"Avelino Arredondo" là một trong những truyện của Borges gây nhiều dư âm nhất cho tôi về cách hình dung diễn tiến các sự việc trong thực tại, còn "Sách Cát" miêu tả tóm gọn rất hiệu quả quan niệm của Borges về sách, bất tận, vĩnh hằng…
Avelino Arredondo
Sự việc xảy ra ở Montevideo vào năm 1897.
Thứ Bảy nào nhóm bạn cũng ngồi quanh cái bàn dài ở quán cà
phê Globo, đám người da trắng nghèo biết mình không thể mời khách về nhà hoặc
muốn trốn chạy khỏi nhà mình. Tất cả đều là người gốc Montevideo; thoạt đầu họ
dè dặt đón nhận Arredondo, vốn xuất thân từ vùng nội địa, vô cùng rụt rè, không
bao giờ hỏi câu gì. Anh mới đôi mươi; gầy gò với làn da sạm, anh khá bé nhỏ và
mang dáng dấp hơi vụng về. Khuôn mặt anh hẳn sẽ nhạt nhòa lắm nếu bù lại anh
không có ánh mắt ấy, vừa cương nghị vừa như buồn ngủ. Anh làm cho một tiệm bán
vải vóc trên phố Buenos Aires và học luật vào những lúc hoang vắng. Khi mọi người
phản đối cuộc chiến tranh đang tàn phá đất nước, cái cuộc chiến đang được ông tổng
thống ra sức kéo dài vì những lý do đáng ghê tởm, Arredondo chỉ nín lặng. Anh
cũng nín lặng khi bị chọc là kẻ keo kiệt.
Không lâu sau trận Gerros Blancos, Arredondo bảo các bạn họ
sẽ không gặp anh một thời gian vì anh phải quay về Mercedes. Tin này không làm
rộn một ai. Có người khuyên anh nên cẩn thận với lũ gaucho của Aparicio
Savaria; Arredondo mỉm cười đáp rằng anh không sợ tụi da trắng. Người kia, một
tay da trắng, không nói gì nữa.
Chia tay với vợ chưa cưới Clara thì nặng nề hơn. Anh nói với
cô gần như giống hệt khi nói với những người khác. Anh bảo cô đừng đợi thư vì
anh sẽ rất bận. Clara chấp nhận lời giải thích không phản đối, vốn dĩ cô viết
không thạo. Họ rất yêu nhau.
Arredondo sống ở ngoại ô. Phục vụ anh là một phụ nữ mulatto cùng
họ với anh vì tổ tiên bà từng là nô lệ cho gia đình anh mãi từ hồi Cuộc Chiến Lớn
thời Rosas. Có thể hoàn toàn tin cậy Clementina; anh lệnh cho bà nói với tất cả
những ai tới kiếm anh là anh đang ở nông thôn. Anh đã lĩnh kỳ lương cuối cùng
chỗ tiệm buôn.
Anh vào ở trong căn phòng cuối nhà, nó nhìn ra cái sân đất nện.
Đây là một biện pháp thừa nhưng nó giúp anh khởi sự cuộc nhốt mình tự nguyện.
Từ cái giường sắt hẹp anh dùng để quay lại với thói quen ngủ
trưa, anh thoáng buồn bã nhìn lên một giá sách trống không.
Anh đã bán tất cả sách, kể cả đống giáo trình luật. Anh chỉ
còn một quyển Kinh Thánh mà anh chưa từng đọc và sẽ không đọc hết.
Anh giở từng trang ra đọc, lúc thì say sưa, lúc thì thấy
chán, và anh tự bắt mình phải học thuộc lòng một chương nào đó trong Sách Xuất
Hành và đoạn cuối Sách Giảng Viên. Anh không cố hiểu những gì mình đọc. Anh là
người có tư tưởng thoáng đạt nhưng không đêm nào anh không đọc kinh Lạy Cha như
đã hứa với mẹ khi chia tay bà lên Montevideo. Anh nghĩ hứa với mẹ rồi không giữ
lời chắc sẽ gặp bất hạnh.
Anh biết mình sẽ phải đợi đến buổi sáng 25 tháng Tám. Anh biết
chính xác còn bao nhiêu lâu nữa mới tới ngày đó. Chừng nào đã đạt được mục
đích, thời gian có thể ngừng, hoặc, chính xác hơn, sau đó có xảy ra chuyện gì
thì cũng chẳng quan trọng nữa. Anh đợi ngày ấy như người ta đợi một niềm hạnh
phúc hoặc một sự giải thoát. Anh đã để đồng hồ của mình chết ngõ hầu không mất
thời gian ngó nó nữa, nhưng đêm nào khi nghe bên ngoài chuông điểm mười hai giờ,
anh cũng xé một tờ lịch và tự nhủ: thế là
bớt được một ngày.
Thoạt tiên anh muốn dựng ra một thói lệ: uống maté, hút thuốc
lá Thổ tự tay anh vấn, đọc và đọc lại một số trang sách nhất định, thử nói chuyện
với Clementina khi bà mang khay đồ ăn đến cho anh, lẩm nhẩm vài lời trước khi
thổi nến. Nói chuyện với Clementina, một phụ nữ đã rất già, không phải chuyện dễ
vì ký ức bà đã chôn chân ở vùng nông thôn xa xôi và ở cuộc sống thường nhật nơi
đó.
Anh cũng bày bàn cờ ra và chơi lung tung những ván không kết
thúc được. Bộ cờ thiếu mất một quân xe, anh thay bằng một viên đoạn hoặc một đồng
hai mươi xu chơi tạm.
Để thời gian trôi qua nhanh hơn, sáng sáng Arredondo lấy giẻ
và chổi dọn dẹp, lau chùi căn phòng, và tiêu diệt lũ nhện. Người phụ nữ mulatto
không ưng nhìn anh hạ mình làm cái loại công việc thuộc phận sự của bà, thêm nữa
anh lại còn làm việc ấy rất tệ.
Anh những muốn thức dậy khi mặt trời đã lên cao nhưng thói
quen dậy thật sớm mạnh hơn ý chí. Anh rất nhớ bạn bè mặc dù, với một chút cay đắng
trong lòng, anh biết họ sẽ chẳng tiếc nuối gì khi anh vắng mặt, bởi vì anh cứ
khăng khăng tỏ ra rụt rè. Một chiều có người đến hỏi tin tức của anh và bị mời
về ngay ở cửa. Clementina không quen người đó, thế nên Arredondo không bao giờ
biết đó là ai. Vốn là người ghiền đọc báo, giờ anh thấy thật nặng nề khi phải dứt
bỏ những viện bảo tàng trưng bày những thứ vụn vặt phù du ấy. Anh không phải
người có thiên hướng suy tư hay thích ngẫm nghĩ.
Ngày và đêm cứ thế giống hệt nhau, nhưng các Chủ nhật với
anh đặc biệt nặng nề.
Đến quãng giữa tháng Bảy, anh nghĩ mình đã sai lầm khi chia
nhỏ thời gian ra, vì dù cho ta có làm gì, thời gian vẫn cuốn ta đi.
Thế là anh bèn mặc cho trí tưởng tượng phiêu bạt trên những
khoảng rộng lớn của đất nước, giờ đây đang đẫm máu, trong ý nghĩ anh nhìn lại
những cánh đồng Santa Irena chập chùng, nơi ấy anh từng thả diều, rồi một con
ngựa chắc đã chết, bụi tung mù phía sau những đàn gia súc bị đám thợ chăn quất
roi dẫn đi, chiếc xe đẩy hằng tháng từ Fray Bentos đến, chất đầy đủ thứ hàng
hóa lặt vặt, vịnh La Agraciada nơi Ba Mươi Ba Anh Hùng đổ bộ, Hervidero, những
dãy đồi, rừng và sông, rồi núi Cerro mà anh đã leo đến tận ngọn hải đăng trên đỉnh,
tin rằng ở cả hai bên bờ dòng Plata không còn có nơi nào có thể ngắm được quang
cảnh đẹp hơn. Từ ngọn núi ở vịnh anh nghĩ sang hình ngọn núi trên tấm quốc huy
và ngủ thiếp đi.
Đêm đêm gió Nam mang tới sự dịu mát ru đằm giấc ngủ. Anh
không bao giờ mất ngủ.
Anh yêu sâu sắc vợ chưa cưới của mình nhưng anh tự nhủ một
người đàn ông không được nghĩ đến phụ nữ, nhất là khi những phụ nữ ấy không ở
bên cạnh. Cuộc sống nông thôn đã dạy anh quen với nếp sống thanh đạm. Còn chuyện
kia thì… anh cố sao càng ít nghĩ đến kẻ mà anh căm ghét càng tốt.
Tiếng mưa rơi gõ lên mái nhà bầu bạn với anh.
Với một tù nhân hay một người mù, thời gian trôi chảy như nước
trên sườn dốc.
Đến quãng giữa đợt tự nhốt mình, Arredondo đã hơn một lần được
trải nghiệm cái thời gian gần như nằm bên ngoài thời gian ấy. Ở chỗ căn thứ nhất
của khu nhà có một cái giếng, dưới đáy có một con cóc; chưa bao giờ anh nảy ra
ý nghĩ thời gian của con cóc, rất gần với vĩnh cửu, chính là loại thời gian mà
anh mong mỏi.
Sắp đến ngày ấy, anh lại thấy sốt ruột. Đêm nọ, không chịu nổi
nữa, anh đi ra phố. Mọi thứ như thể mới mẻ và to lớn hơn. Rẽ ở một góc phố, thấy
có ánh đèn, anh bước vào một quán cà phê. Vào đến đây mà không làm gì cũng dở,
nên anh gọi một cốc rượu. Tụi lính đứng trước quầy tán chuyện với nhau. Một tên
nói:
“Các cậu cũng biết là đã có lệnh cấm ngặt nhắc đến các trận
đánh. Chiều qua bên bọn tớ xảy ra một chuyện chết cười. Bọn tớ đi qua trước trụ
sở tờ La Razón thì nghe bên trong có
tiếng kẻ nào đang vi phạm lệnh này. Không chần chừ, bọn tớ bèn đi vào. Phòng
biên tập tối om, nhưng bọn tớ cứ thế nã đạn vào cái kẻ vẫn tiếp tục nói. Khi rốt
cuộc hắn cũng đã im mồm, bọn tớ mò mẫm tìm để lôi hắn ra ngoài, nhưng lúc ấy bọn
tớ mới nhận ra đó là một cái đài phát
thanh, nó cứ thế mà tự nói thôi.”
Cả bọn rũ ra cười. Arredondo vẫn im lặng. Tên lính hỏi anh:
“Chuyện hay phải không, aparcero?”
Arredondo không nói lời nào, thế là tên lính mặc quân phục
tiến lại gần nói với anh:
“Hét to câu này ngay lập tức: Tổng thống Juan Idiarte Borda
muôn năm!”
Arredondo không chịu làm theo. Trong những tiếng vỗ tay chế
giễu, anh đi ra đến cửa. Một câu chửi cuối cùng vẳng ra theo khi anh đã ngoài
phố:
“Nỗi sợ thì không thù oán và không ngốc.”
Anh đã hành động như một kẻ hèn nhát, nhưng anh biết mình
không phải kẻ hèn nhát. Anh chậm rãi đi về nhà.
Ngày 25 tháng Tám, Avelino Arredondo thức giấc khi đã hơn
chín giờ. Trước tiên anh nghĩ đến Clara rồi sau đó mới nghĩ đến ngày hôm nay.
Anh nhẹ nhõm tự nhủ: Kết thúc cực hình chờ
đợi rồi. Cuối cùng cũng đã tới ngày huy hoàng!
Anh thong thả cạo râu, cái gương phản chiếu khuôn mặt thường
ngày của anh. Anh chọn một cái cà vạt màu đỏ và mặc lên người bộ quần áo đẹp nhất.
Anh ăn trưa muộn. Bầu trời xám xịt báo hiệu cơn mưa; anh thì lại vẫn hình dung
bầu trời sẽ rạng rỡ. Tim anh thắt lại khi anh vĩnh viễn rời khỏi căn phòng ẩm ướt.
Ngoài sảnh, anh gặp Clementina, anh đưa bà những đồng xu cuối cùng còn lại
trong túi. Trên tấm biển của cửa hiệu kim khí anh nhìn thấy hình những viên kim
cương nhiều màu sắc và anh tự nhủ đã hai tháng nay anh quên biến chúng. Anh đi
về phía phố Sarandi. Đó là một ngày lễ, ngoài phố rất vắng người.
Anh đến quảng trường Matriz thì vẫn chưa tới ba giờ. Vừa xong
bài Te Deum; một nhóm chức sắc, sĩ
quan quân đội và giáo sĩ đang chầm chậm bước xuống các bậc thang nhà thờ. Thoạt
nhìn, những chiếc mũ cao mà vài người còn cầm trên tay, những bộ quân phục,
quân hàm, vũ khí và áo chùng khiến ta có cảm giác là đông người lắm; trên thực
tế tổng cộng chỉ có khoảng ba mươi người. Arredondo, không hề cảm thấy chút sợ
hãi nào, thấy lòng mình ngập tràn sự kính trọng. Anh hỏi xem ai là tổng thống.
Người ta trả lời anh:
“Người kia kìa, đang đi bên cạnh đức tổng giám mục đội mũ tế
và cầm trượng ấy.”
Anh rút súng ra và bắn.
Idiarte Borda tiến lên vài bước, ngã sấp mặt xuống đất và thốt
ra vài từ nghe rất rõ: Tôi chết đây.
Arredondo tự nộp mạng cho nhà chức trách. Sau này anh sẽ
tuyên bố:
“Tôi là thành viên Đảng Đỏ và tôi tự hào nói điều đó. Tôi đã
giết Tổng thống, hắn phản bội và làm dơ bẩn đảng chúng tôi. Tôi đã cắt đứt liên
hệ với bạn bè và vợ chưa cưới của tôi, để không làm liên lụy đến họ; tôi đã
không đọc tờ báo nào để không ai có thể nói rằng tôi chịu một ảnh hưởng nào đó.
Chỉ mình tôi chịu trách nhiệm với hành động trừng phạt này. Giờ thì cứ việc xử
tôi đi.”
Hẳn mọi việc đã xảy ra như thế, tuy rằng phức tạp hơn; tôi
mơ là mọi việc đã xảy ra như thế.
* Câu chuyện này có thực: Juan Idiarte Borda (1844-1897), tổng
thống Uruguay từ 1894, bị sát hại trên cầu thang nhà thờ lớn Montevideo sau một
buổi lễ. Arredondo đã được bào chữa bởi luật sư Luis Melian Lafinur, ông họ của
Borges.
Sách cát
… thy rope of sands…
George Herbert
(1593-1633)
Đường thẳng do vô số điểm tạo nên, mặt phẳng do vô số đường
thẳng tạo nên, khối do vô số mặt phẳng tạo nên, siêu khối do vô số khối tạo
nên… Không, nhất định, more geometrico, đây không phải là cách hay nhất để bắt
đầu truyện. Ngày nay có quy ước phải khẳng định mọi câu chuyện huyền ảo là có
thực; tuy nhiên, truyện của tôi là thực.
Tôi sống một mình ở tầng năm một tòa nhà trên phố Belgrano.
Cách đây vài tháng, cuối buổi chiều, tôi nghe có tiếng gõ cửa. Tôi mở cửa và một
người lạ mặt bước vào. Đó là một người đàn ông cao lớn, đường nét khuôn mặt khó
miêu tả. Cũng có thể do cận thị mà tôi nhìn ra như vậy. Toàn bộ dáng vẻ của anh
ta toát lên sự nghèo nàn thanh nhã. Anh ta mặc đồ màu xám, tay xách một cái va
li. Tôi nhận ngay ra anh ta là người nước ngoài.
Thoạt tiên, tôi cứ nghĩ anh ta nhiều tuổi; sau đó thì tôi nhận
ra mình đã nhầm khi căn cứ vào mái tóc vàng thưa thớt gần như ngả sang màu trắng,
kiểu Bắc Âu. Trong cuộc trò chuyện giữa chúng tôi, kéo dài không quá một tiếng
đồng hồ, tôi được biết anh ta là người Orkney.
Tôi mời anh ta ngồi xuống ghế. Mất một lúc anh ta mới cất tiếng.
Từ anh ta toát lên vẻ buồn bã, giống hệt như tôi hiện giờ.
“Tôi bán sách Kinh Thánh,” anh ta bảo tôi.
Với chút hợm, tôi đáp:
“Ở nhà tôi có nhiều bản Kinh Thánh tiếng Anh, có cả bản đầu tiên,
của Jean Wiclef. Tôi cũng có bản của Cipriano de Valera, bản của Luther, xét từ
khía cạnh văn chương thì đó là bản tệ nhất, và một bản Vulgate tiếng Latinh.
Anh cũng thấy đấy, tôi không có thiếu Kinh Thánh.”
Anh ta im lặng một lúc rồi nói với tôi:
“Tôi không chỉ bán Kinh Thánh. Tôi có thể cho ông xem một
quyển sách linh thiêng chắc sẽ khiến ông quan tâm. Tôi đã mua nó ở biên giới
Bikaner.”
Anh ta mở va li và đặt vật đó lên bàn. Một quyển sách khổ
octavo, bìa bọc vải. Hẳn nó từng qua tay nhiều người. Tôi xem nó; tôi kinh ngạc
trước trọng lượng bất thường của nó. Trên gáy tôi đọc được Holy Writ, phía dưới là Bombay.
“Chắc là sách thế kỷ mười chín, tôi nêu nhận xét.”
“Tôi không biết. Tôi chưa bao giờ biết,” đó là câu trả lời của
anh ta.
Tôi mở hú họa. Tôi không nhận ra quyển sách viết bằng tiếng
gì. Các trang có vẻ đã khá sờn rách và chữ thì xấu, được trình bày thành hai cột
giống như Kinh Thánh. Các dòng in rất sít và được bố trí thành các khổ. Góc
trên các trang có các chữ số Arập. Tôi nhận thấy một trang chẵn được đánh số
(chẳng hạn thế) 40514 và trang lẻ ngay sau đó đánh số 999. Tôi lật qua trang
này, đến một trang mang tám chữ số. Trang này có một hình minh họa nhỏ, như ta
hay thấy trong các từ điển: một cái mỏ neo vẽ bằng bút, trông vụng về như do
tay một đứa trẻ.
Người lạ mặt nói:
“Ông nhìn nó cho kỹ đi. Sẽ không bao giờ ông nhìn thấy lại nữa
đâu.”
Trong câu nói này có điều gì đó như đe dọa, nhưng không phải
ở giọng nói. Tôi bèn đánh dấu chỗ chính xác rồi gập quyển sách lại. Tôi giở lại
nó. Tìm thế nào, dù cho lật từng trang, cũng không thấy cái mỏ neo đâu nữa. Để
che giấu nỗi kinh ngạc, tôi bảo anh ta:
“Đây là một phiên bản của Sách Thánh bằng một thứ ngôn ngữ
Hindu, có phải không?”
“Không,” anh ta đáp.
Rồi, hạ thấp giọng như muốn nói một bí mật, anh ta nói:
“Tôi đã mua quyển sách này tại một ngôi làng vùng đồng bằng,
với vài rupi và một quyển Kinh Thánh. Người chủ cũ của nó không biết đọc. Tôi
ngờ rằng anh ta coi quyển Sách Của Các Sách là một tấm bùa. Anh ta thuộc đẳng cấp
thấp nhất, giẫm lên bóng của anh ta là bị lây bệnh đấy. Anh ta bảo tôi quyển
sách của anh ta tên là Sách Cát, vì quyển sách này giống như cát, không có khởi
đầu cũng không có kết thúc.”
Tôi đặt tay trái lên bìa sách, ngón cái ép sát vào ngón trỏ
rồi mở quyển sách ra. Có cố đến đâu cũng công cốc: lúc nào cũng có ít trang giữa
bìa và ngón tay cái của tôi. Cứ như thể chúng mọc ra từ quyển sách vậy.
“Giờ ông thử tìm trang cuối đi.”
Mọi cố gắng của tôi cũng đều thất bại; tôi chỉ đủ sức ấp úng
bằng cái giọng không còn là giọng của tôi nữa:
“Không thể nào.”
Vẫn thì thầm, người bán Kinh Thánh bảo tôi:
“Không thể nào, nhưng mà lại có đấy. Chính xác là quyển sách này có số trang bất tận. Không
trang nào là trang đầu, không trang nào là trang cuối. Tôi chẳng biết tại sao
chúng lại được đánh số kiểu võ đoán như vậy nữa. Có thể là để ta hiểu rằng các
thành tố của một chuỗi vô tận có thể được đánh số theo một cách thức tuyệt đối
ngẫu nhiên.”
Rồi, như thể buột miệng nói ra suy nghĩ của mình, anh ta
thêm:
“Nếu không gian là vô tận thì chúng ta ở vào bất kỳ điểm nào
của không gian. Nếu thời gian là vô tận thì chúng ta ở vào bất kỳ điểm nào của
thời gian.”
Câu nói của anh ta làm tôi bực bội.
“Anh có theo đạo, phải không?” tôi hỏi.
“Vâng, tôi theo dòng Tin Lành Calvin. Lương tâm tôi thanh thản.
Tôi chắc chắn là mình đã không lừa đảo anh chàng bản xứ kia, đem Lời Chúa đổi lấy
quyển sách quỷ quái của anh ta.”
Tôi trấn an anh ta, bảo anh ta không có gì để tự chê trách,
rồi hỏi có phải anh ta chỉ đi ngang qua đây. Anh ta đáp rằng sắp tới đây chắc
anh ta sẽ về nước. Khi ấy tôi mới được biết anh ta là người Xcôtlen, quê anh ta
ở quần đảo Orkney. Tôi bảo anh ta rằng cá nhân tôi rất yêu mến xứ Xcôtlen, vì
tôi rất hâm mộ Stevenson và cả Hume nữa.
“Và cả Robbie Burns nữa,” anh ta chỉnh tôi.
Tôi vẫn luôn tay giở quyển sách bất tận trong lúc chúng tôi
nói chuyện.
“Anh có định tặng mẫu vật kỳ lạ này cho Bảo tàng Anh quốc
không?” tôi hỏi anh ta, vờ tỏ ra hững hờ.
“Không. Tôi định dành nó cho ông đấy,” anh ta đáp, và nêu một
cái giá rất cao.
Tôi thành thực trả lời rằng tôi không đáp ứng được số tiền
này, và bắt đầu suy nghĩ. Sau vài phút, tôi nghĩ ra một kế hoạch.
“Tôi đề nghị ta trao đổi nhé,” tôi nói. “Anh đã có được quyển
sách này chỉ với vài đồng rupi và một quyển Kinh Thánh; còn tôi sẽ đưa anh
lương hưu của tôi mà tôi vừa mới lĩnh đây, kèm với quyển Kinh Thánh Wiclef viết
bằng tuồng chữ gô tích. Của bố mẹ tôi để lại đấy.”
“A black letter
Wiclef!” anh ta thì thầm.
Tôi vào buồng trong lấy tiền và quyển sách cho anh ta. Anh
ta lật giở sách, săm soi trang nhan đề với vẻ say sưa của dân ghiền sách.
“Ta thỏa thuận vậy đi nhé,” anh ta bảo tôi.
Tôi thấy ngạc nhiên vì anh ta đã không mặc cả. Mãi sau này
tôi mới hiểu ra rằng anh ta đã đến nhà tôi cốt để bán cho tôi quyển sách. Thậm
chí còn không đếm, anh ta nhét luôn xấp tiền vào túi.
Chúng tôi trò chuyện về Ấn Độ, về Orkney và các vua Na-uy từng
cai quản quần đảo. Khi anh ta đi khỏi thì trời đã tối mịt. Tôi chưa từng gặp lại,
cũng không biết tên anh ta.
Tôi tính xếp Sách Cát vào khoảng trống mà quyển Kinh Thánh
Wiclef để lại, nhưng cuối cùng tôi quyết định giấu nó vào sau những tập Nghìn lẻ một đêm không cùng khổ sách với
nhau.
Tôi đi nằm nhưng không ngủ nổi. Quãng ba hay bốn giờ sáng,
tôi bật đèn lên. Tôi cầm lấy quyển sách bất khả và bắt đầu lật giở nó. Trên một
trang, tôi thấy hình vẽ một cái mặt nạ. Phía trên trang giấy ghi một con số, mà
tôi đã quên, lên đến lũy thừa bậc 9.
Tôi không cho ai xem kho báu của mình. Thêm vào niềm hạnh
phúc được sở hữu quyển sách là nỗi sợ nó sẽ bị xoáy mất, rồi tới nỗi nghi ngờ rằng
nó không thực sự bất tận. Hai nỗi lo lắng này càng làm tăng thêm tính ghét người
cố hữu ở tôi. Tôi vẫn còn vài người bạn; giờ tôi ngừng gặp họ luôn. Trở thành
tù nhân của quyển sách, gần như tôi tuyệt đối không đặt chân ra khỏi nhà nữa.
Tôi dùng kính lúp săm soi gáy và các bìa sách cũ nát, kết quả là tôi loại trừ
hoàn toàn khả năng đây là một món đồ lừa đảo. Tôi nhận ra rằng những hình minh
họa nho nhỏ nằm trên hai nghìn trang khác nhau. Tôi chép chúng lại trong một bảng
kê xếp theo bảng chữ cái, chẳng mấy chốc tôi đã viết đầy bảng. Chúng không bao
giờ xuất hiện trở lại. Đêm đến, vào những quãng nghỉ hiếm hoi mà chứng mất ngủ
tha không bắt tôi phải chịu, tôi mơ thấy quyển sách.
Sắp hết mùa hè thì tôi hiểu ra rằng quyển sách này thật gớm
ghiếc. Chẳng ích lợi gì khi tôi nhận ra chính mình cũng thật gớm ghiếc, cứ dùng
mắt mà nhìn và dùng mười đầu ngón tay mà mân mê nó. Tôi cảm nhận rằng đây là một
thứ đồ vật ác mộng, một thứ dơ dáy phỉ nhổ và làm lụn bại hiện thực.
Tôi nghĩ đến lửa, nhưng lại e một quyển sách bất tận cũng sẽ
cháy bất tận, rồi thì khói của nó sẽ làm ngộp thở toàn thế giới.
Tôi chợt nhớ từng đọc ở đâu đó rằng nơi tốt nhất để giấu một
chiếc lá là một khu rừng. Trước khi về hưu, tôi làm việc ở Thư viện quốc gia, ở
đó có chín trăm nghìn quyển sách; tôi biết rằng bên tay phải sảnh ngoài có một
cầu thang xoáy trôn ốc dẫn xuống hầm lưu giữ tạp chí và bản đồ. Tôi lợi dụng
lúc các nhân viên không để ý dúi quyển sách cát vào một ngăn ẩm ướt. Tôi cố
không nhìn xem nó cao chừng nào và cách cửa bao xa.
Tôi thấy nhẹ nhõm một chút nhưng sau đó thậm chí tôi còn không muốn đi qua phố Mexico.
Tôi thấy nhẹ nhõm một chút nhưng sau đó thậm chí tôi còn không muốn đi qua phố Mexico.
Lâu lắm rồi mới thấy lại từ "dư âm" đẹp đến vậy.
ReplyDelete