Jul 13, 2019

Mai-nương Lệ-cốt

tiếp tục câu chuyện Nguyễn Văn Vĩnh

Tôi sẽ post đầy đủ bản dịch Mai-nương Lệ-cốt (Manon Lescaut) của Nguyễn Văn Vĩnh. Người ta hay nói đến Nguyễn Văn Vĩnh như là dịch giả lớn nhưng tôi tin tất tần tật những người nói thế đều chưa bao giờ đọc các bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh.

Tương tự, người ta nói đó là một nhà báo lớn, nhưng - thêm một lần nữa - chẳng ai thực sự biết Nguyễn Văn Vĩnh đã làm báo như thế nào: hơn thế nữa, Nguyễn Văn Vĩnh dịch giả và Nguyễn Văn Vĩnh nhà báo lại kết hợp với nhau thành một sự duy nhất.

Mai-nương Lệ-cốt, như vậy, là bản dịch thứ ba của Nguyễn Văn Vĩnh mà tôi thực sự động tới, sau Ba người ngự-lâm pháo-thủ (con cháu Nguyễn Văn Vĩnh, những người làm sách và viết báo để vinh danh Nguyễn Văn Vĩnh, bao giờ cũng viết sai tên bản dịch Les Trois Mousquetaires: vì họ cũng chẳng hề biết đến bản dịch đó; mới đây, tôi thông báo là đã tìm ra hai version của bản dịch ấy, giờ tôi đã tìm ra version thứ ba, và tất cả đều không phải bản thảo - tôi sẽ sớm trở lại) và Miếng da lừa (tôi cũng sẽ rất sớm trở lại với bản dịch đó, trong một cách thức hoàn toàn khác). Tiếp sau đây sẽ lần lượt là tất cả các bản dịch lớn của Nguyễn Văn Vĩnh, cùng những gì (vô số) nhỏ hơn, trong riêng địa hạt dịch thuật.

Như ởkia đã thấy, trước đây (cách chúng ta chừng hơn nửa thế kỷ), nhiều người dịch sách nói rõ mình có được cảm hứng từ Nguyễn Văn Vĩnh; đối với riêng Mai-nương Lệ-cốt cũng vậy, bản dịch của Ái-Lan trước đây nói rõ tầm quan trọng của Nguyễn Văn Vĩnh trong việc dịch Manon Lescaut - tôi sẽ trở lại chi tiết hơn.

Văn bản Mai-nương Lệ-cốt không dễ xử lý. Sẽ có một số điều chỉnh sau.


(nhân tiện, đã tiếp tục Ông trưởng ga Fallmerayer của Joseph Roth: câu chuyện bắt đầu gay cấn)


["Le-hao" tức là Le Havre; "Ca-lê" tức là Calais; câu chuyện Manon Lescaut của abbé Prévost, ra đời trong thập niên 30 của thế kỷ 18, là một trong những tác phẩm sớm của châu Âu có đoạn bối cảnh châu Mỹ, hơn nửa thế kỷ sau đó, Chateaubriand sẽ tiếp tục truyền thống này; "Thánh Đơ-ni": Saint-Denis, nếu đi từ phía Bắc thì đến đây coi như đã chạm cửa ngõ Paris, khi Heinrich Heine kể chuyện đi từ Đức sang Pháp cũng có cả một đoạn dài rất đáng nhớ về Saint-Denis; Didon (Đi-đông) là nhân vật trong Énéide của Virgile; "Thánh Xung-bích": Saint-Sulpice; "Thánh Âu-cúc-tân": Saint-Augustin]





BÀI TỰA CỦA TÁC-GIẢ

Sự-tích này là sự-tích một người quá đắm say nơi tình-dục cũng là một cái gương hay cho bọn đầu xanh. Des Grieux (Đê-Ghi-ri-ơ) công-tử, đóng vai chính trong truyện này, là bậc niên-thiếu nam-nhi, say mê một gái giang-hồ, đến nỗi như đui, như điếc, như dại, như ngây. Sung sướng vẻ-vang chẳng muốn, tự mình lại đem mình vào nơi khổ-hải trầm-luân, cực-nhục trăm chiều. Trời bẩm sinh ra có tài-năng, có đức-hạnh, lại là con nhà thế-tập, đường công danh thật rộng mở cho mà bước tới, vậy mà tự mình lại đi giúi mình vào chỗ tối tăm hèn-hạ, tự mình đem thân lưu-lạc giang-hồ, nay đây mai đó, ăn ở một cách rất đê tiện. Biết trước những cơ nguy-hiểm mà không muốn tránh nguy-hiểm. Cực thì biết cực, đau thì biết đau, mà tay người vớt đẩy ra không vịn, thuốc kề tận miệng mím môi không uống. Tính khí con người đâu quái lạ: hay có, dở có, nết có, tật xấu có; cảm-khái những tình rất cao-thượng, mà làm ra những việc rất càn. Đó là cái cảnh giữa trong bức tranh tôi vẽ cho thiên-hạ xem. Người có trí hẳn cũng công-nhận cho rằng công việc ấy không phải là công việc vô ích. Trước nữa đọc quyển sách cũng nên cuộc tiêu-khiển, sau trong truyện cũng lắm câu mở mắt cho người đời. Làm cho người ta vui mà hóa ra dạy người ta, ấy cũng là một chút công với người đọc sách.

Ngẫm đến những lời luân-lý, lạ một điều rằng ai cũng lấy làm hay mà ai cũng biếng. Vậy mới biết cái tấm lòng con người ta là kỳ-quặc, nói đến đạo đức, nói đến lời hay lẽ phải, nói đến điều thiện thì ai nghe thấy mà lòng không cảm-động, không náo-nức, như thèm, như muốn, như khát khao ở thiện; mà đến việc làm, đến cách ăn-ở, thì ai cũng xa điều thiện.

Các đứng hiền-nhân quân-tử thử ngẫm mà xem: có phải từ câu đàm luận với nhau, cho đến những khi một mình nằm nghĩ ngợi, vui nhứt, thú nhứt, là những điều hay, điều phải, điều đạo đức. Ta nói chuyện gì, nghĩ ngợi điều gì, rồi kết cục cũng xoay ra một đôi câu luân-lý. Mà trong một đời ta, nghĩ cho cùng thì vui thú nhứt duy có những lúc hoặc ta một mình ngồi nghĩ ngợi, hoặc cùng với một người bạn tri-kỷ mà đàm luận đến những việc đạo đức, những điều tình nghĩa, những cách cầu hạnh phúc, những câu bài trách nỗi đời, những chỗ suy yếu của tạo hóa làm cho ta xa đạo đức, xa nhân nghĩa, và những cách tu-thân cho gần điều tốt, xa điều xấu. Các đứng cổ kim hiền-triết thường hay lấy những cách đàm-luận, những cách tư tưởng ấy làm cái tượng hình đẹp nhứt của cuộc đời sung-sướng. Vì cớ gì mà người ta đàm-luận với tư-tưởng thì ai cũng hay như thế, mà thả ra ăn ở với đời, thì không mấy ai là khác ai cả? Tôi xin biên cái lẽ sau này, chẳng biết có trúng hay không.

Nguyên những điều hay lẽ phải, toàn là những ý-tưởng viển-vông, toàn là những lẽ chung, mà những việc của ta làm ra thì việc nào hình như cũng có một thế đặc-biệt, so-sánh với lẽ chung, không biết nó vào thứ loại nào. Ta lấy lẽ chung mà thi-hành thì cứ e rằng không biết có hợp với cái cảnh riêng của ta chăng?

Nói thí-dụ ngay một câu thiển-cận như thế này:

Phàm người ta có giáo-dục, ai cũng biết sự khoan-từ, sự thương đồng-loại là sự hay, ai cũng muốn có hai nết ấy cả. Nhưng đến lúc cần phải thi-hành hai cái đức-hạnh ấy đối với người ta, thì ai thường cũng phân vân, chẳng hay đối với người này mình có nên ở nhân-từ hay không? Mà đối với kẻ kia thì cái độ-lượng nhân-từ của mình nên đến đâu là phải? E rằng ở nhân-từ không phải lối; với người đáng nhân-từ ít mà mình nhân-từ nhiều thì quá đáng chăng? Hoặc kẻ không đáng nhân-từ mà ta ở nhân-từ chăng?

Mỗi việc ở đời, làm cho ta ngần-ngại không biết ở thế nào là phải. Ta mỗi chốc cứ sợ thái quá hoặc bất cập. Nhân-từ e là dại. Tử-tế quá e chúng gạt mình. Hiền-lành quá e chúng cho là hèn nhát. Phần nhiều là bởi sự e ngại ấy mà người ta không nhân-từ, không tử-tế, không hiền-lành. Mà nhân-từ, tử-tế, hiền-lành, ai cũng biết là nết hay, ai cũng muốn có.

Trong cái cơn hồ-nghi không biết ăn ở thế nào cho phải ấy, duy chỉ có cái lịch-duyệt làm mối dẫn-lộ cho ta mà thôi; mà phi lịch-duyệt thì duy chỉ lấy gương kẻ khác mà so-sánh, mà liệu chừng nên bắt chước hay nên kiêng lánh.

Lịch-duyệt không phải là một điều ai muốn cũng có được. Người ta phải tùy cái may rủi, tùy cái tình thế, tùy cảnh ngộ, mới có được lịch-duyệt. Họa là mới có một người gặp**mà cảnh-ngộ có lịch-duyệt. Vậy thì chỉ còn có cái gương cổ tích, là dùng làm hướng-đạo trong cách ăn ở được cho phần nhiều người mà thôi.

Những sự-tích như sự-tích này mà được người thật mắt biết xem, biết xét, mà lại thật lòng không thêm không bớt những điều cốt-yếu thuật lại cho người không có lịch-duyệt nghe, thì tưởng cũng không phải là câu chuyện vô ích. Mỗi việc kể ra là một ngọn đèn soi rạng, là một cái nêu trỏ nẻo cho người vụng dại việc đời. Mỗi cảnh-ngộ là một cái kiểu mẫu cho người xem chuyện so-sánh với cảnh-ngộ mình mà ăn ở. Sự-tích này tự trước đến sau là một quyển sách luân lý có hoạt động, không dạy người bằng những câu nói viển-vông mà dạy bằng những việc thật xẩy ra trong đời người.

Người đọc sách nào có tánh nghiêm-khắc quá, thì có lẽ trách tác-giả tuổi cao đã đến ngần này mà còn cầm lấy bút để tả những việc phong-tình hoa-nguyệt. Nhưng nếu những câu nghị-luận trên kia mà độc giả cho là phải, thì câu trách ấy không công. Bằng câu nghị-luận ấy là sai lầm, thì xin cũng biết cho cái ý tác-giả là như thế, dầu có lầm nữa cũng không là tội.




MAI-NƯƠNG LỆ-CỐT
MANON LESCAUT
Của ông thày-dòng PRÉVOST soạn
NGUYỄN VĂN-VĨNH diễn quốc-âm


ĐOẠN THỨ NHỨT

Hôm ấy, tôi ở thành Rouen (Ru-ăng) về. Đi đến Évreux (Ê-vơ-rơ) thì trời tối, ngủ trọ lại đó. Đến sáng hôm sau lại đi, vừa đến bữa trưa thì tới ấp Pacy (Ba-cy), cách Ê-vơ-rơ độ chừng năm sáu dặm. Khi tôi bước chân vào ấp ấy, thì thấy người trong ấp náo động. Ai nấy để nhà mà kéo nhau đến trước một cái quán trọ tồi-tàn. Trước cửa quán, tôi thấy có hai cỗ xe kín. Ngựa hãy còn chưa tháo, con nào con ấy mồ-hôi ướt đầm, thở hơi ra như khói, coi đủ biết là xe mới ở đâu xa mà lại.

Tôi đứng lại xem duyên cớ làm sao mà náo-động trong một ấp lên như thế. Nhưng tôi hỏi những kẻ xúm-xít lại xem thì không ai nói cho tôi biết rõ, ai nấy chỉ nghĩ đến sự len cho được mà vào trong quán, chứ không ai nghĩ gì đến câu tôi hỏi hết. Mãi sau tôi mới thấy một tên lính cung-thủ ra cửa, tôi sẽ vẫy hắn ra mà hỏi, thì hắn thưa rằng: “Thưa ông có gì đâu! Chỉ có mười-hai đứa kỹ-nữ, anh em tôi giải ra bến Lơ-hao để cho xuống tầu chở sang nước Mỹ đó mà thôi. Cũng được một vài con xinh-đẹp. Ý chừng, là tại thế mà dân nhà-quê xúm-xít lại xem đông”.

Tôi nghe chuyện biết được đầu đuôi như vậy rồi, tôi cũng toan đi thẳng không xem nữa. Nhưng lại thấy một mụ già trong quán bước ra, hai tay chắp lại vái trời mà kêu rằng: Ác-nghiệp, giã-man, thái-quá, ai mà chẳng thương tình!

Tôi mới hỏi: “Cái gì đấy, mụ?” - Thì mụ thưa rằng: Ông ơi! ông thử vào mà nhìn xem, có thảm-hại, chua xót, hay không? Ai mà nỡ cầm lòng cho đang?” - Tôi bèn xuống ngựa, giao ngựa cho tên thị-mã giữ, rồi tôi cố chen đám đông mà vào trong quán, thì quả nhiên thấy một cảnh-tượng não-nùng.

Trong mười-hai đứa kỹ-nữ, trói làm hai bọn, mỗi bọn sáu đứa, thừng buộc ngang lưng; có một đứa coi hình-dung, coi diện-mạo thật không phải là đồ bán thân nuôi miệng thí nào. Giả sử tôi gặp ở nơi khác thì tôi đồ ngay là một cô con-gái nhà khuê-các nào, chứ không phải là con đĩ. Tuy rằng nét mặt u-sầu thảm-thiết, xống áo bẩn thỉu, mà coi vẻ vẫn ra con người lịch-sự, tôi nhìn thấy mà kính-trọng, mà đoái thương. Tuy dây trói chặt, quay mặt trở ra, mà nàng cố sức vặn mình cho được, để quay đầu vào vách, không muốn để cho thiên-hạ nhìn mình. Mà trong cái cách hổ-thẹn ấy có một vẻ tự-nhiên, không ai dám bảo là làm bộ.

Nhân tôi thấy sáu tên lính đi giải bọn ấy cũng ở trong phòng, tôi bèn gọi riêng người cai ra một chỗ, tôi hỏi thăm dò xem con bé nọ là thế nào, thì người cai cũng chỉ nói qua cho tôi biết đại-khái mà thôi: “Thưa ngài, con này trước cũng ở nhà thương đàn-bà, quan chánh Cảnh-sát sai chúng tôi vào bắt nó ra mà đem đi. Đồ này chắc cũng chẳng phải thiện-nhân, không dưng sao có vào nhà thương con-gái. Đi đường tôi cũng có hỏi qua gốc-tích, nhưng nó một niềm chẳng nói. Quan trên cũng không có dặn riêng tôi phải nể-nang gì nó cả, song tôi thấy con người nó khá hơn những đứa kia, thì tôi cũng có ý muốn vì-nể đôi phần, song hỏi nó không nói mà gọi nó chẳng thưa, thì tôi cũng mặc nó. Họa may ông hỏi cái gã kia, có biết được hơn chút nào chăng. (Vừa nói vừa trỏ một người con trai, ngồi trong xó buồng). Gã đi theo nó từ Ba-lê, luôn luôn khóc-than năn-nỉ. Tất nhiên là anh em ruột, hay là nhân-ngãi chi đây”.

Tôi quay mặt vào góc tường mà nhìn, thì thấy một chàng trẻ tuổi ngồi xo-ro, coi bộ thảm-sầu đau-đớn. Áo quần tuy xềnh-xoàng, mà thoạt nhìn ai cũng biết là con nhà thế-gia, lại có giáo dục. Tôi lại gần thì chàng đứng dậy, giương mắt nhìn tôi. Tôi thấy vẻ mặt khôi-ngô, dáng người lịch-sự, tôi cũng phải đem lòng hâm-mộ. Tôi mới ngồi ghé bên cạnh mà rằng:

- Xin người chớ bận lòng vì tôi. Tôi chỉ muốn hỏi người có một điều. Vì cớ làm sao mà người con-gái yểu-điệu nhu-mì như kia, lại phải đến nỗi này. Người có biết chăng, xin ngỏ cùng tôi biết với?

Chàng lấy lời khiêm-tốn lễ-phép mà đáp lại tôi rằng:

- Nếu tôi nói cho ngài biết người ấy là ai, tất là tôi phải xưng cả danh-hiệu của tôi ra nữa. Ngặt vì tôi có lẽ riêng không muốn cho ai biết đến tên tuổi mình. Duy có một điều là tôi nói được. Điều ấy thì những quân đồ khốn kia cũng biết rồi (vừa nói vừa trỏ bọn lính cung-thủ). Điều ấy là tôi yêu nàng quá đỗi, vì nàng mà nay tôi hóa ra một người cực-khổ nhứt trong hết cả bọn nam-nhi. Ở Ba-lê tôi đã dùng hết chước để cứu cho nàng thoát khỏi nạn này mà không được. Giờ tôi quyết chí đi theo nàng, nhứt là chúng đem nàng đi đến cùng trời cuối đất, đâu tôi cũng xin đi. Nàng xuống tầu, tôi cũng xuống tầu, nàng sang Mỹ, tôi cũng sang Mỹ.

Rồi lại trỏ bọn cung-thủ mà rằng:

- Nhưng mà quân này độc-ác đến rất mực, chúng nó không cho tôi được đến gần nàng. Lúc đi khỏi kinh-thành một thôi, tôi đã toan phục binh mà đánh tháo cho nàng. Tôi mất nhiều tiền thuê một bọn tay chơi, chẳng may tôi gặp phải đồ hèn-hạ, chúng lấy tiền của tôi rồi bỏ tôi một mình mà đi mất. Thế-lực tôi kém, đành là chịu thua. Tôi đã có cho tiền bọn cung-thủ này để chúng cho tôi được đi theo nàng. Chúng tham tiền cho tôi đi theo, nhưng mỗi lần tôi đến gần nàng, nói được ba câu chuyện, chúng lại vòi tiền. Chảng được mấy bữa, túi tôi dần mòn cạn ráo. Bây giờ tôi hết tiền rồi, thì động mon-men đến gần chúng lại đuổi. Mới rồi tôi thử ghé lại thăm nàng, vừa tiến một bước, chúng giơ súng đẩy ra. Thành ra tôi có con ngựa còm, cưỡi từ kinh-thành đến đây, lại phải bán đi để lấy tiền ăn đường mà đi theo, và để đút lót cho quân bạc-ác.

Tuy chàng kể lể cho tôi nghe mấy lời đó, giọng cũng ôn-tồn, nhưng khi kể hết, mắt cũng tuôn hai hàng lệ.

Tôi nghe câu chuyện lấy làm thương. Tôi mới bảo chàng ta rằng:

- Chàng đà muốn giấu nỗi riêng, tôi đây cũng không muốn hỏi căn-vặn. Song giả sử tôi giúp được chàng điều gì thì tôi cũng sẵn lòng giúp lắm.

Chàng thưa rằng:

- Thưa ngài, tiếc thay tôi không còn ngó thấy mẩy may hi-vọng gì nữa! Âu đành nhắm mắt đưa chân. Thế phải theo nàng sang Mỹ thì tôi sang Mỹ. Thôi thì chẳng được gì, hãy được cùng người yêu mà tự-tiện. Tôi đã viết thư cho một người bạn, gửi cho ít tiền bạc đến bến Lơ-hao, để chi lộ-phí. Giờ tôi chỉ phiền một nỗi, là từ đây cho đến đó, không thể mua được đồng quà tấm bánh cho nàng, gọi là đỡ khổ ít nhiều trong bước lưu-li cực-nhục.

Chàng nói vậy, rồi đưa mắt nhìn người con-gái mà tuôn rào rào nước mắt. Tôi rằng:

- Nếu vậy thì tôi có thể giúp được người việc ấy. Thế này không phải, xin người nhận lấy cho tôi. Tiếc rằng gặp người quân-tử mà không có cách giúp-đỡ nào khác.

Tôi nói thế, rồi tôi đưa giúi cho chàng bốn đồng tiền vàng (80 phật-lăng), không để cho quân cung-thủ nom thấy, bởi tôi cũng biết, nếu quân này biết gã lại có tiền, thì ân nhỏ lại càng bán đắt. Tôi lại nghĩ ra một chước, là gạn-gùng với người cai cho nó ít tiền, để nó cho chàng luôn luôn gần gụi chuyện trò với người con gái, từ đó cho tới bến tàu. Tôi vẫy người cai lại, tôi bảo thế, thì tuy nó xưa nay thói nhà lính-tuần, lính-lệ đã quen, mà nó đã sượng-sùng, rồi ấp úng thưa rằng:

- Thưa ngài, không phải là anh em chúng tôi có nghiệt gì. Song nếu để cho anh ta tự-tiện, thì anh ta cứ bám riết lấy con bé không dời ra nữa, làm ngăn trở việc quan của chúng tôi. Bởi vậy mà chúng tôi phải lấy tiền, trước nữa để bõ cái phiền cho chúng tôi, sau nữa để cầm chừng cho anh ta đừng làm thái quá.

Tôi hỏi:

- Thế bây giờ ta đãi anh bao nhiêu thì anh không thấy sự phiền đó nữa?

Thằng ấy cả gan đòi tôi tới hai đồng lô-y (40 phật-lăng). Tôi liền đưa cho nó, mà bảo nó rằng:

- Đây, thì ta cho ngươi cả hai lô-y, nhưng ngươi liệu hồn. Hễ tiền ngươi lấy mà việc ta không như ý, thì rồi ta sẽ có phương trị tội cho ngươi đó, biết không?

Thành ra vì việc ấy, tôi mất cả thảy sáu lô-y (120 phật-lăng). Cứ lấy cách người trẻ tuổi tạ ân tôi mà suy, thì người ấy hẳn cũng con ông cháu bà chi đó, tiền tôi chắc cũng không hoài. Trước khi đi ra, tôi lại nói và ba câu với người con-gái, thì nàng đáp lại tôi một cách nhu-mì thuần-thục khiến cho tôi về sau nghĩ mãi không hiểu cái tánh nết đàn-bà con-gái ra thế nào, người như thế, sao lại sa chân đến thế!

Sau tôi về nơi ẩn-dật mà yên cõi già, cũng không tưởng nghĩ gì đến chuyện ấy.

Cách đó chừng hai năm, tôi quên bẵng không nhớ gì đến nữa. Một ngày kia, thế nào tình-cờ tôi lại gặp một việc, làm cho tôi biết hết gốc ngọn cái chuyện đó thế nào.

Hôm ấy cùng với một người học-trò là Mỗ hầu-tước, ở bên Anh-quốc về đến bến Ca-lê. Thầy trò nhân có việc phải lưu lại chốn ấy, nên vào tiệm Kim-sư mà ở trọ một ngày một đêm. Đến buổi chiều, đi dong ngoài phố thì tôi gặp một người giống như anh chàng trẻ tuổi gặp ở Ba-xy năm trước. Lần này thì chàng ta lại xanh-xao yếu-đuối, lại ăn bận tồi tàn hơn lần trước. Nách thì cắp một bọc áo, ở đâu xa vừa tới. Tuy nhiên, mặt chàng khôi-ngô lắm, dẫu ăn mặc xấu xa làm sao, đi đâu trộn cũng không lẫn, nên chi tôi nhận ngay ra mà nói với hầu-tước rằng:

- Để tôi phải gặp người này mà hỏi ba câu chuyện mới được.

Người ấy nhận được mặt tôi thì mừng rỡ khôn xiết kể, vội-vàng chạy lại nắm lấy tay tôi hôn-hít mà rằng:

- Nếu vậy may! nếu vậy may cho tôi quá! Còn được gặp tôn-ông ở đây lần nữa để tỏ tấm lòng cảm-tạ chung thân.

Tôi hỏi chàng ở đâu mà đến thì chàng nói ở châu Mỹ mới về bến Lơ-hao, rồi từ bến Lơ-hao lại vừa đi tàu đến đó. Tôi rằng:

- Già nghe như thiếu-niên mã-thượng giờ đương túng-bấn thì phải. Già trọ ở quán Kim-sư, xin mã-thượng lại đó chờ già một lát. Già đi xong việc rồi già về.

Tôi vừa đi bận công việc, vừa nóng ruột muốn về ngay để nghe xem những chuyện người này lưu-lạc thế nào, sang bên châu Mỹ ở hai năm ra làm sao. Tôi về tới quán, tôi ân cần chào hỏi, rồi bảo chủ quán hầu hạ chàng ta, cho ăn cho uống, thay áo thay quần, không để chàng thiếu-thốn một chút gì hết.

Chàng không chờ tôi phải giục, kể ngay cho tôi nghe những chuyện sau này:

- Thưa ngài, ngài xử với kẻ hèn này một cách đại-lượng quá, nếu chuyện riêng còn giấu li hào với ngài thì chẳng hóa ra bội-bạc lắm sao! Vậy thì ngu-hèn này chẳng những xin đem mọi nỗi phiêu-lưu kể hết, mà xét trong lòng còn có điều gì xấu-xa hèn-hạ, đáng bỉ đáng khinh, ngu-hèn cũng xin đem ra trần thuyết ngài nghe. Khi ngu-hèn đã kể xong chuyện rồi, chỉ xin ngài dẫu có ghét bỏ, cũng phàn-nàn cho đôi chút.

Đây tác-giả xin trình với khán-quan biết trước rằng câu truyện nghe xong, tay liền cầm bút thảo. Vậy thì những việc kể ra đây, toàn là những việc quả nhiên không thêm bớt mẩy may nào cả. Thật cả từ đến những câu nghĩ ngợi, những cách người thiếu-niên công-tử diễn đạt tính tình.

Từ đây trở đi là thuật những lời kể-lể ấy.




Lạy ngài, con vốn là con nhà thế-tước đại danh ở đất Mỗ. Cha mẹ cho con đến thành A-miêng đi học. Đến năm mười-bẩy tuổi, con vừa tốt-nghiệp thành-chung khoa Triết-học. Khi con còn ở nhà tràng, tính nết thật là ngoan-ngoãn, thầy dạy thường lấy làm gương cho anh em bắt-chước. Mà con được như thế, thật chẳng phải là cố ý mua chuộc lấy tiếng ngợi khen, nhưng thật là trời cho bẩm tánh hiền-lành, ham học, lại ghét riêng những cách chơi bời.

Con nhà thế-phiệt, con lại học hay, dáng người cũng ra nho nhã, nên chi các nhà tử-tế trong thành-phố, ai nấy cũng có lòng hâm-mộ.

Đức-cha ngài thấy vậy, ngài có khuyên con nên vào thụ pháp nhà dòng. Nguyên cha mẹ tôi vẫn có ý muốn cho tôi theo vào phái tôn-giáo hiệp-sỹ Ma-nhĩ-đức. Đức-cha khuyên tôi đừng theo phái ấy, ngày sau không được danh-giá như trong đạo phái của ngài. Cha mẹ tôi vốn từ thuở nhỏ đã bắt tôi đeo câu-rút, và đội tên De Grieux (Đê Ghi-ri-ơ) hiệp-sĩ rồi, mùa nghỉ hè tới nơi, tôi sắp-sửa hành-trang để về quê thăm cha tôi. Cha tôi vẫn hẹn từ trước hết mùa nghỉ đó thì cho tôi vào học tại Hàn-lâm-viện.

Tôi từ bỏ thành A-miêng mà đi, chẳng tiếc gì, duy chỉ tiếc có một người bạn chí thân, lớn hơn tôi vài ba tuổi. Hai anh em từ nhỏ đến năm ấy, cùng học với nhau một tràng, cùng theo kịp nhau tốt nghiệp một khoa. Chẳng may nhà bạn tôi thì hơi bần bách, không có thể theo đuổi tôi được nữa. Xong khoa Triết-học rồi, đành phải ở lại A-miêng, vào tràng nhà dòng học nốt khoa Thần-học để đi tu-hành về sau. Bạn tôi thật nhiều nết tốt. Rồi ngài nghe một chuyện này thì biết được mấy nết tốt nhất của bạn tôi. Anh tôi xử với bằng-hữu một cách rất thảo ngay, một cách rất quảng-đại, đối với những cách thảo ngay, những cách quảng-đại của người đời xưa có lẽ anh tôi còn hơn. Ví nếu tôi biết nghe lời anh tôi khuyên bảo, thì đến bây giờ, tôi vẫn còn là người khôn-ngoan sung-sướng. Những khi tôi lầm-lỗi, anh tôi trách mắng tàn tệ; ví dù tôi biết ăn lời, thì thân tôi đâu có đến nỗi này, thì cái cơ nghiệp nhà tôi, cái danh-giá của tôi, dẫu có đắm đuối, cũng còn vớt được ít nhiều. Chẳng may, anh tôi nói lắm không những hoài công, mà lại còn mang oán mang hằn với tôi nữa.

Tôi định trước ngày từ-biệt thành A-miêng, tiếc thay tôi không định sớm một hôm! Bởi vì giá tôi đi một hôm về trước, thì có phải đem được tấm linh-hồn trong sạch, mà về với cha mẹ không?

Số là ngày hôm trước hôm tôi định lên đường, tôi cùng với anh Tỉ-ba (Tiberge) - đó là tên bạn tôi - đi chơi dong phố. Bỗng thấy xe trạm chở khách ở thành A-ra-xĩ đến. Hai anh em rồi công, mới theo xe đến nơi quán trọ, là nơi thường xe trạm các nơi vẫn đến: Thật chẳng có ý gì, chỉ vì rỗi mà anh em rủ nhau đến xem khách tới có những ai mà thôi. Đi tới nơi thì thấy trên xe bước xuống một bọn đàn-bà, các bà ấy xuống rồi, vào ngay trong quán. Duy có một người con-gái đứng lại thơ-thẩn ngoài sân. Có một ông già cùng đi với nàng ta, đương lúi húi dỡ đồ trên xe xuống. Cô nàng xuân-xanh chừng đôi tám, mà nhan-sắc tuyệt với. Tôi tuy từ thủa nhỏ chưa nghĩ đến sự nam nữ phân biệt bao giờ, mà cũng chưa hề có nhìn kỹ một người con gái bao giờ; tòng lai vẫn đứng-đắn, mà sao hôm ấy, tôi vừa ngó thấy người con-gái ấy, tự-dưng thấy trong lòng nóng rực lên như lửa đốt. Mà tính-khí xưa nay cả thẹn, hôm ấy thế nào lại hóa liều-lĩnh khác thường, thấy người con-gái ấy, mê tít ngay đi, mà lại ngay gần chào hỏi.

Nàng tuy bé tuổi hơn tôi mà lại bạo-dạn hơn, thấy tôi chào cũng đáp lại một cách tự-nhiên. Tôi mới hỏi nàng đến A-miêng có việc gì, có quen thuộc ai ở A-miêng chăng? Thì nàng thật-thà mà đáp tôi rằng cha mẹ cho đưa nàng đến A-miêng để vào nhà tu thụ pháp. Không biết cái ái-tình ở đâu mà chóng thế, tôi với nàng chẳng hay có duyên nợ gì với nhau, mà tôi vừa gặp nàng lần ấy là một, có dễ dáng người nhìn cũng chưa tỏ hết, vậy mà nàng nói đến chuyện bị ức-bách phải đi tu, tôi đã cầm ngay như là cái nạn của tôi rồi. Mà khen thay con người bằng ấy tuổi đầu, cũng lại lịch-duyệt hơn tôi. Nàng thuật chuyện riêng cho tôi như thế, tôi mới ấp-úng đáp lại vài lời, nàng đã rõ ngay tâm-sự của tôi rồi. Nhân tôi có bài-trách cái sự tàn-nhẫn của cha mẹ nàng. Phần thì lòng yêu ứng miệng, phần thì cái hùng-biện mới tập ở học đường bước ra, lời tôi nói ai mà chẳng xiêu động, nhưng nói với nàng thì chẳng biết có ăn thua gì. Nên chi nàng cũng chẳng ra dáng nhiệt-thành chịu lẽ, mà cũng chẳng ra điều nguội-lạnh không nghe. Nàng lặng yên một lát rồi thưa rằng: “Thiếp cũng biết thân này rồi khổ, nhưng lòng trời đã tỏ cho hay, nên chi mới đến nỗi này”.

Hai con mắt nàng có cái vẻ dịu-dàng, giọng nàng nói não nùng mà có có ý-vị, khiến cho tôi không còn phải nghĩ đến hai phút. Hoặc-giả là cái duyên-kiếp tôi với nàng nó xui ra thế. Tôi bèn quyết ngay với nàng rằng nếu nàng tin-cậy ở cái lòng quân-tử của tôi và chứng cho cái dạ yêu-thương vô-cùng của tôi, thì tôi xin đem cả một đời xuân-xanh tận hiến, để cứu cho nàng khỏi bước lao-lung, và tôi sẽ hết sức đãi nàng cho được một đời sung-sướng. Xưa nay tôi vốn là người cực nhát mà lại hay cả thẹn, thế mà khi ấy không biết thần nào ứng miệng, nói năng được như đàn ngọt hát hay thế vậy. Thôi nhưng lại ngẫm, nếu ái-tình không làm được ra phép lạ, cổ-nhân sao có gọi là thần. Sau tôi còn nói thêm đến trăm nghìn câu cẩm-tú nữa.

Nàng cũng biết tuổi tôi không phải là tuổi điêu-ngoan dối-giá, nên chi nàng thú thật với tôi rằng nếu tôi có cách gì cứu cho nàng vượt khỏi quyền ức-bách, thì ân ấy nàng sẽ coi to hơn cải-tử hoàn-sanh.

Tôi đáp lại rằng muôn chết tôi cũng không từ. Nói vậy thì nói chứ thật tình thì tôi chưa nghĩ ra được phương-kế nào tiện diệu cả. Nguyên tôi tòng lai chưa lịch-lãm việc đời cho lắm, dầu lòng đã quyết cứu nàng mà trí chưa kịp nghĩ ra cứu cách nào cho tiện. Đương khi lưỡng-lự, thì lão-già xếp xong đồ-đạc xuống sân, chạy lại với nàng. Tôi đã tưởng phen này thôi hết đường hi-vọng; may đâu tôi ngu-độn, nàng lại có trí-khôn hoạt-bát. Lão-già đến nơi, nàng gọi ngay tôi bằng cậu, nhận anh nhận em tíu tít, rồi giả vờ nói với tôi rằng:

- Tình-cờ tôi gặp cậu đây, đáng lẽ hôm nay tôi vào nhà tu thụ-pháp. Song chị em cửu biệt tương-phùng, vả phen này lại giã nhau một lần sau rốt, âu là tôi xin hoãn lại ngày mai, mời cậu ở đây xơi cơm với tôi một bữa.

Tôi nghe nói, hiểu ngay kế giỏi, tôi bèn lấy nê đã quen nơi quen chốn, mà khuyên nàng khá đến trọ một lữ-quán kia, chủ quán là người đánh xe cũ của ông thân-sinh tôi thì tiện hơn là vào nơi lang-chạ đó.

Nói rồi, tôi liền đưa nàng đến tiệm cơm ấy. Lão-già thấy vậy, lẩm-bẩm một hồi. Còn anh Tỉ-ba tôi thì không hiểu đầu đuôi sao hết, thấy tôi đi thì cũng đi theo, mà không nói lấy nửa lời. Vốn lúc tôi cùng nàng trò-chuyện thì bạn tôi đi bách-bộ ngoài sân, không nghe không thấy gì hết. Tôi vốn vẫn sợ anh tôi lấy điều luân-lý mà ngăn-cấm, tôi bèn nghĩ ra một kế, nhờ bạn đi cho một việc ở nơi xa để một mình vào quán cùng nàng thù-tạc.

Bấy giờ tôi mới vỡ lòng, biết rằng tôi đã qua thời ấu-trĩ. Trong một giờ trò-chuyện tâm-trí thêm ra biết bao mối cảm-giác lạ-lùng, xưa nay chưa hề nghĩ đến. Lần lần huyết mạch thấy nóng ran. Dạ khoái-lạc làm cho quên mất cả tiếng nói, ý-tình chỉ mượn hai con mắt nhìn mà giãi tỏ cùng nàng.

Mai-nương Lệ-cốt, đó là danh-hiệu của nàng xưng với tôi như thế. Nàng thấy tôi đam-mê như vậy, thì thích-chí rằng thói khuynh-thành trêu ngươi đã công-hiệu. Nhưng tôi có ý nhìn nàng, thì đây say-mê đó, đó cũng chẳng lạnh-lùng đây. Nàng nói cho tôi biết rằng nàng thấy tôi nàng cũng dễ yêu, cũng mầng lòng mà nợ ơn phóng-thích. Sau nàng lại hỏi danh-hiệu tôi. Khi nàng biết tôi là con nhà thế-tước, thì nàng lại mầng rằng thân hèn lê-thứ mà đã chiếm được tấm lòng của khách dòng sang. Rồi thì tôi với nàng bàn tính cuộc trăm năm với nhau mãi mãi.

Nghĩ quanh nghĩ quẩn hồi lâu, rồi cùng tính đến kế ba-mươi-sáu. Trước hết phải nghĩ phương lừa-dối lão-già, tuy là một kẻ tôi-tớ, mà cũng phải chiều nể. Về sau hai chúng tôi mới định rằng tôi thì đi mướn một cỗ xe ngựa trạm, sáng sớm tinh-sương đem đến đón nàng, trước khi tên lão-bộc thức dậy, rồi cùng nhau lên xe mà đi thẳng cho đến Ba-lê. Tới kinh-thành thì tìm ông cụ-đạo nào làm phép cưới cho, để ở với nhau làm chồng làm vợ.

Trong khi ở nhà tràng, tôi để dành để dụm những tiền cha mẹ gửi cho, được cả thảy chừng 50 ê-cưu (250 phật-lăng). Nàng thì có chừng hai ngần ấy. Hai đứa cùng là con trẻ, chưa trải việc đời là mấy, có bấy nhiêu tiền, tưởng là nhiều lắm, tiêu bao giờ cũng không hết được. Vả hai bên cùng tính nhiều phương lấy được tiền nữa.

Ăn cơm tối với nàng xong rồi, tôi lui ra để thi-hành mưu-kế. Hành-trang sắm-sửa đã sẵn cả rồi, vốn tôi vẫn định hôm sau thì lên đường về quê nhà. Chỉ còn một việc dặn xe đến chỗ ấy đón mình từ năm giờ sớm mà thôi. Vả đến giờ ấy, các cửa ô mới mở, dầu muốn đi sớm nữa, cũng không được. Có một điều ngăn-trở thật to, mà tôi quên đứt đi mất không nghĩ gì đến nữa. Thí nữa vì điều ngăn-trở ấy mà công-việc mình lỡ hết.

Anh Tỉ-ba tuy hơn tôi có ba tuổi, mà con người nền-nếp, đúng mực lạ-lùng. Anh ấy lại thương-yêu tôi, coi như thể em ruột vậy. Bạn tôi thấy một người con-gái đẹp như Mai-nương, mà lại thấy tôi ân-cần với nàng, đến nỗi phải tìm cách bảo bạn đi xa ra, thì bạn tôi đem ngay lòng nghi-ngại. Tôi đã bảo đi thì anh ấy biết ý cũng không trở lại chỗ lữ-quán nữa, anh ấy về nhà tôi mà ngồi đợi kỳ cho được. Mười giờ đêm tôi về qua nhà thì thấy bạn ngồi chờ đó, tôi ra dạng trái ý. Bạn biết tình, bèn lấy ngay cách thành-thực mà bảo tôi rằng:

- Anh ơi, em biết là anh đương mưu chuyện gì mà anh lại giấu em. Em nhác nom dạng anh, em cũng đã biết rồi.

Tôi nổi ngay cơn tức lên mà nói phắt rằng: tôi không có lẽ gì phải trình anh biết hết sự tôi.

Bạn vẫn cứ ngọt-ngào mà đáp:

- Đành vậy. Nhưng xưa nay anh vẫn hạ-cố đến em mà coi em như bậc thân-hữu. Anh em đã kết bạn cùng nhau, phải tin nhau, và có sự gì ngỏ cho nhau biết mới là phải.

Bạn tôi nằn-nì mãi, tôi đành phải đem chuyện đầu đuôi thú thật với bạn hết cả, nỗi nàng tân khổ, nỗi mình say mê; thôi thì chân răng kẽ tóc, tôi đem nói hết. Bạn tôi nghe tôi kể chuyện, tỏ ý bất-bình, nhưng tôi coi bộ mà sởn dạ, mà hối-hận, biết thế này giấu hẳn cho xong. Quả nhiên, bạn tôi nghe tôi như thế, thì bảo thật tôi rằng anh em chí-thiết với nhau, phải ngăn cấm nhau những khi sa chân vào nơi càn-dỡ; tôi đã như vậy, thì anh tôi quyết chí ngăn-ngừa cho kỳ được mới nghe. Trước hết anh tôi còn lấy lời lẽ mà khuyên-ngăn tôi, sau anh tôi dọa rằng hễ chẳng ăn lời thì anh tôi sẽ mách bảo những kẻ có quyền ngăn-cấm, để mà ngăn-cấm không cho tôi đem người con-gái ấy đi. Bạn tôi diễn-thuyết cho tôi nghe vừa trong một khắc đồng-hồ, hết ngọt đến xẵng, hết khuyên-răn đến nạt-dọa.

Tôi thì chỉ ân-hận tự mình làm dở-dang mình. Tuy nhiên, tôi mới biết mùi say-đắm được vài ba tiếng đồng-hồ, mà ngẫm trí-khôn tôi nó đã mở mang rộng rãi ra nhiều lắm. Bấy giờ tôi sực nhớ ra rằng điều chi tôi cũng đã thú thật với bạn, duy có cái giờ đem nhau đi trốn là tôi chưa nói. Tôi bèn nghĩ mưu lấy đấy làm phương dối bạn.

Tỉ-ba anh hỡi! Em xin thú thật câu này. Đó là em thấy anh xưa nay vẫn có lòng hạ-cố thương em, thì em nói ướm lòng anh đó mà thôi, chứ em đâu lại có cả gan dường ấy. Người con gái ấy thì em say-mê thật. Câu ấy em không nói dối. Còn như chuyện cùng nàng đi trốn là câu em nói đùa, chứ có đâu em lại dám liều như vậy. Âu là đến chín giờ sáng mai, anh khá lại đây rủ em, em sẽ đưa anh đến nơi lữ-quán, để anh xem mặt tình-nương của em, rồi anh sẽ thử nói em nghe con người như thế, phỏng có khiến nổi được em làm việc càn-dỡ đó không?

Bạn tôi lại khuyên can thêm mấy câu nữa, rồi mới ra về. Đêm hôm ấy tôi thức lủng-củng để chỉnh-đốn hành-trang. Sáng tinh sương tôi lại đón nàng nơi quán trọ, thì đã thấy nàng đứng chờ trong cửa sổ. Nàng thấy tôi thì thân-hành ra mở cửa. Hai đứa dắt tay nhau nhẹ gót mà ra. Đồ đạc của nàng nhân-thân chỉ có bọc xống áo thì tôi cầm lấy. Xe ngựa đã sẵn-sàng, nàng chỉ lên ngồi là đi thẳng.

Khi anh Tỉ-ba biết là bị tôi gạt rồi làm ra những việc gì thì rồi về sau tôi sẽ kể, để ngài biết cho bạn tôi thương tôi biết chừng nào, mà khốn-nạn cho tôi, gặp hiền-hữu chẳng biết vâng lời khuyên bảo, để sau nên nỗi lầm than!

Giờ tôi hãy xin kể những sự tôi với nàng đi đường, giục ngựa chạy mau quá, chưa tối đã tới Thánh Đơ-ni. Nàng thì ngồi trong xe mà tôi thì cưỡi ngựa đi bên cạnh, thành ra cứ đến chỗ đổi ngựa mới chuyện trò được vài ba câu. Mãi cho đến khi đã tới gần kinh-thành, chắc không ai đuổi kịp được nữa rồi, bấy giờ đỗ lại mới nghỉ-ngơi thong-thả, ăn no uống mát cho rõ thỏa-thuê. Số là từ A-miêng mà đi đến đó, tất-tả vội-vàng, chưa ăn miếng nào vào bụng hết.

Tôi dẫu thương-yêu nàng đến thế nào nàng cũng có cách tỏ được cho tôi biết rằng nàng cũng thương-yêu tôi được đến thế ấy. Hai bên ganh nhau mà chiều chuộng, mà quí-báu nhau: ngày vui sợ vắn chẳng đầy gang, tối đến chẳng chờ cho vắng khách, âu-yếm nhau ở trước mặt người, để cho những quân đánh xe ngựa, những người trong các quán trọ, ai nấy phải nhìn mà khen đôi ấy còn trẻ con như thế mà keo sơn có một.

Đến Thánh Đơ-ni thì quên mất cả những lời hẹn nhau làm lễ cưới, quịt cả Giáo-đường cái lễ giao-hôn, thành ra không nghĩ đến đã hóa vợ chồng. Tôi tánh vốn là người biết âu-yếm mà lại có thủy-chung, ví nếu nàng ở được trọn nghĩa một đời với tôi, thì vợ ấy đủ thỏa sướng cho tôi trong một kiếp. Tôi ăn ở với nàng, mỗi ngày là thấy thêm ra một vẻ nên yêu. Tài ấy, bụng ấy, tính nết thuần-hòa ấy, nhan-sắc tốt tươi ấy kết thành một cái dây quyến-luyến, thắt buộc lấy tôi, đây dẫu buộc chặt mà êm mềm, tôi chỉ ước được trăm năm chịu trói. Ngờ đâu tâm-sự mỗi ngày một khác, những tưởng rằng vì đấy vui sướng một đời, mà lại hóa ra vì đấy tôi nên một người sầu khổ khắp cả trong bọn tu-my!

Chúng tôi thuê một gian nhà trọ ở con đường V. Vô-phúc cho tôi lại ở láng-diềng một ông dòng sang phú-hộ kia, tên là B. Suốt trong ba tuần lễ, miệt mài trong cuộc truy-hoan, quên cả cửa nhà, quên cả ông thân sinh tôi ở nhà mong đợi. Cũng may, chúng tôi đắm say nhau ở bề tình-nghĩa, mà không đắm say nhau ở chỗ tà-dâm, cho nên thấm-thoắt qua mấy ngày keo sơn buổi mới, rồi tôi cũng nhớ đến nghĩa luân-thường. Tôi bèn quyết chí lại nhà quì lạy nghiêm-đường thú thật, những mong rằng thân-phụ tôi thấy người thấy nết Mai-nương, mà dung túng con người lỡ bước, họa may ông tôi lấy lòng hà-hải, dầu chẳng cho nên gia-thế, cũng lấy cách nhân-từ mà nhắm mắt bịt tai để cho đôi trẻ thương nhau được tự-tiện. Tôi ngỏ ý với Mai-nương sự ấy, tôi phân giải cho nàng nghe rằng, dầu bên tình bên hiếu dám cân chăng nữa, thì cũng còn một lẽ bất đắc bất nhiên. Số là chỗ tiền vốn chung đã thấy cạn nhiều, tôi đã vỡ ra ngần ấy đồng không phải là kho vô tận. Nàng nghe tôi nói, lạnh-lùng có ý dụt-dè ngăn-trở. Nhưng tôi cũng nghĩ là nàng chỉ lo thân-phụ tôi không nghe, nếu biết chỗ ẩn, phen này có khi chia rẽ. Tôi không ngờ đâu sự ngần-ngại ấy là do một nghĩa khác, đau-đớn cho tôi, sau này mới biết. Khi tôi nói đến nỗi túng tiền, thì nàng bảo còn đủ được vài ba tuần lễ, vả nàng còn lắm chỗ mong nhờ, có lẽ từ đây đến đó túi vơi kia lại bốc được đầy. Kết cục là nàng không chịu; nhưng khéo thay những vẻ nói cười, những lời âu-yếm, khiến cho tôi thế nào cũng cho là phải; vả bụng nghĩ rằng trăm năm thôi cũng từ đây, nhân-duyên biết có cuộc này mà thôi, thì trăm sự, sự mình, sự nhà, chỉ nghe nàng chứ lại nghe ai? Hai món tiền góp với nhau, thì phó mặc nàng tay-hòm thìa-khóa, liệu thế ăn tiêu, bao còn, bao hết, tôi có biết đâu chỗ ấy. Lạ thay là cách mấy ngày, tôi bỗng thấy bữa cơm ngọt bùi thêm thức; trong việc ăn mặc, tôi lại thấy nàng sắm đôi ba thứ nhiều tiền. Số bạc chung lưng, thì dẫu tôi không biết tính, cũng nhớ ra chỉ còn đến mươi mười lăm bích-tôn là cùng. Thế thì không biết nàng lấy bạc đâu mà sắm? Tôi có hỏi qua, thì nàng khúc-khích thưa rằng: “Việc ấy xin chàng chớ bận, thiếp đây còn lắm chỗ nương nhờ”. Yêu nhau như tôi yêu nàng, câu nói ấy làm gì mà chẳng xuôi tai?

Một hôm kia, tôi cần phải đi đâu có việc, giao hẹn nàng rằng chầm chậm trở về. Khi về tới ngõ, thấy cửa đóng kín, tôi phải chờ đến hai ba phút, mới thấy người nhà ra mở; con bé ở cũng ngang ngang với tuổi chủ nhà, khi nó ra mở cửa, tôi hỏi sao lâu, thấy nó lúng ta lúng túng, rồi thưa rằng ở trong xa lúc mới chưa nghe tiếng gọi. Tôi biết ngay là lời nói dối, bởi vì tôi chỉ gõ có một lần, rồi tôi đứng đợi. Tôi hỏi vài câu, thì con bé thật thà thất đảm, tuôn ngay nước mắt, thú thật rằng bà chủ bảo phải chờ ông B. ra khỏi cổng sau, mới được mở cổng trước. Tin đâu như sét đánh ngang đầu, tôi những, tưởng liệt hai chân, không bước vào được nữa. Tôi mới lấy nê còn quên chút việc lại phải trở ra, dặn con bé vào thưa lát nữa tôi về mà chớ đả động đến câu tôi đã biết.

Cơn đau tôi như choảng vào đầu, vừa bước xuống thang vừa khóc, nhưng trong trí chưa nhận ra rằng khóc vì đâu, cảm khái thế nào mà khóc? Ra đến đường, gặp tiệm rượu thứ nhất tôi ghé ngay vào ngồi phịch xuống ghế, hai tay ôm lấy đầu mà nghĩ, ngổn ngang ruột rối bời bời! Câu chuyện ghê tai, nên bụng cố quên đi bẵng, cầm bằng lóa mắt ù tai, sảng mê mà thấy. Đã đôi ba lần tôi khiến lẳng lặng mà về, cầm như lần trước không có, quyết chẳng hỏi han chi cả. Trong lòng tôi không thể sao tin được Mai-nương lòng chim dạ cá; tôi nghĩ chừng như mắt tôi dẫu thấy rõ làm sao, bụng tôi cũng không được phép nghi ngờ người lòng son dạ sắt. Tôi yêu, tôi mến, tôi kính, tôi thờ nàng, sự ấy đã hẳn. Nhưng tôi chắc tôi yêu nàng bao nhiêu, nàng cũng đã yêu tôi được bấy nhiêu, hai bên cũng đã cho nhau được tang chứng. Vậy thì tôi không có cớ gì mà ngờ được cho nàng không thành thực với mình, không nhất tâm với mình. Vả ngẫm mà xem, nàng phải dối tôi mà làm gì? Mới được ba tiếng đồng-hồ về trước, hai bên âu-yếm cùng nhau, nguồn ân bể ái, không thể nói sao cho xiết; lòng đây lòng đấy đã tin nhau hết cả mười phần. Vậy thì không, không, quyết không sao có lẽ Mai-nương lại phụ bạc cùng ta. Nàng biết từ đây tôi chỉ vì nàng mà sống; cả cuộc đời tôi, chỉ có một nghĩa yêu nàng. Đã biết ta như vậy, lẽ nào lại có ghét ta?

Tuy nhiên, dẫu muốn đui mù, cũng khó đui mù cho được hẳn; sự ông B. đến nhà trong khi ta đi vắng, sự con hầu chậm mở cửa cho khách tháo cửa sau, dẫu cố ý không tin điều trước mắt, lại còn lắm nỗi buộc nên tin! Bạc hết mà có cơm ngon; tiền khan mà sắm đồ trang-điểm lịch-sự. Hai điều ấy đem ra mà so-sánh với cảnh ngộ người khách dòng sang phú-hộ, phong nhã hào hoa, hình như rõ mồn một: ngọn kia là ở gốc này mà ra. Sực lại nhớ đến câu nàng quyết mong nhờ còn lắm chỗ, mà chẳng nói cho ta là những chỗ nào. Hiện-trạng đã rành rành như thế, thì dẫu mắt kia muốn nhắm, tai này hồ dễ bịt xong?

Nhưng nghĩ đi còn có nghĩ lại. Tôi với nàng từ khi đem nhau đến kinh-thành, phỏng xa nhau mấy lúc. Nào là công kia việc nọ, lo toan lấy nơi ăn chốn ở. Hồ rảnh lúc nào thì quàng tay cắp nách, đem nhau đi dạo chơi hết đó cùng đây. Cuộc chơi bời nọ, cuộc tiêu khiển kia, đâu đâu cũng là có nhau cả. Những lúc dời nhau nửa phút, cầm bằng ly-biệt ba thu. Hết đây yêu đấy, lại đấy yêu đây, một câu nói trao đi đổi lại, một ngày kể đến nghìn lần, mà tưởng vẫn như chưa nói đủ. Ngẫm như thế thì tôi tưởng Mai-nương còn rảnh phút nào để ngoại-tình với ai nữa. Tôi suy tính mãi, sau tôi tưởng óc khôn đã nẩy ra được một câu giải khéo. Ừ phải rồi! Ông B. này là một người quảng giao ở chỗ kinh-địa, tất nhiên có liên lạc gì với họ hàng của Mai-nương. Ý hẳn thân thuộc Mai-nương dùng người này mà tư-cấp cho nàng. Hôm nay đến nhà tất là để đưa tiền nong chi đó. Nàng giấu ta, cùng là một cách úp-mở rỡn nhau đó mà thôi. Hôm nay ví dầu ta cũng về sớm như mọi khi, thì có lẽ nàng cũng tự nhiên mà nói cho ta biết. Nhân nàng thấy ta về chậm thì giấu mà chơi đó. Phải rồi! Nhưng ta hỏi đến thì rồi nàng cũng nói thật. Rõ ta ngu xuẩn! Có vậy thôi, mà chẳng sớm đồ ra!

Lạ thay là cái yên trí! Tôi đã tính ra như thế thì tự hồ trong bụng thấy mất hẳn cái lo phiền. Tôi tức-khắc về nhà, lấy cách âu-yếm như thường mà hôn-hít Mai-nương. Tôi đã toan nói nhỏ ngay trước cái điều mình đoán ra cho nàng biết. Song chẳng biết tôi tính lại thế nào, tôi lại im đi, để chờ nàng nói trước.

Con ở dọn ăn. Tôi vui vẻ mà ngồi vào bàn ăn cơm tối với nàng. Nhưng có ý nhìn một lát thì thấy dưới bóng đèn, vẻ mặt Mai-nương có chiều sầu thảm. Tôi thấy nàng rầu thì tôi cũng hóa rầu. Khi nàng ngước mắt lên nhìn tôi, hình như không giống mọi khi. Tuy cách nhìn ấy là cách nhìn êm-ái dịu-dàng, mà tôi chẳng phân ra được là nhìn yêu hay nhìn xót. Tôi cũng chừng mắt nhìn nàng, thì nghe như nàng cũng lấy mắt nhìn ấy mà hiểu được tâm sự tôi. Hai người ngồi ăn mà chẳng ai nghĩ đến ăn, cũng không ai nghĩ đến nói. Sau tôi thấy mắt nàng rỏ xuống đôi ba giọt lệ.

Tôi thấy nàng khóc, tôi giật mình mà kêu lên-rằng: Trời đất ơi! Nàng có nỗi gì sầu thảm đến phải khóc than, mà sao nỡ tệ không ngỏ cho ta biết cùng? Tôi hỏi vậy thì nàng không thưa gì hết, chỉ thở dài, làm cho tôi lại thêm lo ngại. Tôi run lên lẩy-bẩy mà đứng ngay dậy, hết cách yêu thương mà ân-cần han hỏi cho ra. Thấy nàng khóc, tôi cũng tuôn rơi nước mắt. Tưởng chừng như lúc bấy giờ, thằng sá mọi đi ăn cướp, giết người không chớp mắt, mà nom thấy tôi cũng phải thương tâm.

Trong khi tôi săn sóc hỏi nàng như thế, thì tôi bỗng nghe tiếng người rầm rầm trèo thang mà lên chỗ gác tôi ở. Bọn đông người ấy lên đến phòng tôi, thì sẽ gõ cửa. Mai-nương hôn tôi một cái, rồi vùng ra mà chạy thụt vào phòng trong. Tôi vẫn tưởng nàng thấy khách lạ vào, thì chạy vào nhà trong chỉnh lại xiêm áo, để ra tiếp đãi. Tôi thì thân đứng dậy ra mở cửa.

Tôi vừa mở cửa ra, thì thấy ba người lực lưỡng xúm lại nắm chặt lấy tôi, tôi nhìn ra thì là những kẻ gia-hạ của ông thân-sinh tôi. Chúng nó nương tay mà nắm tôi, chứ không dám làm điều gì hung tợn với tôi cả. Hai thằng nắm lấy hai cánh tay còn một thằng thì lần lưng, lần túi, chỉ thấy có con dao con là đồ bằng sắt, thì nó lấy ra. Chúng nó vừa ôm, vừa khám lưng tôi, vừa van, vừa lạy, xin tôi đừng chấp trách chúng nó là kẻ tôi đòi, cha tôi sai bảo làm sao thì chúng nó cứ vâng lệnh mà làm như thế. Chúng lại nói rằng anh cả tôi đem xe đến đón, chờ tôi trước cửa. Trong cơn bối rối, chúng lôi kéo tôi đi thì tôi đi theo, chẳng tìm phương kháng cự, mà cũng chẳng nói nửa lời. Xuống đến cửa thì quả thấy anh tôi chờ đó. Chúng để tôi lên xe ngồi cùng với anh tôi, xe chạy thẳng một mạch đến Thánh Đơ-ni. Anh tôi ôm tôi mà hôn một cách rất âu-yếm, song không nói gì với tôi hết. Thành ra tôi được tự do mà nghĩ ngợi đến tình-cảnh của mình.

Tình-cảnh ấy thật là mờ tối, tôi không hiểu duyên-do ra làm sao cả. Sự có người phản tôi thì đã chắc hẳn đi rồi, không còn ngờ được nữa. Nhưng ai phản? Tôi tự vấn như thế, thì nghĩ ngay đến Tỉ-ba. Tỉ-ba hỡi hỡi! Nếu sự này mà thật bởi mi, thì ta thề rằng mạng mi không toàn đó. Nhưng tôi lại nghĩ Tỉ-ba có biết đâu rằng tôi ở chỗ ấy mà đi tố cáo với cha tôi được. Chẳng lẽ lại ngờ ra Mai-nương. Lòng tôi không bao giờ dám phạm đến cái tội ngờ vực cho nàng câu ấy. Kể thì cái sự buồn rầu của nàng trong lúc ăn cơm, cái cơn nước mắt nước mũi, cái cách nàng hôn tôi trước khi chạy thụt vào phòng trong, bấy nhiêu sự cũng hơi tối nghĩa. Song tôi lại nghĩ đến điều tai nạn lắm khi biết trước. Khi nàng nghe tiếng động mé ngoài, nàng đã vì yêu tôi quá mà thấy bồi hồi trong dạ, như thể có quỉ-thần báo trước nạn gì, cho nên lúc ấy buồn rầu mà thương tôi như thế. Sự đã rành rành trước mắt, mà tôi lại vẫn còn cứ lo cho nàng mà sợ rằng nàng khổ hơn tôi.

Tôi nghĩ mãi, sau đoán ra rằng ý hẳn tôi đi chơi với nàng trong thành phố gặp ai quen mà vô ý rồi họ thăm dò ra mà mách với cha tôi. Nếu vậy thì tôi cũng cam lòng đôi chút, mong rằng cha tôi phen này bất quá cũng chỉ mắng đánh qua loa, gọi là thi quyền giáo-huấn mà thôi. Tôi quyết chí dầu cha làm gì cũng chịu, bắt thề bắt hẹn làm sao tôi cũng xin hẹn cho xuôi, rồi về sau chờ lấy cơ-hội tốt, ta lại đi ra đô-thành với tình-nương, kẻo nữa ly-biệt này chua xót cho nàng lắm lắm.

Xe đi một lát thì tới Thánh Đơ-ni. Anh tôi thấy tôi ngậm miệng không nói nửa lời, thì nghĩ rằng tôi sợ quá. Anh tôi bèn kiếm lời an-ủy dỗ-dành, nói rằng em nếu thật lòng hối-hận, chịu lần lần bỏ con đường gai-góc mà theo đường ngay, thì nghiêm-đường có lẽ cũng dủ lòng thương mà nguôi cơn giận, mà hồi lại tấm yêu ngày trước. Đến Thánh Đơ-ni, xe nghỉ lại, tối anh em đưa nhau vào nhà trọ ngủ. Anh tôi bắt ba thằng ở phải cắt canh nhau mà giữ lấy tôi cho kỹ.

Phiền thay cho tôi là tình-cờ lại vào phải cái nhà trọ mà tôi với nàng đã trọ qua bữa trước. Chủ quán và người hầu hạ trong hàng đều nhận được mặt tôi cả. Chúng thấy tôi khi đi như thế, khi về như thế, đoán ngay ra hết chuyện. Tôi trộm nghe chủ quán nói rằng:
- À! cậu này con cái nhà ai giỏi trai quá đỗi. Mới cách tháng rưỡi nay, đi qua đây cùng với một cô ả xinh đẹp làm sao! Tội nghiệp! hai người cùng xinh cùng trẻ mà yêu nhau, quấn-quít nhau như thể keo-sơn. Thế mà ai đang chia rẽ!

Tôi tảng lờ không nghe gì hết, cứ ở lì trong phòng, bất đắc dĩ mới thò mặt ra ngoài.

Anh tôi có một cỗ xe hai ngựa để ở Thánh Đơ-ni. Sáng tinh sương hôm sau chúng tôi từ quán trọ mà đi. Đến chiều hôm sau nữa thì về tới quê nhà. Anh tôi vào hầu cha tôi trước, nói lót cho tôi rằng, đến bắt đi ngay, không kháng cự chút đỉnh nào hết, khiến cho cha tôi cũng dẹp được trận lôi-đình mà không quở mắng tôi tàn-tệ quá. Cha tôi chỉ mắng tôi điều bất hiếu, đi mà không xin phép. Còn việc trai gái thì cha tôi không trách mắng, chỉ mỉa rằng như thế đáng kiếp; cha vẫn tưởng con khôn kia đó, ai ngờ còn dại đến dường, có vậy lần sau mới chừa tin gái vu-vơ…

… Tôi nghe lời nghiêm-huấn, chỉ hiểu nghĩa chung mà không ngờ rằng có ý gì riêng về tình cảnh tôi cả. Tôi mới thụp lạy cha tôi, tạ ân cha răn dạy cho điều hay lẽ phải, và xin cha dung thứ một lần, từ sau xin hối mà ăn ở cho phải đạo. Miệng thì nói thế mà trong bụng mầng thầm rằng nếu việc đã xoay ra thế, thì chỉ từ giờ đến tối ta sẽ đánh tháo mà ra được khỏi.

Đến bữa cơm, cả nhà nhạo báng tôi về việc gặp-gỡ tại A-miêng, ai nấy mỉa-mai, lời này tiếng nọ, những là nàng nhân nghĩa thủy-chung, tiết trinh thuần-thục. Tôi cũng tưởng là câu nói rỡn vô tình, cho nên tôi làm mặt tươi-cười mà để cho nhà chế báng. Vả tôi đương nhớ bạn, mà được nghe người nhà nói đến bạn, thì gì mà thỏa dạ cho bằng. Mãi về sau, tôi thoảng nghe một vài câu nói của cha tôi, thấy nói đến điều phản-trắc, đến câu ông B. vị kỉ mà mách giúp, thì tôi có ý lắng tai. Nhưng nghe những câu nói nhát gừng như thế thì tôi không hiểu rõ, tôi bèn xin cha tôi phân giải cho hay. Cha tôi bèn quay lại anh tôi mà hỏi: “Cả, con chưa kể chuyện cho em mày nghe sao?” Anh tôi thưa rằng trong khi đi đường, anh tôi thấy tôi ngoan-ngoãn quá cho nên anh tôi nghĩ chẳng nên đem chuyện buồn ra kể lại làm chi. Cha tôi cũng ngần-ngừ, tính thôi không nói nữa. Tôi phải lạy van, cha tôi mới chịu đem câu chuyện đốt ruột cắt gan mà kể cho tôi nghe.

Trước hết cha tôi hỏi tôi rằng:

- Vậy thế con đã hết cái thật-thà mà tin rằng con ấy yêu con chưa?

- Thưa cha, sự nàng một dạ với con, thì con dám quyết con tin nàng đến nỗi dầu ai làm sao cũng không thể khiến cho con ngờ vực được nàng.

Cha tôi nghe tôi nói thế, thì cười ha hả một trận dài, rồi gật-gù mà rằng:

- Nếu vậy, hay! hay! Con ta thật thà có một. Trời ơi, ví bằng cha biết tính-nết con như thế, thì cha để cho con ở nhà làm một thằng chồng dễ-dãi, chứ đâu cha lại cố cho con vào phái Tôn-giáo Hiệp-sĩ Mã-nhĩ-đức làm gì.

Rồi lại vừa cười vừa nói đến trăm nghìn câu xám mặt tím gan cho tôi nữa.

Sau cha tôi thấy nói làm sao thì nói, tôi cũng làm thinh không đáp, cha tôi mới bấm đốt ngón tay mà bảo tôi rằng:

- Con ơi, nó có yêu mày thì nó yêu cả thảy vừa được mười-hai hôm tròn. Mày ở A-miêng đi, hôm 28 tháng trước. Hôm nay là 29 tháng này. Ông B. viết thư cho cha được 11 hôm nay. Trước khi ông ấy viết thư cho cha nói quyết như thế, thì ít ra ông ấy đã đi lại với nó được 3 ngày, 11 với 8 là mười chín, 31 ngày trừ đi 19, còn là 12 có hơn kém bất quá một ngày mà thôi.

Cha tôi tính xong, lại cười dài một trận nữa. Tôi nghe mà điên ruột sốt gan, những sợ không nhịn được cho đến hết. Cha tôi lại nói:

- Vậy thì con chưa biết, cha nói nốt cho hay này. Ông B. đó là tình-lang của con nhân ngãi mày đó. Trong thư ông ấy nói ngoa rằng ông ấy vị cha mà tranh cướp của mày. Nhưng kỳ thực là ông ấy không vị ai hết, chỉ vị mình mà thôi. Xưa nay ta có quen biết bao giờ mà người ta vị. Chẳng qua là con kia bảo mày là con cha, nó cũng muốn trừ tiệt mày đi cho khỏi quẩn chân nó, cho nên nó mới xui lão viết thư cho cha, mách bảo cho biết rằng con ở chỗ ấy với nó, để khiến cha đem người đến bắt. Hai đứa nó tình nguyện với cha rằng cho người đến, nó xin làm nội-ứng cho mà bắt. Mày thử hỏi anh mày xem có phải rằng nó đến trúng được giờ ấy ở chỗ ấy mà bắt mày, là nhờ tay cả hai đứa nó giúp-đỡ cho không? Thôi thì con khá mầng lòng đã dễ chiếm được nhân-tâm. Nhưng mà nghề nhà hiệp-sĩ, con nên nhớ lấy miếng đầu khí vụng. Hạ thành thì chóng thật mà giữ thành thì con không biết giữ lâu. Đó là một lỗi trong binh-pháp đó, con ạ. Con nên nhớ lấy lần sau mà sành.

Mỗi tiếng nói là một nhát dao đâm vào ruột tôi như thế thì phỏng tôi chịu làm sao được. Tôi mới vùng đứng dậy đi ra, nhưng chỉ đi được có bốn bước, ngã lăn đùng xuống đất, mà ngứt người đi. Cả nhà đổ xô vào cứu chữa, lay gọi mãi tôi mới hồi tỉnh lại. Tôi hồ mở mắt ra là tuôn nước mắt ràn rụa. Hồ mở miệng ra là than khóc một cách rất thảm sầu, đến nỗi ai nghe cũng phải động tâm. Cha tôi vốn có lòng mến tôi lắm lắm, nên chi dùng hết lời ngọt tiếng êm mà an ủy dỗ dành.Tôi lắng tai mà không nghe. Tôi quì gối lạy cha tôi, xin phép cho tôi lại trở về Ba-lê chuyến nữa, để tôi đâm cho xổ ruột cái lão B. kia. Tôi mới rằng:

- Cha ơi! con nói câu này, xin cha tin cho. Chuyện này một là cưỡng hiếp, hai là bùa mê bả dột chi đây; gái kia cùng với lão này không có lẽ đồng-tình với nhau được. Thưa cha, Mai-nương nó dốc một lòng, nó chỉ yêu có một mình con mà thôi. Điều ấy con chắc, cha ạ. Có khi lão này kề dao vào cổ nó mà bắt nó phải bỏ con ra, cho nên nó sợ mà nó phụ con như thế. Trời cao đất dầy ơi! con người quốc-sắc thiên-hương như thế, trách nào mà nó chẳng dùng hết mưu hết kế để cướp sống của con. Trời cao hỡi hỡi! có đâu Mai-nương lại phụ bạc cùng ta. Có lẽ đâu Mai-nương lại không yêu ta nữa, hử trời?

Cha tôi cứ thấy tôi nói hoài đến chuyện trở về Ba-lê, lại thấy tôi cứ nhấp nhổm hình như muốn chạy đi ngay, cha tôi bèn sợ tôi trốn đi mất, phải đem tôi lên một cái phòng riêng trên từng gác, rồi giao cho hai đứa ở coi giữ tôi luôn luôn. Tôi bị cầm buộc như thế, tức tối đến cuồng lên, ví thử ai cho tôi được ở Ba-lê một khắc đồng-hồ, rồi bắt tôi phải chết xuống âm-phủ lộn kiếp nghìn lần tôi cũng bằng lòng xin chịu. Tôi đã nói ngỏ ra như thế rồi, thì cũng biết chẳng ai để cho mình ra khỏi phòng đâu. Tôi nhiều lần ngó ra dòm qua cửa sổ xem từ đó xuống sân cao thấp bao nhiêu, thì thấy cao quá, không thể nào nhảy ra được. Tôi bèn nghĩ đến kế dỗ ngọt hai thằng canh cửa, tôi chỉ non thề biển mà tình-nguyện với chúng nó rằng hễ chúng nó để yên cho tôi trốn được, thì ngày sau tôi sẽ tạ ân rất hậu. Hết ngọt rồi tôi đâm sẵng, hẹn thưởng mãi nó không chịu, thì tôi đe dọa chúng nó cũng chẳng gờm, cứ một mực làm thinh. Mất hi-vọng, tôi mới nghĩ đến cung tự-tử. Tôi bèn trèo lên giường nằm sóng-sượt, quyết nhịn đói nhịn khát cho chết. Suốt đêm hôm ấy rồi suốt cả một ngày hôm sau, tôi nằm như thế. Ai đem cho ăn uống gì, tôi cũng đẩy ra.

Đến chiều cả, thì cha tôi vào thăm tôi và khéo lựa lời an-ủy, rồi bắt tôi ăn cho được. Sợ nữa bất hiếu, tôi phải vâng lời, nhưng tôi chỉ chiều cha tôi mà lấm nhấm vài ba hột trong khi cha tôi đứng đó mà thôi. Như thế trong ba bốn bữa. Cha tôi ngày nào cũng vào, phần để dỗ tôi ăn uống, phần để lấy lời xúc động mà khuyên giải cho tôi, cố khiến cho tôi quên người phụ bạc.

Hâm-mộ nàng thì quyết tôi không hâm-mộ nữa. Con người sớm mận tối đào, lòng chim dạ cá như thế, thì phỏng không khinh rẻ sao được. Song tôi tưởng nhớ đến cái hình dung, đến cái vẻ mặt nàng lúc nào, thì lại thấy hình như nét vẽ đã ăn sâu trong óc. Bấy giờ thì tôi đã yên bệnh đi nhiều ít, tưởng chừng như đã chết. Xấu hổ như thế, đau đớn như thế, sống mà làm chi nữa. Nhưng chết thì quyết được, chết nghìn lần cũng quyết được, mà quên đứt cái con Mai-nương bội-bạc này đi thì quên không nổi.

Cha tôi thấy tôi cứ đau-đớn sầu-thảm mãi như thế, thì cha tôi cũng khí ngạc-nhiên bởi vì cha tôi biết tôi là người có khí-khái, con đàn-bà nó đã phụ mình đến như thế thì dầu trước yêu-mến đến đâu, cũng phải khinh bỏ đi rồi, chứ không thể thương yêu được nữa. Cha tôi mới đoán ra rằng cái bệnh tương-tư của tôi, không phải là tương-tư vì một con Mai-nương, mà là tương-tư chung cả đàn-bà, nghĩa là trai tới thì, cần đến vợ đây, cho nên mới vớ được con ấy, mà thương yêu tiếc nhớ đến dường này. Cha tôi đã yên trí như vậy, một hôm kia, cha tôi mới bảo tôi rằng:    

- Con ơi, xưa nay cha vẫn có ý cho con đeo dấu thập tự Ma-nhĩ-đức thật, giờ cha xét ra thì con không có khiếu riêng về việc tôn-giáo. Con là đứa ham sắc. Nếu vậy thì để cha tìm vợ cho con. Việc ấy con khá thật tình mà ngỏ ý cho cha hay để cha liệu.

Tôi thưa lại rằng: phàm đàn-bà, có chồng có phân-biệt ai với ai nữa. Cứ như cái chuyện khổ tâm cho con mới xẩy ra đó, thì con ghét đều cả một giống đàn-bà. Cha tôi lại rằng:

- Cha sẽ kiếm cho con được một người đẹp cũng như Mai-nương, mà phần trinh-thục thì hơn Mai-nương.

- Lạy cha, cha có lòng thương con thì con xin cha lấy nàng Mai-nương cho con. Con chắc nàng không phụ con đâu. Người ấy không lẽ nào làm nên việc xấu ấy. Chắc rằng cha con nhà ta và nàng, ba người cũng bị cái lão B. nó lừa hết cả. Cha ơi, ví bằng cha biết con người ấy thành-thực thế nào, nết-na thế nào, mà âu-yếm con thế nào, thì con chắc rằng cha cũng phải thương-yêu nó.

- Con ơi, con còn trẻ người thật bụng quá, con ạ! Cha đã nói đến thế, chuyện nó đã rành-rành như thế, sao mà con còn đui điếc đến thế, hử con? Con há lại không biết rằng chính nó lừa con để anh con vào mà bắt con ra ư? Chết nỗi! con ơi! con mà có nam-nhi chí-khí thì đến tên nó con cũng không nên nhớ nữa. Cha đã quá thương con, con phải vâng lời cha mà tỉnh lại.

Mấy-lời nghiêm-huấn đã rõ rành rành, không thể cãi làm sao cho được. Vậy mà không biết làm sao tôi cứ gân cổ lên cãi cho nàng lấy được. Sau tôi nghe cha tôi nói thế, thì tôi phải ắng cổ ra mà chịu, không nói làm sao được nữa, tôi mới than thở cùng cha tôi rằng:

- Thương hại cho con, dẫu muốn đui mà không đui được nữa, đành là con phải công-nhận rằng con là người chủ bị thiệt-hại trong cái án lường-đảo kia!

Rồi tôi lại ràn nước mắt khóc hu hu lên mà rằng:

- Phải, thưa cha, giờ con mới biết con còn trẻ dại, cho nên mới để chúng lừa-đảo như thế. Nhưng thù này phải trả làm sao, việc ấy bụng con đã quyết.

Cha tôi hỏi tôi quyết làm sao? Thì tôi thưa rằng: Lạy cha, con xin về Ba-lê, con đến đốt nhà lão B. đi, con làm kỳ cho đứa gian-phu, dâm-phụ ôm nhau trong đống lửa mà chết.

Cha tôi nghe tôi nói dữ-tợn như thế, thì chỉ phì cười, rồi lại bắt người nhà phải canh giữ tôi cho thật kỹ.

Tôi bị giam cầm như thế trong sáu tháng. Tháng thứ nhứt, trong suốt 30 ngày, đại-cương ngày-nào cũng như tôi mới kể. Cả cuộc tình cảm của tôi trong khi ấy, chẳng qua cứ hồ ghét lại yêu, hồ xót thương lại ra căm tức; hết ngã chí lại hớn-hở mầng, tùy ở cái bụng tôi nghĩ lần-thần, lúc đồ cho nàng thế kia, khi đoán cho nàng thế nọ. Cũng có hôm tôi sực nhớ đến con người thùy-mị dễ-dàng, hiền-lành ngay-thật, thì tôi lại mong làm sao cho chóng gặp mặt nàng. Cũng có hôm tôi nguyền rủa đứa bạc-ác điêu-ngoan, lòng chim dạ cá, thì tôi lại thề rằng vô-phúc cho nó mà có lần còn gặp mặt tôi.

Cha tôi cho đem thật nhiều sách vở vào cho tôi đọc, tôi nhờ có những sách ấy mà nhiều lúc cũng dẹp yên được lòng bối-rối. Tôi đọc lại hết cách bách gia chư tử. Kiến-thức tôi hình như cũng có rộng thêm, lần lần nết quen ham học. Sau này rồi ngài sẽ biết, sự ấy ích cho tôi được những thế nào. Nguyên dĩ cái ái-tình của người ta, cũng là một ngọn đèn rất sáng làm cho thêm rõ nghĩa cổ thánh-hiền. Này như mấy câu văn của ông Horace, ông Virgile, xưa kia tôi vẫn cho là tối nghĩa, sau cũng nhờ cái đuốc lịch-duyệt nhân-tình thế-thái này, mà tôi mới vỡ hẳn. Nhân tôi có soạn một tập nhan-đề là “Lấy ái-tình mà giải nghĩa quyển thứ tư sách Enéide”. Sách ấy tôi quyết đem xuất-bản, chắc hẳn rồi thiên-hạ khen hay. Khi tôi đặt ngòi bút viết ra quyển sách, tôi đã than rằng: Hỡi ơi! lòng thảo như nàng Didon (Đi-đông) có một, tiếc thay sao chẳng gặp ta!

Một hôm, anh Tỉ-ba vào thăm tôi trong nơi cấm-cố, tôi thấy bạn ôm tôi mà hôn tôi một cách âu-yếm lạ-lùng. Nguyên trước tôi cùng Tỉ-ba cũng đã thân nhau, nhưng cách thân đó, chẳng qua là cách thân nhau trong bạn học một trường; chưa hề thấy bao giờ bạn tôi có tỏ cách thiết-tha âu-yếm với tôi đến dường ấy. Tôi xa cách bạn có năm sáu tháng trời, nay sao thấy bạn hình dung đã khác, cách nói năng lại khác dường nào. Nghiêm-nghị thay! hùng-hồn thay! tôi nghe mà phải kính phải sợ. Bạn phàn-nàn cho tôi về bước xa chân; rồi lại mầng cho tôi nay đã khỏi nhiều rồi đó. Sau hết, bạn khuyên tôi nên lấy việc trẻ-con ngu-dại đó làm gương ngày khác, sau này chớ tin chi những cuộc vui chơi là sướng. Tôi ngẩn-ngơ nhìn bạn. Bạn biết ý rằng tôi nghe câu nói đã lạ tai. Bạn lại nói:

- Anh ơi, mấy lời em biện-bạch, toàn là những chân-lý quả nhiên, em đã từng khảo xét, nghĩ ngợi, cho biết đến nơi đến chốn. Số là em xưa kia, lòng cũng hơi khuynh-hướng về nơi sắc-dục. May sao trời lại phó cho em được nết biết ưa điều đạo-đức. Em thường lấy lý-tình ra mà so-sánh hai bên hay dở thế nào. Em đà chịu nghĩ, ông trời kia lại mở mắt ra cho, để từ khi em nom rõ cái chân-tướng cuộc đời, thì em không khinh-bỉ cái gì cho bằng cái cuộc phù-thế của người ta. Anh ơi, anh có thấu bụng em chăng tá, bởi vì đâu mà em với đời còn chút vương-tơ, không đến nỗi vào xó rừng hang núi mà đi ẩn? Ấy cũng bởi hai ta có chút tình bè bạn đó anh ạ. Bấy nhiêu năm cùng học với nhau, em đã bao phen từng biết cái lòng anh quảng-đại, cái chí anh cao-xa; phàm những việc gọi là hay, là đẹp, là thiện, là mĩ, không có việc gì là việc anh không làm nổi. Chẳng may mà anh ngộ phải cái thuốc độc tà-dâm, cho nên anh trót xa con đường chính-đạo. Cơn rứa em đà khóc than cho đạo-đức thiệt mất một người! Anh ơi, từ hôm anh bỏ em ở A-Miêng mà anh đi trốn, lòng em đau-xót cho đến bây giờ, cũng chửa bao khuây. Anh thử xét xem những công-việc của em từ hôm ấy đến giờ thì anh biết rằng không phải là em nói mua-chuộc.

Nhân bạn tôi mới kể cho tôi nghe chuyện hôm ấy khi đã biết rằng tôi lừa-dối, bận vội-vàng lên ngựa đuổi theo. Nhưng hai người đi trước với kẻ đi theo, cách nhau kể 4, 5 giờ, thì phỏng đuổi sao cho kịp? Tuy nhiên, khi bạn tới Thánh Đơ-ni, cũng chỉ hụt tôi với nàng có một nửa giờ đồng-hồ mà thôi.

Bạn tôi biết tất đem nhau về kinh-thành cùng ăn ở, bạn cững về kinh-thành, tìm trong tháng rưỡi, dò la khắp cả mọi nơi.

Một hôm bạn tôi vào nhà diễn-kịch, gặp Mai-nương bộ cánh rỡ-ràng, đã đoán ngay nàng hẳn đã qua tay nào khác. Khi tan buổi hát, bạn theo hút xe cho đến chỗ lầu trang, hỏi đứa ở thì biết ra rằng má phấn nay đà trong tay B. phú-hộ. Đến hôm sau, bạn thân đến hỏi nàng. Mai-nương thoạt nghe nói đến tên tôi, đã quay lưng trở vào, không tiếp nữa. Bạn đành phải trở về A-miêng mà không biết âm-hao gì về tôi cả. Về đến nhà, được thư Ba-lê gửi lại, mới vỡ chuyện về sau. Nay biết tôi đà hồi tỉnh, nên chi mới lại thăm nom.

Tôi thở dài mà ngơ-ngác hỏi:

- Vậy ra anh đã gặp Mai-nương! Nếu vậy, ngô-huynh có nhiều hạnh-phúc hơn đệ. Thương hại cho tôi, tôi với nàng đành rằng từ đây vĩnh-biệt.

Bạn thấy tôi thở dài mà kêu lên như thế, thì trách tôi chưa khỏi hẳn bệnh mê-man. Xong đó rồi, bạn tôi lại giảng đạo-đức thuyết nhân-nghĩa cho tôi hồi lâu nữa, khéo tìm những chỗ tôi ngứa mà gãi, những nơi tôi ưa phỉnh-phờ mà tán-tụng. Bạn tôi mới lại khuyên-răn có một lần, mà khi bạn về tôi nghe trong lòng, hình như cũng thấy chuyển động, quyết chí muốn bỏ đường tục-lụy, mà từ nay chuyên nghĩ việc tu-hành.

Dần dần tôi thích chí về việc ấy, đến nỗi những khi thơ thẩn một mình tôi không nghĩ điều gì khác nữa. Tôi sực nhớ lại những lời của đức-cha ở A-miêng khuyên bảo, những lẽ nên mong mỏi cho tôi về sau có thể nên vinh-dự lớn ở trong chỗ giáo-đường. Vả lòng tôi khi đó, bỗng lại thấy sùng riêng về đạo Chúa. Định bụng phen này đi tu ăn ở một cách an nhàn thuận đạo, ngày đêm tụng-niệm học-hành, không để cho lúc nào rảnh trí, mà nghĩ ngợi đến những cuộc vui-thú nguy-hiểm của ái-tình. Phàm những sự người ta quí-trọng, mình quyết khinh bỏ từ đây. Nghe trong lòng tưởng chừng như tự đó về sau, những điều mình sở mộ, quyết là làm nổi; tấm lòng chỉ ao-ước những điều hay, bỏ quách được điều tình-dục, tĩnh tâm mà thờ Chúa.

Tôi đã tưởng-tượng trước ra một cuộc ẩn cư rất lý-thú: Gian nhà cất nơi tĩnh mịch, cỏ cây bốn phía bùm tum; góc kia vườn đôi ba hòn núi đá, suối nước trong róc rách lưng đèo; sách đầy tủ tha hồ khảo cứu: tri-kỷ một đôi người, thỉnh-thoảng đến chuyện trò; hai bữa cơm thanh-đạm mà ngon. Giao-thiệp với thành-thị thì đã có một người bạn chí thân, chí thiết, ngày ngày thư đi thư lại, để báo cho ta biết những nỗi phiền thiên-hạ mà cười. Như thế thì còn gì mà chẳng sướng? Thật phỉ lòng ao-ước xưa nay, thật quen với tính nết của ta đã luyện tập. Nhưng nghĩ như thế rồi lại ôm trán hỏi lòng một lần nữa, thì cái cảnh tưởng-tượng ra đó, thật là vui thú, thật là xứng với cái trí khôn cao thượng; nhưng xét ra cho kĩ, thì mười phân chưa đủ hoàn-toàn. Vẫn thiếu đứt Mai-nương trong cảnh thú.

Tuy vậy, nhờ có anh Tỉ-ba đến khuyên bảo tôi luôn, khiến cho tôi mỗi ngày càng thêm quả-quyết. Khi tôi nghe trong chí đã nhất định rồi, tôi mới trình với cha tôi. Cha tôi nói rằng ý cha tôi xưa nay vẫn định để cho các con tùy thích mà chọn lấy nghề-nghiệp, không muốn ép uổng con nào, duy con nào muốn hỏi thì cha sẵn lòng chỉ bảo cho mà thôi. Nhân tôi có xin dạy điều khôn phải, thì cha tôi lại giảng-giải kĩ-càng, khiến cho tôi lại càng quyết chí ở việc tu-hành lắm lắm.

Giữa độ ấy, sắp tới ngày khai tràng Nhà-dòng. Tôi bèn rủ anh Tỉ-ba cùng tôi vào học ở tràng Nhà-dòng Thánh Xung-bích, bạn tôi thì để học cho trọn khoa Thần-học, mà tôi thì để vỡ lòng. Bạn tôi vốn nết chăm học đã có tiếng từ thuở còn ở A-miêng, Đức-cha cũng đã biết đến, nên chi được thụ học-bổng tối hậu.

Cha tôi thì tưởng tôi đã khỏi hẳn cái bệnh say mê rồi cho nên tôi xin đi thì cho đi ngay. Hai anh em đến kinh-thành. Tôi thì cái câu rút Ma-nhĩ-đức đã đổi lấy bộ áo thâm dài ông cố đạo, tên Đê Ghi-ri-ơ hiệp-sĩ thì đổi là Đê Ghi-ri-ơ đạo sĩ. Tôi học riết lắm; chỉ trong mấy tháng trời thấy tấn-tới nhiều. Cả ngày đã học, đêm lại học khuya, không để phí chút thì-giờ nào cả. Sau tôi cũng nổi danh tiếng lớn trong một tràng như anh Tỉ-ba tôi vậy, ai nấy đã khen rằng tài cán ấy chắc nên danh-phận lớn. Tôi cũng được ghi tên trong sổ học-bổng. Việc đạo giáo tôi chăm nom lắm lắm. Phàm các việc lễ-nghi, việc gì tôi cũng sùng. Anh Tỉ-ba thấy tôi như thế thì mầng hớn-hở, những tự phụ rằng vì công khuyên-bảo của mình mà đã kết nên giai-quả đó.

Lòng người dễ đổi, câu ấy đã đành, thế sự đã từng nom thấy. Người ta vì một dục-tình mà sinh ra một ý tưởng, mà xui nên một việc quyết-định; kế đến phải dục-tính khác, ý tưởng ấy đi đời, việc quyết-định ấy cũng đi đời. Nhưng khi tôi nghĩ đến những ý-tưởng cao-thượng, tối tĩnh, tối khiết, nó đã xui khiến tôi vào nhà-dòng Thánh Xung-bích, khi tôi nghĩ đến cái cách tu-hành trai-tĩnh của tôi trong bấy nhiêu lâu; mà sau tự-dưng lại thấy bỏ được tu, phá được giới, thì tôi rùng mình vì cái tính dễ thay đổi của lòng người.

Sách thường dạy ân Chúa cứu độ chúng ta bao giờ cũng dồi-dào ngang sức với cái tình-dục cám-dỗ. Nếu vậy thì như tôi sùng-mộ tôn giáo như thế, vì đâu mà bỗng tự-dưng bỏ phứt được dường phận-sự, không hối hận, không phải miễn cưỡng một li một đỉnh nào hết.

Trước kia tôi đã tưởng tôi với sắc-dục là tuyệt-giao rồi. Những lúc tôi đương sùng đạo thì tưởng chừng như gái đẹp nào, tính cả từ đến Mai-nương, lại có làm sướng dạ cho tôi bằng một trang sách của Đức Thánh Âu-cúc-tân, hay là một khắc đồng-hồ tĩnh-tâm mà tư-lự đến việc tôn-giáo. Thế mà chỉ trong một lúc không may, tôi lại sa chân vào chốn hang hầm. Tôi nguyên ở chỗ sâu thẳm ấy mà lên đến chỗ đạo-đức tột cao, nay lại ngã xuống hang sâu thẳm hơn nữa, thì thật là một cái tai họa không thuốc chữa.

Nguyên tôi đã ở Ba-lê gần một năm tròn mà không hỏi thăm hỏi dò gì đến Mai-nương cả. Lúc trước thì còn là miễn-cưỡng. Sau may được bạn tới luôn luôn, khuyên nhủ bên tai, vả tôi lại là người biết nghĩ, gắng sức tu cho kỳ được, cho nên về sau thấy mỗi ngày một nhạt sự say mê, lần lần quên bẵng hẳn tình-nương điêu bạc. Kế đến kỳ thì, công-đồng khảo-sát, tôi lại mời bà con đến cho đông mà xem tôi cao chiếm bảng vàng. Tôi nhờ sức học, đậu được thủ-khoa, danh-giá lan đi khắp vùng kinh-địa, thế nào đến cả Mai-nương cũng biết. Trước nàng thấy nói Đê Ghi-ri-ơ đạo-sĩ, còn ngờ trùng danh trùng hiệu. Sau hoặc giả thấy người đồng-tính, cũng muốn nhìn xem thế nào; hoặc giả biết là bạn cũ mà hối lại những sự lừa nhau thuở trước. (Sau tôi tra mãi mà không biết trong hai lẽ ấy, vì lẽ nào). Nàng mới nhủ mấy người bạn đàn-bà đến tại Học-đường mà nhìn cho rõ mặt.

Tôi thì mải ứng đối với quan chấm trường, cũng không nom thấy. Vả ở nơi nội-thí, các bà vào xem đã có chỗ riêng ngồi kín. Khi tôi thi xong, ngửa mặt vinh quang mà về nhà-dòng, ai nấy hoan hô mầng rỡ. Lúc đó, chừng sáu giờ chiểu tối. Vừa về được một lát, thì có người gọi ra phòng tiếp khách, nói có bà nào vào hỏi. Tôi tức-khắc ra, tưởng là ai, hóa ra là Mai-nương. Giật mình thay! hoảng hốt thay! còn ngỡ tinh ma hiển hiện! Chính là Mai-nương, mà Mai-nương xinh đẹp hơn, ngọt ngào hơn trước, chưa bao giờ tôi thấy nàng được xinh đẹp như thế. Năm ấy tuổi nàng vừa mười tám, đào non vừa độ, nhan sức đương thì, không bút nào mà tả ra cho được hết cái vẻ xinh đẹp. Hay là chân tượng của ái-tình thần chính đó. Nhìn vào cái mặt lồ lộ như bức tranh tuyệt diệu.

Tôi nhìn thấy mà ngây dại, mà thẫn thờ. Không biết ý nàng đến đó làm gì, tôi mở khép mi mắt nhìn trở xuống, hơi run run mà đợi nàng nói trước. Trong một hồi lâu, nàng nghe chừng cũng ngượng nghịu như tôi. Sau nàng thấy tôi chẳng nói gì, thì nàng lấy bàn tay bưng mặt khóc, rồi thỏ-thẻ mà thú nhận rằng tội thất-tiết đã cam chịu, nhưng trách chàng sao cũng nhẫn tâm thay! Xa cách nhau một chốc đã năm chầy, mà chẳng đoái thăm dò còn sống chết. Đến nay gặp người xưa đứng trước mặt, mà không nói năng lấy được nửa lời nào. Tôi nghe nàng thưa thốt bấy giờ, lòng tôi bồi hồi thương xót, không thể nói sao cho xiết được.

Nàng ngồi xuống. Tôi vẫn đứng quay nửa mình trở lại, không dám nhìn nàng tận mặt. Miệng tôi thì ấp úng toan trả lời mấy cách mà không ra tiếng, nói được vài lời lại bẵng, không sao nốt cả được câu. Sau tôi cố mãi thì chỉ gầm lên được có mấy tiếng sỉ nhuốc sau này: “Mai-nương bội bạc hề! bội bạc! bội bạc!” Nàng khóc hu hu lên mà thú rằng xin chịu tiếng bội-bạc, không dám cãi. Tôi hỏi:

- Thế thì nàng đòi gì tôi bây giờ?

- Thiếp không ở với chàng thì không sao sống được, cho nên phải đến đây mà xin chàng trả lại cho tấm lòng yêu ngày trước.

Tôi cũng ràn-rụa ngay nước mắt ra, không sao cầm xiết được mà rằng:

- Mày có lấy mạng tao thì mày lấy. Chỉ còn có cái mạng tao là của tao mà thôi. Đến như cái lòng tao thì từ ấy đến giờ vẫn ở tay mày cố chấp, tao đã thu được về lúc nào đâu, mà nay đòi tao đem trả?

Tôi vừa nói buông miệng, nàng đứng dậy ôm lấy tôi mà hôn-hít, âu-yếm. Phàm bao nhiêu tiếng, bao nhiêu chữ hay của ái-tình sanh ra cho mà gọi nhau, là nàng đem ra mà gọi tôi hết cả. Kỳ-thủy tôi còn lấy cách nguội-lạnh mà đáp lại, chẳng lẽ mình đương bình-tĩnh như thế, mà bỗng dưng làm ra những cách lả-lơi, thì cũng bất tiện. Cho nên tôi còn nghĩ xem lấy cách nào cho nó dần-dà từ phai sang thắm, từ trầm lên bổng. Tôi nghĩ đến cái tình-cảnh mà ghê mà sợ. Tôi rợn người lên khác nào như đang đêm khuya thanh vắng mà đi vào chỗ đồng không mông quạnh; khác nào như thấy mình bước chân vào một thế-giới nào mới rờn-rợn lúc đầu, sau dần dần nom rõ quanh mình, rồi mới yên được thần lại.

Hai người cùng ngồi xuống, tôi nắm lấy hai tay nàng, tôi nhìn nàng một cách sầu-thảm mà rằng:

- Mai-nương hỡi! Ta không ngờ ta yêu Mai-nương như thế, mà Mai-nương lại nỡ phụ ta. Tâm thần ta đã ở trong tay Mai-nương hết cả, thì ta dốc một lòng mà chiều nịnh Mai-nương, mà vâng chịu Mai-nương, mà làm đứa tôi mọi cho Mai-nương, thế thì phỏng Mai-nương muốn dối ta, còn có khó gì? Nay Mai-nương đã đi từng trải kẻ khác, thử nói ta nghe xem có trai nào âu-yếm Mai-nương như ta, dễ bảo như ta hay không? Chắc là không. Tạo-hóa không có thể đúc ra được hai tấm lòng như tấm lòng ta ở trong thiên-hạ. Vậy thì từ bấy đến giờ, Mai-nương có tiếc ta lúc nào chăng? Nay bỗng thấy Mai-nương trở lại đây mà tưới gội mấy lời âu-yếm đó cho tấm lòng khô héo của ta, thì chẳng hay ta nên tin được đến dường nào? Mai-nương ơi, Mai-nương ơi! Ta nhìn thấy Mai-nương là đủ cho ta chết mệt rồi, lựa là Mai-nương còn phải hỏi ta chịu tái hồi chăng! Nhưng nếu Mai-nương có cám cảnh cho ta xót-xa vì bạn trong bấy nhiêu lâu, thì Mai-nương nói cho ta biết lần này Mai-nương định ăn ở với ta có vững-bền hơn lần trước không?

Nàng thưa lại mấy lời rất cảm-động, trỏ trời vạch đất mà thề thốt đến điều, khiến cho tôi cũng phải dẹp nỗi còn nghi-ngại, những tưởng từ đây nàng giữ tiết một niềm. Tôi bèn nửa giọng say-mê, nửa giọng sùng-tín mà rằng:

- Mai-nương hỡi! Mai-nương xinh đẹp muôn phần, không phải là bậc người phàm ở thế-giới. Lòng ta hiện như bị một trận khoái-phong bay bốc lên đến từng mây xanh khí biếc. Than ôi! Giờ ta mới biết bao nhiêu những lời sách dạy ở Thánh Xung-bích về chữ tự-do, tự-chủ, toàn là những hư-văn vô nghĩa. Ta cũng biết phen này ta bỏ hết công-danh vinh-dự, mà đi với Mai-nương. Ta nhìn lòng con mắt Mai-nương, hình như ta đã được đọc số trời tiền-định cho ta thế nào rồi. Nhưng nếu ta được lòng Mai-nương một niềm yêu-mến ta, thì dẫu ta mất đến gì, tưởng cũng không là thiệt. Điều tài lợi, thì lòng đây không chút bận, cái vinh-quang chẳng là một đám khói nhứt thời, cơn gió nhẹ đã tan-tành đâu mất. Thì ra bao nhiêu những cảnh tu-hành ta định trước toàn là một cuộc mơ-màng. Nói rút lại thì bao nhiêu những cái khoái-lạc ngoài cái khoái-lạc với Mai-nương cộng hưởng, toàn là những khoái-lạc khả khinh, vì rằng ta đem lòng ta ra mà hỏi thì bao nhiêu khoái-lạc ấy, dẫu đánh đổi lấy một đuôi con mắt Mai-nương, cũng không xứng-đáng.

Tôi vừa tình nguyện với nàng quên hết các tội trước, tôi vừa xin nàng kể lại cho tôi nghe cái chuyện ông B. quyến-dũ ra làm sao, thì nàng nói với tôi rằng nhân một khi nàng đứng ngóng ở trên cửa sổ, ông B. ngước mắt lên nhìn thấy, mê-mẩn ngay tinh-thần mà tìm đường han-hỏi, rồi lại viết thư hẹn những muôn vàn. Nàng đương túng bấn, cũng liều kiếm một món tiêu, họa chăng vợ chồng có thêm ra được ít lưng vốn mà ăn ở với nhau thêm được chút thảnh-thơi. Sau nàng thấy lão hào-phóng, máu tham cũng trót bén hơi đồng. Nhưng ngẫm một cơn sầu-thảm, trước hôm nàng phải cùng tôi ly-biệt, thì cũng đủ biết thế phải buông nhau ra vị đồng bạc trắng, thôi cũng đứt từng khúc ruột. Về sau thấy tuy được ở lầu son gác tía, mặc đồ tế nhuyễn, ăn vị cao-lương, mà cùng lão cũng không thấy chút gì được thỏa. Trước nữa là khách má hồng gặp quan-viên thị của, dầu đồng bạc mát lạnh bàn tay, nhưng trong tình ý cũng không có điều sướng thỏa. Sau nữa, thiếp cùng chàng một chốc bấy lâu, tâm đầu ý hiệp; đàn-bà nhẹ dạ bởi đồng tiền nỡ biệt nhau ra, phần thì nhớ yêu người cũ, phần thì thâm hận điều phụ-bạc với Tiêu-lang. Nàng lại kể cả cho tôi nghe cái chuyện Tỉ-ba đến hỏi, nghĩ mà thẹn-thùng với bạn của lang-quân. Nhìn mặt khách như gươm đâm thủng ruột, cho nên phải quay lưng vào mà giấu cái mặt dạn dầy, không chịu được mắt khách nhìn nửa phút.

Sau nàng lại kể tôi nghe ngẫu nhiên thế nào mà nàng biết tôi ở Ba-lê, tôi vào học đạo, và tôi thi cử thế nào. Trong khi tôi đối-đáp với quan tràng, nàng nhìn thấy tôi mà bồi-hồi tấc dạ, chẳng những khôn cầm giọt lệ, mà lại còn khó đè lòng cho khỏi rỉ rên. Nhiều lúc nàng bật tiếng kêu, hu tiếng khóc, phải lủi ra ngoài. Nàng ở Đại-học-đường ra, thì đi thẳng ngay lại nhà-dòng mà chờ tôi ở đó, quyết chí rằng hễ tôi không chịu tiếp thì chết ngay đó không về.

Trời đất ơi! đi tìm ở đâu cho được một người vô tình, đến nỗi thấy người đã ăn-năn tội trước như thế, mà không tha-thứ? Tôi không biết giá người khác ở địa-vị tôi thì thế nào, nhưng tôi khi ấy thì nghĩ bụng bao nhiêu quyền cao chức trọng, bao nhiêu phú-quí vinh-hoa mà chẳng ném phăng đi cả, để hòa-hiệp với nàng. Tôi mới hỏi nàng cơ-sự đã ra như thế, thì nay định tính làm sao. Nàng bảo tôi phải tức-khắc bỏ chỗ nhà dòng, rồi cùng nàng kiếm một nơi kín đáo mà ở. Nàng bảo thế mà thôi, chứ bảo gì nữa mà tôi lại không nghe? Hai bên hẹn nhau như vậy rồi, nàng lên xe bảo đánh xe ra chờ đầu phố, để cho tôi sửa-soạn mà trốn theo sau. Tôi lên xe với nàng, cùng nhau đến một tiệm bán áo, tôi sắm một bộ áo quần có lon vàng, có dây đeo kiếm. Tiền tôi không có nửa xu, những món ấy nàng ứng ra mà trả hết. Nàng e tôi trùng-trình thì cơ-mưu tiết-lộ, nên nàng không để cho tôi vào phòng riêng mà lấy tiền nong. Vả cái số tiền của tôi bỏ lại cũng không là mấy, mà nàng thì trong bấy lâu nhờ B. phú-hộ, lưng vốn cũng đã đẫy rồi. Trong khi sắm áo quần ở trong tiệm, thì hai đứa bàn nhau quyết định những việc về sau.

Nàng có ý tăng giá cái việc bỏ B. công với tôi, nàng bèn đoan quyết rằng từ nay cùng lão tuyệt đường nhân-nghĩa, không còn một chút vương-tơ. Nàng rằng:

- Nhà-cửa cùng những đồ-đạc của lão sắm cho thiếp, thì thiếp bỏ lại trả hết. Duy những đồ vàng ngọc điểm-trang, cùng những tiền nong của lão đã cho thiếp rồi, là kỉ-vật của thiếp, thì thiếp đem đi. Lưng vốn của thiếp nay ước chừng được gần sáu vạn phật-lăng. Thiếp vốn không có cam-đoan gì với lão hết, quyền thiếp muốn bỏ lúc nào thì bỏ. Vậy thì đôi ta có thể ở với nhau đường-đường chính-chính tại đất Ba-lê này cũng được. Âu là ta khá kiếm lấy cái nhà nào cho tiện, mà ở với nhau cho sung-sướng thảnh-thơi.

Tôi nói dầu nàng không phải sợ ai, song tôi thì ở Ba-lê nhiều lẽ nguy-hiểm. Chẳng được bao lâu, tất có người quen gặp mặt mà mách với nghiêm-đường, thì nạn trước chắc lại phải từng lần nữa. Nàng rằng nàng ở Ba-lê đã quen thói nết, bây giờ phải đi nơi khác thì e không chịu nổi. Tôi e phiền lòng cho nàng, cho nên thấy nàng đã muốn thế, thì dẫu muôn điều nguy-hiểm, cũng không dám từ. Tôi mới bàn cùng nàng một diệu-kế được việc cho cả đôi bên, là thuê nhà trong làng nào ở chốn ngoại ô, để đi về thành-phố cho tiện. Chúng tôi chọn phía cửa ô Chaillot là nơi gần nhứt. Mai-nương tức-khắc về lầu. Tôi thì ra đứng đợi nàng tại trước chỗ Hoàng-thành Công-viên.

Tôi chờ trong một giờ thì thấy nàng đi xe hàng mà tới, chỉ có một con đòi đi theo hầu và đôi ba cái rương đựng xống áo cùng các của quí.

Xe đi một lát tới cửa Chaillot. Đêm hôm đầu đưa nhau vào ngủ quán trọ, để ngày mai đi tìm nhà mướn. Tìm chẳng bao lâu được một gian nhà vừa ý.

Tôi đã tưởng như thế là cuộc trăm năm vui thú của tôi đã vững cây sâu rễ rồi. Mai-nương là một gái hiền-lành lại khéo chiều người. Nàng ăn ở với tôi một cách yêu đương quí trọng vô cùng, dẫu tôi đi theo nàng biết bao nhiêu nỗi phiền bực chua cay, cũng là cam chịu hết. Nguyên hai đứa cùng đã từng trải việc đời nhiều ít, cho nên cùng nhau đàm đạo về cách ăn ở với nhau lâu dài, tính toán đã đâu ra đấy. Cũng biết sáu vạn phật-lăng không phải là một cái vốn ăn tiêu cho đủ được suốt một đời. Vả hai đứa cùng quyết chí chẳng tội gì ăn tiêu chắt bóp. Nết cần-kiệm không phải là nết hay thứ nhất của Mai-nương mà cũng không phải là nết của tôi. Tôi mới bàn cùng nàng cách ăn ở sau này:

- Sáu vạn phật-lăng khéo chi dùng, vừa được mười năm. Đôi ta cứ ở chỗ Chaillot này, thì mỗi năm sáu nghìn là đủ tiêu pha một cách lịch-sự mà giản-dị. Trừ ra tiền nhà, tiền ăn, còn ngoại phí thì duy chỉ có cỗ xe ngựa với thỉnh-thoảng đi lên phố coi hát mà thôi. Thôi thì ta chịu khó tần-tiện một chút. Mình thích đi coi hát rạp Đại-nhạc thì cứ mỗi tuần lễ ta đi hai lần. Bài-bạc thì ta cũng đánh cò-con cho tiêu khiển, nhưng khéo giữ gìn chớ để canh nào thua tới ngoại hai bích-tôn. Chẳng có lẽ trong mười năm trời mà trong nhà ta lại không có việc biến cải. Cha ta nay đã già, chết ở sớm tối. Khi cha ta đã quá khứ đi rồi, gia tài về ta. Bấy giờ thì đôi ta không còn phải e ngại gì nữa.

Tôi xếp công việc nhà ra như thế, tưởng cũng là điên rồ lắm rồi. Vậy mà giá thử tôi với nàng cứ theo đó mà ăn ở, thì cũng đã là ngoan lắm. Chẳng may cái chí quyết định của chúng tôi chỉ vừa được một tháng mà thôi. Mai-nương thì mê chơi bời, mà tôi thì mê Mai-nương. Mỗi lúc là một dịp tiêu tiền. Nàng đã hoang, mà tôi thì cũng không biết tiếc đồng bạc một chút nào cả. Sẵn tiền đó, hồ thấy cái gì ưa mắt là mua cho nhau. Dần dần thấy ở chỗ Chaillot đi về nhiều điều bất tiện.

Mùa lạnh gần tới, các nhà phong-phú đến ở nghỉ mát chốn nhà quê, ai nấy lục tục về dần, ấp Chaillot mỗi ngày thấy vắng. Nàng bàn với tôi lại tìm nhà trên phố mà ở quách. Tôi không chịu, nhưng tôi bàn với nàng một kế, tưởng đã diệu lắm, là mướn lấy một cái phòng có sẵn đồ đạc, để những khi chơi bời hội tiệc, hoặc đi coi hát về khuya quá thì vợ chồng đem nhau vào đó nghỉ đêm.

Thành ra muốn tần tiện, hóa phải hai nhà. Vì việc ấy mà sau này xẩy ra hai sự tai biến lạ-lùng, làm cho khánh-kiệt, không còn lấy một chữ để nương thân.

Nguyên Mai-nương có một người anh làm thị-vệ. Vô-phúc thế nào, mình lại đi thuê nhà ở ngay cùng một phố với gã đó. Một hôm, gã đi qua đường, nghếch mắt lên nhìn thấy em đứng cửa sổ. Gã là một đứa vũ-phu, ăn nói khiếm-nhã. Gã chạy ngay vào mà chửi bới tàn-tệ, mắng em thế nọ thế kia.

Khi ấy tôi vừa ra khỏi, ấy cũng là may cho gã, hoặc cho tôi, vì tôi không phải là người chịu để cho ai to tiếng trước mặt mình. Khi tôi về đến nhà thì gã đã đi khỏi. Tôi thấy Mai-nương mặt ủ mày chau, tôi đoán ngay ra là có sự gì quái lạ. Nàng kể lại cho tôi nghe câu chuyện toang-hoang như thế, thì tôi nổi cơn tức-giận lên, toan vùng té đi tìm cho được thằng anh đó mà trị tội cho nó một mẻ. Sau nàng khóc-lóc can mãi, tôi mới thôi.

Trong khi tôi với nàng đương nói chuyện với nhau về việc ấy thì gã kia ở đâu lù lù dẫn tới, chẳng hỏi ai mà vào, coi ra dáng tự tiện quá. Giá tôi mà biết là chính gã, thì tôi sửa ngay cho một trận mà tống ra ngoài. Nhưng tôi chưa kịp biết là ai, thì gã đã cười cười nói nói, chào hỏi cả hai người, rồi xin lỗi với cô em cái việc nóng nẩy khi nẫy. Nói rằng tưởng cô nó dại, đương ở chỗ hay, đi cả nghe đứa không ra gì, mà chịu khổ thân, cho nên tôi thương em mà cả giận, nói chẳng nể lời, bây giờ hỏi đứa ở, mới biết ra tân-lang của em, cũng là người thế-gia lệnh-tộc.

Tuy câu chuyện hỏi dò đứa ở, tôi nghe cũng khí trái tai, song tôi cũng gượng cười mà thâu nhận cái câu ca-tụng đó. Mai-nương thấy câu chuyện xoay ra như thế, coi bộ cũng hể-hả mầng. Chúng tôi bèn giữ ông anh lại xơi cơm tối.

Chuyện trò một lát, ông anh làm thân ngay như xưa nay vẫn ở luôn một nhà với hai em vậy. Sau ông anh nghe nói đem nhau về Chaillot, thì ông anh nhứt định đòi đi theo. Chúng tôi đành phải để cho ông anh ngồi xe chung. Ông anh về đến nhà thì làm ngay ra mặt ông chủ nhà, tự tiện mọi việc, chứ không còn biết nể nang gì hết. Ông anh gọi tôi bằng chú nó, rồi lấy nê anh em thân-thiết, trước còn tự-tiện một mình, sau đem bạn-bè đến từng lũ-lượt, nào mời ăn, nào mời uống, không còn quản chi tốn kém cho ai. Ông anh đi sắm những áo quần rất sang trọng, bắt cô em trả tiền, rồi lại đem cả khách nợ đến cho cô em trả nữa. Tôi sợ mất lòng nàng, không dám nói chi cả. Thỉnh thoảng ông anh lại còn đẽo của cô em từng trăm từng nghìn một. Nói cho tiêu tội thì khi nào ông anh đi đánh bạc gặp canh đỏ, được đồng nào thì cũng có đem về cho cô em nhiều ít. Chẳng may cái số ông anh cho không sao bù được cái số ông anh lấy, mà lưng vốn của Mai-nương thì không được mấy, chẳng bao lâu mà cạn mất.

Tôi đã tính nói phăng với ông anh một lần cho dứt khoát, nhưng chưa kịp nói thì trong nhà xẩy ra một việc lạ lùng, miễn trừ cho tôi được cái việc khẩu-thiệt đó, song cũng lại vì chuyện xẩy ra ấy mà vợ chồng tôi khánh-kiệt gia-tài, không còn mong nhờ được vào đâu, để dung thân nữa.







Nguyễn Văn Vĩnh kính cáo
Nguyễn Văn Tố về Nguyễn Văn Vĩnh
Nguyễn Văn Vĩnh-Mặc Đỗ-Bùi Giáng
Tiểu luận về Nguyễn Văn Vĩnh
Nguyễn Văn Vĩnh dịch Miếng da lừa
Ba chương Ba người ngự-lâm pháo-thủ
Trung Bắc
Nguyễn Văn Vĩnh trả lời phỏng vấn
Nguyễn Văn Vĩnh là ai
Sử ký Thanh Hoa


6 comments:

  1. cách gọi “diễn quốc âm” có vẻ nhẹ gánh hơn “chuyển ngữ”/ “dịch”-translate (?)
    cũng có cảm giác nhẹ nhàng như vậy khi đọc Bài tựa của tác giả, viết chân thành, không màu mè hoa lá, đặt sự-tích này ở đúng vị trí nó là, chẳng cần nâng cao hạ thấp, nó vẫn tàn nhẫn như thường :p

    ReplyDelete
  2. "đất Mỗ" thi chac la Mexico roi, nhung "thành A-miêng" la dau nhi? hay la America :))

    ReplyDelete
    Replies
    1. đất Mỗ: Picardy
      thành A-miêng: Amiens

      Delete
  3. Amiens. Đất Mỗ chắc là phiếm chỉ?

    ReplyDelete
  4. Someone necessarily assist to make significantly posts I might
    state. This is the first time I frequented your website
    page and so far? I amazed with the research you made to create this particular put up amazing.
    Great task!

    ReplyDelete