tiếp tục câu chuyện ởkia
(cũng xem ởkia)
Sau một số thành phố, giờ đến Paris: Paris của Léon-Paul Fargue (rất có thể đó là một Paris rất khác so với bây giờ):
Bộ hành Paris
Khu phố của tôi
Từ nhiều năm nay tôi mơ mình viết một “Lược đồ Paris” cho những
ai nghỉ ngơi hết cỡ, tức là những người dạo chơi có thời gian để mất mà lại yêu
Paris. Và đã nhiều năm nay tôi tự hứa sẽ khởi sự chuyến đi ấy bằng một cuộc xem
xét khu phố của tôi, từ Ga Bắc và Ga Đông tới La Chapelle, không chỉ vì chúng
tôi không rời khỏi nhau nữa từ khoảng ba mươi lăm nay, mà còn bởi nó có một diện
mạo đặc biệt, và nếu nó được biết đến thì tốt hơn.
Mais l’ quartier
d’venait trop rupin.
Tous les sans l’ sou,
tous les sans-pain
Radinaient tous, mêm’
ceux d’ Grenelle,
A la Chapelle.
Et v’là pourquoi qu’
l’hiver suivant
On n’ nous a pus foutu
qu’ du vent,
Et l’ vent n’est pas chaud, quand i’ gèle,
A la Chapelle…
[Aristide Bruant là một nhạc sĩ “cabaret” rất nổi tiếng một
thời; hình ảnh Bruant cũng được bất tử hóa trong một bức tranh (dạng “poster”)
của Toulouse Lautrec; bài trên đây tốt nhất để yên không dịch ra, vì nó có ngôn
ngữ quá đặc thù; ý chính của bài hát là khu phố trở nên giàu quá nên tất cả những
ai nghèo đều đi đến La Chapelle, thế rồi mùa đông sau đó chỉ có toàn gió lạnh;
Bruant cũng như một số yếu tố khác rất đặc trưng cho cuộc sống “bohême” một thời
- Léon-Paul Fargue muốn thuật lại chính cái thế giới ấy]
Dạng ngôn ngữ ấy đã biến mất. Ngày nay, đám thanh niên La
Chapelle và thiếu nữ phố Flandre, hoặc của những khu dị thường mà Hành Chính đã
đặt tên là Mỹ Châu và Chiến Đấu, hát giống máy quay đĩa. Nhờ đài radio và đĩa
hát, quận mười chín thật giống, vào năm 1938, với các quận khác. Tụi bán lòng mề,
tụi luật sư hay chơi trò trả góp trong lĩnh vực ly hôn, tụi ma cô dắt gái được
món lô đề vặt “Nationale” làm cho dần dà giàu, những diễn viên phụ của Bouffes
du Nord [nhà hát], đám nhân viên chuyên phục vụ đường sông, lũ lái buôn rượu
trên ke Oise và thợ sửa ô tô quảng trường Joinville chỉ chăm chăm cho tiện
nghi, và chẳng buồn nghe Faust hay Giao hưởng số 9, khi mà cái loa trơn tru
và mập mạp của bọn họ mửa ra thứ âm nhạc hay ho.
Trái ngược với một truyền thuyết bơm vào trong óc đám trẻ
ranh chăm học từ miệng lũ bố suốt đời ở dịt nhà, La Chapelle vừa không phải một
khu phố của tội ác, lại chẳng phải một khu phố đầy rệp. Mà đó là một chốn duyên
dáng, thậm chí còn nghiêm túc. Nhưng là nghiêm túc theo cái nghĩa áp dụng cùng
từ đó cho một chai vang bourgogne, một đĩa cassoulet hoặc một miếng brie Melun.
Đó là một món nghiêm túc.
Một chứng cứ cho phẩm hạnh ấy được cung cấp cho chúng ta từ
phía các nàng tình nhân bourgeois mà lũ chủ giàu hay đại diện của trung tâm
Paris tới để kiếm, tại La Chapelle hoặc thấp hơn một chút, quanh Ga Bắc và Ga
Đông, tại các quán ăn cho dân sành, tại những quán rượu kín đáo và thật rộng
nơi tình yêu được chế ra nhằm tạo cảm hứng cả cho Bourget, Steinlen lẫn Kurt
Weil. Những cô tình nhân điểm trang bằng nhẫn to bự và dây chuyền, để tang khi
nào người tình của họ mất đi một ông nội hay ông ngoại, với cặp vú lừng lững gợi
lên cả một chuỗi trầm tư hướng về tình mẫu tử tưởng tượng. Những cô tình nhân
nghiêm túc.
Tất nhiên, khu phố cũng là khu cho các phụ nữ của đám
“sidis”, những tên chuyên đánh lộn chỉ có thể nhìn rõ đối thủ nếu nhắm hờ mắt lại,
lũ hay đi tìm các “corridas” rải rác theo quán xá dọc những bức tường lớn trên
phố Tanger hoặc kênh Ourcq, mà cánh lái buôn than cho các môn thể thao mùa đông
đã chiếm cứ, đặt tên, nhận nuôi, mang tới cho mấy cái ngõ những cái tên lừng
danh của họ viết trên túi. Nhưng thảm động vật đó chỉ tầm gửi.
Nó định cư ở La Chapelle, hoặc La Villette. Nó được tái tạo
trong bầu không khí ẩm và mù khói của kênh Saint-Martin, trong thứ nước ứa ra từ
các lò mổ, vì những nguyên do dẫn những người bourgeois đi đến chỗ tránh xa vẻ
tươi đẹp của quận mười chín.
Tôi nuôi một tình dịu dàng đặc biệt với chốn này của Paris,
là vì tôi đã gần như sinh ra ở đó. Tôi lên bốn tuổi thì bố tôi đến sống ở La
Chapelle, cái nơi ngày nay có rạp xi nê “Capitole”, và tại đó thiếu điều ông đã
nên cơ nghiệp nhờ bán “loại bút kỳ diệu không cần mực mà vẫn viết được”, báo
trước cho bút máy, cũng như nhờ đưa ra thị trường một phương pháp hóa học mới để
xử lý ngọc trai nhiều màu. Tôi đã quay trở lại quận mười, sau khi biết tới phố
Colisée, để vào trường collège Rollin, nơi tôi gặp [Henri] Barbusse, một học
sinh giỏi. Chúng tôi sống trên phố Dunkerque.
Trước khi quay về khu phố khổng lồ, đồ sộ ấy, tãi ra nhờ hai
nhà ga, chúng tôi đã qua Passy. Nhưng, lần thứ hai, chúng tôi định cư hẳn tại
quận mười. Một dạng dục vọng đưa chúng tôi đến đó, đại lộ Magenta, rồi khu
faubourg Saint-Martin, và hẳn tôi vẫn còn ở đó nếu công ty Compagnie de l’Est
không tống cổ chúng tôi đi rồi khiến chúng tôi phải ngược phố Château-Landon, tới
La Chapelle, tại cái rạp xiếc đông nhung nhúc và ồn ĩ nơi sắt thép trộn lẫn với
con người, tàu hỏa với xe taxi, gia cầm với lính tráng. Một vùng đất thì đúng
hơn là một quận, được hình thành nhờ các dòng kênh, nhà máy, rồi Les Buttes-Chaumont,
bến cảng La Villette, rất thân thuộc với những họa sĩ già chuyên vẽ tranh màu
nước…
Vương quốc đó, một trong những vương quốc giàu có nhất của
Paris về phương diện nhà tắm công cộng nơi người ta phải đợi giống ở chỗ nha
sĩ, bị thống trị bên dưới một đường tàu điện ngầm trên không, đeo vương miện
cho nó như một mảnh che trán ngựa. Về phía Bắc, phố Aubervilliers khởi hành như
một phiên chợ dài, đầy cửa hiệu tới mức oằn cả xuống. Những người bán chân giò
lợn, đăng ten, mũ cát két, pho mát, xa lát, mấy món tạp pí lù, rau chân vịt nấu
sẵn, săm xe đạp cũ xếp ngổn ngang, trộn lẫn, hỗn độn, trông thật giống các yếu
tố một món đồ Meccano ác mộng. Ở đó có thể tìm được trứng giá sáu xu, xẩu bò “tranh
thủ”, miếng brie bị một cô thợ vứt vội lại do bị gọi đến Charonne phục vụ đám
cưới và, đôi khi, một con cáo ánh bạc chẳng còn lại gì nhiều nhặn ngoài bộ lông
hoẻn, cái thứ khởi sự, với giá mười sáu franc mỗi tháng, một cuộc tồn tại bồng
bềnh trên các cặp vai rất nhiều tính cách “lối đi lớn trong Rừng”.
Tiếng ồn của tuyến tàu Dauphine-Nation, thật giống tiếng
than thở của khinh khí cầu, đi cùng người lữ khách cho tới những khu phố vây bọc
giữa các ống khói nhà máy ấy, rồi thì những hồ kẽm nơi phố Aubervilliers ném
mình vào như một dòng sông véc ni. Tiếng nỉ non những đoàn tàu đi lạc làm nên nền
tảng cho phong cảnh. Vào mọi giờ trong ngày, các toán công nhân đi tới đi lui dọc
theo những quán cà phê lúp xúp nơi người ta có thể “mang đồ ăn vào”, để bọn trẻ
con lại “trong vòng một tiếng”, và đôi khi ngủ mà chẳng gọi đồ gì.
Giá cả ở đây chắc chắn thấp hơn so với mọi nơi nào khác,
nhưng đám chủ cửa hàng rất thù trò bán chịu. Từ đó, hẳn vậy, mà có bí mật những
món đồ nguội của bọn họ cùng những chiếc Renault rất mực ngoan ngoãn mà người
ta đưa đi chơi ngày Chủ nhật, vừa để trưng chúng ra lại cũng vừa để cho chúng
chạy nữa. Hẳn còn có thể tranh luận về sự phù phiếm của người La Chapelle. Đó
là một khu phố thuần khiết, cả giàu có lẫn chật chội, kẻ thù của Chúa và của
thói snob. Khách du lịch dừng chân trước nhà thờ duyên dáng trên quảng trường
Joinville, rất có màu sắc Florence, và những kẻ ưa đánh chén tới lui các phố nhằm
tìm cho ra một quán ăn nhỏ, thảy đều làm nở ra cùng cái nụ cười khinh miệt trên
khuôn mặt những thổ địa…
Các quán ăn, phải tìm ở La Villette. Vả lại chúng được chỉ dẫn
trong những cuốn sách hay. Về phần những “thắng cảnh du lịch”, nếu kênh Ourcq,
vốn dĩ trải rộng và ngủ giống một bể bơi giữa các bờ ke của sông Marne và sông
Oise, không biến lữ khách trở nên thơ mộng, thì ấy là bởi quá khó để thưởng thức
một phong cảnh nửa Hà Lan nửa Rhin. Con kênh ấy đối với tôi là Versailles và
Marseille của lãnh thổ kiêu ngạo và hùng mạnh kia. Nghệ thuật chẳng mấy liều
chân tới đó, và thế nhưng mọi học trò của Marquet và của Utrillo hẳn phải chọn
đó làm nơi ở.
Ở đó có một hỗn hợp của những khách sạn nhỏ lảo đảo và dễ mến,
những giá chất bao tải, những đội thủy thủ nằm ngủ, những trình diễn của nghề
thợ nề hay nghề giặt, một nghiệp đoàn các tay bợm Rotterdam, Turin, Toulouse,
Dijon, Strasbourg, một bảng xếp hạng những con thuyền nhỏ mang các cái tên vui
tươi mà sự kề cận, các sắc thái và công tua hẳn khiến nảy sinh nơi mỗi ngôi nhà
một thi sĩ. Thế nhưng, người ta chẳng nói nổi cho tôi biết lấy một “trí thức”
trong toàn vùng. Ít xa xôi hơn cả trong số ấy là [nhà thơ] Luc Durtain, ở đại lộ
Barbès, cái điều, với một người trên phố Flandre, cũng có nghĩa gần như Savoie
hay Bungari.
Chi tiết nổi bật hơn cả của khu phố ấy, vốn dĩ nhan nhản các
vọng lâu, mà những vẻ đẹp tự nhiên thì rất nhiều, quảng trường Maroc, phố
Kabylie, Pompes Funèbres bị kẹp vào giữa phố Aubervilliers và phố Curial, các
nhà kho, những phòng khám cho đầu tàu xe lửa, chi tiết nổi bật hơn cả vẫn cứ là
số 106 oai hùng [hẳn Fargue muốn nói đến một nhà trừng giới chuyên dùng để nhốt phụ nữ trên boulevard de la Chapelle], nó đỏ lựng mặt ở sau lưng bệnh viện Lariboisière. Ngôi nhà đó
cũ kỹ, hiển nhiên đối với những người đi tàu điện ngầm cũng như những người đi
taxi đến nỗi người ta tự hỏi hay nó nhà chung của quận…
Chủ nhật, nhiều tốp đông công nhân ngoại quốc lảng vảng dưới tán lọng to lớn của tàu điện ngầm, dừng chân và tụ lại quanh các xới đấu vật, và đôi khi nhảy vào nắm cổ họng nhau vì một câu chuyện rượu apero hay chuyện gái gẩm. Những cuộc vật lộn đó ngắn và câm, bởi vì, từ vài tháng nay, khả năng giấy phép lao động hoặc thẻ cư trú bị từ chối cấp đã thế chỗ cho định mệnh và thậm chí cả nỗi sợ cảnh binh trong trí tưởng tượng của những người có dòng máu dễ nóng.
Tại La Chapelle, Chủ nhật đúng thực là một ngày Chủ nhật, và sự biến hình của khu phố là hoàn toàn. Những chiếc xe hơi lớn, lái bởi tay các ông chủ giàu để ria hình chân thỏ, đi vòng vòng quanh Étoile hoặc rời Paris. Cửa hiệu cửa tiệm thì đóng cửa, ngoài vài hàng bán đồ nguội với những ông chủ nghĩ tới bữa tối lạnh lẽo các nhân viên họ quản lý thường dùng. Thành từng toán, từng chùm, những gia đình nhà bán hoa, chủ hiệu sữa kem, thợ giày và thợ kẽm diễu đi giữa ga Jaurès và cầu đường sắt Bắc, mẩu lớn của đại lộ rộng thênh thang được dùng làm promenade des Anglais [Nice], bãi biển và công viên Saint-Cloud.
Ông chồng, đã ngà ngà vermouth, huýt sáo vang đằng sau mấy
thằng con trai. Bà vợ chung thủy và vững chắc chống lên vỉa hè bước chân phụ nữ
làng của mình. Cô thiếu nữ đến tuổi cập kê hít hà mùi vị tàu Engadine-Express
hay Paris-Bucarest, chúng đưa trái tim cô đi xa khỏi những đường biên giới địa
dư và tình cảm. Các quán cà phê dậy lừng tiếng lũ gà sắp tiêu đời, cùng là những
ván bi-a kiểu Nga. Tất cả những ai, vì lý do này hay lý do kia, đã không đáp lại
các kêu gọi của tờ l’Humanité hoặc của
một tổ chức khác nào đó mang tới cho La Chapelle một màu bourgeois, một bầu
không khí cao ngỏng mà người ta không tìm thấy ở chỗ nào khác…
Nhưng chỉ buổi tối thì khu phố mới khoác lên mình bộ cánh đích
thực của nó và lấy dáng dấp mơ ảo và bẩn thỉu mà một số tiểu thuyết gia từng tả
lại được thật huy hoàng, như người ta hay nói, mà chẳng hề liều chân tới đây.
Buổi tối, chừng những đoàn tàu nhanh dường phóng hết tốc lực ngay ở chính trái
tim của Paris, chừng đám trẻ trai ưa thể thao tập hợp nhau lại trước các cửa hiệu
bán đồ ô tô rồi khởi sự nói chuyện về xe đạp hay lặn, chừng các bà chủ nhà đồng
ý thả chồng họ cho một ván bài giữa mấy ông bạn với nhau và chừng các rạp xi nê
đầy người dần lên theo một nhịp độ mà ta có thể bắt gặp lại tại chỗ khám bệnh
miễn phí các bệnh viện, khi ấy thì La Chapelle đúng là cái vùng đất của một vẻ
kỳ diệu hắc ám và sóng sánh, thiên đường của đám lơ mơ, của lũ nhóc bơ vơ [“mômes
de la cloche” - Edith Piaf có một bài hát rất nổi tiếng về chủ đề này] và của
những tay lực lưỡng sở hữu danh dự nơi đầu lưỡi và lòng trung tín đầu các ngón
tay, Eden u tối ấy, mật độ lớn và chất chứa hoài nhớ, mà lính tráng ngợi ca vào
buổi tối trong phòng ngủ chung để đi qua cho nổi nỗi buồn chán đơn côi. Cũng
chính La Chapelle ban đêm là thứ tôi biết rành nhất và cũng thích hơn cả. Nó có
nhiều chó hơn, nhiều tâm hồn hơn và nhiều vang động hơn. Các phố thì hoang vắng
và tiêu điều, dẫu tiếng thét còi những đoàn tàu hạng sang gửi tới cho nó đám cò
bay vùn vụt… Hàng lối nối đuôi nhau lẻ loi các cột đèn đường không thay thế được
sự biến mất của đống dồn tụ các cửa tiệm vào ban ngày khiến khu phố trở nên khả
dĩ so sánh được với các souk châu Phi. Toàn quận nhúng mình vào mực. Đó là giờ
của những tiếng gọi tuyệt vọng làm cho những con người trở nên bình đẳng và nên
nhà thơ. Phố Charbonnière, các cô điếm trưng bày, như là bên Amsterdam, mang đến
cho nơi này một cảnh tượng giống bộ bài toàn lá bẩn thỉu. Những điệu đàn accordeon,
mảnh dẻ như khói những điếu thuốc lá, luồn qua các cánh cửa, và Bal du
Tourbillon thì bắt đầu rỉ máu từ miệng nó gớm ghê…
Một nội thất bourgeois, thoáng nhìn thấy trên tầng ba một
tòa nhà kiên cố và cứng đơ như một nền móng kim tự tháp, thay vì truyền tới các
ý về tự sát và buộc người dạo chơi chìm khẳm vào nỗi buồn, ngược lại khiến sinh
ra ở tôi một niềm ngưỡng mộ đặc biệt về phía hàng nghìn và hàng nghìn con người
mà cuộc sống kết án vào căn hộ hôi hám, vào những món tiền lương tháng bẩn nhớp
và vào những cầu thang nhung nhúc vi trùng, cái nhân loại mà chẳng gì an ủy cho
nổi.
Bởi cái thiếu vắng nhất tại La Chapelle là một tình gần gũi.
Người ta chẳng thể nào nắm bắt các phố lẫn những khu phố cấu thành nên nó:
chúng tồn tại trong sự quay cuồng. Người ta không đoán định được một ai, người
ta không nhíp được típ người nào. Những người sống ở La Chapelle nghĩ tới chuyện
phục vụ, đương đầu với các com măng. Con mắt gắn vào giăm bông, vào cá bơn, vào
cần tây. Người ta làm lụng. Và ở đó cạo tóc thì oách hơn hẳn, rất ngắn, lại còn
êm ái hơn so với trên các đại lộ, nơi đám thợ cạo đeo đầy nhẫn nói tiếng Anh và
không biết làn da con người thì nghĩa là thế nào…
Thật tốt khi có trong tầm mắt một làn nước êm giống món “potage de jade” [đại khái giống Nguyễn Tuân tả Hồ Gươm xanh như nước rau muống luộc kỹ] trên bề mặt phơi nóng những con thuyền, cầu nhỏ với các đường uốn hình côn trùng đang ân ái, các bờ ke lực lưỡng và tuyệt vọng, những cửa sổ đóng ngăn không cho ai thấy các khốn cùng đẫm bạo lực, những cửa hiệu mà vì đó tàu điện ngầm trên không bắt chước Wagner và Zeus, các phòng cho thuê kèm đồ đạc nặng nề và có màu nâu như đám tảo, những thiếu nữ trên đại lộ xinh tươi mọc lên trong khu vườn nghiêm khắc ấy với vẻ duyên dáng đầy văn chương của cỏ bồ câu, những người bán than, những đoàn tàu có độ dài của một giây phút chán chường, lũ mèo mà người ta cảm thấy bụng chứa đầy cà phê đã xay, các đám bạn thâm niên, những thợ đóng giày trăm năm, các nha sĩ lưu cữu… tất tật được bọc lấy trong hào quang những khói tàu hỏa và tàu thủy bôi lem luốc các cây cầu bằng xà phòng cạo râu và gây nghĩ tới địa dư. Bâle, Zurich, Bucarest, Coire, Nancy, Nuremberg, Mézières-Charleville, Reims và Praha, tất tật những món đồ chơi ấy của ký ức đến với tôi từ Ga Đông…
Và rồi, có những tấn kịch giữa tàu thuyền, những nhát dao đâm trên bề mặt kẽm sáng bóng [ý nói trong quán xá] trông giống đường ray xe lửa; có những ái tình lục nhạt nơi các căn phòng nhơ và êm, cuộc sống bên trong của những người gác cổng, nước ngựa phi kiệu của những người bán bia, những trận chiến giữa cam nhông và giữa các chợ; có những người khách chỉ dạt thoáng qua cùng những dân sở tại ở mãi đó, những cuộc biểu diễn đàn accordeon, những nơi khiêu vũ như Tourbillon, những ghế băng, nhà kho, cầu thang, tiếng còi, các mê cung của tình cảm và những tới lui mà Eugène Dabit yêu quý của tôi từng cảm thấy rất tuyệt, ông, người vốn dĩ thuộc về cái góc của tôi, cùng khu. Người ta đã cố công đưa tất cả những cái đó vào bộ phim giật được từ cuốn sách lớn dễ thương và buồn của ông, nhưng “đâu phải là cùng một thứ…” [rất hy vọng là nếu chưa đọc cuốn tiểu thuyết của Dabit thì cũng phải xem bộ phim chuyển thể từ đó: L’Hôtel du Nord]
Tôi vẫn còn giữ quan hệ, tại khu phố ấy nơi các kỷ niệm của
tôi nằm, với những người từng biết đến nó không lâu sau thời kỳ của những đường
sắt đầu tiên, và những tiếng còi tàu không đứt đoạn của các nhà ga thúc đẩy họ
nói cho tôi biết những con số, chúng hấp dẫn trí tưởng tượng của tôi ngang với
mức cuộc chiến tranh của kiến mà ngay lúc này người ta đang thông báo nơi miền
Nam nước Mỹ. Họ nhắc với tôi về thời trên nước Pháp có 812 cây số đường sắt, tất
tật trị giá 280 triệu franc. Người ta đi từ Paris tới Rouen bằng tàu thủy chạy
hơi nước, những Étoile cùng những Dorade. Đại bàng đúp của đồng 10 dollar-vàng
đổi được 55 fr. 21. Các ông chủ ngựa trạm cho ta thuê ngựa của họ với giá 20
xăng tim một cây số… Chẳng phải vậy thì cũng đẹp ngang cỡ những câu chuyện của
Andersen? Ai kể cho tôi tất cả những cái đó? Mẹ tôi, sinh năm 1838, bà cũng có
nhiều bà bạn già. Và những khi chúng tôi tụ họp, tại faubourg Saint-Martin, hay
phố Château-Landon, để chuyện vãn, hoặc với mấy ông cụ lụ khụ của Chapelle, hoặc
với các quý bà phố Lafayette, Champs-Élysées của quận, thì đó là để nói về
Paris, như là thủ đô của văn minh.
Lúc ấy chúng tôi cô lập khỏi thế giới, phía Bắc, bởi ba-ri-e
Saint-Martin, đầu mút của khu faubourg. Đó là một khoảnh tròn xinh xắn được tạo
nên từ bốn hàng lan can nhô hẳn ra, trang trí tám trụ kiểu Toscane, toàn bộ được
đội vương miện một galerie chạy thành vòng cung với bốn cây cột lớn ghép đôi chống
cho hai mươi vòm. Cái đó khiến ta nghĩ tới miệng khạc ra tất tật sấm trên đời.
Một trong những nhà thờ của tôi luôn luôn là Saint-Laurent, bị giật trụt áo quần
bởi Cách mạng. Chúng tôi tính vào trong số thắng cảnh của chúng tôi Maison
Royale de Santé, trên phố faubourg Saint-Denis, Hospice des Incurables cho đàn
ông, ở faubourg Saint-Martin, Hôtel au Plat d’Étain, số 256, phố Saint-Martin,
từ đó tỏa đi đám xe ngựa. Rồi dần dà được thêm vào, với những nền móng cũ đó,
Hôpital Lariboisière, Théâtre Molière, Maison de Santé Dubois, các nhà ga, những
hiệu tạp hóa lớn, những hàng thịt thật đẹp, tàu điện ngầm, các rạp xi nê, bể
bơi, phòng khám bệnh cho lũ chó nghèo, les Dents pour Tous [chữa răng], các bến
dừng của taxi cùng đài radio. […] Vậy
thì khiến người ta mơ, có phải không nào? Chẳng phải đến những gì từng đã, mà đến
những gì rồi đây sẽ…
Đối với tôi, quận mười, và đã biết bao nhiêu lần tôi đã chẳng
nói điều đó, là một khu phố của nhà thơ và đầu tàu xe lửa. Quận mười hai cũng
có những đầu tàu, nhưng ít nhà thơ hơn. Chúng ta hãy nhất trí với nhau về từ
này. Hoàn toàn không cần phải viết thì mới có thơ trong các túi quần túi áo.
Trước hết có những người viết, và họ tạo lập một viện hàn lâm lang thang. Rồi
có những người biết các bí mật kia, nhờ chúng mà cuộc hôn phối giữa sự nhạy cảm
và khu phố sản xuất ra hạnh phúc. Chính vì thế tôi tấn phong danh hiệu cao quý
nhà thơ cho những thợ đóng xe, những người bán xe đạp, các chủ tiệm tạp hóa, những
người hàng rau, hàng hoa và thợ khóa của phố Château-Landon hoặc phố
Aubervilliers, của ke Loire, phố Terrage và phố Vinaigriers. Nhìn họ, trước nụ
cười của họ trong lúc chạy trên vỉa hè in khắc những nỗi mệt, hỏi tin tức những
đứa con gái họ, nhìn những đứa con trai họ đã đăng lính, tôi cảm thấy sướng vui
tới tận mọi ngóc ngách sâu kín trong trái tim già nua không nuôi chút thù hận
nào của tôi.
Và rồi, vẫn ở chỗ chúng tôi, tôi muốn nói là quận mười,
chúng tôi cảm thấy sự sột soạt lướt qua của những con ma thuần khiết hơn cả. Xuống
từ những quầng lục bệnh hoạn của Les Buttes-Chaumont, tuôn ra từ các đường ray
tàu lóng lánh như một cuộc hò dô ta của nước mắt, bị đuổi khỏi các lò mổ, sinh
ra trong cái hình tam giác bí hiểm được hình thành từ khu faubourg
Poissonnière, các đại lộ gọi là To [“Grands Boulevards”], cùng đại lộ
Magenta, những con ma của chúng tôi không có tính cách văn chương. Chúng không
phải các nhà cung ứng thơ ca cho các bộ phim, vở ba lê, những lỗi lầm, trang phục,
trò thượng lưu đáng kinh hãi. Mà đó là những gác chuông Kỷ Niệm, các tay trai
tráng làm vận chuyển, vong hồn của những đoàn tàu nhanh, lũ yêu tinh của các
bưu điện. Chúng giúp chúng tôi sống giống như các viên đá lát đường, như ngói
trên mái, như những máng nước. Chúng dự phần vào cùng miếng pa tê, cùng món trứng
cá, với người sống. Và chúng tôi được ở đó giữa chúng tôi, những người sống
cùng những người chết, thực thi nghĩa vụ tồn tại của chúng tôi, đã tiêu biến mất
đà, dẫn về phía sự trống rỗng của các hợp thức và đe dọa…
Những cuộc sống gia đình của chúng tôi, nơi cái thế giới
xám, ngon lành như một cái bánh nho thật lớn [...] các đầu tàu xe lửa Đông và Bắc, chúng, dẫu có đôi khi
mang một hay hai mét hoảng sợ sang Thụy Sỹ hay sang nước Đức, thì lại sớm đưa chúng
tôi về với những mùi thật mạnh mẽ và thân thuộc của phố Alsace hoặc phố
Louis-Blanc. Khu phố cũ kỹ yêu quý, với những thần tiên thật chuẩn và êm giống
các con đường đẫm tình yêu…
Montmartre quá cố
Tôi đã thấy ra, gần đây một người Anh từng nói với tôi, tại sao người Paris không đi xa; vì họ có Montmartre. Bởi người ta đi xa là để tới Montmartre. Những người Canada, những người Nam Mỹ trong dịch chuyển, những người Đức hay những người Xlavơ mua những cái va li và xin hộ chiếu để tới Montmartre, Tổ Quốc của các Tổ Quốc về đêm.
[tôi nhảy qua chương "Montmartre quá cố", vốn dĩ là một chương cực hay, cũng nhảy qua luôn các chương: "Cafés de Montmartre", "Le Boeuf sur le Toit", "Cafés des Champs-Élysées", vì quá sốt ruột đến chương "Passy-Auteuil" dưới đây, do một vài kỷ niệm riêng không cần quá để ý; thời Marcel Proust còn nhỏ, Auteuil đúng nghĩa là một cái làng - Fargue cũng từng viết rất hay về Proust]
Passy-Auteuil
Một ông bạn già, mà thật không may tôi đã để mất hút, nhưng
sẽ chẳng bao giờ quên là ông từng làm giàu nhờ bán một thứ sô cô la tuyệt ngon,
một ngày nọ bỗng quyết định cho vào định cư nơi các thứ đồ đạc của ông, cùng
vài bức Renoir và một tấm đệm thảm din bản, một tình nương rực rỡ ông đã vớt được
tại một hiệu bánh Quartier latin. Một nường xinh đẹp nước da trái mơ, tóc dày cộm,
màu mực bút máy, cũng là người, tôi nghĩ, mới chỉ đôi lúc rời đại lộ
Saint-Michel để tới Folies-Bergère [Roland Barthes từng viết một bài rất xuất sắc
về Folies-Bergère, nhưng hình như không đưa vào Mythologies] mà khoe chân cẳng. Đôi ấy hướng các tìm kiếm của họ về
phía cái vùng đất xa lạ với mình, mà họ gọi, với chút ngưỡng mộ, là
Passy-Auteuil. Một chiếc xe hơi kiểu bourgeois được đảm bảo sẽ già đi chẳng hề
hãi sợ trước tiên chở họ tới đại lộ Mozart, nhưng không căn hộ nào hợp nhãn họ.
Những gì họ nom thấy thảy đều quá nhỏ hoặc quá to. Nói cho đúng, nường ấy thất
vọng. Cái làng lớn êm đềm và sạch bong đó, mà nàng khám phá sau khu Trocadéro kỳ
khôi chỉ hợp ý nàng có một nửa. Nàng không ngó thấy cả sàn dancing, rạp xi nê,
quán bar lẫn hàng ăn. Rồi, đột nhiên, nàng cự tuyệt cái ân sủng mà người ta đã
hé cho nàng thấy: nàng sợ sẽ phải một mình, bị bỏ rơi, lạc đi giữa một đám đông
người mới mẻ hẳn chỉ chứa rất ít yếu tố Paridiêng. Người ta đưa nàng trở về góc
phố rue des Écoles giao với đại lộ Saint-Michel, nơi nàng hiện vẫn sống trong bầu
không khí của những tiếng hét cùng các nhộn nhàng của Quartier latin. Rất nhiều
người Paris có cùng lập luận như vậy. Passy-Auteuil thì “quá xa, quá tĩnh, quá
mới…”
Tôi từng sống ở Passy xưa kia, vào cái thời tôi vẫn còn đi học
ở trường Janson. Bố mẹ tôi có một căn hộ trên phố Gustave-Courbet. Hồi ấy, đại
lộ chạy từ Trocadéro đến Bùng binh Longchamp hầu chỉ toàn những khoảnh đất
hoang, thường chẳng hề có hàng giậu, và tại đó người ta vẫn còn có thể thoáng
thấy các mạch địa chất với những hóa thạch của chúng. Đại lộ Victor-Hugo ngày
nay hồi đó tên là đại lộ Eylau [tên một trận đánh của Napoléon; Balzac đã bất tử
hóa nó bằng cuốn tiểu thuyết ngắn Le
Colonel Chabert, đã có bản dịch tiếng Việt]. Sự đổi tên đó đã chẳng mấy kèm
với một thay dáng dấp. Vẫn hiệu bánh lớn ấy tiếp tục phả ra hơi thở ấm nóng của
nó nơi góc phố Pompe, vồn vã trước các bà đầm con nhà, họ dùng crème fouettée
hay pho mát pác ma, trước hoặc sau cuộc ngoại tình chóng vánh của thời chúng
ta. Tiệm Thominet, chất ngập hộp màu, chén rửa bút, rồi thì chổi, nạo, thuốc diệt
côn trùng, da mèo đủ loại, vẫn còn tồn tại, rất mực bề thế. Thêm nữa, lại có
dăm hiệu trang sức và hàng cá chẳng hề mang lại điều gì mới cho cái khu phố
toàn người sống bằng tiền niên kim lợi tức ấy. Nhưng ở đó chỉ thực sự thiếu mất
khách sạn Victor Hugo, cái khách sạn nhỏ bé hai tầng, lợp mái bằng bên trên.
Tại giao lộ Passy, quãng 1891 nó từng là địa điểm cho các bà đầm và những trò thượng lưu bourgeois, tiệm bánh ngọt Petit cũ kỹ, nơi các gia đình vào mua một cái bánh ngọt cho ngày Chủ nhật và thết lũ học trò trường Janson de Sailly mấy thứ quà vặt, đã biến mất, bị đánh đuổi trong một cuộc nã pháo mặt đối mặt, đương đầu với những quả bom tơ óng của cửa tiệm Coquelin. Ông Bauer, cựu phụ trách mua hàng của Galeries Lafayette và em họ của ông Bader, người quản lý cũng Galeries ấy, vừa mở, không xa quảng trường, một cửa hàng bán quần áo thuộc hàng tân thời nhất, nó không làm vợi đi mà lại còn kích thích cơn sóng lừng La Fayette đầu tiên… Thời của tôi, trên cái quảng trường Passy nhỏ bé đó, biết bao nhiêu là các thứ tình cảm, những cô thiếu nữ má hạnh nhân thuần khiết, hay đỏ lựng mặt, biết bao nhiêu lễ ban thánh thể đầu tiên, rồi thì niềm kiêu hãnh đứng nhất môn latin, biết bao cảm xúc, tiên cảm, sau lễ ban thánh thể đầu tiên, bao đám cưới hẳn một ngày sẽ được khơi mào tại Opéra-Comique, tại Mignon…
Bởi khu phố “Passy-Auteuil” là khu của những đám cưới lớn, của những bức ảnh cho Vogue, những com măng khổng lồ về kỳ tuần trăng mật, chỗ hãng Cook. Chỉ thấy có mỗi một khác biệt nơi người sống ở cái vùng được hưởng ưu tiên ấy: quý cô Passy thì “được giải phóng” hơn so với quý cô Auteuil. Anna de Noailles [google nếu chưa biết] từng sống ở Passy. Princesse Polignac, nữ nhân cổ động vĩ đại và bộ trưởng về mặt tinh thần của âm nhạc hiện đại Pháp, sống ở Passy. Auteuil thì ít nghệ thuật hơn, ít cung cách hơn. Ông bạn lâu năm Jacques-Émile Blanche của tôi, tôi chỉ có thể thấy ông trong tư cách người Passy, dẫu ở đây người ta có thể tranh luận một vấn đề nho nhỏ về các biên giới nơi cái bảo tàng viện châu Âu về trí tuệ này, mà ông đã tự tạo lập để dùng riêng.
Auteuil thì giống như vùng nông thôn của Passy với đại lộ
Montmorency của nó, những bờ ke của nó, cây cầu cạn của nó, gần nhà thờ, quán
ăn Monton Blanc của nó, thắng cảnh lịch sử, địa điểm xưa cũ những cuộc hẹn của
La Fontaine, Molière và Racine. Người ở Passy đi sang Auteuil giống những người
trên phố Étienne-Marcel tới Brunoy ngày Chủ nhật. Chỉ thiếu điều họ cũng mang
theo đồ ăn. Quãng bốn giờ, Passy-Auteuil tiêu vắng đi một lượng cư dân lớn: vì
tại Paris người ta vẫn còn hay dùng apero, người ta đến quán ăn trong trung
tâm, người ta nán lại rạp xi nê trên đại lộ Champs-Élysées, đại lộ Madeleine,
hoặc phố Athènes. Một khi đã lao đi, người ta đánh mất một hay hai tiếng đồng hồ
nữa tại Florence hay Mélody’s, và mãi đêm khuya mới về nhà… Passy, Auteuil là
những chốn nơi xe hơi cùng taxi nghiến ken két và lao ầm ầm tới tận tảng sáng,
đưa từ Montmartre về những ai không ngủ dậy trước buổi trưa.
Passy-Auteuil là một tỉnh lớn, nơi các gia đình quen biết
nhau, kiểm soát lẫn nhau và đôi khi căm ghét nhau, chỉ bởi một nhà kia có nhiều
khách hơn, nhiều chính trị gia hay thi sĩ hơn nhà khác trong bữa tiệc trà hằng
tuần, hằng tháng hoặc hằng năm; chỉ vì con trai Ông Mỗ đã đỗ tú tài loại xuất sắc
hay không. Chủ tiệm bánh ngọt, hàng thịt, hiệu nhuộm hay gác cổng biết rành những
cuộc tranh cãi tại các nhà, những vụ ly dị rồi thì gia tài.
Họ gần như là anh em uống chung dòng sữa, gần như là anh em
họ, khóc trong các đám tang, vui sướng tại những lễ báp-têm, gửi, cũng như
khách hàng của mình, con gái họ tới học Cours d’anglais [học tiếng Anh], Chủ nhật
thì đi găng tay. Giới vô sản cũng như người nghèo không có chỗ nơi cái
garden-party miên viễn ấy, nó tự bày ra tốt xấu tùy năm từ quảng trường
Victor-Hugo cho tới sông Seine. Mọi lễ lạt của Passy-Auteuil đều chứng kiến
quay trở lại nhà thờ hoặc các lunch cùng đội quân khách mời truyền đến cho những
biểu hiện thượng lưu của quận mười sáu một bản opérette nho nhỏ và Congrès s’amuse [phim] chẳng phải là
không thấm đẫm duyên dáng, đôi khi còn không thể tiên liệu. Một ngày kia được mời
tới một buổi lễ ban phúc đám cưới rất cao cấp tại nhà thờ Saint-Honoré-d’Eylau,
một người bạn của tôi, nhà thơ vào một số thời khắc nhất định, đúng giờ thì đến
quảng trường Victor-Hugo để nói lời chúc tụng cặp vợ chồng mới. Rất đông người,
mà anh quen hết mặt, chen chúc nhau trong gian chính. Anh lại gần, bắt các bàn
tay, phân phát những nụ cười, và nhận ra mình không biết cả cô dâu lẫn chú rể,
hết sức đơn giản bởi đã nhầm ngày. Anh chỉ nom thấy ở nhà thờ toàn vẫn những
người nổi tiếng Paridiêng đó, gần như dính cam kết theo hợp đồng phải dự mọi lễ
lạt của tổ quốc Passy-Auteuil nhỏ xinh. Vì đang ở ngay đó, chẳng giây phút nào
anh nghĩ đến chuyện bước trở ngược, và anh hòa mình vào với các anh em họ, chú
bác và bà nội bà ngoại để ôm hôn cặp vợ chồng hết sức thắm thiết, cũng như kha
khá bà đầm mà anh thấy là ngon ăn quá.
Chuỗi thời luận xì căng đan hay kịch tính của Passy-Auteuil
thì khá nghèo nàn. Tội ác chỉ hiện ra ở đó với những cẩn trọng vô biên. Cảnh
sát chẳng mấy lúc lai vãng. Mọi thứ diễn ra trong bầu không khí cao vắt nơi mấy
trò ngồi lê đôi mách không có hiệu lực. Tuy nhiên tôi bỗng nhớ lại một tin vắn,
hẳn nó có thể đưa cảm hứng tới cho Edgar Poe, nhưng là một Poe được nuôi dưỡng
với Rowlandson, một câu chuyện điên rồ hết cỡ, nếu như ông là người Passy như
Abel Bonnard hay Pierre Louys, Bergson hoặc bác sĩ Boucard. Chắc nó xứng danh để
được trộn vào với lịch sử quận, thứ đôi khi thiếu chút tông giọng. Trước kia
tôi từng quen biết một nữ thi sĩ Mỹ, người con gái nuôi của Paris, nó chẳng yêu
da thịt trắng bóc nào khác ngoài da thịt trắng bóc của phụ nữ. Trong lĩnh vực đồ
ăn, nàng chỉ chịu được cảnh tượng, mùi và vị của mỗi thịt đỏ, tốt hơn hết là sống,
tới tận mức lạm dụng. Bởi nàng có trái tim không khỏe, bác sĩ của nàng bắt nàng
phải ăn kiêng. Nhưng niềm say mê thịt của nàng quá mạnh, thói quen đã vậy rồi,
những kê đơn của bác sĩ chỉ được tuân theo với cả nghìn nỗi khóc nhọc. Bác sĩ
thì cứ khăng khăng. Nữ thi sĩ phát ốm vì thế. Nản quá, một ngày kia nàng quyết
định kết thúc trong cái đẹp… tức là với tư cách nghệ sĩ, tức là như…
Châteaubriant. Nàng tưới đẫm xăng lên giường, đặt vào đó chừng chục kí lô bơ,
năm đến sáu livre mùi tây, uể oải nằm lên trên chăn đệm, lại còn để lên ngực
mình một mẩu bơ, do thói đỏng đảnh, giống các chef giỏi vẫn hay làm, rồi quẹt
diêm châm lửa. Sau khoảng một tiếng, cả khu phố bốc mùi thịt nướng. Những lỗ
mũi của Passy-Auteuil rốt cuộc cũng phát hiện được mùi của lò nướng phát xuất từ
đâu, nó còn lan ra đến tận rừng Boulogne, và sau cùng đưa các gia nhân tới chỗ
cái giường bà chủ của họ, trên đó họ thấy một rumsteck ma mút. Lịch sử đó.
Passy-Auteuil mỗi năm nhận về rất đông người di cư từ Tân Thế
giới, họ bỗng đột ngột quyết định đến sống ở Paris. Tôi từng được kể cho nghe
câu chuyện về một nữ nhân Mỹ quốc khác, tới định cư trên phố La Fontaine để học
ở chỗ chúng ta các phong hóa của đám gia nhân. Bà ta theo chân họ ngoài phố,
xáp lại gần họ trong các quán cà phê, tra hỏi họ, ám họ. Đám tài xế cùng quản
lý không biết rõ lắm mình phải đối mặt với dạng con rồ nào đây và lẩn lút lướt
ra phố, cổ áo veston dựng đứng, sẵn sàng để chuồn thẳng. Họ tưởng đâu gây mệt mỏi
được cho con mụ già thích hành hạ họ giống một thành viên Đội quân Cứu tế lắm hứng
khởi. Nhưng nữ luân lý gia rất cứng rắn. Những gì thu thập được ban đầu cho cuộc
điều tra khiến bà ta sung sướng lắm. Vài câu chuyện liên quan đến đường, dây
giày, tiền bo, làm bà ta ngây ngất. Một tối nọ, bà ta gặp trúng một phụ bếp
tươi tắn đang thực hiện chuyến viếng thăm ban đêm tới chỗ một nhân viên hiệu
thuốc. Bà ta đi theo cậu với sự mềm dẻo và các uốn éo của một con dơi. Hoảng
quá, cậu kia chui vào núp trong một cái nhà chỉ dành riêng cho đàn ông, ở lì
trong đó ba tiếng đồng hồ. Rồi biến mất không ngoái đầu lại. Hôm sau, các cảnh
sát đi xe đạp nhặt được trên một băng ghế ke sông một mụ điên nằm ngủ, sau vài
tháng điều trị thì bà ta được đưa về Mỹ trở lại. Cuộc phiêu lưu đã không hề được
hưởng chút quảng cáo nào. Thế nhưng, thỉnh thoảng vài gia nhân vẫn kể cho con
cái họ về bóng ma Auteuil…
Trên các bờ ke
(I)
Au temps où je dansais
la gigue,
J’aurais pu faire un
bel enfant.
Mais à présent, ça me
fatigue,
Je ne suis plus qu’un
ci-devant.
J’en ai marre de
l’élégance,
Des romans d’analyse
et des chansons d’amour.
Adieu, Messieurs! Vive
la France!
Moi, je remonte dans
ma tour.
Đừng tìm xem ai là tác giả những câu thơ trên, trong đó được
thắng lợi huy hoàng nỗi vô tự lự và sự mơ mộng. Chúng chính xác là của một người
xa lạ xuất chúng theo nghĩa cao quý nhất của từ ấy. Tôi đã tìm cách để được giới
thiệu với nhà thơ đó nhưng vô vọng, tôi thấy dường như, dựa vào mùi các bài thơ
của ông, nửa cuộc đời ông sống ở ngoài trời. Ông thích giữ sự vô danh. Tất tật
những gì tôi hay là nhà thơ không được biết đến và thường e sợ ấy là một người
của các bờ ke, một người bán sách, nổi tiếng trong các đồng nghiệp của ông,
nhưng thù nghịch với đầy chủ ý trước vinh quang tới nỗi đã chưa bao giờ nói tên
mình cho họ.
Điều mà ta hẳn không thể chối là các ke sông đã truyền cảm hứng
cho ông theo đường lối thật may mắn, bởi ông là tác giả của hai trăm bài thơ
thuộc thể loại thong dong và duyên dáng đó, hai trăm bài thơ có thể dễ dàng uống
ực, giống rượu vang Vouvray, loại màu vàng ấy, cái loại người ta chỉ uống tại
chỗ…
Và thế nhưng, chẳng gì nhiều chất Paris hơn so với một bờ ke sông Seine, chẳng gì ở đúng chỗ của nó hơn, trong décor của nó hơn. Léon Daudet [con trai Alphonse Daudet - tôi sắp đến với Léon Daudet], trong Paris vécu, dành hơn năm mươi trang chỉ cho các ke, những người bán sách và những hiệu sách cũ. Về hiệu sách của Champion père, ông nêu nhận xét sau đây, nó, một thế kỷ nữa, sẽ còn mang nhiều vị của mơ mộng hơn tới cho những người yêu sách cuối cùng: “Bầu không khí nhiều tính cách Érasme, vô cùng đậm mùi thế kỷ 16, và nặng chất trí tuệ, cao và lịch thiệp. Khi thấy có một quyển sách gây ra ham muốn nơi ta, Champion liền dịu dàng nói: “Cầm lấy nó đi… Mà không, không mà, anh cứ để lần khác hãy trả tiền.” [thấy rõ có nhầm lẫn về ngoặc kép]
Của phong cảnh ấy, trên đó đã mọc lên như bởi sở thích các dinh thự đẹp nhất, Louvre của nhà Valois, các công trình đáng kinh ngạc nhất, như Tháp Eiffel, những gì khả nghi nhất, như la Chambre, những gì quang vinh nhất, như Institut de France, chính phần trung tâm vừa nổi danh nhất lại vừa hay được lai vãng hơn cả, và chắc chắn ke Conti cùng ke Malaquais được ex-oequo đầu bảng trong cuộc thi. Tôi đã hỏi những người lam lũ, những người không chỗ ở thuộc phẩm tính cao nhất tại sao họ lại thích hai ke ấy hơn những ke khác, nhất là để ngủ trên bờ sông, hòa lẫn vào với mùi của rơm, rượu áp xanh cùng giày mà sông Seine dịu dàng chuyên chở: “Bởi vì, tôi từng được đáp, chúng tôi được thoải mái hơn ở đó và như được ở nhà mình. Thêm nữa, ở đó những giấc mơ cũng xuất sắc hơn.” Suy tư rất đáng quan tâm, và nó nhắc tôi nhớ đến một giai thoại. Rất thường xảy đến với tôi chuyện uống một ly vang trắng tại một tiệm nhỏ nơi Les Halles mà vả lại tôi chỉ tìm được bằng cách mò mẫm, ban đêm. Tôi thấy lại ở đó những người ưa đêm trao đổi các ý kiến chung trước khi đi tới nằm xuống bên dưới một cây cầu nào đó. Tuy nhiên, tôi hòa mình vào các trò chuyện của họ. Chúng tôi bắt tay nhau lối rất mực cao quý. Một hôm, tôi được giới thiệu với một dạng người rách rưới cao lớn đầy sôi nổi, rậm râu, bác học và rất đỉnh, ngụ ở chính bên dưới cầu Nghệ Thuật, mà người ta giới thiệu như sau: ông Hubert, thuộc Hàn Lâm viện Pháp. Chỉ Paris mới cho phép các cách nói tắt rực rỡ như vậy [vì Académie Française nằm ở đó].
Các bờ ke bị ám bởi một dân cư nhân đôi. Tôi đang không nói
đến cả khách du lịch lẫn những kẻ hiếu kỳ, hay những hành khách quá cảnh, mà là
những người sinh ra, mơ và chết đi trong bầu không khí séquanes [một từ hơi cổ]:
những người của các bờ sông và những người của chính các ke, những người ngủ
ngoài trời và các tay bán sách, những người bên dưới và những người bên trên.
Cư dân của các bờ sông trải rộng từ Auteuil tới Charenton, chân cẳng chĩa lên
trời, khuôn mặt giấu đi dưới quả dưa của thùng rác, mẩu thuốc lá trong tầm tay,
để dành hút đầu tiên sáng hôm sau, cái điếu ngon hơn cả. Vẫn là trên các ke, tức
là hơi ở bên dưới bề mặt Paris, nơi một tổ quốc u tối và nhục nhã theo cái
nghĩa mà Shakespeare cấp cho mấy từ đó, người ta có thể làm quen với những cái
nghề lặt vặt đầy thơ mộng cuối cùng xưa kia từng truyền cảm hứng cho các ca sĩ,
họa sĩ biếm họa và nhà thơ: người chuyên cạo lông chó, thiến mèo, nhặt than,
người chuyên nhặt những món đồ nhỏ, chẳng hạn dao cạo râu đã dùng, phéc mơ tuya
lon bia, khuy thắt lưng, kim ghim, đót giày cùng các mảnh píp bằng đất nung, cái
kẻ nhặt nhạnh mà người ta trông thấy đi dọc các lạch nước, đầu cúi, vào cuối
ngày. Cour des Miracles [cf. Victor Hugo, Les
Misérables] được phú thêm một bãi biển, cái thế giới của các bờ sông ấy, với
những lưng cứng lại qua tiếp xúc với đá lát đường, được hưởng một trong những niềm
hạnh phúc lớn lao nhất mà thời của chúng ta biết tới: sự vô tri hoàn toàn trước
tờ nhật báo. Vài người, đôi khi, đọc lướt các tờ chuyên về đua ngựa bị bỏ quên ở
đó, chắc hẳn, bởi một kẻ tự sát nào đó, nhưng báo về đua ngựa có chút thuộc về
truyền thuyết. Từng một đêm vơ vẩn giữa đám người cao ngẳng vô cùng khỏe khoắn,
râu lùm xùm đến mức tôi sẵn lòng so sánh họ với những người sống trong hang động,
tôi đã có dịp nghe thấy chính giọng nói của giấc mơ đột nhiên biểu hiện ra qua
miệng một trong những cái bóng kia. Sau khi bước qua vài “cò súng”, mấy cổ họng
trơ thổ địa, tôi đã, đến lượt mình, trú lại trên một cột đường, để hút một điếu
thuốc lá mơ màng theo làn nước. To kềnh và đầy kiên nhẫn, mấy cái sà lan trôi
đi, trông thật giống lũ thú, trên dòng sông dẻo quẹo. Tôi mơ hồ có cảm giác
mình đang quấy rầy một giáo phái. Tôi không nhầm. Đột ngột, một giọng nói vang
lên từ phía sau lưng tôi: “Đóng hộ cửa lại được không, giai kia!” người ta hét
lên với tôi. Hiển nhiên tôi đã gặp chuyện với Tên Mù của Voltaire…
Hoàn toàn khác là dân cư ngoại biên. Đó là các nhà bác học.
Tôi coi những người bán sách là các sinh thể tuyệt diệu nhất mà ta có thể gặp
và, chắc hẳn, họ tham gia, với sự thanh lịch và kín đáo, cho danh tiếng trí tuệ
mà Paris có thể tự vinh danh bản thân. Vùng của quyển sách cũ cũng có những đường
biên giới riêng. Nó chạy từ ke Orsay cho tới Jardin des Plantes, bên tả ngạn, rồi
từ Samar, như người ta hay nói [thật ra là Samaritaine], đến Châtelet, bên hữu
ngạn. Về nguyên tắc, những cái hòm gỗ được Thành Phố trao cho các phế binh chiến
tranh và cho những ông bố nhà đông con, với giá sáu mươi lăm franc mỗi năm,
trên độ dài tám mét. Chừng nào một người bán sách tới cái tuổi đáng kính trọng
thất thập hoặc nếu ông ta bị ốm, thì ông ta có thể cho thuê cuộc kinh doanh của
mình lại cho một người khác và bằng cách đó nhân đôi bản thân lên, cho đến lúc
chết. Nhưng ông ta không thể nhường lại trách vụ của mình như một nhân viên hối
đoái. Khi nào hơi thở cuối cùng đã hắt ra xong, Thành Phố liền can thiệp. Tập hợp
những người bán sách là tập hợp duy nhất không được tổ chức cũng không lập
thành nghiệp đoàn, không mở buổi khiêu vũ nào [chẳng hạn những người lính cứu hỏa
rất hay tổ chức khiêu vũ], bữa tiệc hằng năm nào. Tuy nhiên nó từng có, mới gần
đây, một ông trùm, mà trong nghề người ta thành thực thờ kính, một ông trùm
không là ai khác ngoài ông Dodeman, Charles Dodeman, tác giả nổi tiếng. Nó vẫn
còn được buộc chặt vào quá khứ Paridiêng bởi cô Poulaillon, nữ nhân bán sách
trú không xa trường Mỹ Thuật, là người gợi lên với nhiều hoài nhớ thời những
người bán sách tối nào cũng mang đống hòm về nhà cất…
Nhưng, trên các ke cũng như mọi nơi, làn gió của sự hiện đại
đã thổi bùng lên thành bão. Ngày nay có những người buôn sách trẻ, hoạt bát, hết
sức rành các trồi sụt của thị trường. Sự cứng nhắc hơi có chút tính cách giáo
sư của xưa kia đã biến đi. Mùa hè, những lúc trời rất nóng, các phụ nữ bán sách
không ngần ngại lặn xuống sống Seine. Ai đó đi thơ thẩn trên bờ ke vì những quyển
sách của người ấy và, cũng thường xuyên ở mức tương tự, để nom thấy chui lên khỏi
mặt nước trong bộ đồ tắm, nàng tiên cá ướt lướt thướt. Và anh ta hét lên: “Kìa,
thưa bà, quyển [Hippolyte] Taine này bao nhiêu thế?” Bằng vài sải tay, quý bà
bé nhỏ bơi vào bờ, nhặt cái pe nhoa, ngược lên phía thư viện, vừa đi vừa chùi
tay vào hông cho khô, bán quyển Taine, quyển Flaubert hay quyển Jean Lorrain
[chắc cũng sắp phải đến với Lorrain rồi] cho khách, rồi quay lại với nước mát…
Tôi từng hỏi một người bán sách trông có vẻ nghiêm túc và hiểu
biết nhiều, xem việc buôn bán sách ngoài trời có mang lại nhiều lãi hay không,
và được biết phần lớn người bán sách già dễ dàng sở hữu một ít tài sản, một chiếc
xe ô tô Citron 5CV, thỉnh thoảng thậm chí một ngôi nhà. Và điều đáng kinh ngạc
hơn cả là chẳng ai trong số họ có nghề nào khác. Vả lại, họ đào đâu ra thời
gian để mà làm tài xế hay thám tử tư đây? Một người bán sách nhất quyết biết Lịch
Sử của anh ta, các văn bản của anh ta, các niên đại của anh ta, các nhà xuất bản
của anh ta, cũng bằng nếu chẳng phải hơn so với một người bán ở hiệu sách thông
thường, cả ngày thì cũng đâu có nhiều để làm tốt việc mà anh ta làm.
Các bờ ke dùng để bán sách được chia ra như một catalogue.
Có địa phận sách cổ điển rồi địa phận sách nước ngoài. Những cái hòm nói chung
đều đầy ắp, và thông thường người ta tự hỏi các thương gia dày dạn ấy lấy mối
hàng từ đâu. Theo một thói quen xưa cũ, người bán sách không sẵn lòng mua những
gì người ta đề nghị. Anh ta thích tự mình đến Hôtel des Ventes hơn, để mà mặc cả
tùy ý, tới nhà những người “được giới thiệu”, hoặc giả đi xa, trên đất Pháp, đến
Perpignan, Puy, Lille, ở đó anh ta luôn luôn chắc chắn cuộc săn sẽ thuận lợi.
Thế nhưng sự cung cấp hàng của anh ta, dẫu được hình dung rõ đến thế, vẫn khá
là bí hiểm. “Chẳng phải ư, toàn bộ bí mật đều nằm ở đó!” một trong số họ từng
nói với tôi.
Trên bình diện văn chương thuần túy, bờ ke đóng vai trò của
một phong vũ biểu và đặt các danh tiếng về lại đúng chỗ của chúng. Người ta có
đọc đi đọc lại những thứ báo chí chuyên về văn chương, dùng kính lúp mà xem xét
các phơi ơ tông của phê bình, mấy thứ bánh tạc của quảng cáo từ phía nhà xuất bản,
phỏng vấn các đại sư hay chuyên gia, thì vẫn sẽ luôn luôn phải quay trở về với
các ke để có được một mẩu của sự thật. Bởi câu hỏi, cũng như với đường hay giấy
cuốn thuốc lá, vẫn cứ là cùng một mà thôi: “Cái gì đang bán được, cái gì không
bán được?” Sự bí ẩn mà ông Robert Ganzo, người bán sách trên các ke và chủ hiệu
sách phố Mazarine, tháo gỡ trước mặt ta với đầy hiểu biết và sự khéo léo. Tôi
không dám liệt kê tên những đồng nghiệp của tôi mà sách không tìm được người
mua, mặc cho sự ầm ĩ, những tiếng còi lanh lảnh của thói snob, hay ảnh hưởng của
các loại cơ quan danh tiếng. Tôi thích hơn việc thông báo cho các bạn tôi, Paul
Valéry, Valery Larbaud, Claudel, Gide, ngoài ra còn thêm nữa và, vượt trên mọi
mây mù cùng bóng tối, báo cho Proust yêu quý, rằng họ bán vô cùng chạy. Mong
sao chỉ dẫn này cho phép vài nhân vật chẳng ma mốc nào chịu mua tự nhận ra
mình.
Cần phải có sức khỏe của cây sồi lâu năm thì mới có thể bán
sách trên các bờ ke, vì đâu có đến một yếu tố nào không chăm chăm gây bực bội
cho ta: gió, cái nóng, giá lạnh, tiếng ồn, sự kỳ kèo mặc cả của khách, bởi nghe
nói không bao giờ được mua quyển sách nào mà không mặc cả. Chính vì thế tôi ngưỡng
mộ sức kháng cự cùng bản tính thật đẹp của những người bán sách và, giữa tất tật
mọi thứ khác, tâm trạng vui tươi đến thần thánh của nhà thơ chẳng ai biết của
những bờ ke, người vẫn còn tìm ra phương tiện để viết những vần thơ…
Trên các bờ ke
(II)
[nhảy qua bài thứ hai trong loạt "Trên các bờ ke": nó cũng xuất chúng không kém so với bài thứ nhất trên đây, nhưng nhắc đến quá nhiều nhân vật, phải chú thích mỏi tay; cũng nhảy qua bài "Place du Théâtre-Français" để đến luôn bài "Ghetto Paris" dưới đây: cũng như mọi thành phố châu Âu, Paris có khu ghetto Do Thái]
Ghetto Paris
Đó không phải, nói cho đúng, một khu ghetto khả dĩ so sánh
được với ghetto bên Ba Lan, Rumani hay Hà Lan, mà đó là một vùng đất nhỏ giới hạn
bởi phố Roi-de-Sicile, phố Ferdinand-Duval, xưa kia là phố Do Thái, và phố
Vieille-du-Temple [đại khái, không xa bảo tàng Picasso], mà trung tâm nằm nơi
góc phố Écouffes giao với phố Rosiers, chỗ đó có hiệu sách Speiser, điểm hẹn của
tất tật người Do Thái trên đời. Stephan Zweig từng chẳng bao giờ đi xuyên Paris
mà không viếng thăm cửa hiệu ấy. Trotsky thường tới đó ngồi. Vừa xong tôi đã
vào đó để được báo tin về cái chết của Zuckermann, người từng mở ở chỗ này,
cách đây chừng ba chục năm, một quán ăn tuyệt hảo mà chúng tôi hay đến, trước
chiến tranh, Charles-Louis Philippe [Lukács rất hay nhắc đến], Michel Yell,
Chanvin và tôi, bị thu hút bởi một thứ rượu mạnh có mùi hoa violet, mà con trai
ông chủ rót cho chúng tôi với vẻ duyên dáng của một lãnh chúa nhỏ.
Ngày nay, hiệu sách Speiser dường hữu ích cho khu phố hơn so
với quán của père Zuckermann. Nó bày cho những người khách hết sức đa dạng lượng
đĩa Yiddish lớn nhất tại Paris, những bức chân dung Rambam bí hiểm, nhà bác học
thông thạo nhiều ngôn ngữ từng sống ở Tây Ban Nha, mà thế giới Do Thái tới đây
sẽ ăn mừng kỷ niệm sinh nhật lần thứ tám trăm, các bức ảnh chụp trí thức và nhà
văn, vé Xổ số Quốc gia, mà người ta tới đây mua từ khắp mọi xó xỉnh của Paris,
viện cớ là chúng đã qua những bàn tay Israélite, một tập hợp rất hay văn chương
hébraïque, vải dệt tay nhập khẩu từ Liên Xô và giấy bảo hành viết tại chỗ, rồi
sau cùng là một loạt nước chanh màu tía, lục nhạt, vàng, đỏ chót, xa lát, những
ống thủy tinh lớn trong đó người ta mong sao có một con lặn, từ xa trông như thể
chúng ngây thơ mà quay tròn giống một vòng quay ngựa gỗ cho người lùn…
Cửa hàng ấy, hẳn hoàn toàn có thể mở ngoài trời, nhắc tôi nhớ
đến các nhà ga huyện lỵ nơi tối tối, vào giờ dùng rượu apero, tập hợp những thân
hào, những người rồi việc cùng các công chức. Ở đó đón khách cả vào buổi tối muộn.
Những ông già Do Thái, như người ta chỉ có thể gặp tại Bydgoszcz, Zlatana hay
Milowek, tối đến luồn lách giữa đống sách. Người ta kinh ngạc vì thấy họ ở
Paris, vận áo da cừu dài quét đất, tóc mai xoăn tít, đầu tóc bóng dầu, bàn tay
run rẩy. Những người đó, tại Pháp được tự do hơn mọi nơi khác, mạnh bạo mà
khinh bỉ trang phục của bên Ki-tô. Chộn rộn và mơ mộng, họ tới lui trong bùn lầy
ghetto, đội những cái mũ không vành nhỏ có lưỡi trai cũn cỡn, bọc mình nhếch
nhác trong áo rơ đanh gốt dài cánh quạ, rồi thì áo chùng lễ tang. Mắt thì sâu
hoắm, buồn và lạc thần, nước da màu hồng, đôi khi gây sợ hãi, những cặp tai to
tướng, người cúi gập, chân khập khiễng, chột, chín trên mười mắc lao, họ lê la
từ tiệm này qua tiệm khác, thì thào, trượt đi, lười biếng khủng khiếp, đi qua rồi
đi lại trước các hiệu bánh ngọt và hàng xén bốc mùi ngâm muối nhờn nhợt của khu
phố ấy, nơi những người lính ngự lâm trước kia hay tới để đánh nhau tay đôi.
Các nhà báo bên London hay Berlin thỉnh thoảng ra sức chụp ảnh
họ. Nhưng lúc đó các ông già liền trở nên thiện xảo vô chừng. Phải truy lùng họ
như đuổi linh cẩu. Một nhà báo đặc biệt may mắn nhíp được một ông, do tình cờ,
dồn được ông kẹp vào giữa hai chồng sách và “tóm lấy” ông trong một cú bấm
Leika. Thế là ông già liền vươn mình, phóng hai cánh tay về trước, tìm cách nuốt
chửng luôn cái máy ảnh, rồi lao vọt ra ngoài phố náo loạn báo động cho tất tật
các đồng nghiệp xét về tuổi cũng như xét về độ bẩn thỉu, bằng những tiếng hú của
con quái vật đang hấp hối.
Đội trên đầu đống tóc giả bằng lụa hoặc cước, trang điểm,
thường xăm mình, ốm o, béo bệu, xấu xí đến rơi nước mắt, các phụ nữ bí hiểm
nâng lên hạ xuống những hàng mí mắt rộng trước các tin vặt ấy, chúng chỉ có thể
gọi tới cái thẻo đất Do Thái ở Pháp này những cú sét của Israel. Tuy nhiên chốc
chốc người ta lại thấy, trong một dòng dung nham các da thịt già nua, một vẻ đẹp
thật xuất thần. Những linh dương đúng nghĩa với đôi má sáp thơm hương, các con gái
của nàng Shéhérazade, những nữ Sultan với cặp mắt đại bàng non, những người khiến
kẻ đi qua phải mơ mộng. Người ta ngoái đầu lại: họ đã hòa lẫn vào với đống gia
đình lúc nhúc của mình. Các trinh nữ kỳ dị ấy cũng được đám văn nhân tình cờ gặp
truy tìm dữ, như là những típ đặc trưng xứng đáng dùng minh họa cho những quyển
sách, nhưng họ chạy trốn giống les Chassidim [hasid] trước ống kính, và thà chết
còn hơn đi ngược lại các mệnh lệnh khắc vào những cuộn giấy chép Kinh.
Không có vấn đề Do Thái tại Pháp, ít nhất là trong khuôn khổ
ghetto, với những cư dân bản địa quá bận rộn với việc so sánh các lợi thế tương
ứng cùng những phần thánh tính trong giáo phái của mình. Vả, phần lớn trong số
họ, vốn dĩ là những thương gia khả ái, dịu dàng và nghiêm túc vô tận, kết án rất
nghiêm khắc thói lười và sự bẩn thỉu của những người di cư từ Galicie hay
Ukraine, mà quần áo và các thói quen tạo ra, theo như họ cảm thấy, một tai hại
lớn cho Dân tộc Đặc tuyển. Trên phố Rosiers, quy tắc là Tây phương hóa một chút mỗi ngày. Cảnh sát Warszawa, nơi người Do
Thái đông và náo động, vào lúc này đã có những cái máy bơm tự động rất mạnh mẽ,
nhanh, có tính cách quốc gia và bài Do Thái. Nó không tránh trớ cái việc tưới
cho ướt đẫm các sinh viên hay những người hoạt động công đoàn Do Thái ở bất kỳ
chuyển động nào nhỏ nhất của tâm trạng xấu. Chẳng có gì tương tự tại Pháp. Các
lực lượng bài Do Thái từng cố sức xâm chiếm, mới gần đây thôi, khu phố Do Thái
của Paris. Nhưng người Do Thái Paridiêng thì can đảm, và cho thấy rõ điều đó
nhân dịp cuộc tấn công kia.
Chắc chắn, có một thiểu số Do Thái một ngày kia rời bỏ
ghetto, ở Paris cũng như ở Wilno hoặc ở Cracovie, họ chạy khỏi những khu nhớp
nhúa ấy sau khi đã kiếm đủ gia sản, mua lấy xe cộ, may quần áo từ bên London,
đi nhiều đoàn tàu xanh lơ khác nhau và xuất hiện tại các casino. Nhưng họ nuối
tiếc décor gây choáng ngợp của những bước chân đầu tiên và thường quay trở lại
với các nguồn năng lượng đó, chúng sản sinh các bác sĩ phẫu thuật, dương cầm thủ,
chủ nhà băng cùng đôi khi là những đại cử tri, như Baruch, kho tài chính lớn của
đảng dân chủ bên Mỹ, người thân cận của Roosevelt. Làm sao, quả thật, mà không
cảm thấy nỗi hoài nhớ một ghetto chừng người ta là một người Do Thái khá khẩm,
dẫu cái khu phố đó nhỏ xíu, như ghetto của Paris, mà vẻ đẹp đẽ cô đặc lại không
hề thua kém những trung tâm lớn. Ở đây cũng như nơi khác, đám hàng thịt tên là
Simon Klotz, người bán đồ dạ thì là Hirschfled, bánh không men của phố Écouffes
ngon nhất Lục Địa, loại bánh duy nhất là đích thực bởi vì nó được làm ra dưới sự
kiểm soát của Đại Rabbi, trong nghi thức ấy ông được hỗ trợ bởi một rabbi khác.
Rác với rưởi lều bều nơi các rãnh nước, trộn lẫn với lũ trẻ
con còi cọc, mèo ghẻ lở. Mùi bánh nhúng dầu, đùi non nóng hổi, cần tây lững lờ
bay ở ngang tầm tầng trệt. Những bóng dáng trang hoàng các bím tóc băng ngang
các phố hẹp đi mua đồ, xi rô hay dép mujik, tại những hiệu sách-quán ăn. Thật
hiếm những chiếc taxi len lách vào khu bazar ấy. Tất tật người Do Thái của một
ghetto đều biết nhau, rình mò nhau, bỏ cả đời để chơi sát ván trên bình diện của
tham tàn: chẳng ai trong số họ muốn cung cấp cho đồng loại chứng cứ về một phản
bội, về một sự yếu đuối. Người nào mong muốn nhúc nhích thì đã bị đánh dấu cho sự
đi khỏi, đại lộ Champs-Élysées, chính trị hoặc những buôn bán lớn.
Trong lúc đợi phép mầu đó, cư dân đóng trại, đầy kiên tâm và
nhẫn nại, trên các vỉa hè, mơ trước những giá đựng sách cầu nguyện, các bí ẩn
Talmud, bên dưới thủy tinh của ô kính trông chúng giống đống thảm, các tiểu
thuyết tình hay thể thao bằng tiếng Hebrew, mà những ký tự gợi lên các tranh vẽ
trên giấy ô, hình xà mâu hoặc ác-ti-sô, chuôi gươm. Những ai nồng nhiệt hơn cả
thì mua ở chỗ chủ hiệu bùa và lư hương mấy thứ đồ mang lại may mắn, tương tự mấy
món xỉa răng, gọi là mezuzas, rồi mang về nhà mà treo, cạnh cửa ra vào, sao cho
lúc nào cũng có thể nhìn thấy, và nhất là những khi bước vào một nội thất thảm
hại vào các giờ muộn mằn, lúc tiền và tình đều thiếu.
Buổi sáng, các ông già rậm râu và nhăn nheo, những hỗn hợp của
thiên tài và nỗi sợ, những người dạo chơi lớn, nặng trĩu và đầy ưu tư, mà người
ta đoán định là tinh ranh và nhiều hiểu biết, vừa có vẻ như đang chuyên chở các
gánh nặng của niềm hoài nhớ lại vừa chứa nhiều điều bí mật, những lái buôn đáng
kính rơi ra từ bảo tàng Hà Lan nào đó bước đi mà không nhìn thấy gì về phía nhà
thờ, giống các sếp, và giới vô sản Do Thái phố Rosiers nhìn họ với đầy ghen tị
và ngây độn, bởi họ thông thái và giàu.
Đối với một Ki-tô hữu bị chủ đề Do Thái khuấy động, một
ghetto luôn luôn đầy ngập bí hiểm. Ghetto của Paris được trang hoàng bằng các
biển hiệu vui mắt, những quảng cáo cho các nhà trọ Yiddish tại Dauville, các áp
phích liên quan tới nhà hát Do Thái nào đó, cộng thêm đống nẹp sắt và trang trí
kiến trúc. Đó là một tỉnh con người xấu xa và rực rỡ, sặc sỡ, chói, tinh xảo, đầy
nhóc những sự giàu có lén lút, các dồn tụ kỳ khôi, từ đó phát xuất dòng chảy và
ngõ nhỏ dị hình và nhơ nhớp, các lối đi toàn những ngôi nhà hôi thối, hai bên lề
là các cửa hàng mà dòng chữ viết bằng tiếng Hebrew cấu tạo nên một phong cảnh
kiểu biểu đồ cả rối rắm lẫn tối tăm. Nhưng ghetto của Paris, hòa trộn đến mức ấy
vào với quận chứa nó như một thứ nấm tầm gửi, cũng đựng các hấp hơi của lịch sử.
Phố Roi-de-Sicile, cái tên dành cho các tội ác kiểu Balzac,
chạy dài và trượt về phía một chân trời của nỗi buồn. Sau hiệu bánh mì Do Thái
lừng danh, nơi những người rành và đám tín đồ đổ tới từ mọi khu phố Paris tìm
những cái bánh ngọt đặc biệt, những cái ngon nhất và cũng mang các hình dạng kỳ
quặc nhất mà người ta có thể hình dung, những cửa tiệm và quán ăn vơi dần. Cứ
như thể phố ngáp ra các kỷ niệm. Nó ngoặt khá gấp, trong một dạng hoảng sợ, và
tự ném mình vào phố Mahler, từng có tên phố Balais [chổi] cái hồi Những Người
tháng Chín [tức là tháng Chín 1792, đoạn đẫm máu bi thảm của Cách mạng Pháp] một
sáng nọ tụ tập đông đảo trước nhà tù prison de la Force, vốn dĩ nằm nơi góc
faubourg Saint-Antoine, thảm sát tất tật tù nhân trong đó, lột áo princesse de
Lamballe, cắm cái đầu nàng lên mũi một ngọn giáo, đôi khi quên mất nó tại các
góc quán rượu bọn họ dừng chân, tiến về phía Palais-Royal, và giơ nó lên cao
trước các cửa sổ một căn phòng nơi tình nhân của nàng đang đánh bài cùng các bạn.
Đám thiếu nữ tuyệt xinh và sa đọa của đám đông Do Thái, đứng
đợi khách trên phố Pavée, có lẽ mơ tới cái kỷ niệm khủng khiếp đó trong lúc liếc
những cặp mắt dài màu lục của họ lên những đĩa gia cầm của một quán bistrot
Israélite nào đó, nơi mấy ông già say xỉn chỉ còn mong độc có một điều: chết tại
một tổ quốc liberal và dễ dàng, nơi không cho phép các pogrom…
Marais
[nhảy qua mấy bài vô cùng xuất sắc, "Le Marais", "Jardin des Plantes-Halle aux Vins", "Le musée des mondes perdus", "Crépuscule rue de Lappe", "De L'Opéra à Montparnasse" để đến luôn "Montparnasse": có thể thấy là Léon-Paul Fargue dần dần đi từ Bắc xuống Nam của Paris, nói ngắn gọn là từ Hữu Ngạn sang Tả Ngạn; cũng có thể dễ dàng thấy rằng Fargue - giống Proust - là con người của Hữu Ngạn, chứ không phải Tả Ngạn]
Montparnasse
Montmartre không có, ở trong ngôn ngữ, cách nói trại phổ biến.
Vài ca sĩ đúng là từng nói Montmertre, nhưng cái từ ấy đã không phổ thông nổi.
Trong khi Montparnasse đã chấp nhận là Montparno, giống Sébastopol đã trở nên
Sébasto; rồi Topol. Tôi thuộc vào số những người thích Montmartre hơn
Montparnasse, cả từ khi Montmartre trở thành hang ổ cho đám vũ công, lũ thích
loay hoay vớ vẩn và ăn vận bảnh, và của hội người thượng lưu “nghịch đêm như
người ta nghịch hội họa”. Montmartre đối với tôi có nhiều nhân tính hơn, nhiều
thơ ca hơn, nhiều đẳng cấp hơn và, như người ta nói, ở đó người ta hẵng còn tự
vệ, điều đó cũng có nghĩa tại đó người ta vẫn còn được ở nhà mình. Hoàn toàn
khác là bầu không khí của Montparnasse, khu phố nhỏ tí xíu và đông nhung nhúc,
không lịch sử cũng chẳng truyền thuyết, mà vĩ nhân dường như chính là Antoine,
người khiến phát xuất từ phố Gaîté toàn bộ sân khấu kịch hiện đại. [rue de la
Gaîté, xem nó đã xuất hiện trong thế giới văn chương của August Strindberg như
thế nào ởkia]
Có hai Montparnasse. Một Montparnasse tự giao thân mình chẳng
chút kín đáo, không phẩm cách, tức là Montparnasse của ngoài phố. Cái
Montparnasse của giao lộ Montparnasse-Raspail, nơi bày ra toàn bộ rác rưởi - và
đôi khi, giới tinh hoa - của châu Âu “trí thức và nghệ thuật”. Một nhà thơ tối
tăm nào đó, một họa sĩ nào đó muốn thành công tại Bucarest hay Sevilla, nhất
thiết phải, với tình trạng hiện tại của Cựu Lục Địa, từng thực hiện chút ít
quân dịch ở quán Rotonde hoặc quán Coupole, hai viện hàn lâm vỉa hè nơi được dạy
dỗ cuộc sống lưu đãng, niềm khinh bỉ giới bourgeois, sự hài hước và tửu lượng.
Khủng hoảng đã giáng một đòn khá nghiêm trọng lên Montparnasse. Nhưng ở đó
chúng ta từng biết đến một sự náo động phát xuất từ hồng thủy, từ thế kỷ lớn và
từ kết thúc của thế giới. Những chiếc taxi đã chạy suốt nhiều đêm trên phố
Delambre [phố Delambre thì lại xuất hiện rất trọng yếu trong thế giới của
Modiano], phố Vavin hay phố Campagne-Première, những người Litva, hay làm ra
các câu thơ bù xù, những người Chilê vận áo săng đay vẽ bằng những chiếc phuộc
sét dùng để ăn ốc sên, những người da đen có bằng thạc sĩ dạy học, các triết
gia Abyssinie, những người Nga tị nạn chuyên gia về nghệ thuật chế ra các món
thuốc ngủ, lô tô hoặc nhà may. Bầu không khí của những trại điên ấy không hoàn
toàn gây khó chịu.
Hồi mùa đông 1929-1930, tôi tới thăm một người Bồ Đào Nha
tuyệt diệu sống tại nhà thuê đủ đồ đạc không xa hiệu sách Larousse. Tôi thường
thấy ông trần truồng, đi lởn vởn trong phòng rồi đột nhiên dừng khựng lại để nguệch
ngoạc lên mấy bức tường, giống Scribe [kịch tác gia] vẫn hay làm chừng ông cần
có những lời thoại thật. Nhưng người
Bồ Đào Nha chẳng hề ứng tác một cảnh nào hết: ông đang tìm kiếm một nghệ thuật
mới hẳn sẽ, trong tinh thần ông, hội tụ các lợi thế của hội họa, văn chương và giấy
bồi. Mười lần mỗi ngày bị săn đón, và thậm chí bị quây chặt, bởi các nhà cung ứng
những câu thơ của khu phố, chẳng ngần ngừ ông bán đi một cái phô tơi, một tấm
gương, một cái bàn guéridon trong nhà với giá sáu hay bảy franc, chỉ giữ độc một
bộ complet veston màu xám nâu nhỏ phủ đầy vết bẩn mà ông cần “để sống”, ông giải
thích. Ông lao thân vào những thao tác đó với một vẻ thờ ơ và một sự nhã nhặn
gây ấn tượng lớn cho bà chủ nhà. Suốt nhiều tháng ròng, bà không dám mở miệng
nói gì. Bà nhìn đồ đạc cùng đống thảm nhỏ của mình bỏ trốn với một sự rụt rè
gây cảm động. Một hôm thậm chí bà còn mua lại, với giá chừng ba chục franc, một
cái bình mà người Bồ Đào Nha đã để cho người khác để lấy trăm xu [tức năm
franc]. Nhưng đâu có thánh tính được làm sẵn đó. Một đêm nọ, người đàn bà tốt
tính nhận thấy rằng sự kiên nhẫn của mình vừa đột nhiên nhường chỗ lại cho lòng
phẫn nộ. Chán ngán hội họa, nước Bồ Đào Nha, lũ gigolo, trong một nháy mắt bà bật
dậy, giật lấy một cái ô, bước ra khỏi phòng ngủ của mình như một nữ thần báo
thù, xuất hiện ở chỗ người thuê nhà, vụt cho ông mấy nhát chẳng hề báo trước và
rốt cuộc tống cổ ông ra ngoài, trần như nhộng, bảo rằng ông sẽ chỉ nhìn thấy lại
bộ comlê màu xám nâu cái ngày sạch được nợ với bà. Ông phải trả, vì tính luôn
những thứ đồ đã bán, các món mà bà chủ nhà đưa cho, rồi thì tiền thuê nhiều
tháng chưa thanh toán, đâu như sáu mươi lăm nghìn franc. Điều đó cho phép ông
trần truồng mà đi khỏi, chẳng cằn nhằn mấy nỗi. Vài phút sau, ông xuất hiện tại
quán Rotonde, trên mình phủ đầy những mảnh áp phích, đầu thì đội tờ báo Paris-Sport và chân lấm bùn, vì trời hôm
ấy mưa. Người ta tiếp đón ông như một nhà thám hiểm. Ông kể lại cuộc phiêu lưu
của mình. Ngay tức khắc Latvia, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Mozambique và vùng
Patagonia, được đại diện bởi nhiều họa sĩ chuyên màu nước, người mẫu và nhà
cách mạng đa dạng, đề nghị lập thành liên đoàn trả thù, thành Bal des
Quat’zarts trừng trị, và tàn phá ngôi nhà trọ. Người Bồ Đào Nha thấy thuận tiện
hơn hết là vào ở trong một khách sạn bên cạnh, nơi người ta nhận chứa chấp ông
vài tháng. Bởi người cho thuê nhà của Tả Ngạn thì khá là cả tin: ông ta tin vào
nghệ thuật Nègre, vào Pré-Hellénique, vào Munichois, Toulousain và Bất kỳ cái
gì, chỉ cần đám đầu bò đầu bướu hồi bé kia bình luận trước mặt ông ta kèm với
thật nhiều động tác, whisky và Camel. Montparnasse là một trong những chốn trên
đời nơi dễ dàng nhất hạng để sống mà chẳng làm gì, và thậm chí đôi khi còn kiếm
được tiền nữa. Chỉ cần, phần lớn thời gian, mặc một cái áo pull-over thật chóe,
hút một cái tẩu trông hơi có phần phức tạp, và nhảy múa dị dạng, là đủ. Đối lại,
chút tài năng dẫu nhỏ nhất thì sẽ gây phiền: thậm chí nó chính là phương cách
duy nhất để chết đói thẳng cẳng. Từ mười nay, các quận xịn đều đặn gửi, đến
Cabane Cubaine, Select, Villa, Jacket hoặc vài chốn khác lúc nào cũng đầy sắc
hương xa cỏ lạ, những phái đoàn tụi snob ngứa ngáy ham muốn được giải phóng, và
cảm thấy một khoái lạc đúng nghĩa nếu được nói: “C’est régulier, c’est correct,
je suis à la page, j’en ai marre, un truc marle, un malabar, v.v…” [đại khái là
idiom, jargon] Khoái thú vô tội, vốn dĩ nằm ở nguồn gốc của Internationale nửa-trí
thức nửa-đêm đen ấy, nơi đám giàu, đám thất bại, đám lười và đám ngộ của Trung
Quốc, Phi châu, đại lộ Friedland, London hay Asnières kết giao hảo huynh đệ.
Louis Barthou, một ngày nọ ăn tối cùng tôi tại một quán rất ổn của khu phố, nói
với tôi rằng một trong số chúng tôi, nhà thơ, họa sĩ hay nhà thời luận, chắc phải
sưu tầm cho các a ma tơ tương lai tổng thể những tờ tạp chí cùng xuất bản phẩm
ra đời tại Montparnasse, nhằm lập dựng một hồ sơ tài liệu hẳn sẽ trở nên nhất
thiết cho những ai, về sau này, muốn viết lịch sử rậm rì, hơi điên rồ, của Tả
Ngạn. Barthou không thích Montparnasse lắm, nhưng ông lại yêu thích các loại
tài liệu, bản thảo, chữ viết tay và giấy da dê… Tôi hẵng còn nghe thấy ông hỏi
tôi bằng cái giọng nho nhỏ của ông, cắn cắn vào cái kính lorgnon, tay ngoáy mũi,
tìm cách có được một hiểu biết chính xác về cái địa điểm ông đang ở trên: “Tôi
cảm thấy hơi lạc lối trong cái biển toàn những họa sĩ, kiến trúc sư, đám người
chỉ ưa phăng te di này. Đây là một dạng tiếng chiêm chiếp của các tư tưởng sai,
của những ý vứt đi, của những sáng tạo đầy duyên dáng, những mầm mống dở của nghệ
thuật. Nhưng chẳng gì xuất hiện, chẳng gì thống trị. Có một ông thầy hay không?
Một thống lãnh trường phái? Một học thuyết?”
Đúng lúc ấy, tiến lại gần chúng tôi một Don Quichotte đầu đầy
tóc và hàm răng thì hổng, một tay bợm rất đặc biệt khắp người phủ đầy những vết
tàn nhang, trang trí bằng đống bút chì, mang nặng đống giấy, bìa, và hết sức dễ
mến đề xuất với chúng tôi, bằng giọng của viên sen đầm: “Một xú vơ nia
Montparnasse chứ?” Ông ta vẽ chân dung tốc họa với cái giá năm mươi xăng tim một
bức…
Bên cạnh cái Montparnasse của các hàng hiên, các điệu tango,
đậu phộng và những thứ đồ uống độc đáo đó, tồn tại trong không khí, như một
giai điệu Montparnasse đích thực, cái Montparnasse chẳng hề có tường lẫn cửa ra
vào và nó, hơn nhiều so với mọi ngôi đền khác, hẳn có thể đòi về mình mật mã lừng
danh, đã hơi được sửa đổi: “Không ai được bước vào đây nếu không phải là nghệ
sĩ.” Montparnasse vàng son, trên không, dịu dàng, đuổi cho phải chạy trốn lũ quỷ
của nỗi cô đơn, Montparnasse của Baudelaire, của Manet, của Apollinaire, và của
biết bao người khác nữa, với họ cuộc sống bên lề các thiết chế và tập quán
bourgeois không phải một trò giả đò, mà là một nhất thiết theo cách nào đó ghi
vào thâm sâu. Bộ tổng tham mưu đúng nghĩa của Montparnase được cấu thành bởi
Moréas, Whistler, Jarry, Cremnitz, Derain, Picasso, Salmon, Max Jacob, nhóm bảo
trợ cao cấp những người đã chết và còn đang sống vẫn còn định giọng cho những kẻ
chập chững trong nghệ thuật sở hữu thiên tài. Cách đây hơn hai mươi năm một
chút, vào lúc Picasso đến định cư vùng lân cận của quán Rotonde, tất cả mọi người
ở Paris đều hiểu rằng một vùng thuộc địa mới, trải rộng tới tận Porte
d’Orléans, sẽ thay thế cho phố Lepic đang hấp hối. Quán ăn Baty biết đến một sự
thời thượng đột nhiên và có vinh dự được bán chịu cho Léon Trotsky, người, dẫu
đã tạo ra Hồng quân cũng như vị thế của nhà cách mạng tuyệt đối, lúc nào cũng sẽ
vẫn là một típ của Montparnasse, và cho thấy nhiều điểm chung với Modigliani,
Vlaminck hay Doanier Rousseau, những người khách khác của Montparnasse, vả lại
là khách du lịch thì đúng hơn, vì Vlaminck từ vùng ngoại ô lớn tới còn
Modigliani thì từ Montmartre. Sự hiện diện đó của các họa sĩ, nhà duy mỹ, nhà
buôn tranh, nhà thơ và các gái luôn luôn sẵn sàng tụt quần áo để làm mẫu khỏa
thân đã chẳng phải không gây ảnh hưởng lớn lao lên cái giống “phiêu bạt” của
khu phố. Le “mec” [ý nói các tay rất rắn] của Raspail và đại lộ Maine thì không
giống những đồng nghiệp của anh ta bên Grenelle. Anh có có một ít giáo dục, những
năng lực rất tinh tế về hài hước, biết nhảy kiểu hiện đại và, khi cần, với sự cận
kề của nghệ thuật giúp sức, vẽ một ký họa các đôi bốt. Tuy tỏ ra cứng rắn với
đám con gái, anh ta lại không thù nghịch với các nhà thơ. Anh ta từng biết
Foujita, anh ta nhận ra được Kisling, và đám bí thư của các sứ quán xa xôi đến
ăn tối ở quán Coupole cùng những họa sĩ “tại chỗ”. Tôi hay tới uống một cốc
porto ở chỗ một cựu mẫu giờ đây sống theo lối hết sức bourgeois tại một căn hộ
nhỏ diêm dúa phố Vaugirard và đối với tôi đó là một bảo tàng viện nhỏ của
Montparnasse: ở đó người ta thấy có một cái cà vạt của Mécislas Golberg, một
bưu thiếp của Max Jacob, một thực đơn của quán Baty, một tạp dề cũ từng thuộc về
tay rửa bát nào đó của quán Rotonde, nhiều bức Utrillo, một mẩu cắt báo nhắc rằng
khách sạn nhỏ của Picasso ở Montrouge từng một ngày kia bị trộm viếng thăm, một
quyển sách về Van Gogh, và rất nhiều món lưu niệm lập thể, vị lai, khiêu dâm
hay gây cảm động gợi nhớ rằng Montparnasse, trước khi trở thành khu phố cho đám
họa sĩ giả danh thành đạt, từng rất lâu là một thiên đường nho nhỏ…
Chắc tôi sẽ chẳng thể nào kết thúc cuộc dạo chơi nhỏ tại Montparnasse này nếu không nhắc rằng ngọn đèn đầu tiên từng thắp lên để soi sáng cho khu phố kể từ bấy lừng danh trên toàn thế giới là một ngọn đèn cũ có chụp, đèn của Douanier Rousseau, người từng sống vào quãng 1895 trên đại lộ Maine, ngay kề cây cầu đường sắt. Nương theo những tình cờ của đi vơ vẩn và của các quán cà phê, một ngày kia chúng tôi, Alfred Jarry và tôi, phát hiện được ông. Rốt cuộc ông, chẳng phải là không suy nghĩ chán rồi, dẫn chúng tôi vào xưởng vẽ của ông. Vả lại ông không chậm trễ vẽ cho mỗi chúng tôi một bức chân dung. Ông đã vẽ tôi với bộ râu chỏm nhọn hồi đó tôi hay để, trước một cửa sổ có đường sắt chạy ngang lẫn vào một làn khói nặng nề như chùm lông một hiệp sĩ… Tôi không biết chuyện gì đã xảy tới với bức tranh đó, vả lại nó đã không được đưa cho tôi. Ông có thói quen nói, hồi ấy: “Chúng ta có bốn nhà văn lớn: ông Octave Mirbeau, ông Jarry, ông Fargue và ông Prudent-Dervillers.” (Nhân vật cuối cùng là cố vấn thành phố của khu.)
Chắc tôi sẽ chẳng thể nào kết thúc cuộc dạo chơi nhỏ tại Montparnasse này nếu không nhắc rằng ngọn đèn đầu tiên từng thắp lên để soi sáng cho khu phố kể từ bấy lừng danh trên toàn thế giới là một ngọn đèn cũ có chụp, đèn của Douanier Rousseau, người từng sống vào quãng 1895 trên đại lộ Maine, ngay kề cây cầu đường sắt. Nương theo những tình cờ của đi vơ vẩn và của các quán cà phê, một ngày kia chúng tôi, Alfred Jarry và tôi, phát hiện được ông. Rốt cuộc ông, chẳng phải là không suy nghĩ chán rồi, dẫn chúng tôi vào xưởng vẽ của ông. Vả lại ông không chậm trễ vẽ cho mỗi chúng tôi một bức chân dung. Ông đã vẽ tôi với bộ râu chỏm nhọn hồi đó tôi hay để, trước một cửa sổ có đường sắt chạy ngang lẫn vào một làn khói nặng nề như chùm lông một hiệp sĩ… Tôi không biết chuyện gì đã xảy tới với bức tranh đó, vả lại nó đã không được đưa cho tôi. Ông có thói quen nói, hồi ấy: “Chúng ta có bốn nhà văn lớn: ông Octave Mirbeau, ông Jarry, ông Fargue và ông Prudent-Dervillers.” (Nhân vật cuối cùng là cố vấn thành phố của khu.)
Quán cà phê đầu tiên nơi thực sự được đặt, để chiếu sáng, ngọn đèn cũ của Rousseau, là Rotonde, thời đó nó chỉ gồm tất tật có một quầy cùng một phòng sau nhỏ gắn nhiều gương, hoàn toàn được phủ lên bằng sự khắc hàng trăm nghìn câu tỏ tình… Giờ, tôi cần phải nhắc, trước khi lên đường quay trở lại bên hữu ngạn, đến khuôn mặt của Bubu de Montparnasse, nhân vật chính của Charles-Louis Philippe vĩ đại khốn khổ của tôi. Bubu làm ma cô hồi trước chiến tranh, tương đối khôn ngoan và gần như lụy tình. Thỉnh thoảng anh ta về thăm mẹ, bán tạp hóa trên đại lộ Maine. Và, chừng anh ta gặp ở đó các hàng xóm cùng những kẻ ưa ngồi lê đôi mách, thì anh ta chào họ, Philippe nói thế, với sự lịch thiệp nhã nhặn khiến bố mẹ chúng ta chẳng khi nào có thể từ mặt chúng ta cho nổi…
(còn nữa)
Léon-Paul Fargue:
Những giọng khác sẽ hát những mắt khác sẽ khóc
Valery L.
Léon-Paul Fargue: một nửa bài thơ
các thành phố:
Berlin
Dantzig
Lisbon
Buenos Aires
Istanbul
tiếp tục - đã sang đến "chương" thứ hai
ReplyDeletetiếp tục
ReplyDelete"Sau khoảng một tiếng, cả khu phố bốc mùi thịt nướng."
ReplyDelete:))))
Tôi mong dịch phẩm này sớm được in thành sách
ReplyDeletehay giờ đợi xem nếu có 1000 người đăng ký mua từ trước thì quyết định in luôn nhỉ
ReplyDeletenghe nhu la crowfunding roi phat hanh ban bia cung co chu ki dich gia y nhi :)
ReplyDeleteDu học tận đâu về mà tiếng anh giỏi thế không biết
Deletekhông nhìn thấy gì khác ngoài ba cái trò bốc mùi nouveau riche thối ấy à?
ReplyDeletetiếp tục
luc go da thay ngo ngo roi :) hi xin loi nhe
ReplyDelete