Oct 29, 2025

Morell

Ngay trước khi chết, Borges đọc cuốn sách của Voltaire về vua Charles XII.

Chi tiết ấy làm cảm tình đối với Borges của tôi bỗng tăng đột biến: như thể  ào ạt chảy, một tình trạng vỡ bờ, có thể nói vậy. Nếu cứ tiếp tục thế này khéo mà etc. Cách đây không lâu tôi cũng đọc chính cuốn sách ấy, về một ông vua Thụy Điển, của Voltaire. Nietzsche thì đề tặng Menschliches, Allzumenschliches cho Voltaire. Écrasez l'infâme.

Cái gì của Borges nhiều tính cách vt hơn cả? ngay từ đầu đã vậy (câu hỏi phụ: Borges đọc Nietzsche như thế nào?)

đâykia


Cách đây khoảng chục năm, một hôm quay sang Tạ Hương Nhi (chúng tôi ngồi cùng phòng, có thể nói phần lớn thời gian phòng ấy chỉ có hai chúng tôi), tôi bảo thử đọc Borges xem sao. Theo như những gì Tạ Hương Nhi nói với tôi sau đó, lần đầu tiên biết đến Borges đấy là cả một khải ngộ - tôi cũng muốn nhân vật ấy thoát khỏi mấy thứ ngớ ngẩn như Kazuo Ishiguro.

Quả nhiên, về sau này, Tạ Hương Nhi sẽ lại đâm đầu vào những thứ như sẻ sẻ gì đó hay nhất là một thứ mốt rất gớm ghiếc của thời chúng ta: Palestine.


Cuốn sách của Borges trong nhan đề có luôn "infâme", Historia universal de la infamia, gồm những gì được viết ở quãng quanh tuổi ba mươi. Mở đầu là câu chuyện về Lazarus Morell (ngay tiếp theo: Tom Castro, rồi Ching). Borges hấp dẫn vô vàn ở chính infamia.

("Morell" làm tôi nghĩ ngay đến "Morel" xuất hiện trong nhan đề một cuốn sách của Adolfo Bioy Casares - cuốn sách mà tôi không đọc hết nổi; lời tựa của Borges cho cuốn sách ấy, Borges dùng để chê bôi Proust một cách chẳng hề liên quan: đấy không phải sự hâm đơ duy nhất mà Borges từng làm, trong đời).

Ở trên đã nói đến Voltaire: còn phải nhắc đến Rousseau nữa, nhưng mỏi tay quá. (và dẫu thế nào, cuối cùng vẫn cứ phải là Diderot)




Vị cứu tinh đáng kinh sợ Lazarus Morell

NGUYÊN NHÂN XA XÔI

Năm 1517, cha Bartholomé de Las Casas [hơi giống] lên cơn thương cảm những người Anh điêng đang bị chết trong các địa ngục cần lao, những mỏ vàng Antilles. Ông đề nghị hoàng đế Charles Quint nhập khẩu những người da đen, họ sẽ khổ nhọc thay chỗ những người kia tại các địa ngục cần lao, những mỏ vàng ở Antilles.

Nhờ sự thay thế kỳ khôi này của một kẻ yêu người mà ta có được vô biên các sự kiện: những bài blues của Handy, thành công mà họa sĩ người Uruguay, don Pedro Figari, giành được tại Paris, văn xuôi rất hắc của don Vincente Rossi, cũng người Uruguay, sự lớn lao huyền thoại của Abraham Lincoln, năm trăm nghìn người chết trong Nội chiến Mỹ, ba tỉ năm trăm triệu tiêu đi cho trợ cấp nhà binh, bức tượng Falucho tưởng tượng, việc đưa động từ "lin sơ" vào ấn bản thứ mười ba của từ điển Viện hàn lâm Tây Ban Nha, bộ phim cuồng loạn Hallelujah, cuộc xung phong mạnh mẽ lưỡi lê tuốt trần với Soler dẫn đầu đội quân "Nâu và Đen" của ông ở Cerrito, sự quyến rũ của Cô Gì đó, người da đen mà Martín Fierro sát hại, điệu rumba than van Người bán đậu phộng, thứ Napoléon luận do Toussaint Louverture sử dụng và đầu độc, thập giá và con rắn cho Haiti, máu lũ dê bị cắt cổ bằng dao của papaloi, habanera, mẹ của tango, candombe. [ơ, Borges, quên mất Heinrich von Kleist à?]

Ngoài ra: tồn tại tuyệt vời và đầy tội của Lazarus Morell, vị cứu tinh tàn khốc.


[tiếp]


ĐỊA ĐIỂM

Dòng sông lớn nhất thế giới, Mississippi, Sông Bố, là sân khấu xứng đáng cho trò bợm bãi vô song ấy. (Alvarez de Pineda là người đã khám phá Mississippi và người đầu tiên thám hiểm nó là thuyền trưởng Hernando de Soto, trước đã chinh phục Peru, người giải khuây cho những tháng bị cầm tù của Atahualpa người Inca bằng cách dạy ông ta chơi cờ; khi Soto chết người ta làm quách chôn ông bằng nước sông.)

Mississippi là một dòng sông vai rộng. Đấy là người anh em u tối và vô tận của sông Parana, sông Uruguay, sông Amazon và sông Orinoco. Đấy là một dòng sông có nước lai. Hơn bốn trăm triệu tấn bùn hằng năm sỉ nhục vịnh Mexico nơi nó đổ ra. Một khối cặn cũ và đáng kính như thế đã tạo nên một vùng châu thổ nơi những cây bách khổng lồ của các đầm lầy sống bằng thi hài của một lục địa ở trong sự tan rã thường hằng, nơi các mê cung của bùn, cá chết cùng bấc đẩy lùi những đường biên giới và đảm bảo hòa bình cho cái đế chế thối inh ấy.

Xa hơn về phía Bắc, ở quãng Arkansas và Ohio, vẫn còn trải dài các khoảng đất thấp, chỗ sinh sống của một dòng giống da vàng ệch toàn những con người gầy giơ xương, bị cơn sốt rình rập, bọn họ hau háu nhìn đá và sắt, bởi ở chỗ họ có gì khác nữa đâu ngoài cát, rừng và nước ngầu bùn.

CÁC CON NGƯỜI

Hồi đầu thế kỷ 19 (khoảnh khắc mà chúng ta quan tâm), tại những cánh đồng bông rộng lớn trên các bờ của sông Mississippi, những người da đen làm lụng từ sáng chí tối. Họ ngủ trong các cái nhà gỗ, nằm thẳng lên nền đất nện. Ngoài mối quan hệ mẹ-con, những dây liên hệ họ hàng có tính cách quy ước và đáng ngờ. Họ có tên để gọi nhưng có thể chẳng cần tên làm gì. Họ không biết đọc. Giọng mềm mủi vống lên của họ hát bằng một thứ tiếng Anh có các nguyên âm thật chậm. Họ làm việc theo hàng lối, gập mình xuống dưới ngọn roi của đốc công. Họ bỏ trốn; những lúc như thế những người râu dài bèn nhảy lên các con ngựa đẹp và đám chó ngao khủng khiếp truy đuổi theo dấu vết họ.

Họ đã đính lời của Thánh Kinh vào cái gốc những niềm hy vọng kiểu thú vật cùng các nỗi sợ châu Phi; như vậy thì, niềm tin của họ là niềm tin của Ki-tô. Họ hát từ đáy trái tim và thành cả khối: Go down Moses. Đối với họ sông Mississippi là hình ảnh tuyệt vời của Jordan thảm hại.



5 comments:

  1. "hâm đơ", một tự vị tân tạo?

    ReplyDelete
    Replies
    1. cái này, ít nhất miền Bắc, dùng lâu rồi. Có thể là ghép từ "hâm hâm" + "đơ đơ" nhưng nhẽ không hâm hẳn, cũng không đơ hẳn, mà là... "hâm đơ", rất gợi

      "hâm" là nấu lại, hoặc làm cho ấm lên; ấm nửa chừng chưa sôi hẳn

      Delete
  2. frontispiece của bản dịch edited by Ernest Rhys làm người ta nghĩ ngay đến HTMT’s frontispiece

    ReplyDelete