhất thiết được suy ra từ biểu lộ duy nhất từng được đưa đến sự hoàn chỉnh của nó nơi kịch tác gia ca ngợi tuyệt cùng trước Wagner, biểu lộ của Aechylus và những người Hy Lạp bắt chước ông. Nếu người ta từng tìm cách suy ra từ các trở ngại cùng lỗ hổng bên trong những tiến hóa kỳ vĩ hơn cả, nếu chẳng hạn đối với Goethe thơ là một dạng lối thoát cho một thiên hướng họa sĩ bị hụt mất, nếu về những vở kịch của Schiller người ta có thể nói chúng là chuyển dịch của một sự hùng biện bình dân, nếu chính Wagner tìm cách tự giải thích sự thúc đẩy âm nhạc bởi người Đức, giữa các lý do khác, bằng sự thể, do thiếu mất thiên bẩm đầy quyến rũ về một cơ phận thuộc giọng tự nhiên đã du dương, họ đã buộc lòng phải hình dung ra nghệ thuật âm thanh với mức nghiêm túc và độ sâu gần như ngang với những nhà cải cách của họ từng dùng nhằm nắm bắt Ki-tô giáo - nếu, theo cùng các thức, người ta muốn nối tiến hóa của Wagner vào một trở ngại bên trong thuộc cùng loại, thì hẳn người ta sẽ được quyền chấp nhận là ông có một thiên bẩm diễn viên nền tảng, nhưng đã phải tự chối bỏ việc tự thỏa mãn bản thân bởi phương tiện đầu tiên, cũng nhỏ nhặt nhất, và đã tìm được lối thoát cùng cứu rỗi của mình bằng cách gọi tới tất tật các nghệ thuật nhằm hướng đến một khải ngộ sân khấu lớn. Nhưng lúc đó hẳn người ta sẽ không kém có quyền nói rằng bản tính nhạc sĩ có quyền năng vượt khỏi mức chung ấy, trong nỗi tuyệt vọng của mình vì phải nói với đám nhạc sĩ nửa mùa hay những kẻ không phải nhạc sĩ, đã đầy dữ dội mở lối vào cho những nghệ thuật khác để rốt cuộc cũng có thể thông giao với một sự hiển nhiên được nhân lên gấp cả trăm lần, và rốt cuộc giật lấy được sự hiểu, sự hiểu của cả một dân tộc. Cho dù người ta muốn hình dung tiến hóa của kịch tác gia bẩm sinh theo cách nào đi nữa, thì trong sự trưởng thành và sự hoàn hảo của mình ông vẫn cứ là một hình tượng không cả trở ngại lẫn lỗ hổng: ông là nghệ sĩ thực sự tự do, người không thể tự ngăn mình suy nghĩ tại tất tật các địa hạt của nghệ thuật cùng một lúc, người trung gian và người hòa giải cho những tầng cầu có vẻ đối lập nhau, người tái lập nhất thể và toàn thể của quyền lực nghệ thuật, vốn dĩ chúng không thể được cả đoán định lẫn suy ra mà chỉ được cho thấy bằng hành động. Nhưng giống phép phù thủy gây lo lắng và quyến rũ nhất, hành động sẽ làm chủ cái người trước đó nó đột nhiên tựu thành: đột nhiên anh ta ở trước một quyền năng hủy bỏ sự kháng cự của lý trí, và thậm chí làm cho trông như là ít hữu lý và không thể hình dung nổi toàn bộ những gì ở giữa đó người ta đã sống cho tới lúc ấy: bị ném ra khỏi chúng ta, chúng ta trôi nổi trong một yếu tố lửa bí hiểm, chúng ta không còn hiểu chính mình nữa, chúng ta không còn nhận ra những thứ quen thuộc nhất nữa, chúng ta không còn bất cứ thứ thước đo chuẩn nào nữa, toàn bộ những gì từng quy phục các luật, đông cứng lại, bắt đầu sống động lên, cái gì cũng bừng sáng với các màu mới và nói với chúng ta thông qua các dấu hiệu mới - dưới kiềm tỏa của hỗn hợp những lạc thú và nỗi e sợ đó, cần phải là một Plato thì mới có thể quyết định được, như ông đã làm, tuyên bố với kịch tác gia: "Nếu anh ta đến Cộng hòa của chúng ta, chúng ta sẽ vinh danh như một con người thiêng với sự thông thái hẳn sẽ cho phép trở thành mọi điều trên đời và bắt chước mọi thứ, chúng ta sẽ xoa dầu lên đầu anh ta và phủ lên nó các dải băng, nhưng chúng ta sẽ tìm cách thuyết phục anh ta đi sang một Cộng hòa khác." Có thể là một người sống tại Cộng hòa của Plato có thể và phải giành được chiến thắng trước chính mình đó: nhưng chúng ta, vốn dĩ chẳng hề sống tại Cộng hòa ấy, mà tại một Nhà nước hoàn toàn khác, chúng ta muốn, chúng ta đòi pháp sư đến với chúng ta, dẫu chúng ta e ngại ông - chính là để Cộng hòa của chúng ta, cùng Lý trí xấu, quyền năng xấu mà nó là hiện thân, bị chối bỏ một cách công khai. Một trạng thái của loài người, của cộng đồng của nó, của các phong hóa của nó, của tổ chức cuộc sống của nó và của tổng thể những thiết chế có khả năng không cần tới nghệ sĩ chuyên bắt chước có lẽ không phải là một điều bất khả gốc rễ, dẫu thế nào thì đó cũng là một giả thuyết nhiều tính cách phiêu lưu và tua tủa các khó khăn; hẳn sẽ chỉ được phép nói đến điều này một người có thể sản sinh và nắm được từ trước khoảnh khắc tối cao của toàn bộ những gì sẽ xảy đến, và lúc đó sẽ ngay lập tức trở nên - và có quyền trở nên - đột nhiên mù, giống Faust: - bởi chính chúng ta không có bất kỳ quyền nào với sự mù đó, trong khi chẳng hạn Plato từng có quyền bị mù trước toàn bộ thực tại Hy Lạp, sau cái nhìn duy nhất kia, mà mắt ông đã ném lên lý tưởng Hy Lạp. Thay vì thế chúng ta thì lại cần nghệ thuật chính vì chúng ta đã trở nên thấu thị đối với cái thực: và chúng ta cần kịch tác gia phổ quát để ông giải thoát cho chúng ta ít nhất là trong vòng vài tiếng đồng hồ khỏi sự căng thẳng đáng khiếp sợ mà kẻ thấu thị cảm thấy giữa chính anh ta và gánh nặng các công việc áp đặt lên anh ta. Với ông chúng ta được đẩy lên những bậc cao nhất của cảm tri, và chỉ trên đó chúng ta mới thấy dường mình lại được ở trong tự nhiên tự do và trong vương quốc của tự do; từ đó, chúng ta nom thấy nơi những phản chiếu gương phi thường cao khiết chính chúng ta và đồng loại của chúng ta chiến thắng và gục ngã trong cuộc vật lộn, cảnh tượng trác tuyệt và nhiều gợi ý, chúng ta lấy được khoái lạc từ nhịp của dục vọng và sự hy sinh nó, từ mỗi bước chân hùng mạnh của người anh hùng chúng ta nghe thấy vọng âm sượng đục của cái chết và chúng ta hiểu, khi tiến lại gần người đó, sự thu hút tối cao của cuộc đời: - được biến thành những con người bi kịch theo cách đó, chúng ta quay trở lại cuộc đời trong một tâm trạng thỏa thuê lạ thường, với cảm giác mới về an toàn, như thể sau các mối nguy lớn nhất, những cú tràn cùng những cơn xuất thần, kể từ nay chúng ta đã tìm lại được con đường của những gì bị giới hạn và quen thuộc; nơi người ta có thể tỏ ra một sự từ tâm cao vút và dẫu thế nào thì cũng cao quý hơn trước; bởi toàn bộ những gì ở đây dường nghiêm trang và cần thiết, như cuộc chạy dẫn đến đích, nếu người ta đem so sánh với con đường mà chính chúng ta đã phải đi, cho dù chỉ là trong mơ, chỉ giống với những mẩu bị biệt lập lối kỳ quặc của các kinh nghiệm tổng mà chúng ta biết do đã sở nghiệm chúng, về đó ý thức của chúng ta khiếp hãi; thậm chí chúng ta sẽ tự đặt mình vào nguy cơ và bị cám dỗ coi cuộc đời quá mức nhẹ, chính vì trong nghệ thuật chúng ta đã chế ngự được nó với một sự nghiêm túc rất ít thông thường, để nhắc lại một câu của Wagner về số phần ông. Bởi nếu đúng là với chúng ta, những người chỉ cảm thấy chứ không tạo ra nghệ thuật kịch ca ngợi tuyệt cùng này, giấc mơ có thể có vẻ gần như đúng hơn sự tỉnh, thực tại - làm sao mà người sáng tạo lại không được coi trọng tương phản ấy! Chính ông ở đây, ngay giữa tất tật những lời gọi ồn ào kia, tất tật những nghịch cảnh hôm nay kia, tất tật những gì cần thiết của cuộc đời, của xã hội, của Nhà nước - ở tư cách gì? Có lẽ như thể ông từng là người duy nhất tỉnh, người duy nhất ngoảnh mặt về phía cái đúng và cái thực giữa các kẻ ngủ rối mù và bị hành hạ, ở giữa những cá nhân chỉ ăn vận lên mình các huyễn tưởng cùng đau đớn; đôi khi thậm chí ông cảm thấy như thể mình bị xâm chiếm bởi một cơn mất ngủ miên viễn, như thể kể từ nay ông sẽ phải bỏ cả cuộc đời trong ngần và rất có ý thức mặc cho những đêm thức trắng của mình đi cùng đám mộng du và các con ma cứ tự coi mình là nghiêm túc: thành thử chính toàn bộ những gì có vẻ thường nhật đối với những người khác với ông dường lại đáng lo lắng và ông bị cám dỗ đón lấy ấn tượng về hiện hình ấy với một sự hỗn xược đầy nhạo báng. Nhưng cảm giác đó bị phật ý một cách dị thường chính vào lúc một bản năng hoàn toàn khác hội vào với sự sáng sủa nơi nỗi hỗn xược run rẩy của ông, nỗi hoài nhớ mà ông cảm thấy, trên các đỉnh, về những độ sâu, sự nghiêng mình đầy tình yêu xuống với Đất, khát khao đến hạnh phúc của cộng đồng - khi đó, lúc ông nghĩ đến toàn bộ những gì mình bị tước đi mất ở tư cách người sáng tạo cô độc, đối với ông cứ như thể hết sức đột ngột ông phải, như một vị thần hạ xuống đất, "mang lên trời trong vòng tay lửa của mình" toàn bộ những gì yếu, thuộc con người, bị bỏ rơi, nhằm rốt cuộc tìm thấy không phải sự thờ phụng mà là tình yêu, và hoàn toàn tự trút bỏ chính mình vào tình yêu! Nhưng sự phật ý được chấp nhận ở đây lại chính là phép mầu quả thật đã diễn ra trong tâm hồn kịch tác gia ca ngợi tuyệt cùng: và nếu có bao giờ yếu tính của ông có thể bị nhốt vào một khái niệm, thì hẳn sẽ là khái niệm đó. Bởi các khoảnh khắc sáng tạo nơi nghệ thuật của ông là những khoảnh khắc ông bị phanh ra tan tành ở chỗ giao nhau của những tình cảm ấy, và cũng là nơi sự lạ thường và nỗi ngạc nhiên vừa gây lo lắng vừa hỗn xược kia, về phía thế giới, đi cùng khát khao thuộc bản năng được xáp lại gần cùng thế giới ấy ở tư cách tình nhân. Dẫu những ánh mắt mà ông đặt lên mặt đất và cuộc đời có là gì, thì đấy vẫn luôn luôn là các tia nắng "hút nước", làm mây dồn đống lên, tụ các ẩm ướt của giông tố lại. Ánh mắt của ông được đặt, vừa sáng suốt lại vừa đầy suy tư như thể không vương lợi ích và đầy ngập tình yêu: và giờ đây toàn bộ những gì ông nhìn thấy được soi sáng dưới quyền lực chói lòa nhân đôi của ánh mắt ông, tự nhiên đẩy ông với một sự chóng vánh đáng gờm để ông vứt bỏ tất tật các sức mạnh của mình đi, hé lộ những bí mật được che giấu nhiều hơn cả: cái đó, là do thẹn thùng. Còn hơn so với một ẩn dụ khi nói rằng với ánh mắt ấy ông đã bắt chợt tự nhiên, ông đã thấy nó trần truồng: do đó đầy thẹn thùng nó tìm cách ẩn mình vào bên trong các mâu thuẫn của nó. Những gì cho tới lúc ấy vô hình, ở bên trong, tìm được chỗ trú nơi tầng cầu của cái hiển hiện và trở thành hiện tượng; những gì cho đến giờ từng chỉ là hiển hiện thì trốn vào biển tối của các âm thanh: chính vì thế tự nhiên, khi muốn trốn đi, hé ra yếu tính nơi những mâu thuẫn của nó. Trong một điệu nhảy có nhịp điên cuồng và thế nhưng nhẹ bay, trong những cử chỉ của xuất thần, kịch tác gia bẩm sinh nói về những gì khi ấy diễn ra bên trong ông và ở trong tự nhiên: sự ca ngợi tuyệt cùng nơi những chuyển động của ông cũng là sự hiểu đầy run rẩy, nỗi thấu suốt kiêu ngạo, cũng là sự xích lại gần đầy tình yêu, sự trút bỏ chính mình đẫm nhục cảm. Lên cơn say, lời gập lại theo nhịp đó: cặp vào với lời, giai điệu vang lên; và tới lượt mình giai điệu phóng các tia lấp lánh của nó vào địa hạt của các hình ảnh và các ý. Một hiện hình trong mơ, giống và khác với hình ảnh của tự nhiên và kẻ muốn chiếm lấy nó, tiến lại gần trong cảnh treo lơ lửng, nó được tụ lại thành những hình thức nhiều tính cách con người hơn, tự bày ra trong sự chảy ra của cả một cái muốn đầy anh hùng và kiêu ngạo, của một suy tàn tuyệt diệu và từ một không-còn-muốn-nữa: - bằng cách đó bi kịch sinh ra, bằng cách đó cuộc đời nhận món quà là sự thông thái tuyệt diệu hơn cả, sự thông thái của suy nghĩ bi kịch, bằng cách đó, rốt cuộc, hiện ra người bỏ bùa lớn nhất, nhà từ thiện lớn nhất trong số tất tật kẻ phàm - kịch tác gia ca ngợi tuyệt cùng.
- Un homme qui veut la vérité se fait savant ; un homme qui veut faire jouer sa subjectivité peut devenir écrivain ; mais que doit faire un homme qui veut ce qui est entre les deux?
ReplyDeletetừ Wagner và Nietzsche dễ dàng tìm lối vào văn chương Drittes Reich, Die Sünden der Zeit tiêu biểu viết bởi một người yêu Wagner và còn đề tặng con rể Wagner, một nhân vật lớn mê Wagner đến mức cưới con gái Wagner
ReplyDelete