Câu chuyện Manon Lescaut đã bắt đầu đi vào các tình tiết đúng nghĩa là "hết nạn ấy đến nạn kia": des Grieux bị nghiêm phụ bắt về nhà, rồi sau gặp lại Manon, những tưởng đã được sung sướng cùng nhau nơi cửa ô Chaillot của Paris, nhưng địa ngục mới chỉ bắt đầu.
(nhân tiện, đã tiếp tục câu chuyện "Ông trưởng ga": bắt đầu chuyển vào phần cuối; cũng đã tiếp tục bài "Nguyễn Văn Vĩnh kính cáo": Nguyễn Văn Vĩnh quảng cáo sách như thế nào? chúng ta đã có thể nhìn sâu hơn vào đó)
Những là oan khổ lưu li
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân
[mấy lần các nhân vật nhắc đến dòng "Ma-nhĩ-đức", đó là phiên từ "ordre de Malte"; "Thánh La-da": Saint-Lazare, tên một nhà tù rất đáng sợ thời ấy; "Vê-xay" tức là Versailles; "Bưu-luân" tức là Boulogne; "A-lặc-bá" tức là Alpes]
Một ngày kia,
Mai-nương với tôi đi chơi khuya quá, không về Chaillot được, phải ngủ lại Ba-lê. Sáng ngày ra thì con đòi ở Chaillot tất-tả chạy ra báo rằng đêm qua
nhà phát hỏa, chữa mãi mới tắt. Tôi hỏi thăm đồ đạc trong nhà có hư hại nhiều
không, thì con bé nói rằng trong khi bối-rối, tấp-nập người ra kẻ vào để cứu hộ,
thì nó không kịp xoát xem thiếu thốn những gì. Tôi run lên về món tiền lưng vốn,
giấu trong một cái rương nhỏ. Tôi vội vàng về Chaillot, thì ra về cũng uổng công. Cái rương để bạc đã đâu mất!
Bấy giờ tôi mới
nghiệm ra cái câu người ta nói: Không cứ biển-lận mới yêu tiền, là câu nói thật.
Tôi thấy mất hòm bạc, lòng tôi đau đớn xót xa tưởng dễ phen này hóa dại. Nhìn
đường trường mà ghê gớm, không biết phen này cực khổ đến làm sao! Cái cực nhẹ
nhất cho tôi ở buổi tương-lai này là cái cực đói rách. Còn như nàng thì tôi đã
từng biết tính rồi. Còn có cách nương thân, còn có cách ăn tiêu dồi dào thì còn
vợ, còn chồng, còn nhân, còn nghĩa, còn anh có một tôi, tôi có một anh. Cơn đen
vận túng mà đã đến nơi, thì chớ có ai cam-đoan cho cái trinh-tiết của nàng mà
thua cuộc đứt. Số là nàng yêu tôi thì cũng có yêu, nhưng sự chơi-bời vui-thú, sự
tiêu tiền rộng rãi thì nàng lại còn thích hơn nhiều, vì tôi mà nhịn vui chơi,
nhịn tiêu tiền, sự ấy thì không thể có. Tôi bèn than khóc mà rằng:
- Thương hại cho
ta! Lần này thì ta thật mất nàng! Mà mất nàng là mất hết sự yêu-mến ở đời!
Tôi nghĩ như thế,
thì lòng tôi bối rối, bụng tôi ngổn ngang, những tính phen này tự-tận cho xong
hết các nỗi phiền.
Tuy nhiên, trong
óc tôi cũng hãy còn đủ trí-khôn, để mà xét xem còn kế nào hơn kế ấy. Trời đã
không phụ, lại linh-ứng cho một phương-kế thần diệu, khiến cho lòng lại hởi lên
mà không phẫn chí nữa. Tôi nghĩ việc mất trộm này giấu biệt, không cho
Mai-nương biết, cũng không phải là việc khó đến nỗi không sao làm được. Nhiên-hậu
ta mới lo cách gì sinh lý, hoặc ta trông mong ở ông thần Hạnh-phúc, mà kiếm lấy
đủ tiền cho nàng ăn tiêu được đủ là yên.
Nguyên trước tôi
đã tính mỗi năm sáu nghìn phật-lăng, ăn tiêu túc dụng; số sáu vạn vừa đủ mười
năm. Nay ta thử ví dụ như hạn mười năm ấy đã qua rồi, mà bao nhiêu những việc
ta ao-ước, chưa có việc gì xẩy ra cả. Cha già còn sống, gia-tài chưa đến tay
ta. Như vậy thì ta phải tính làm sao? Tính làm sao thì ta chưa biết rõ, nhưng
nay hãy thí-dụ như cái việc bấy giờ mới đáng phải làm, ta hãy lo mà làm ngay tức-khắc,
xem nó ra sao? Vả ở đất kinh-thành, thiếu chi là những kẻ không có tài ta, nết
ta, mà cũng được phong-lưu phú-quí.
Tôi mới lại nghĩ
đến các nghề-nghiệp của người ta thường làm, mà mình bàn nhỏ với mình rằng: Ừ,
mà ngẫm ông trời khuôn xếp mọi việc cho người ta cũng là khéo lắm. Phần nhiều
những kẻ cao sang đại phú là những đứa ngu-xuẩn. Ai đã gọi là trải đôi ba chút
thế-tình, thì câu ấy rõ-ràng mồn-một. Trong sự ấy có một công-lý đáng phục vô
cùng. Vì nếu kẻ kia đã có của-cải, có thần-thế rồi, mà lại có cả trí-khôn nữa,
thì chúng nó sướng quá, mà bao nhiêu người khác thì chẳng hóa ra cực-khổ quá
ru! Bởi vậy cho nên Hóa-công bù đắp, những kẻ khốn-cùng ti-tiểu thì ông ấy lại
thường cho được cái vẻ người đẹp, được cái tính-nết hay, trí-tuệ thông-minh để
mà chế cái sự nghèo-nàn, để cứu cơ những khi túng-bấn. Cũng có kẻ thì lấy tài
mình làm trò vui-thú cho đứa giàu, để mà hưởng chung một phần của-cải chúng nó.
Cũng có người thì đem kiến-thức mà dạy cho chúng nó nên được người khôn, người
tử-tế. Nói cho phải thì ít khi công thầy có hiệu, nhưng phàm người trí-giả đã
có công, thì trời nào nỡ phụ. Dầu không dạy được cho đứa dại nên khôn, cũng khiến
được cho người khôn không đến nỗi bụng đói. Mà cuộc ấy dầu muốn xoay thế nào mặc
lòng, cái dại của đứa giàu-sang, vẫn là một cái vốn sinh-nhai cho lũ hàn-vi.
Tôi nghĩ đến những
điều ấy thì lòng tôi thấy phấn-chấn, trí tôi thấy nở-nang. Kỳ-thủy tôi mới định
rằng hãy đến vấn kế ông anh nàng Lệ-cốt.
Ông anh là một tay lõi ở đất Ba-lê, và tôi đã nhiều phen từng biết rằng ông anh
được ăn chơi phỉ chí, không phải là nhờ có tư-bản, mà cũng không phải là trông
vào mấy đồng lương của nhà-nước. Cũng may cho tôi, rờ đến túi còn sót độ
hai-mươi bích-tôn. Tôi mới đến giơ tiền cho ông anh mà kể cho ông anh biết cái
chuyện nhà mất trộm. Rồi tôi hỏi ông anh thử nghĩ xem một bên chịu chết đói với
một bên đập đầu tự-tận, ở giữa hai phương đó, ông anh có biết phương nào diệu
hơn thì mách bảo cho. Ông anh mới bảo tôi rằng đập đầu tự-tận là một phương-kế
của đứa ngu-xuẩn. Nhịn đói mà chết, là một thế, không phải là một kế. Thế ấy
gián hoặc cũng có kẻ trí-giả không dùng cho kiệt kỳ tài mà đến nỗi phải vào. Vậy
thì tôi nên xét mình xem có thể thi được những tài gì, biết làm được những việc
gì, nói ngỏ ra, rồi ông anh chỉ-giáo cho, giúp đỡ cho mà làm ăn nuôi lấy miệng.
Tôi mới đáp rằng:
- Ông anh dạy thế,
tiểu-đệ nghe khí viển-vông. Cái bệnh nguy của tiểu-đệ, là bệnh cần đến thuốc cấp-cứu.
Em biết nói làm sao với Mai-nương bây giờ?
Ông anh liền ứng
đối:
- Mai-nương à?
khốn-nạn! phải lo gì đến Mai-nương? Công-tử đã có con em tôi ở trong tay, thì
tôi tưởng còn có bao giờ phải lo gì nữa. Một gái như Mai-nương có thể nuôi được
thân cho sướng, lại nuôi được cả công-tử với tôi, tha-hồ ba đứa cùng ăn chơi
cho thỏa-thích.
Tôi nghe câu
nói, lộn mấy khúc ruột, muốn mắng cho thằng đồ khốn mấy câu tàn-tệ, mà nó không
để cho mình mở kịp mồm ra, nó cứ luôn miệng ca-tụng những tài-năng của
Mai-nương, nói rằng nếu nó bảo tôi mà tôi biết nghe lời nó, thì trước khi trời
tối, có nghìn ê-cưu mà tiêu ngay. Số là nó có quen một ông quan-lớn, hào-phóng
đã nên danh trong chỗ làng chơi, được một gái như Mai-nương thì muôn nghìn nào cũng coi như đồng xu nhỏ. Sau tôi phải
bắt nó im đi, mà bảo nó rằng:
- Tôi vẫn tưởng
anh là người cũng khá. Tôi vẫn nghĩ anh có bụng thương-yêu đi lại với hai em là
vì cảm-tình cao-thượng gì, chứ ngờ đâu bụng anh lại nghĩ điều đê-mạt làm vậy?
Nó cứ trơ mặt ra
mà nói rằng xưa nay bao giờ nó cũng chỉ nghĩ có một điều như thế mà thôi. Em nó
vốn là gái giang-hồ, may mà lại làm bạn được với tôi là người nó hâm-mộ đôi
chút, cho nên dầu em nó đi với tôi là dại, mà nó cũng dung cho, những mong rằng
rồi ra em nó cũng có ngày mở mắt ra, để cho anh được nhờ.
Tôi nghe nó nói
trân-trân như thế, tôi mới vỡ ra rằng Mai-nương với tôi phải lừa nó. Tuy rằng lời
nói như đâm vào tai, mà tôi nghĩ một câu mình vụng-dại, đương cần phải dùng đến
nó, cho nên tôi cũng phải gượng cười hể-hả, mà đáp lại nó rằng:
- Kế ấy là kế
cùng. Bất-đắc-dĩ lắm mới phải nghĩ đến, giờ anh có lối nào hay hơn, xin hãy mở
ra cho.
Nó lại bảo tôi nhân
người trai-trẻ, mặt mũi khôi-ngô, khá kiếm gái già nào có của mà nương-tựa. Kế ấy
trước nữa lại càng mạt lắm, sau là phụ-bạc với Mai-nương. Tôi không thể theo được.
Tôi mới hỏi nó xem trong cuộc đánh bạc, có cách nào dậy-hóa kiếm tiền, họa
chăng tôi có liều được, nó cũng không đê-tiện cho cái thân danh tôi lắm.
- Đánh bạc cũng
là một kế cứu cơ thật, nhưng hồ dễ đã mấy tay đánh bạc mà ăn được người. Vả nghề
ấy phải học lâu mới thạo, mà lại phải tràng vốn mới mong lấy được của người. Ví
nếu đem cái mong ước tầm-thường của những kẻ cờ bạc ngu-xuẩn mà vào đám đổ-bác,
thì dậy-hóa chẳng thấy đâu, lại thấy thua nhẵn mấy đồng sót túi. Kể thì nhà cờ
bạc khéo tay, cũng có mấy phương chữa được rủi may hồi vận, nhưng phàm cờ bạc
gian, phải có vây-cánh, một mình mà đi dùng những cách ấy trong đám bạc, thật
là một nghề nguy-hiểm. Còn một kế thứ ba nữa là kế đi đánh đâu có tụi, nhưng
tôi coi chú còn nhỏ tuổi, vào tụi nào họ cho là bậc đi theo đóm ăn tàn, mà
không được việc gì cho tụi. Tuy nhiên, để tôi cũng xin cất-nhắc cho chú. Mà chú
có túng-bấn, tôi cũng sẵn lòng cấp vốn ra cho.
Tôi tạ ân mà
lĩnh kế, chỉ xin ông anh đừng nói ngỏ cho Mai-nương biết chuyện mất tiền, và đừng
cho biết những việc mới bàn nhau đó.
Khi tôi bước
chân vào nhà gã, tôi đã lấy làm khổ-não trong lòng; khi tôi bước chân ra thì
tôi lại lấy làm khổ-não hơn nữa. Nghĩ mà hối-hận sao mình lại đem việc kín của
mình ra mà bàn với một đứa như thế. Những việc nó hẹn cùng tôi, toàn là những
việc tôi không cần phải ngỏ tâm-sự cho nó biết, mới xin được nó cả. Mà tôi lại
lo ngay-ngáy, không biết nó có giữ kín cho mình không, hay là câu chuyện mất
tráp bạc, nó hẹn mình đừng tiết-lộ, rồi nó lại đi nói cho em nó biết. Mà cứ như
lời nó đã nói ra miệng, thì tôi lại nên e điều nữa, là nó nhân cơ-hội này mà rủ-rê
nàng đi theo khách nào lắm của, cho nó được nhờ, thì thật là trơ mắt tôi ra.
Tôi lấy điều ấy làm nghĩ-ngợi, trong lòng bối-rối bời-bời, buổi sáng đã cực
thân buồn-bã, buổi tối lại cực thân thêm. Đã có lúc tôi nghĩ đến mưu lừa cha lần
nữa, viết thư về mà giả hàng thú tội, để lừa ông già lấy ít tiền sài. Nhưng
nghĩ lại thì sực nhớ ra rằng lần thứ nhứt tội mình còn nhẹ, mà cha cũng đang
tâm giam cầm mình trong sáu tháng trời ròng rã, huống chi lần này, tội nặng
rành rành khôn chối, thì lượng trên dẫu sông biển đến thế nào, chắc cũng chẳng
dung.
Tôi nghĩ quanh
nghĩ quẩn như thế trong hồi lâu, thì nó kết-quả nên một điều, chẳng biết làm
sao không nghĩ ra từ trước. Sao không đi cầu anh Tỉ-ba? Tỉ-ba là người bạn
rất tốt, rất thảo của tôi. Người ta ở đời không cái gì thỏa sướng cho bằng những
khi lâm nạn có được một nơi tin cậy, có thể vững lòng mà chạy đến ngửa tay,
không sợ ai lừa đảo. Được, không, không, được, cũng chẳng ngại gì. Dầu chẳng có
thể đỡ đần mình được, bạn cũng có một đôi câu thành-thực, đem ra mà vỗ-về lòng
ta đau xót. Khi ta được một người bạn như thế, thì cái lòng ta, dẫu kín với khắp
cả nhân gian, cũng phải mở ra trước người tri-kỷ, như là cái nụ hoa thơm gặp được
hơi đầm-ấm mặt trời, nở nang ra trước ánh nắng vậy.
Tôi sực nhớ đến
anh Tỉ-ba tôi như thế, cầm như có thần
linh ủng-hộ. Tôi mới quyết nội ngày hôm ấy, đi tìm cho được cố-tri. Tôi về ngay
nhà mà viết thư hẹn bạn đến một nơi nào. Tôi khẩn-khoản xin với bạn một niềm
kín đáo, không ngỏ ra cho ai biết một li một đỉnh chuyện riêng tôi.
Tôi trông mong gặp
được mặt bạn như thế, thì quên mất cả sự buồn. Vậy cũng là may, ví như không
thì Mai-nương nhác nom bộ mặt tôi cũng đủ đoán ra hết cả. Khi tôi về thấy mặt
nàng, thì tôi kể lại việc hỏa-tai, tôi nói là việc nhỏ mọn, nàng chẳng đáng lo
phiền. Nàng đương thích ở Ba-lê, âu là xin cứ ở lì tại đó, chờ cho nhà cháy chữa
lại xong đâu đó hãy về. Nàng thấy tôi khuyên ở lại Ba-lê, thì lại càng mầng
rơn, mà không lo chi nữa.
Cách trong một
giờ đồng-hồ, thì tôi được thư Tỉ-ba
đáp lại, xin chịu lời dặn đến chỗ hẹn. Tôi vội vàng mà đến. Trời đất ơi! những
nhìn mặt bạn đủ thẹn trăm chiều, còn mặt mũi nào mà thấy nhau nữa đây. Song phần
thì tôi biết bụng anh tôi hà hải, phần thì việc nàng thế phải lo xong, nên tôi
cũng mặt dạn mày dày mà vội-vàng đến trước bạn.
Hẹn nhau ở chỗ
Công-viên, xóm Hoàng-thành. Tới nơi thì tôi đã thấy bạn rồi, bạn chạy lại ôm
tôi mà hôn, nước mắt chứa chan, làm cho tôi ướt cả hai bên má. Tôi nói rằng tôi
cũng biết tôi tìm đến bạn là dày dạn trăm chiều mà biết mình là đứa bội-bạc với
bằng-hữu. Trước hết tôi e dè mà hỏi bạn chẳng hay tôi ăn ở đã ra như thế, thì
lòng bạn còn có đoái thương nữa chăng? Bạn đáp rằng tình gắn-bó đã từ khi thơ-ấu
thì dẫu sao dời vật đổi, bạn đâu có dám quên tôi. Bạn lại ra dạng âu-yếm nữa,
mà nói rằng càng thấy nhau sa chân sẩy bước, lầm-lỗi dở-dang, nên nỗi phiêu-lưu
cực-khổ, thì lại càng thương yêu không biết nói sao cho xiết. Nhưng trong tình
thương yêu ấy, có lẫn đôi chút xót-xa, khác nào như khi nom thấy người yêu quí
của mình, bước quá chân vào đến chỗ vực sâu, giếng thẳm rồi, muốn cứu vớt cũng
không sao kịp nữa.
Hai anh em đến
ngồi trên một tấm ghế. Tôi thở dài mà rằng:
- Anh ơi, ví nếu
cái lòng anh thương em mà cũng to được bằng cái cơn sầu thảm của em, thì lòng
thương ấy em cho là thái quá, người ta không ai thương nhau cho đến được độ ấy.
Em phải ngỏ tâm sự cùng anh, thật là muôn phần hổ thẹn. Anh ơi, em mà đến nỗi
này, cái căn duyên thật là ô xú, mà cái kết quả thật là buồn tênh! Dẫu anh chẳng
thương em được đến như thế, anh biết ra, anh cũng phải ái-ngại trong lòng.
Bạn tôi bắt tôi
thật tình mà kể hết cho nghe những nỗi phiêu-lưu từ ngày ở nhà dòng trốn ra thế
nào. Tôi thật tình kể hết, không những tôi chẳng giấu-giếm nửa li, tôi chẳng
tìm câu hoa mỹ nào mà nói cho nhẹ tội, tôi lại còn bày tỏ hết cho bạn nghe cái
tình tôi với Mai-nương say đắm nhau đến thế nào. Tôi coi sự ấy như một cái
duyên nợ của trời đã định, khuôn thiêng quyết hại một người, không để cho trí
khôn ngoan nào phòng được trước; không để cho lòng đạo đức nào chống được sau.
Tôi lại kể cho bạn nghe những nỗi phân-vân trong bụng, những điều lo nghĩ khổ
tâm, cái cảnh cùng-bách của tôi lúc hai giờ đồng-hồ về trước, mà nếu bạn cũng bỏ
tôi nốt không cưu, thì thế cùng-bách ấy lại càng thêm bĩ lắm. Tôi kể lể cho bạn
nghe một cách thảm sầu, đến nỗi bạn cũng phải đau lòng khổ dạ như tôi vậy.
Bạn cứ ôm tôi mà
hôn hít mãi mà an-ủy, mà khuyên ngăn. Tôi nghe chừng bạn tôi còn có hi-vọng
phân rẽ được tôi với Mai-nương, tôi vội nói ngay rằng sự phân rẽ ấy là cái nạn
to nhứt của tôi lo sợ đó. Vì tôi sợ phải phân-rẽ với nàng mà tôi phải mang mặt
dày đến cầu bạn. Thà rằng sấm sét búa rìu, trăm chiều cực khổ, gì tôi cùng cam
chịu, còn hơn là phải đến nước lìa nàng, vì một cái khổ ấy to hơn hết cả mọi nỗi
cực khổ khác của tôi. Bạn tôi lại rằng:
- Ý anh thế nào,
xin phân cho rõ, em nghe. Nếu em khuyên bảo điều gì anh cũng không chịu, thì chẳng
hay anh cầu cứu ở em những cách gì?
Tôi vẫn chửa dám
nói hẳn là tôi cần bạn giúp bạc cho tôi. Song lâu lâu rồi bạn cũng hiểu ra. Bạn
mới hỏi tôi, thì tôi thú thật rằng quả ý tôi muốn thế. Bạn ngần ngại một hồi
lâu, hình như người cân nhắc, rồi nói rằng:
- Xin anh chớ có
đồ cho em nghe nói đến đồng tiền mà nguội-lạnh cái lòng yêu mến với anh đi đâu.
Nhưng mà anh nghĩ ra xem có phải anh cần em một việc rất khó hay không? Không
giúp anh thì ra vị tiếc đồng tiền để bạn van nài chẳng đắt, mà giúp anh ra, thì
có phải cũng trái nghĩa bằng hữu hay không? Khiến cho anh ở mãi trong nơi hư dại,
ấy lại chẳng như cùng với anh làm việc hư dại ra?
Bạn tôi nghĩ ngợi
một lát, rồi lại nói rằng:
- Tuy vậy, em
cũng còn nghĩ rằng có lẽ bởi anh quả đắm say, lại gặp lúc cơn đen vận túng, mà
mất hết trí khôn không nghĩ được ra điều phải. Cổ lai muốn nom rõ chân lý, muốn
biết rõ đạo-đức, trí khôn phải bình tĩnh. Giúp anh ít tiền tiêu, thì em tưởng
em cũng còn phương sách. Vậy giúp anh thì em xin giúp, duy em chỉ xin anh có một
điều là anh cho em biết nơi anh ở và anh cho phép em thử lấy lời hay lẽ phải mà
khuyên nhủ cùng anh, họa may ra em có hạnh-phúc mà khiến được anh bỏ đường queo,
đi đường thẳng. Em vẫn biết tính anh vốn ưa điều chính, chẳng may gặp bước say
mê, mà anh bị lạc đó thôi.
Tôi thật lòng mà
thuận hết với bạn, lại năn-nỉ xin cùng bạn thương hại cho tôi số phận chẳng ra
gì, gặp được bạn hiền như thế, chỉ bảo cho những lời quí báu biết dường nào, mà
tôi chẳng biết nghe. Bạn đưa tôi đến nhà ngân-hàng quen kia, ký văn-tự mà vay
cho tôi một trăm bích-tôn. Bạn tôi vốn
không làm gì có tiền sẵn. Nhà bạn thanh-bạch, tôi đã nói rồi. May có chỗ học-bổng
(đồng niên một nghìn ê-cưu) mà bạn
tôi chưa lĩnh đồng nào, cho nên đi vay được đắt.
Tôi ngẫm ra mới
biết cái giá-trị việc bạn giúp tôi đó thật to bằng trời biển, lòng tôi cảm-động
vô cùng, lúc ấy mới hối hận mình vì một việc đắm say, mà đã trái hết luân-thường
đạo-lý. Trong lúc ấy thì cái đạo-đức của tôi hình như đè-nén được cái tình dục
trong một lát. Trong phút đồng-hồ sáng mắt ấy, thì tôi nom thấy cái nhục, cái
hèn, cái bất-cố liêm-sỉ, những muốn cựa mình bẻ xích mà ra cho khỏi nơi trói buộc.
Nhưng sự lo nghĩ ấy, cơn lưỡng-lự ấy, chỉ một phút đã vội tan. Than ơi! ví dù
tôi đã bước lên đến được tận trời, ngó xuống nom thấy Mai-nương là đủ ngã. Đến
khi tôi về ở bên mình nàng, tôi sực nhớ đến câu tôi nghĩ-ngợi vừa rồi, thì tôi
ngạc nhiên mà tự vấn, rằng tình âu-yếm phải lẽ dường ấy, người âu-yếm xứng đáng
dường ấy, sao ta dám cho làm đáng hổ, dầu trong một phút, tội cũng to thay!
Mai-nương là một
gái tính nết lạ lùng, thiên-hạ tôi chửa hề thấy ai không thiết tiền như ả. Những
khi rồi dào thì thế, nhưng hồ gặp cơn túng bấn phải lo thiếu tiền, thì ả không
ngồi yên được nửa phút. Vốn nàng là gái ăn chơi, cuộc vui đầy tháng trận cười hết
năm, cứ luôn luôn miệt-mài trong cuộc vui chơi cho thỏa-thích. Vì nếu chơi mà
chẳng mất tiền, thì chắc đồng xu nhỏ nàng cũng chẳng muốn. Người ấy không bao
giờ tính toán xem lưng vốn nhiều ít còn bao; quí hồ trong một hôm nay ăn chơi
có đủ thì nàng không bao nghĩ đến ngày mai. Cờ bạc không; những cách xa-xỉ hão
thì chẳng thiết; nàng cũng không phải là một gái ăn chơi khó tính, quí hồ sớm tối
lúc nào cũng kiếm cho nàng được cách tiêu-khiển hợp ý là đủ thỏa-thích. Nhưng
mà người đâu tính-nết lạ dường, cả một đời là một cuộc vui; động kém vui, thôi
thì tâm tính tự-nhiên đâu mất hết. Nàng yêu-mến tôi thì yêu-mến thật, thường
nàng vẫn nói duy với tôi nàng mới hưởng được một cách hoàn-toàn mọi điều lý-thú
của cuộc thương yêu. Tuy vậy, mà tôi dám chắc có mấy thứ lo-sợ khiến cho tình
kia đương thắm phải phai. Ví-dù trời cho tôi hết kiếp cứ được phong-lưu túc dụng,
đủ chi cấp cho nàng được ăn chơi thỏa-thích, thì tôi chắc rằng trong thế-giới
nàng không còn yêu cái gì hơn tôi nữa. Nhưng phải khi túng-bấn, mà tôi chỉ còn
có tấm lòng yêu-mến, có tấc dạ thủy-chung, để cho nàng nữa mà thôi, thì tôi chắc
rằng bất cứ anh phú-hộ nào nó gật nàng đi, nàng cũng bỏ trơ tôi lại đó.
Tôi bèn quyết định
từ nay việc tiêu riêng của tôi thì hết sức dè-dén, để tiền mà chi các món vui
chơi của nàng cho dư-dật. Khoản nên lo nhứt là cỗ xe song-mã. Tiền trữ có bấy
nhiêu phỏng nuôi sao cho được hai con ngựa với một tên thị-mã.
Tôi đem nỗi
lo-phiền ngỏ cùng ông anh Lệ-cốt. Tôi
cũng nói thật rằng nay gặp bạn thân cho tôi một trăm bích-tôn.
Bấy giờ ông anh
bèn nhắc lại câu chuyện hôm trước, muốn vào cánh với bọn con bạc giỏi, chịu phí
chừng trăm phật-lăng, làm một bữa tiệc giới-thiệu, nhiên-hậu theo họ vào sòng,
dậy-hóa có lẽ cũng nổi được cơ-đồ. Tuy tôi tánh vốn thật-thà, xưa nay không lừa-đảo
ai, khi ấy gặp cơn thế bất-đắc-dĩ, nó bảo làm sao cũng nghe làm vậy.
Ngay tối hôm ấy,
anh Lệ-cốt đem tôi mà giới-thiệu với
lũ cờ-bạc láu, nhận tôi là người tộc-thuộc, lại nói rằng tôi đương phải lúc vận
cùng, anh em cho vào nhập bọn, có lẽ lính mới cũng chẳng phụ cơm làng.
Phương-ngôn thường nói: Cùng tắc biến, biến tắc thông. Ông anh lại còn khéo
tán-tụng rằng: cùng cũng giăm bảy thứ cùng; cái cùng của tôi không phải là cái
cùng kẻ thất-phu. Dẫu lưng đã cạn, cũng còn đặt nổi tiệc lớn, mời cả anh em
trong bọn. Khách nhận lời. Tiệc bày rất lịch-sự. Trong khi ăn uống, ai nấy ngắm
diện-mạo tôi mà khen lấy khen để, rằng tráng-kiện, rằng thông-minh, rằng anh em
nhiều điều hy-vọng. Người này diện-mạo thật-thà, chắc hẳn đám nào cũng lọt, chẳng
ai mà nỡ nghi-ngờ. Sau họ cám ơn ông Lệ-cốt
đã đưa cho bọn được tên lính mới có tài, rồi họ lại cử một người trong bọn để dạy
tôi trong một hai hôm, cho thuộc những ngón cờ gian bạc lận. Họ giao cho tôi đi
kiếm riêng một sòng Mỗ. Sòng ấy đánh đủ các thứ. Vốn là của ông Hoàng-thân Mỗ mở
ra lấy lợi, mà phần nhiều những quan hầu của Hoàng-thân vương lại vào bọn với
chúng tôi.
Trời đất ơi! nói
ra mình lại thẹn mình! Những phép lạ của chúng dạy tôi, chẳng bao lâu mà tôi
thông-thuộc hết. Này là những nước bốc con trên, không bốc con dưới; con xấu gảy
đi, con tốt giữ lại; cổ tay áo rộng giấu từng nửa cỗ bài, cũng không ai biết. Bộ
mặt lại hiền-lành ngay-thật, còn ai mà dám hồ-nghi. Tài lạ ấy đem ra thi-thố,
chẳng bao lâu mà thời-vận đã thấy lên, chỉ trong hai ba tuần-lễ, trong tay đã
thấy muôn vàn, ấy là không kể những số phải quân phân cho cả tụi.
Bấy giờ tôi mới
dám nói thật với Mai-nương cái chuyện mất tiền ở Chaillot bữa nọ. Tôi e nàng biết tin ấy mà buồn, tôi bèn kiếm cớ
an-ủy; tôi mới gạn thuê cho nàng ở một cái nhà lịch-sự, đủ đồ bày-biện
trang-hoàng.
Trong khi ấy,
thì anh Tỉ-ba thường thường vẫn lại
thăm tôi. Vẫn cứ những lời đạo-đức, những cách khuyên-ngăn, ở đâu mà tuôn ra hết
giờ này sang giờ khác. Bạn tôi luôn miệng bảo tôi rằng ăn ở như thế, trước nữa
tủi cho lương-tâm, sau nữa thiệt cho danh-giá một đời, và uổng mất một phận làm
trai, không còn có hi-vọng nào ngày sau nữa. Bạn tôi khuyên dỗ tôi thế, tuy rằng
trong bụng tôi vẫn định không nghe thí nào cả, nhưng tôi cũng làm mặt ân-cần tử-tế
mà để cho bạn tôi nói. Tôi biết bạn tôi thật có lòng thương-yêu tôi mà ra riết
khuyên-ngăn tôi như thế, chứ không phải là vì lẽ tư kỉ hoặc là làm bộ mà nói,
cho nên tuy tôi không ăn lời mà trong lòng tôi cũng hơi hơi cảm-động. Cũng có
hôm thì tôi lại nói dỡn bạn tôi ở trước mặt Mai-nương và tôi khuyên bạn chớ nên
đạo-đức quá người đi tu như thế, nhiều bậc linh-mục, giám-mục cũng còn
nhân-ngãi sờ sờ bên cạnh. Rồi tôi lại trỏ hai con mắt Mai-nương mà bảo bạn rằng:
- Đại-huynh tính
hai con mắt kia, em đây vị nó dầu có phạm đến đại tội làm sao, mà Chúa trời lại
chẳng tha-thứ.
Bạn tôi dẫu tức
đầy ruột cũng cứ gượng cười. Nhiều khi bạn tôi còn nhẫn-nại được thế khác nữa.
Nhưng đến khi bạn tôi thấy tôi tiền của mỗi ngày một lắm, chẳng những chỗ tiền
bạn cho tôi vay, tôi đã trả xong, mà tôi lại còn mướn một cái nhà lầu lịch-sự,
ăn tiêu thêm một gấp hai ngày trước, sự chơi-bời vui-thú cứ luôn luôn mài-miệt,
bấy giờ bạn tôi không thể kiên-nhẫn tươi cười với tôi được nữa, bạn tôi bèn giở
mặt cau-có nghiêm-khắc, mắng tôi gan lim dạ sắt, nói làm sao cũng cứ dửng-dưng;
bạn tôi dọa hết tội âm, rồi bạn tôi dọa đến tai-ách nhỡn tiền. Phần nhiều những
điều bạn tôi đe dọa tôi như thế, về sau quả thị sinh ra. Một hôm sau rốt bạn
tôi giận quá mà rằng:
- Tôi xét ra những
tiền của mà anh tiêu dùng cho thỏa-thích bây giờ đó chắc không phải là của
nhân-nghĩa mà kiếm ra. Anh làm điều bất-nhân mà kiếm được của ấy, thì rồi có
ngày anh cũng bị kẻ dùng cách bất-nhân mà lấy lại của anh thôi. Vì nếu Chúa Trời
lại để cho anh được ở yên mà hưởng cái của phi-nghĩa ấy, thì thật là Chúa đã trừng
phạt anh đến cách cực nghiêm. Bao nhiêu những lời tôi đem ra khuyên bảo anh đều
bỏ cả ngoài tai. Tôi cũng biết giờ anh còn đút-nút tai chịu chuyện, ít nữa rồi
đến anh nhìn mặt tôi bận mắt, nghe lời tôi ói tai. Thôi thì tôi từ-giã anh ở lại.
Tôi ước-ao rằng những cuộc vui-thú có tội của anh, có ngày phúc cho anh mà tan
cả đi như cuộc chiêm-bao. Tôi cầu-nguyện làm sao cho những tiền bạc xú uế của
anh có một ngày kia nó đi đâu hết, để trơ anh ra như con nhộng, bấy giờ thì họa
may anh mới hiểu được cái hư-vô của những sự vui-thú nó đương làm cho anh say-đắm
bây giờ. Đến lúc ấy thì họa may tôi lại sẵn lòng yêu-mến anh và giúp-đỡ anh.
Ngày nay thì tôi với anh phải tuyệt-giao, mà tôi phải nói cho anh biết rằng tôi
coi cái cách anh ăn ở bây giờ là đê-nhục lắm.
Bạn tôi giảng
cho tôi mấy lời đạo-đức ấy ở trong phòng tôi, lại có cả Mai-nương cũng ngồi đó. Nói xong rồi, bạn đứng dậy đi. Tôi toan chạy
theo giữ lại, Mai-nương nắm lấy tôi
mà bảo bạn tôi là thằng rồ, để nó đi đi cho rảnh. Tuy nhiên, tôi nghe mấy lời
nói, trong lòng cũng thấy chuyển động. Nhân đó tôi mới biết ra rằng thỉnh-thoảng
cũng có lúc lòng tôi còn hồi tỉnh lại, mà về sau này, trong những cơn khổ não
thứ nhứt, tôi còn đủ sức đương được nổi với nỗi sầu, cũng là bởi tôi sực nhớ đến
cái năng-lực hồi-tỉnh của lòng tôi đó.
Nhưng hôm ấy tôi
có buồn-rầu về mấy lời nói dỗi của bạn, cũng không buồn-rầu được lâu, Mai-nương
khéo vuốt-ve tôi thế nào, chỉ trong một lát là quên hết cả từ bạn cho đến lời
khuyên-ngăn của bạn. Từ đó hai đứa cứ việc mà ăn chơi cho thỏa-thích, cùng nhau
dắt-díu đi hết đám tiệc này, đến đám hội khác, cờ bạc chán rồi, đến đàn hát nhảy
múa, xong rồi lại đưa nhau về mà hú-hí với nhau. Tiền bạc thì tha hồ mà xài
phá, hồ hết lại có, một canh bạc đủ tiêu hàng tháng, mà đồng bạc dồi-dào thì bể
ái cũng đầy luôn. Hai bên chỉ những chiều nhau nịnh nhau mà hết ngày hết tháng.
Chắc hẳn trong đám nô-lệ của Ái-tình-thần và Hạnh-phúc-thần, không có hai đứa
nô-lệ nào sướng cho bằng nàng với tôi. Có lúc sướng quá tôi phải kêu lên: Trời
hỡi! thế-gian có những cảnh vui-thú dường này, sao có kẻ dám kêu là nơi trần-lụy.
Than ôi! hay đâu cuộc vui ngắn-ngủi. Ví nếu đã vui mà lại lâu dài thì thiên-hạ
hà tất còn phải ước-ao cuộc vui nào khác nữa. Bởi thế cái tiết vui của hai
chúng tôi rồi sau cũng nên một số-phận với tiết vui của mọi kẻ ăn chơi khác,
không bao lâu mà hết, đã hết lại còn trăm thứ ân-hận đắng-cay theo đàng sau nữa.
Tôi đánh bạc thì
được nhiều lắm. Đã toan đem một phần tiền được bạc ấy mà sinh tức. Mà tôi được
bạc bao nhiêu, đứa ở thường biết hết, nhứt là thằng hầu phòng của tôi và con thị-tì
của Mai-nương; bởi vì chúng tôi thường hay vô ý, có mặt chúng nó, cứ tự-tiện mà
nói chuyện với nhau những việc cờ bạc. Con bé thì xinh, thằng hầu tôi phải lòng
nó. Hai đứa thấy chủ còn nhỏ tuổi, tính khí lại dễ-dãi, muốn lừa lúc nào mà chẳng
được. Chúng bèn nghĩ ngay kế phản chủ, làm cho một mẻ khánh kiệt, từ đó trở đi
lụn bại, không bao giờ chúng tôi còn ngoi-ngóp trở dậy được nữa.
Hôm ấy, ông anh
Lệ-cốt cho hai em ăn cơm tối, mãi đến nửa đêm mới về. Về đến cửa tôi thì gọi thằng
hầu, nàng thì gọi con đỏ. Gọi mãi chẳng thấy đứa nào thưa hết. Hỏi người ở
chung nhà, thì họ nói chúng nó đi đâu từ tám giờ tối, khuân những mấy cái rương
đi, họ hỏi thì chúng nó nói rằng ông chủ bảo khuân đồ ấy đi đàng này đàng nọ.
Tôi cũng đã đoán
ra một góc chuyện rồi, nhưng lòng tôi dẫu hồ-nghi đến đâu, sự hồ-nghi ấy cũng
chưa bằng cái cảnh-tượng lúc tôi bước vào đến phòng ngủ. Khóa cửa thì bị nó bẻ
gãy: tiền-bạc, sống-áo thì bị nó lấy sạch, không còn lấy một thí gì. Trong khi
tôi đứng một mình ngẫm nghĩ về việc ấy, thì Mai-nương hốt-hoảng chạy vào mách
tôi bên buồng nàng cũng bị chúng phá cửa vào lấy sạch.
Cái tai-vạ ấy
tôi lấy làm một tai-vạ đau đớn cho tôi vô cùng, phải gắng hết sức mới nhịn được
kêu được khóc. Tôi e rằng mình mà phẫn chí ra mặt, thì nàng không biết thiểu-não
đến thế nào, cho nên tôi phải cố nén lòng, làm cho lấy được bộ mặt ung dung mà
hẹn với nàng rằng một canh đủ kéo lại, hà tất phải kêu ca. Nhưng tôi nói làm
sao thì nói, nàng cũng không nguôi được lòng tiếc của, mà cái vẻ buồn của nàng
nghe như sức truyền nhiễm sang tôi lại mạnh hơn cái vui gượng của tôi, tôi cố gắng
khiến cho nàng vui lây mà không được. Sau nàng đầm-đìa nước mắt mà rằng: “Đôi
ta phen này thì chết mất!” Tôi cạn lời tán-tỉnh, hết cách nâng-niu, mà cũng
không công hiệu chi hết. Vả tôi miệng gượng cười, mà nước mắt vẫn vòng quanh, tự
mình lại tiết lộ cái nỗi thất vọng của mình ra. Mà ngẫm cho chín, thì tình cảnh
thật là vô khả-nại: Cờ-bạc gian dẫu là nghề bở, song cũng phải tràng lưng vốn;
mà ta nay cái áo lót mình cũng không còn sót trong nhà. Tàn nhẫn thay đứa kẻ trộm,
lấy từ cái giẻ rách mà đi.
Tôi cho đi mời
ông anh Lệ-cốt đến thì ông anh mách tôi nên đi trình quan phó cảnh-sát rồi lại
đi trình quan chánh cảnh-sát ở Ba-lê. Tôi dại đi nghe câu ấy, bởi vì trong khi
tôi mất thì giờ vào sở này ra sở nọ để khai báo nọ kia, thì ông anh ở nhà gạn-gùng
ngay với cô em cho Mỗ công là người
già cả mà còn đam mê sắc-dục, được gái tốt bao nhiêu tiền cũng không quản. Ông
anh khéo dỗ-dành cô em thế nào, vả Mai-nương lại đương gặp lúc cơn đen vận
túng, anh bảo sao nghe vậy. Trước khi tôi về, giao ước đã ký hết xong, định đến
sáng hôm sau thì thi-hành mọi khoản.
Tôi về đến nhà
thì thấy ông anh đã chờ đó. Còn Mai-nương
thì thấy nói nằm nghỉ trong phòng, lại dặn thằng ở mới, hễ tôi có về thì nói cô
tối nay nhọc mệt, xin thầy để yên cho cô nghỉ đừng vào. Ông anh đưa cho tôi mấy
đồng bích-tôn gọi là anh em tư giúp,
rồi từ giã mà đi.
Khi tôi lên giường
đi nằm, bấy giờ đã gần bốn giờ sáng. Tôi chưa ngủ được ngay, còn nghĩ lẩn-thẩn
mãi, còn lo lắng những cách kéo lại chỗ của mất đi rồi, té ra sáng bạch mới ngủ,
chừng mười-một mười-hai giờ mới trở dậy. Vội-vàng chạy sang hỏi thăm nàng mạnh-khỏe
làm sao, thì đứa ở nói rằng ông cậu đem xe ngựa thuê đến đón cô đi đâu đã cách
một giờ. Tuy rằng việc ấy khả nghi, song tôi cũng cố nén lòng không nỡ nghi-ngờ
chi vội. Tôi kiếm sách ngồi xem trong mấy tiếng đồng-hồ. Sau không thể nào nén
được cái nỗi lo sợ nữa, tôi bèn vứt sách mà đi bách bộ trong các phòng. Trợt bước
vào phòng nàng, tôi nom thấy một phong thư niêm kín, để trên một cái bàn. Nhìn
đề thì là thư gửi cho tôi, mà nét chữ thì là nét chữ nàng. Tôi rợn gai ốc, mà mở
ra coi, thư rằng:
“Vũ-sĩ ơi, thiếp
thề rằng vũ-sĩ là thần là trời của lòng thiếp kính thờ, khắp trong thiên-hạ duy
chỉ có vũ-sĩ là thiếp mới thương-yêu được đến như thế. Nhưng vũ-sĩ ơi, vũ-sĩ há
lại không xét, trong cái cảnh khổ-não của đôi ta, chữ trinh-tiết lại chẳng là một
cái đức ngu-xuẩn lắm ru! Vũ-sĩ thử ngẫm xem, bụng lép mà ngồi yêu nhau sao cho
được. Thiếp e rằng trong nỗi cơ-hàn, có ngày kia thiếp lẫn cái nấc yêu với cái
nấc chết, thở dài một tiếng, ngỡ là âu-yếm vũ-sĩ mà thở dài, lại hóa ra tiếng
thở hắt ra sau cùng, thì chẳng cực phận lắm ru! Vậy thời thiếp yêu chàng quí
chàng, điều ấy xin tin lời thiếp. Nhưng trong bước túng, xin chàng buông rộng
thả dài cho thiếp lấy ít lâu, để thiếp cố ra tay chống đỡ lấy cơ-đồ đổ nát. Hại
thay cho đứa vô phúc nào mà chạm lưới mắc dây của thiếp! Thiếp ra công gây dựng
lấy giang-sơn, để cho vũ-sĩ yêu của thiếp được giàu có, thỏa thuê mọi cách. Anh
thiếp sẽ thông tin của thiếp cho chàng và sẽ nói cho chàng biết rằng thế thiếp
phải ra đi như thế này, trăm đắng nghìn cay, nước mắt thành sông thành suối, chứ
nào có sướng gì đâu. Xin chàng chớ vội vu cho bội bạc.”
Tôi đọc xong cái
thư ấy, trong lòng cảm-động một cách lạ-lùng khó mà tả ra cho rõ được. Đến ngày
nay tôi hồi tưởng lại, tôi cũng còn chưa biết đích cái tình-cảm của tôi trong
lúc bấy giờ là thứ tình-cảm gì. Người ta trong một đời dễ mấy chốc đã gặp những
cảnh-ngộ như thế. Mà có gặp chăng nữa, cũng là một việc hãn-hữu, trong một đời
gặp phải có một lần mà thôi, không có sự trước mà so sánh được với sự sau,
không lấy đâu được cảnh người mà so-sánh được với cảnh mình. Cho nên tôi cũng
biết rằng tôi cố tả ra đó thôi, chứ người khác cũng không ai lấy ý-hội được cái
tình cảnh của tôi khi ấy là ra làm sao. Đại-cương nói rằng trong lúc đó tôi vừa
đau, vừa tức, vừa ghen, vừa thẹn mặt. Mà chết một nỗi lại cũng vẫn còn nhiều ít
tình thương nhớ, chứ nếu chỉ đau, chỉ tức, chỉ ghen, chỉ thẹn mặt mà thôi, thì
cái tình-cảnh nó cũng không não-nùng cho lắm.
Nàng yêu tôi,
câu ấy thì tôi muốn tin là thật. Thường tôi vẫn kêu lên rằng có họa nàng là đồ
yêu-quái thì mới nỡ lòng ghét tôi. Phàm bao nhiêu quyền lợi của người đàn-ông
mà có được ở trong lòng người đàn-bà, ấy là tôi có hết ở lòng nàng rồi. Ừ mà thử
nghĩ xem, tôi đã vì nàng mà thí bỏ đi biết bao nhiêu điều quí-báu, ví dù có muốn
vị nàng mà làm điều gì to-tát hơn, cho đủ chứng cái lòng mến yêu, tưởng cũng
không thể nghĩ ra được điều gì mà làm nữa. Thế mà nó bỏ mình nó đi. Nó tưởng nó
nói với mình một câu rằng bao giờ nó cũng vẫn yêu mình là xuôi được hết! Nó lo
đói! Hỡi hỡi Chúa Trời chứa chan ân-ái! có nước đời nhà ai mà lại cảm những
tình thô-tục như thế không? Mình yêu nó thì mình cảm những tình rất tao-nhã, lựa
lấy góc lòng nào mềm-mỏng êm-dịu nhứt mà để cái thương-yêu, sao nó nỡ đối-đáp với
mình như thế! Mày nói mày sợ đói! Mày có thấy tao sợ đói bao giờ không? Tự tao,
tao bỏ của, bỏ nhà, bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ chỗ no ấm, bỏ danh phận, bỏ cho đến cả những
sự thiết-yếu đi, để mà đi theo mày, để chiều mày từng cái dở-hơi mà chiều đi!
Mày nói mày yêu tao, mày thờ tao. Nếu thật lòng mày yêu tao, thì việc gì mày
cũng phải hỏi tao trước đã chứ, sao mày đi mày chẳng nói trước với tao nửa lời.
Mày há lại không biết tao đây là đứa đã từng trải cái đau li-biệt hơn cả. Mày
có hỏi tao, thì tao cũng bảo mày rằng ở đời đã yêu nhau, đến cái li-biệt là thảm
nhứt. Duy những đứa cuồng-dại đã mất trí khôn, mới không chờ đến nước bất đắc
dĩ, vội cam lòng mà chịu biệt-li.
Tôi đương than
thân như thế, thì thấy chàng Lệ-cốt vào. Lúc ấy tôi không ngờ gã dám vác mặt đến
trước tôi. Tôi vừa thấy nó bước vào tôi tuốt ngay gươm, nhảy xổ ra đón nó mà
quát tháo hỏi rằng:
- Thằng độc-ác
kia, Mai-nương đâu? Mày đem em mày đi đâu rồi?
Thằng cha thấy
tôi làm hung-tợn như thế thì cũng khiếp-đảm. Nó mới run sợ mà bảo tôi rằng:
- Tôi đến đây là
đến báo tin mầng cho chú, những tưởng chú tiếp-đãi tôi thế nào, nếu chú tiếp
tôi như thế, thì chú để tôi xin chỗi, từ rầy không bao giờ tôi còn bước chân
vào đây nữa.
Tôi chạy ngay ra
cửa vào mà đóng chặt lại, rồi tôi quay mặt vào thằng Lệ-cốt mà bảo nó rằng:
- Mi chớ tưởng lần
này mi lại dối được ta nữa đâu. Thôi, một đàng mi đưa ta đi tìm cho được
Mai-nương; một đàng ta cho phép mi đi tìm khí-giới mà bảo-thủ lấy mạng cho ta
giết.
- Thì hãi để yên
nào. Chú này mới nóng nảy sao! Tôi đến đây là đến để báo cho chú hay một tin
may-mắn lạ dường, chắc vạn đại không bao giờ chú dám ao-ước đến. Nay chú mà được
thế, cũng nhờ ơn tôi.
Tôi thét bắt nó
phải nói đầu đuôi cho tôi nghe tức-thì. Nó mới kể với tôi rằng em nó nhân bị việc
mất trộm, lo phen này nghèo khổ đói rách, mà lo nhứt là phải đổi cách ngựa xe
đài-các xưa nay, nên chi có cầu nó làm mối cho một ông Mỗ Mỗ phú-hộ kia, có tiếng
là người hào-phóng lắm. Nó không dám nói với tôi rằng chính nó gạn gùng với
Mai-nương trước, và mọi việc đưa dắt nàng đi, là do ở nó cả. Nó xưng xưng mà
tân-công rằng:
- Sáng nay tôi
đưa nó đến cho lão phú-hộ, lão thấy người, thấy nết con bé, lão thích mê ngay
đi, mà mời về ở nơi biệt-thự nghỉ mát với lão trong mấy ngày. Tôi thoạt đánh
hơi, đã biết đó là một nơi béo bở cho chú, tôi mới khéo nói bỏ-nhỏ với lão một
câu rằng: Tội-nghiệp! con bé có bao nhiêu vừa mất trộm ráo. Lão thương tình,
hôm đầu mở hàng ngay cho nó hai trăm bích-tôn. Tôi lại nằn-nì với lão rằng: hai
trăm bích-tôn vừa ứng dụng cho cô nó trong buổi đương thời mà thôi, còn hậu-nhựt
của cô nó, phú-ông đã có lòng đoái mến, thì xin nghĩ xa một chút cho cô nó được
nhờ về lâu dài. Vả cô nó lại còn một thằng em út, cha mẹ chết cả, giờ chị phải
nuôi. Nếu phú-ông có lòng quyến-cố thì đã thương chị, xin chớ bỏ em. Tôi nói
khéo thế nào, thấy lão rầu rầu nét mặt, chừng như cũng cảm chút tình thương,
lão bèn hẹn với tôi rồi xin thuê một nhà riêng để cho chú với cô nó ở, vì chính
chú là cái thằng em út mồ-côi đó. Lão hẹn rằng cho nhà ở, lại sắm đồ đạc cho đủ
thử, rồi cứ ba tháng lại đãi cu-cậu một kỳ lãnh bổng mỗi tháng là 400 phật-lăng
là đi mỗi năm 4.800. Trước khi lão về nhà quê, tôi đã nghe thấy lão dặn bảo người
quản-gia tìm nhà và sắp đặt như thế, để khi lão về thì sẵn-sàng hết. Vậy thì
Mai-nương rồi chú lại được gặp. Nó có bảo tôi hôn hộ chú cho nó một nghìn lần,
và nói để chú biết rằng bây giờ nó lại càng thương-yêu chú lắm.
Tôi ngồi phệt xuống
mà nghĩ ngợi về cái cảnh-ngộ của họ xếp danh-phận cho tôi như thế. Trong lòng
tôi phân-vân không biết bao nhiêu thứ tư-tưởng, mà mọi nỗi khó khăn, rất là
khôn bề quyết đoán, khiến cho tôi phải bóp đầu gò óc mà nghĩ cho ra, đến nỗi Lệ-cốt
hỏi dồn tôi đến chín mười câu, mà tôi không đáp lại. Trong lúc ấy thì cái
danh-tiết của tôi, cái lương-tâm của tôi, làm cho tôi hối hận vô cùng; nghĩ đến
phận như kim châm vào từng khúc ruột. Tôi mới hồi tưởng đến những ngày còn đi học
ở A-miêng, nhớ đến chỗ sân nhà cha mẹ, đến chỗ tràng nhà dòng Thánh Xung-bích,
thì lại ngậm-ngùi tiếc những thuở thơ-ấu, những lúc mình còn chay lòng sạch dạ,
hớn-hở vẻ-vang. Trời đất ơi, từ nơi ấy mà cho đến bây giờ, xa cách nhau biết mấy
vực sâu. Hồi đầu mà vọng tưởng đến, nó tít mù đâu ở tận nẻo xa, tự hồ một cái
bóng mát từ sớm ngày của người khách qua đường sa-mạc đã quá trưa còn nhớ đến,
khiến cho tiếc, cho nhớ, cho thèm, cho khát, mà không đủ sức đi trở lộn lại nữa.
Than ôi! Chẳng hay trời kia ghét bỏ, đã giun giủi làm sao, mà tôi con người căn
do như thế, bỗng hóa nên một đứa tội lỗi thế này. Ái-tình xét ra cũng là một
cách cảm-động rất bình-dị của lòng người ta, chứ có phải là một sự dâm-bôn xú-uế
gì đâu. Sao riêng cho một mình ta, nó lại hóa ra một cái nguồn khổ-não, một sự
trái luân-thường? Vì đâu mà ta không được cùng Mai-nương yên hưởng cái hạnh-phúc
ái-ân như thể mọi người? Sao trước khi cùng nàng chăn-chiếu, ta lại không cùng
nàng kết hôn-nhân như mọi kẻ khác? Cha ta vốn vẫn yêu ta, ví dù ta cứ lẽ phải
mà nằn-nì xin phép cưới, thì chắc rằng cha ta cũng cho lấy; mà nàng như thế,
cha ta sao lại chẳng thương-yêu như con đẻ vậy? Như thế thì có phải thuận trên
hòa dưới, thiên-hạ công nhận cho đôi ta là cặp vợ chồng bách niên giai lão,
cùng nhau lập nghiệp sinh-cơ, vẻ-vang sung-sướng biết là chừng nào! Bởi tôi với
nàng lấy nhau không theo một lệ ấy mà nay đến nỗi này, đã cực chưa! đã sầu-thảm
chưa! Bây giờ nó đến nó bảo tôi đi đóng một cái vai hề mặt mo làm vậy. Biết
tính sao đây? Chết nỗi! Thân-danh ta như thế này mà đi chia dôi… Nhưng mà ngẫm
một câu việc này bởi tại ý nàng trù tính, nếu ta không thuận thì từ nay sao cho
thấy được mặt nàng nữa đây? thì lại không dám rụt rè li đỉnh nào nữa… Bấy giờ tối
mới nhắm mắt lại, hình như để cho khỏi nom thấy những lẽ phân vân vừa kể, mà
tôi đánh bạo nói quả-quyết với gã Lệ-cốt rằng:
- Thôi, ông anh
ơi, nếu có phải ông anh đã vị đệ mà lo loan các việc như thế, thì đệ cũng xin cảm-tạ
ông anh. Giả sử ông anh chịu chọn một cách giúp em nó tử-tế hơn một chút, thì
tưởng như cũng được. Song việc là việc dĩ nhiên mất rồi, có phải không? Âu-là ông anh đã
xếp, em xin bái lĩnh, ông anh đã hẹn làm sao, cứ thế mà làm đi cho.
Lệ-cốt trước thấy
tôi nổi giận, rồi lại thấy tôi tần-ngần trong giờ lâu như thế, đã lo không biết
việc này vỡ lở ra làm sao, sau thấy tôi hiền-từ mà đáp lại như thế, cũng ngạc-nhiên
mà lại mầng thầm. Hắn tuy là nhà võ-sĩ, mà bề can-đảm nghe như kém nhứt. Về sau
này còn nhiều dịp biết cái hèn nhát của nó. Khi ấy nó thấy tôi chịu, thì nó mầng
lắm, vội-vàng bảo tôi rằng:
- Vâng, chú coi
đó thì biết rằng tôi hết lòng giúp chú. Mà rồi ra chú mới biết rằng món này là
món bở.
Tôi bàn bạc với
nó về cách làm để cho Mỗ Mỗ phú-hộ khỏi
nghi-ngờ, bởi vì nó bảo tôi là em út của Mai-nương,
mà mặt tôi thì nom già hơn nàng một chút. Nghĩ mãi chỉ có một phương là khi nào
tôi đến trước lão thì tôi làm ra bộ thật-thà, quê-kịch, và khiến cho lão tưởng
là tôi chuyên một việc tôn-giáo, để đi tu-hành, ngày nào cùng vào tràng học-tập.
Hai đứa lại tính với nhau rằng lần đầu tiên tôi vào chào phú-hộ, tôi ăn-bận cho
xốc-xếch.
Cách ba bốn hôm,
thì quả phú-hộ từ nơi biệt-thự trở về nhà ngoài phố. Phú-hộ thân đưa Mai-nương đến chỗ nhà mới mướn. Nàng sai
người báo tin trước về cho anh biết, Lệ-cốt
lại báo cho tôi, rồi tôi cùng gã đưa nhau đến đó. Tới nơi thì lão phú-hộ đã đi
về khỏi rồi.
Tuy lòng tôi đã
quyết định phen này nàng bảo tôi làm sao, tôi cũng cứ nhắm mắt cúi đầu mà làm vậy
rồi, nhưng tôi nom thấy nàng thì ruột tôi nó lại sôi lên sùng-sục, lương tâm
mình tự-hồ nó mắng nó nhiếc mình ri-rỉ ở đâu trong lòng, không thể sao mà
ngăn-giữ được vẻ mặt cho khỏi buồn-rầu. Tưởng là mất mặt nàng rồi, bỗng đâu lại
thấy, mầng thì mầng thật, nhưng cái mầng ấy bõ làm sao cho được cái tủi bị nàng
bỏ trơ ta lại đó mà đi theo người khác. Còn nàng thì chẳng biết cái gì là cái
buồn cả, vẻ mặt cứ tươi hớn-hở, mầng rằng lại thấy mặt tôi, rồi lại trách tôi
sao nguội-lạnh. Tôi thể chẳng [chẳng thể] cầm lòng được, phải mắng, phải trách
nàng tệ-bạc vô-tâm, cứ mỗi câu tôi lại thở dài thở vắn.
Kỳ-thủy nàng còn
nhạo tôi, bảo tôi là đứa quê-mùa, đeo chi những thói ghen-tuông tầm-thường. Sau
nàng thấy tôi cứ nước mắt vòng quanh mà nhìn nàng trô-trố, mà áy-náy khó chịu
cái cảnh ngược đời, trái hẳn với tính-nết mình xưa nay, và không hợp với ý mình
một chút nào cả, thì nàng đứng phắt dậy mà đi vào phòng một mình. Được một lát,
tôi cũng theo nàng vào, thì tôi thấy nàng ràn-rụa nước mắt. Tôi hỏi vì đâu mà
khóc, thì nàng rằng:
- Vì đâu thì
chàng biết, lựa còn phải hỏi. Chàng cách-biệt ta trong bấy ngày chầy, nay nhìn
thấy ta, cái mặt cứ rầu-rầu như kia, thì phỏng ta sống làm sao được! Từ lúc
chàng vào đây đến giờ, đã vừa một tiếng đồng-hồ, mà chàng chưa vuốt-ve ta, chưa
hôn-hít ta một thí nào cả. Ta hôn-hít chàng thì chàng nguội-lạnh đài-các mà
thâu nhận, khác nào như vua Thổ-nhĩ-kỳ ở giữa đám cung-nữ chưa?
Tôi nghe nàng
nói thì tôi ôm lấy nàng tôi hôn mà rằng:
- Mai-nương ơi! Ta chẳng giấu gì Mai-nương. Cái ruột ta bây giờ như xâu,
như xé, như lửa cháy, như than vùi, tưởng chừng như chết ngay đi được, không phải
là vì cái tội Mai-nương bỏ trơ ta đó
đi mà đi, không phải là vì cái sự Mai-nương
đang tâm mà bỏ ta chăn đơn gối chiếc, lạnh-lùng trong bấy nhiêu ngày ta mà đi
ôm-ấp với người ta ở trong giường kẻ khác. Những tội vặt ấy, tưởng dầu nặng đến
thế nào, ta nom thấy cái mặt Mai-nương
cũng đã đủ mà nguôi giận. Nhưng mà có lẽ đâu ta lại không thở vắn than dài, ta
lại không xùi-xụt rỉ-rên - chỗ này tôi vừa nói vừa khóc xụt-xịt - mà đi cam nhận
lấy cái địa-vị nhơ-nhuốc lạ-lùng mà Mai-nương
tính xếp cho ta ở trong cái nhà này được? Thôi thì chẳng kể chi đến cái thứ bậc,
đến cái phẩm-giá của chữ tên ta đội, đến những điều danh-giá, liêm-sỉ làm chi nữa.
Tỉ với cái tình ta yêu-mến Mai-nương
thì những lẽ ấy thành ra những lẽ nhỏ-mọn, không tài nào mà khiến nổi được việc
cử-chỉ của ta nữa. Duy hãy nói đến cái tấm lòng của ta yêu-mến Mai-nương mà thôi, thì Mai-nương thử nghĩ tấm lòng ấy chịu phận
thiệt-thòi như thế này, chịu cách bạc-đãi như thế này, làm sao mà nhịn được
rên-rỉ đây…?
Nàng lấp câu
chuyện của tôi đang nói, mà rằng:
- Thôi, xin
chàng đừng đâm vào ruột đừng châm lửa vào lòng thiếp làm chi nữa cho nó đau-xót
lòng thiếp mà không được ích gì. Thiếp cũng tưởng cái thế túng-bấn của đôi ta
như vậy, thì chàng cũng sẵn lòng giả dại làm ngây, để cho thiếp ra tay gắn-bó lại
cái cơ-đồ đổ nát. Bởi chưng thiếp biết chàng khí-khái, cho nên cái việc của thiếp
mưu-đồ, trước hãy không cho chàng biết, ấy cũng là tránh cho lang-quân khỏi
mang cái tiếng đồng-mưu đối với lương-tâm người quân-tử. Nay chàng đã biết, mà
lại không y cho thiếp thi-hành, âu-là thiếp xin thôi không làm nữa.
Nàng nói xong
như thế rồi xin tôi nhắm mắt bịt tai cho đến hết ngày hôm ấy. Số là lão phú-hộ
đã cho nàng 200 bích-tôn, lại hẹn buổi chiều thì đem cho ít châu-ngọc, một cái
vòng hạt-trai, với sáu tháng tiền lương cho mà tiêu trước. Nàng rằng:
- Thôi thì chàng
để thiếp thâu-nhận cho xong mấy món bổng trời cho đó. Còn thì thiếp thề với
chàng rằng những chuyện nguyệt-hoa hoa-nguyệt, không có bao giờ. Từ nọ đến nay,
cứ đến lúc nào nguy-hiểm thì thiếp lại khéo lừa được lão ra ngoài. Vậy thì
chàng có thiệt chăng nữa, là chỉ thiệt mất chừng trăm vạn cái hôn tay của thiếp
mà thôi. Ân ấy thì phú-hộ phải mất tiền mua, mà mua thì ta tính giá đắt, năm
sáu nghìn phật-lăng là phải, họa
chăng có xứng với cái gia-tư và cái tuổi-tác của khách mua hàng.
Tôi mầng về món
bổng năm nghìn phật-lăng thì ít, mà mầng
về sự quả-quyết của nàng thì nhiều. Nhân cơ-hội đó, tôi mới nhận ra rằng trong
lòng tôi cũng chưa đến nỗi mất hết liêm-sỉ. Qua khỏi được cầu nhơ-nhuốc còn biết
là may. Chẳng may cho tôi, số trời đã định, trọn đời vui ngắn sầu dài. Cứ tránh
qua nơi sóng cả thì lại ngã nơi tuần Vường [?], kiếp long-đong không biết bao
giờ cho hết.
Khi tôi đã
hôn-hít Mai-nương kể mấy nghìn lần, để
tỏ cho nàng biết rằng tôi thấy nàng định lại như thế thì tôi mầng rồi, tôi mới
lại bàn với nàng nên ngỏ ý cho anh nàng biết với, để cho làm gì cũng hòa-thuận
với nhau. Kỳ-thủy ông anh còn lầm-bầm lẩm-bẩm, sau nghĩ một câu hết ngày hôm ấy
tiền ngay đã được 5 nghìn, thì ông anh lại vui ngay lòng mà theo ý hai em. Ba
người bàn nhau đến bữa cơm tối của phú-ông thì kéo nhau vào cả, lẽ thứ nhứt là
bởi cuộc lừa người, đem tôi trình-diện là em út Mai-nương, bụng trẻ-con chúng tôi cũng hơi lấy điều làm thú. Lẽ thứ
hai là bởi tôi cũng muốn thừa lúc người ta ăn cơm với tình-nương của tôi mà kéo
nhau vào, để ông già dầu có muốn lả-lơi bỡn-cợt, cũng còn phải ngượng. Định trước
với nhau đến lúc ông già cơm xong, đòi vào phòng nàng đi ngủ, thì Mai-nương tảng lờ hãy xin ra ngoài với
tôi một lát. Giữa lúc đó thì Lệ-cốt
đi mượn cỗ xe đến chực ngay trước cửa.
Bữa cơm tối đã đến,
phú-ông khéo tới chẳng sai nửa phút. Lệ-cốt
và Mai-nương khi ấy túc-trực ở trong
phòng ăn. Phú-ông mở miệng ra chào mầng câu thứ nhứt đã thấy chảy ra tiền bạc rồi.
Nào là biếu chuỗi hạt-trai quấn cổ, nào là vòng, nào là xuyến, nào là nhẫn mặt,
nào là hoa tai, một chập cũng đã đủ nghìn ê-cưu
rồi. Rồi lại còn tính ra sáu tháng lương trước, mà phát cho toàn bằng tiền vàng
mới, cộng là 2.400 phật-lăng. Đã bấy
nhiêu thứ, lại còn tra thêm gia-vị, những lối hôn tay quì gối, theo đâu lễ-nghi
từ thuở tiền-triều. Mai-nương thế chẳng
từ-chối được, phải để lão hôn-hít một chập. Trong bụng tôi nghĩ có thế tiền của
lão mới hóa ra tiền của nàng được. Tôi thì đứng chờ ngoài cửa, chờ cho Lệ-cốt gọi vào thì vào.
Khi Mai-nương đã thâu lễ cất cả đi rồi, Lệ-cốt mới ra dắt tôi vào đưa đến trước
phú-ông mà bảo tôi vái chào đi. Tôi cúi vái hai ba cái thật già-giặn. Lệ-cốt giới-thiệu mà rằng:
- Xin tôn-ông miễn
chấp cho thằng em nó nhỏ tuổi mới ở nhà-quê ra, chưa biết những lễ-phép
kinh-thành một chút nào cả. Nhưng rồi ra em nó nhờ cửa tôn-ông đây, có lẽ cũng
không mấy chốc mà theo đòi được đôi ba chút lịch-sự. (Rồi Lệ-cốt lại quay về phía tôi mà rằng): Chú ở đây rồi ra thường được
trông thấy tôn-ông đi lại, nên có ý xem-xét những cách con người lịch-sự mà bắt-chước
lấy. Khôn-khéo ra thì chẳng mấy chốc đã nên người.
Lão-già hình như
ưa tôi. Gọi lại gần mà vỗ má đôi ba cái, khen tôi giỏi trai đẹp-đẽ, rồi khuyên
dạy tôi ở Ba-lê chớ nên la-cà bạ đâu
đi đó, mà tập-tành những thói ăn chơi. Lệ-cốt
đoan kết với phú-ông rằng tính-khí tôi ngoan lắm, chỉ chăm-chỉ một sự học-hành
để đi tu mà thôi. Gã lại khen riêng tôi từ thuở nhỏ có thói bày bàn thờ, tụng-niệm
làm cách tiêu-khiển.
Lão già lại nâng
lấy cằm tôi hất lên mà rằng:
- Cậu em này giống
chị Mai-nương lắm nhỉ?
Tôi làm ra cách
thật-thà mà đáp rằng:
- Thưa ngài, chị
em ruột thịt liền nhau như thế, trách nào chẳng giống. Bởi thế tôi yêu chị tôi
quá thể, thưa ngài ạ.
Phú-ông ngảnh mặt
vào Lệ-cốt mà rằng:
- Đó, nghe
không? Cậu em này ăn nói có nhiều trí khôn! Tiếc thay không được giao-thiệp với
người ta cho lắm.
Tôi nói: Thưa
ngài, ở nhà-quê tôi đi lễ thường gặp nhiều người ngu-ngốc ở trong các giáo-đường.
Ở Ba-lê chẳng lẽ tôi lại không gặp được
nhiều kẻ ngu-ngốc hơn tôi nữa hay sao.
- Lạ chưa! thằng
bé nhà quê sao nói được những câu đáo-để như vậy?
Trong suốt một bữa
cơm, câu chuyện đối đáp đại cương như thế cả. Mấy lần xuýt nữa tiết lộ cả ra,
vì Mai-nương tính hay cười quá. Cứ mỗi
câu nói là nàng cười bò lăn bò càng. Nhân lão bắt hầu chuyện cổ-tích cho vui,
tôi nghĩ ra được một câu chuyện lão già say mê sắc dục, bị chúng lừa cho y như
là chuyện hiển-nhiên của lão vậy. Tôi coi hình dung lão mà tưởng tượng ra một
vai trong chuyện, giá đem so với lão thì thật giống nhau bên mười bên chín. Hai
anh em nhà Mai-nương ngồi nghe cứ run
lên lẩy-bẩy, nhứt là lúc tôi tả cái chân-dung lão-nhân hiếu sắc. Cũng may mà
con người ta có cái lệ nom thấy chân-tướng mình hễ tướng nhiều chỗ xấu, thì dầu
hệt đến đâu cũng ít kẻ nhận ra; thế mới biết thế-gian không mấy kẻ chịu mình là
xấu. Vả tôi cũng khéo liệu lời, lúc nào xem nét mặt người nghe thấy hơi có
nguy-hiểm, thì hòa thêm mấy nét pha vào bức ảnh truyền-thần, nó hóa ngay ra người
khác, khiến cho lão cũng phải cười mà chê cái lão trong chuyện là xấu. Sau này
rồi độc-giả hiểu rõ vì cớ làm sao mà tôi kể dàng-dênh câu chuyện ấy.
Tiệc tan, đến giờ
đi nghỉ, lão ngà ngà nói đến chuyện trêu hoa ghẹo nguyệt, rồi lại bóng bảy để tỏ
ra rằng nóng việc động phòng. Lệ-cốt
và tôi biết ý, lui ra. Lão gọi người nhà đưa vào phòng nghỉ, còn Mai-nương thì
tìm cớ xin ra một lát. Cỗ xe chờ ở đàng xa, thấy chúng tôi thập thò ra cửa thì
đánh lại gần, chỉ trong giây phút, ba chúng tôi đã đi cách xa cái nhà thuê
riêng của lão phú-hộ.
Tuy rằng tôi ngẫm
ra biết việc đó là một việc đảo-điên, nhưng xét trong các việc đảo-điên của tôi
từ thuở khôn lớn cho đến bây giờ thì việc đảo-điên ấy còn là nhẹ tội nhứt. Tôi
lấy việc cờ gian bạc lận khi trước làm đáng ân-hận hơn nhiều! tuy nhiên của
phi-nghĩa thế nào cũng vẫn là của phi-nghĩa. Hai chuyến đi lừa người mà chẳng lần
nào được ăn cả, mà ý trời xanh cũng còn tựa kẻ lương-tâm, cho nên tội của tôi
nhẹ nhứt mà việc báo ứng lại đau đớn hơn trước.
Chẳng bao lâu phú-ông chờ mãi chẳng thấy nàng vào, biết là mắc mưu lừa đảo. Không biết ngày đêm [ngay đêm] hôm ấy, thì lão có sai ai đi tầm nã chúng tôi hay không, nhưng về sau thì biết rằng lão thần-thế lắm, đồng tiền bỏ ra, không núi nào cao, không sông nào sâu, mà chẳng thăm dò được khắp. Vả chúng tôi lại là một lũ trẻ người non dạ, nghĩ đất Ba-lê là to lắm, nhà mình ở tận đầu này, nhà phú-ông ở tận cuối kia, rộng dài như chim trên trời, như cá dưới nước, ai mà tìm được, cho nên không có giữ gìn chi hết. Chẳng bao lâu phú-ông không những dò ra chỗ chúng tôi cư-trú, biết hết tình cảnh hiện-đương của chúng tôi thế nào, mà lại còn biết được cả đến căn do tôi, sự trước của tôi với nàng đem nhau đến ở Ba-lê ra làm sao, việc nàng đi lại với B. phú-hộ trước thế nào, rồi nàng lừa bỏ B. phú-hộ mà đi theo tôi ra thế nào; nói tổng lại thì bao nhiêu những nỗi lăng-nhăng đê-tiện nhứt của chúng tôi, lão thăm dò ra hết. Lão bèn quyết chí trình quan để quan cho đi tróc nã chúng tôi, coi như một lũ đãng tử, cần phải trừng giáo, chứ cũng không coi như quân gian đi trộm cắp.
Chẳng bao lâu phú-ông chờ mãi chẳng thấy nàng vào, biết là mắc mưu lừa đảo. Không biết ngày đêm [ngay đêm] hôm ấy, thì lão có sai ai đi tầm nã chúng tôi hay không, nhưng về sau thì biết rằng lão thần-thế lắm, đồng tiền bỏ ra, không núi nào cao, không sông nào sâu, mà chẳng thăm dò được khắp. Vả chúng tôi lại là một lũ trẻ người non dạ, nghĩ đất Ba-lê là to lắm, nhà mình ở tận đầu này, nhà phú-ông ở tận cuối kia, rộng dài như chim trên trời, như cá dưới nước, ai mà tìm được, cho nên không có giữ gìn chi hết. Chẳng bao lâu phú-ông không những dò ra chỗ chúng tôi cư-trú, biết hết tình cảnh hiện-đương của chúng tôi thế nào, mà lại còn biết được cả đến căn do tôi, sự trước của tôi với nàng đem nhau đến ở Ba-lê ra làm sao, việc nàng đi lại với B. phú-hộ trước thế nào, rồi nàng lừa bỏ B. phú-hộ mà đi theo tôi ra thế nào; nói tổng lại thì bao nhiêu những nỗi lăng-nhăng đê-tiện nhứt của chúng tôi, lão thăm dò ra hết. Lão bèn quyết chí trình quan để quan cho đi tróc nã chúng tôi, coi như một lũ đãng tử, cần phải trừng giáo, chứ cũng không coi như quân gian đi trộm cắp.
Hôm ấy tôi với nàng còn nằm, bỗng thấy một tên đội với chừng sáu tên lính cảnh-sát gọi cửa mà vào. Trước hết bao nhiêu tiền bạc của quí, quân ấy thu lấy cả, rồi dựng chúng tôi dậy, bắt chúng tôi bận quần áo vào mà đi theo chúng nó ra cửa. Ra đến đường thì thấy đã sẵn hai cỗ xe. Nàng thì họ bắt bỏ lên một cỗ xe, rồi đem đi đâu mất. Tôi thì họ để lên cỗ xe kia, mà điệu cho đến nhà-ngục Thánh La-da.
Trời đất ơi! ai có từng trải những bước ấy mới hiểu được cái xót-xa đau-đớn của tôi khi bấy giờ nó thế nào. Những quân đâu mà ác-nghiệt làm vậy, nó không cho hai đứa hôn nhau một lần sau rốt, rồi hãy phân rẽ nhau ra. Nói với nhau một lời nó cũng không cho được nói. Về sau mãi mãi tôi chẳng có tin tức gì của nàng cả, không biết nó đem nàng đi đâu, nó hành hạ nàng những cách gì. Cũng là một cái may cho tôi, ví nếu tôi biết ra mà không làm gì được, thì có lẽ tức lên mà hóa rồ hóa dại, hoặc uất lên mà chết mất.
Sau tôi mới biết ra rằng hôm ấy tình-nương của tôi bị bắt đem giam trong một sở, đến bây giờ tôi nghĩ đến, hãy còn kinh-khiếp, không dám gọi tên là sở gì. Than ôi! một mảnh hồng-nhan thế ấy, ví dù những khách đế vương mà cũng mắt ta, lòng ta, thì phỏng tôn lên bậc hậu-phi nào cho xứng đáng sắc tài này! Họ đãi nàng không tàn nhẫn lắm, duy họ chỉ giam cầm chặt chẽ, ngày ngày bắt làm công việc gì đó, rồi cho ăn hai bữa rau dưa. Mãi mấy tháng về sau, tôi mới được biết tin ấy. Trước tôi cũng phải giam cầm khổ sở, ú-lì chẳng biết một thí gì.
Hôm ấy họ bắt tôi đi, họ định giải tôi đi đâu, họ không nói cho tôi biết, thành ra tôi đến cửa nhà-ngục Thánh La-da mới nhận ra. Như lúc ấy thì tưởng chừng tôi có thể chết được, tôi xin chết ngay còn hơn là bị cái nhục này. Số là tôi những nghe nói đến tên cái nhà ấy, đã sởn lông rồi. Khi tôi vào trong cửa, những quân ngục-tốt đến khám mình tôi xem có khí-giới, hoặc đồ nhọn, đồ sắc gì nữa không thì tôi lại kinh nữa.
Được một lát thì
ông cố coi nhà trừng-trị ấy ở trong bước ra. Thì ra ông đã biết trước tôi rồi,
ông ngọt-ngào mà chào hỏi tôi. Tôi ngỡ ông sắp ra làm điều gì tàn nhẫn với tôi,
tôi vội-vàng thưa trước ông rằng:
- Cha ơi, xin
cha chớ làm nhục con! thà con muôn chết còn hơn chịu một sự nhục!
Ông cố vội-vàng
đáp lại:
- Không, không.
Điều ấy công-tử đừng sợ. Công-tử ở đây cứ ngoan-ngoãn, thì rồi đôi ta tử-tế với
nhau vô cùng.
Cố lại mời tôi
lên một cái phòng trên từng gác. Tôi lẳng lặng đi theo. Những quân áp giải đưa
tôi lên đến tận cửa phòng. Đến đó, ông cố bảo họ lui ra. Tôi mới hỏi:
- Thưa cha, vậy
là con làm tù của cha đó hay sao? Cha bắt con mà làm gì đây?
Ông cố rằng thấy
tôi ăn nói biết điều như vậy thì mầng, phận sự ông là săn nom tôi, và cố sức
răn bảo, đề [để] khiến cho tôi biết ưa điều đạo-đức và điều tôn-giáo; mà phận sự
tôi là cố gắng nghe lấy những lời khôn lẽ phải. Nếu tôi chịu khó chăm chỉ,
không phụ công giáo-huấn, thì dẫu là phận thằng tù, nhưng cũng sẽ có cảnh vui.
Tôi liền đáp:
- Cảnh vui ư?
thưa cha! Cha há lại không hay duy chỉ có một sự làm được cho con vui mà thôi
à?
- Cha cũng biết
rồi. Nhưng cha còn ước ao con có ngày đổi cái sở-thích ấy đi.
Tôi nghe câu đáp
lại ấy, hiểu rằng ông cố này biết chuyện trước của tôi rồi mà có lẽ biết cả
danh tính nhà tôi. Tôi vội hỏi có phải thế chăng, thì ông gật đầu nói rằng đã
biết hết.
Đó là cái hình
phạt nặng nhứt cho tôi. Tôi mới ràn-rụa nước mắt ra mà khóc-lóc. Nghĩ mình cực-khổ
vô cùng, không còn có hi-vọng gì nữa. Thành ra việc xấu của mình người quen kẻ
thuộc, ai ai cũng đã biết cả, mà thật là dê-dếu cho cha mẹ họ hàng, thiên-hạ
người ta chê cười, không biết thế nào mà kể. Trong tám ngày trời, tôi rũ-rợi
không còn muốn nghe, muốn nói với ai, chỉ phẫn chí về một cái cực-nhục của
mình. Đến nỗi cái tình-cảnh phải biệt-ly với Mai-nương cũng không thêm đau-đớn cho tôi được chút nào nữa, bởi vì
cái đau-đớn của mình nó đã đến cực-điểm rồi. Sự tiếc nhớ Mai-nương là cái cảm-tình đã có trước rồi, mới đến cái xót-xa này
nó lại to bằng gấp mấy, thật là xấu, thật là nhơ-nhuốc! Mặt nào mà còn dám giơ
ra cho ai coi nữa đây!
Thế-gian có ít
người biết cái sức mạnh của những cách cảm-khái đặc-biệt ấy. Kẻ tầm-thường chỉ
cảm độ năm sáu mối tình mà thôi, cả cuộc sinh-hoạt cảm-động ở trong cái giới-hạn
ấy, ngoại-giả hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục, là những thường tình, còn thì họ
không biết cảm cái gì nữa cả. Duy những bậc có chí-khí hơn người, là biết động
lòng trăm nghìn cách khác. Hình như những bậc ấy có hơn ngũ-quan ngoại-giả mấy giác-bộ
thường của người ta, họ lại có những giác-bộ riêng, để mà cảm những tình, ngụ
những ý mà người thường không cảm, không ngụ được. Mà những bậc có cái giác-bộ
riêng ấy, hình như cũng biết rằng mình có, mà có là hơn người ta có ý vẻ-vang ở
cái cảm-khái đặc-biệt đó. Bởi lẽ ấy mà người quân-tử cực ở sự kẻ khác chê cười
khinh-bỉ hơn là kẻ tiểu-nhân nó không cần gì sự ấy. Cái xấu-hổ thành ra một cái
đau-đớn to hơn cả mọi sự đau-đớn.
Khi tôi bị giam ở
Thánh La-da, thì tôi có cái đặc-biệt
quyền lợi buồn tênh ấy. Cái bộ tôi khi ấy sầu thảm thái quá, đến nỗi ông cố sợ
tôi phát phiền mà chết mất, phải chiêu đãi tôi hết cách tử tế. Mỗi ngày vào
thăm tôi đến hai ba lần. Thỉnh-thoảng đem tôi đi bách-bộ ngoài vườn vừa đi vừa
khuyên dỗ vừa dạy bảo tôi những điều hay lẽ phải. Tôi nhu mì mà chịu dạy, tôi lại
tỏ bụng cảm ân. Cố thấy vậy lại càng mong-mỏi cho tôi lắm lắm. Một hôm cố bảo
tôi rằng:
- Công-tử bẩm
tính hiền-lành, ngọt-ngào như vậy, ta không hiểu làm sao lại nên được câu người
ta đổ tội cho công-tử ăn chơi trái ngược luân-thường. Ta xét việc công-tử có
hai điều khả ngạc-nhiên. Một là công-tử tính-nết bẩm sinh tốt như thế, sao lại
đam-mê sắc-dục quá đa. Hai là công-tử đã mấy năm hư thân dại-dột như thế rồi,
sao mà còn có bộ sẵn tai nghe lời ta khuyên dạy? Nếu là tại công-tử biết hối
quá, thì đó là một việc Chúa Trời tha-thứ ít có ở trong thiên-hạ. Ví nếu là
tính-khí tốt bẩm sinh vẫn thế, thì ta mầng cho công-tử, và ta tin-mong rằng
không cần phải lưu công-tử tại chốn này bao lâu nữa, mà khiến được công-tử lại
nên một con người có đức-hạnh, có tiết-độ.
Tôi nghe ông cố
khen tôi như thế, thì tôi mầng lắm. Tôi quyết lòng ăn ở hơn lên, để ông khen
thêm chút nữa, chắc đó là cách chóng ra ngoài nơi giam cấm. Tôi xin cố cho ít
sách mà đọc. Cố cho tự ý chọn, thì tôi chọn toàn những sách nói đạo-đức, cố lại
càng ngạc-nhiên nữa. Tôi làm ra dáng chăm học quá, cố chắc hẳn là tâm-tính tôi
đã đổi như ý cố sở-nguyện rồi.
Tuy nhiên, sự đổi
tâm tính ấy, thật chỉ có ở bề ngoài mà thôi. Giờ tôi xin đeo nhuốc mà thú thật
rằng khi tôi ở Thánh La-da, chẳng qua
tôi đóng một vai hề đạo-đức đó mà thôi. Khi tôi ở một mình thì nào có học-hành
gì đâu, tôi chỉ nằm rền-rĩ khóc than, mà nguyền-rủa cái đứa nào nó đã cho giam
tôi vào đó. Lúc nào hơi nguôi được nỗi sầu ấy, thì tôi lại đâm vào nỗi
tương-tư. Bấy lâu cách-biệt với nàng, đói no ấm lạnh thế nào không biết, những
sợ ngày biệt nhau là ngày vĩnh-quyết mất rồi, bấy nhiêu nỗi ngổn-ngang trong
lòng, làm cho tôi chẳng lúc nào khuây được. Lúc mới, tôi cứ tưởng Mỗ phú-hộ chỉ bẩm quan giam bắt một mình
tôi, còn nàng thì lão đem về nhà mà vui-thú lấy một mình. Nghĩ đến câu ấy thì lại
như dao băm từng khúc ruột.
Đêm ngày tôi cứ
nghĩ lẩn-thẩn như thế, khắc canh ngày một thấy dài ghê. Duy chỉ còn hi-vọng ở
cái vai hề mình đóng nữa mà thôi. Tôi có ý nhìn từng nét mặt, nghe từng tiếng
nói của ông cố, đề đoán xem ông xử đoán mình thế nào, rồi tôi lại hết sức chiều
tính nết ông, những mong nhờ tay ông tế-độ, khiến người trên phóng-thích ra
cho. Tôi hết sức chiều ông như thế, thì hình như ông cũng xiêu lòng.
Một hôm kia, tôi
mới đánh bạo hỏi ông xem ông có thể buông tha được tôi ra chăng. Thì ông nói rằng
việc ấy tuy không phải ở quyền ông định được, nhưng có lẽ ông cứ sự thực mà nói
cùng Mỗ công rằng tôi nhân nay đà tri-quá,
thì dễ thường Mỗ công cũng sẵn lòng bẩm
lại với quan trên, để cho tôi được ân phóng-thích.
Tôi sẽ hỏi cố:
- Cha ơi, con tại
tù hai tháng trời ròng-rã, tưởng cũng đã đáng tội lắm rồi, dám mong phú-ông lấy
từ-tâm mà nói cho con được phóng-thích.
Cố bảo tôi muốn,
thì cố xin nói giúp với phú-ông. Tôi bèn van nài cố đi nói hộ.
Cách hai ngày
thì cố bảo tôi rằng phú-ông nghe người kể lại sự tôi ăn ở tại nhà tù như thế,
thì chẳng những quyết lòng nói cho tôi được tha ra, mà lại còn muốn thân hành
vào thăm tôi trong ngục-thất. Tuy cái hân-hạnh ấy, tôi không lấy gì làm vui cho
mình cả, song tôi nghĩ có vậy mới chóng ra ngoải, cho nên tôi cũng mầng lòng mà
đợi khách.
Phú-ông quả đến
thăm tôi. Hôm ấy tôi coi bộ người hình như thấy nghiêm-trang hơn và ít ngu-xuẩn
hơn cái hôm tôi gặp ở nhà riêng lão mướn cho Mai-nương ở. Phú-ông diễn-thuyết với tôi một hồi về sự dại của tôi
trước. Tôi nghe cũng không chướng tai cho lắm. Phú-ông lại nói để gỡ tật mình rằng
việc người ta ai chẳng có lúc lửa dục bừng-bừng khôn nén, nhưng mà dùng đến chước
lừa-đảo người ta những kế điêu-ngoan, man-trá, thì là những tội phải trừng phạt.
Tôi lấy dáng chịu
lụy mà nghe lời lão nói, thì hình như lão cũng đẹp lòng. Lão lại nói rỡn tôi mấy
câu về sự tôi với Mai-nương nhận nhau
đồng-bào tỉ-đệ, và tính tôi hay bày bàn thờ cúng bái, ý hẳn từ ngày vào Thánh La-da cũng chuyên-cần việc ấy lắm.
Tôi không giận mà nghe lão rỡn. Chẳng may cho lão mà lại chẳng may cả cho tôi nữa,
lão lại không rỡn thế mà thôi, lão lại còn thuật cho tôi biết rằng Mai-nương thì đã bị lão đem bỏ phúc-đường
(chỗ giam kẻ phụ-nữ bắt được làm nghề đĩ lậu). Tôi vừa thoạt nghe đến tiếng
phúc-đường, tôi đã rùng mình kinh-khiếp; tuy nhiên, tôi cũng hãy còn đủ sức nén
lòng khoan-hòa mà hỏi lại cho rõ, thì lão đủng-đỉnh mà rằng:
- Thật thế. Con
điêu, ta cho vào học chút nữ-tắc ở nhà phụ-nữ phúc-đường đã hai tháng nay rồi.
Ta ước cho nó cũng tu-tỉnh được như nhà con ở nơi ngục-thất Thánh La-da này.
Lúc ấy ví thử ai
dọa tôi khổ-sai chung thân, hay là trảm-quyết, tôi tưởng cũng không làm cho tôi
dẹp được cơn giận. Tôi nổi hung ngay lên mà nhảy xổ vào lão một cái dữ quá, đến
nỗi tay nắm được lão thì sức người tôi đã nhược mất nửa rồi.
Tuy vậy, cái sức
còn dư lại của tôi cũng đủ mạnh mà đè ngửa lão xuống đất, và nắm lấy cổ họng
lão. Tôi đương bóp hầu lão ặc-ặc, thì ở ngoài ông cố cùng mấy người thầy tu nữa,
nghe tiếng hùy-huỵch vật nhau và nghe lọt mấy tiếng lão kêu, đổ xô cả vào mà cứu
lão ra khỏi tay tôi.
Lúc ấy thì tôi
cũng đã mệt nhoài, thở không ra hơi nữa rồi. Tôi hồng-hộc mà kêu lên rằng:
- Trời đất cha mẹ
ơi! cơ-sự đã đến thế, thì tôi còn sống làm sao được nữa!
Nói rồi tôi lại
muốn nhảy xổ vào mà đánh cho lão-già một trận nữa. Họ ngăn tôi ra. Bấy giờ tôi
kêu, tôi khóc, tôi vật mình-mẩy dữ-dội quá. Tôi làm ra những sự quái-lạ, khiến
cho những người đứng đó không hiểu duyên-do, thì ai nấy nhìn nhau có phần ngạc-nhiên,
có phần e-sợ.
Trong khi ấy,
thì Mỗ phú-hộ sửa-sang mái tóc và
cà-vạt lại. Căm tức sàu cả bọt mép, lão mới truyền cho ông cố phải giam tôi lại
cho chặt, và trong nhà ngục có những hình phạt gì tàn-tệ hơn cả, thì đem ra mà
thi-hành cho tôi. Ông cố cãi cho tôi rằng:
- Tôn-ông quên
đi mất, công-tử đây là người quí-tộc, không thể để cho quân ngục-tốt làm nhục
công-tử được. Vả công-tử bẩm tánh rất hiền-lành, tự dưng công-tử làm hung như vậy
với tôn-ông, chắc không phải là không có cớ.
Lão phú-hộ nghe
câu ấy thì tức lắm, vùng vằng đi trở ra mà đe dọa rằng phen này sẽ nói với quan
trên bắt kỳ được ông cố và tôi phải chịu phép, cho mà biết tay thần-thế.
Ông cố sai mấy
người đạo-sinh đưa lão ra ngoài, còn ông ở lại một mình với tôi. Ông mới hỏi đầu
đuôi thế nào mà sinh ra sự đánh nhau vừa rồi đó.
Tôi vẫn còn khóc
hu-hu mà đáp cố rằng:
- Thưa lạy cha,
cha thử tính xem có nước đời nhà ai mà độc-địa, mà khoảnh-ác, mà tàn-nhẫn như
là lão đó không? Lão đâm cổ mổ ruột con, thật cũng không bằng. Thế này thì con
chết mất, chứ sống làm sao được đây cha! Âu là con xin kể hết cha nghe. Lòng
cha nhân-từ quảng-đại như thế, cha biết căn duyên, há lại chẳng thương con trẻ?
Tôi mới kể vắn tắt
cho cố nghe cái việc ngẫu-nhĩ gặp nàng khi trước, duyên nợ với nhan nên nỗi keo
sơn; rồi tôi kể trước khi xẩy bị người nhà nội phản, tiền bạc dồi dào là thế; kế
đến khi sa-sút, phú-gia ông ỷ của mà quyến dụ nàng; tôi thế bách phải toan mưu
lừa dối cho khỏi mất vợ. Đại-cương tôi cũng có đưa đẩy lời nói ít nhiều, để câu
chuyện khiến cho người thương hại vì ta. Tôi tổng kết:
- Lạy cha, bởi
thế mà Mỗ phú-ông khẩn khoản việc răn
dạy con-trẻ dại. Kì thực là lão ỷ thế lấy hình-pháp làm việc tư-thù. Sự ấy thì
con sẵn lòng dung thứ cho lão. Nhưng lão thật đa-đoan thái quá, đã bắt giam con,
lại nỡ lòng vùi rập liễu đào, đem người rất yêu rất quí của con mà bỏ vào nơi
ô-uế, để trăm năm không sạch tiếng hôi tanh. Thế mà lão lại còn cả gan dám vào
tận đây mà mở miệng khoe thần khoe thế, chọc cho con thêm tức nỗi nghèo hèn.
Cha ơi, người yêu của con như thế, mà nỡ nào đem bỏ phúc-đường. Trời đất cao
dày có thấu? con người quốc sắc thiên hương, đáng đem mà để lên ngồi cái ngai
cao nhứt ở trong thiên-hạ, thế mà nỡ lòng nào đem bỏ vào một chốn cực-nhục
đê-tiện, như thể một đứa ca-nhi kĩ-nữ ô danh vậy! Cha ơi, như thế thì tài nào
mà con sống được, lại chẳng xót xa, lại chẳng hổ thẹn mà chết đây?
Ông cố thấy tôi
đau đớn thái quá như vậy, thì khéo kiếm lời ngọt ngào mà khuyên dỗ. Nói bây giờ
mới biết rõ đầu đuôi, trước vẫn tưởng tôi là một đứa ăn chơi đãng-tử may gặp Mỗ phú-ông vì tình bạn hữu với cha tôi
xa vắng, mà thay quyền trừng phạt. Cố rằng Mỗ
phú-ông thường vẫn kể công như thế. Nếu sự quả như lời tôi mới nói đó, thì công
chuyện của tôi chắc rằng sẽ xoay ra thế khác, cố đem chuyện thật đầu đuôi như
thế mà kể với quan trên, thì quyết được ân phóng-thích.
Cố lại hỏi tôi
sao không gửi thư tin gì về nhà cho cha mẹ hay, cha mẹ biết tin giam cấm thì hẳn
là lo chạy cho ra. Tôi thưa lại phần cha mẹ già đau xót, phần sợ tai tiếng đến
nhà. Sau hết cố hẹn với tôi đi ra bẩm ngay với quan chánh Cảnh-sát, nói rằng:
- Con để cha cứ
ra bẩm quan chánh Cảnh-sát, dầu chẳng được việc gì, cũng đón trước được cái
lòng điên-đảo của Mỗ phú-gia. Lão hầm
hầm mặt giận mà ở đây bước ra, chắc rằng có sự chẳng lành, vì thần-thế lão to lắm
đó.
Tôi nóng lòng
nóng ruột mà chờ ông cố trở về, khác nào đứa có tội chờ lời thẩm kết một sống
hai chết của quan Tòa vậy. Tôi nghĩ đến nàng phải vào phúc-đường thì trong lòng
cực-khổ khôn nói xiết. Nơi đó là một nơi ô-uế, người đàn-bà đã vào đến đó là mất
danh tiết một đời. Vả tôi lại không biết họ đem nàng vào đó thì họ đãi nàng
tàn-tệ ra thế nào? Chỉ văn thanh thấy một vài cách áp-chế kẻ phụ-nữ ở trong sở ấy,
những nghe thấy nói mà kinh. Tôi quyết lòng đi cứu nàng cho được, muôn sông
cũng lội, muôn non cũng trèo, mấy mươi ức triệu lần chết, tôi quyết cũng không
quản. Ví nếu tôi không nghĩ được cách gì ra khỏi Thánh La-da, thì chắc hẳn tôi dám đem lửa mà đốt cho cháy nhà ngục-thất.
Tôi bèn nghĩ đến
phương-kế trốn ra cho khỏi, để ngộ quan trên cố tình cầm giữ, thì đem kế ấy mà
quyết thi-hành. Bao nhiêu não-lực của tôi, tôi đem hết ra mà nghĩ-ngợi, tính
ngược tính xuôi, đủ các cách làm, mà không nghĩ được cách nào diệu cả, chỉ những
e thoát khỏi chẳng thấy đâu, cơ-mưu làm không khéo mà tiết-lộ ra thì đang tội
nhẹ lại hóa tội nặng, đang buông lỏng lại hóa buộc chặt. Tôi sực nhớ đến một
vài người bạn thân, có thể cầu-cứu được, nhưng biết làm thế nào mà thông được
tin mình cho những người ấy biết bây giờ? Sau cùng tôi nghĩ ra một kế, chắc là
kế diệu nhứt, quyết hẳn phải được. Tôi tính chờ ông cố đi nói cho tôi về đã,
xem nói mà đắt thì thôi, bằng nói không xong thì tôi quyết là dùng đến kế hay mới
nghĩ ra sau đó.
Một lát thì ông
cố về. Tôi nhìn mặt cố từ đàng xa, chẳng thấy thí gì là thí hớn-hở, chắc không
phải là người đem tin mầng rồi. Cố về cố nói:
- Con ơi, cha đã
vào hầu quan chánh Cảnh-sát, nhưng cha vào hầu ngài khí chậm quá. Mỗ phú-ông đã vào hầu ngài từ trước cha,
thì ra lão ở đây lão đi ra, lão vào liền ngay đó, lão bẩm báo làm sao chẳng biết,
cha ra đến nơi thì vừa thấy quan-lớn ngài truyền lệnh giam giữ con cho chặt. Tuy
nhiên, cha cũng cứ chuyện thật của con, cha đem kể ngài nghe, thì trận lôi-đình
hình như cũng ngớt. Ngài cười lão-già tính-khí tòm-tem, rồi ngài dạy cha rằng
phải giữ con cho đủ sáu tháng, để lấy lòng phú-ông một chút; ngài lại truyền
thêm một câu rằng: Vả sự giam chấp đó, cũng hơi có ích cho thằng bé, rồi ngài dặn
cha rằng từ nay phải đãi con một cách nhân từ. Trước kia không có ai dặn, cha
còn đãi con như thế, phương-chi là từ nay được lệnh quan trên.
Cố nói dông-dài
mãi mãi, để cho tôi kịp nghĩ được một câu hay, tôi nghĩ rằng nếu bây giờ ta ra
mặt nóng-nảy muốn ra ngoài quá, thì có lẽ hỏng mất cơ-mưu. Vậy thì ta phải làm
ra dạng đành lòng ở đó, gặp người thương mến cũng là may, sau tôi chỉ xin cố
cho tôi có một thứ ân đặc-biệt, là được thông tin với người bạn tu-hành ở tràng
Thánh Xung-bích, và cho phép bạn thỉnh-thoảng
vào thăm tôi ở nơi ngục-thất, cố liền thuận cho tôi điều ấy.
Người bạn tôi muốn
thông tin cho biết đó chính là Tỉ-ba.
Không phải là tôi có mong gì Tỉ-ba
giúp được tôi trong việc trốn đâu. Song tôi muốn dùng bạn một cách lắt-léo mà
không cho bạn biết. Nói tổng lại thì mưu của tôi định bày như thế này: Việc
tháo cũi xổ lồng thì phải giao cho Lệ-cốt
kiếm lấy vài người trong bọn. Viết thư cho Lệ-cốt
thì khó, phải viết qua tay Tỉ-ba mới
được. Nhưng Tỉ-ba vốn đã biết Lệ-cốt là anh tình-nương tôi rồi, chắc
không khi nào bạn có chịu mang tin của tôi cho người ấy. Vậy thì thư gửi cho Lệ-cốt, tôi phải bỏ vào một phong-bì
khác, để gửi cho người nào lương-thiện khác, rồi nhờ người ấy chuyển đưa cho,
thế thì họa may nhờ Tỉ-ba có nhận mà
đưa giùm. Nhưng việc khó-khăn như thế, đưa thư cho nhau, e nữa không đủ, tôi cần
phải gặp mặt Lệ-cốt. Trong thư tôi mới
bảo hắn giả danh là anh cả tôi ở nhà-quê ra, xin vào thăm em trong ngục-thất,
nhiên-hậu mới bàn định với nhau những phương kế chắc nhứt và nhậy nhứt thì
dùng.
Ông cố liền sai
người ra bảo Tỉ-ba rằng tôi muốn gặp
mặt. Tỉ-ba vốn biết tôi ở Thánh La-da rồi. Có lẽ bạn tôi biết tin ấy
thì cũng mầng thầm, mong rằng có họa thế phen này tôi mới tu-tỉnh lại. Bạn được
tin mời, bạn liền chạy tới.
Hai anh em trò
chuyện với nhau, thật là thân thiết. Bạn tôi muốn biết ý tôi định những sau này
ăn ở làm sao. Tôi thành-thực mà cởi mở bụng dạ ra cho bạn xem hết, duy trừ có
việc mưu đồ đi trốn là tôi giấu kín mà thôi. Tôi nói với bạn rằng:
- Anh ơi, ai kia
thì em còn giấu giếm. Đến như trước mắt anh, thì em bụng dạ làm sao, há lại chẳng
phơi ra làm vậy. Nếu anh nhìn thấy em ngày hôm nay, mà anh tưởng là nhìn thấy một
người ngoan nết, tiết độ, đã tu-tỉnh được sự đam-mê, đã quên đứt được nàng Mai-nương Lệ-cốt rồi, thì anh thật nhìn
sai. Em xin thú thật rằng bốn tháng về trước anh gặp em thế nào thì bây giờ anh
gặp em cũng như thế, vẫn say, vẫn đắm, vẫn yêu, vẫn thương, vẫn khổ vì một tấm
tình bó-bíu; vẫn nhiệt thành mà đuổi theo cho kì được một cái sướng thỏa với
nàng mà thôi.
Bạn tôi nghe tôi
nói thế, thì lắc đầu mà nói rằng tôi đã liều mồm mà nói đến câu ấy thì tội nan
dung thứ. Thế mới hay trong những kẻ phạm tội, có kẻ đắm say ở cái khoái-lạc
hư-vô của sự ăn chơi đến nỗi dám đại thanh tật hô mà nói rằng ăn chơi sướng hơn
là đạo-đức. Than ôi! những kẻ ấy không biết rằng cái khoái-lạc họ thích đó, nhứt
dai [giai] là bào-ảnh mà thôi, chứ có phải là cái khoái-lạc thật ở đâu. Nhưng
mà công-nhận như tôi rằng vì sự đắm say nên tội lỗi, nên khổ sở, mà lại cứ thuận
tình ở nơi tội lỗi, ở nơi khổ sở, thì thật là một ý-tưởng phản-đối, cảm-tình phản-đối
lạ lùng, tủi thay cho cái lý tính của một đứng nam-nhi, trời cho đã biết nghĩ
mà lại từ chối cái điều mình đã nghĩ ra.
Tôi đáp lại:
- Anh ơi, đánh
người ta, người ta không kháng cự lại mà thắng, thì dễ thay! dễ thay! anh đã
thuyết lý, để em cũng xin có một đôi lời biện bạch. Thế anh đã chắc rằng cái
khoái-lạc của sự đạo-đức là khoái-lạc thật, không có điều gì khổ sở, điều gì
cách trở, điều gì phiền não theo sau ru? Thế thì những chỗ ngục hình, những
cách áp chế của phường bạo-chúa hôn-quân thường đem ra mà làm cực người ngay,
anh gọi tên nó là những cái gì? Hay là anh cũng sảng như mấy người tin thượng
huyền-lý mà nói rằng phàm những cái làm đau xác thịt, là khoái-lạc cho linh-hồn?
Câu ấy thì em chắc là anh không dám nói, vì đó là một câu ngược lý, tài biện bạch
nào cũng không chống cho đứng nổi. Vậy thì cái khoái-lạc của đạo-đức mà anh
ca-tụng luôn mồm đó, cũng có lẫn lộn với muôn vàn nỗi đau đớn, nỗi cực khổ. Nói
cho đúng nghĩa thì chẳng qua nó cũng là mớ ưu phiền kết lại, hình như một cái
màn lụa, để cho bọn anh mơ hồ mà soi qua tưởng thấy cái khoái-lạc đâu ở bên
kia. Ấy thế mà cái sức mơ-tưởng của người ta làm được cho kẻ đau thấy sướng, khổ
thấy vui, cũng bởi chưng tưởng rằng bên kia cái sầu-não khổ-sở, có cái khoái-lạc.
Cái sự tôi mơ-tưởng rằng bên kia cái sầu-khổ của tôi, cũng có một cái khoái-lạc
của tôi, ngẫm ra cho cùng, nó cũng là một giống mơ-tưởng với cái mơ-tưởng của
anh, thì sao anh lại gọi nó là một cuộc ý-tưởng phản đối, cảm-tình phản đối? Tôi
yêu Mai-nương. Vì sự yêu-đương ấy mà
tôi phải chịu trăm nỗi đắng-cay sầu-khổ, nhưng tôi trông qua cái màu sầu-khổ ấy
thì tôi hi-vọng thấy một cuộc cùng nàng an-nhàn vui vẻ. Cái lối tôi đi là một lối
thảm-sầu, nhưng đi con đường gai góc mà mong đến chỗ cực-điểm khoái-lạc của
mình, thì chông gai cũng hóa ra hoa. Tôi chật-vật để đến được với nàng trong ba
năm mà đến được trong một giây phút thôi, tôi cũng bõ hết cả những điều chật-vật
rồi. Vậy thì bên anh với bên tôi, mắt tôi nom mọi sự đều tương-tự cả. Có khác
nhau chút nào chăng nữa, thì tôi tưởng cái chỗ khác ấy, hay ở bên tôi mà dở ở
bên anh. Bởi vì cái khoái-lạc của tôi mong đợi, là một cái khoái-lạc gần, mà
cái khoái-lạc của anh mơ-tưởng là một cái khoái-lạc xa. Cái khoái-lạc của tôi
cùng với mọi điều cực-khổ là đồng chủng-loại, nghĩa là có cảm-giác đến ngũ
quan, lúc khổ thân mình thấy khổ thế nào, thì lúc sướng thân mình cũng thấy sướng
như thế. Còn cái khoái-lạc của anh, thì thật là không biết nó về chủng loại
nào, chỉ nhớ có cái lòng thành tín mà chắc được rằng có nó mà thôi.
Tỉ-ba coi dạng nghe tôi nói thế mà giật mình lùi lại hai bước,
nghiêm nét mặt mà rằng những lời tôi nói đó chẳng những ngược lý mà lại còn
trái hết cương-thường tôn-giáo:
- Anh đem những
nỗi cực-khổ của anh ra mà tỉ với những cách gian-truân vì đạo, thật là một ý-tưởng
ngỗ-nghịch hỗn-hào, ngạo-mạn quỉ thần trời đất.
- Em xin thú rằng,
sự so sánh ấy không thích hợp nhưng mà xin anh đã bác em thì cẩn thận ở chỗ
này: Việc thuyết-lý của em không phải lấy cuộc so-sánh ấy làm cột-cái đâu.
Nguyên em thấy anh cho kẻ mê gái vô duyên là một cuộc cảm-tình phản-đối thì em
có ý giảng nghĩa cái cuộc phản-đối ấy cho anh nghe đó mà thôi. Em tưởng em đã
phân biện tách bạch ra rằng nếu đó là một cuộc cảm-tình phản-đối, thì bọn đạo đức
anh cũng ở trong một cuộc cảm-tình phản-đối khác. Em coi hai lẽ tương đồng là
tương đồng theo cái nhỡn-giác đó mà thôi. Giờ em cũng vẫn còn cãi rằng hai lẽ
tương đồng như thế. Hoặc anh cãi lại em rằng, cái giới-hạn của đạo-đức cao hơn
cái giới-hạn của ái-tình nhiều. Câu ấy nào có ai từ chối không nhận? Nhưng mà
đó không phải là vấn-đề đôi ta đương giải đâu mà. Chính-đề của câu chuyện anh
em ta đàm-luận, là đàm-luận về cái sức chịu được cực-khổ của ái-tình, đối với
cái sức chịu được cực-khổ của đạo-đức. Ta thử lấy cuộc kết-quả mà suy
nguyên-nhân, thì có phải bên đạo-đức biết bao nhiêu người đào tị, nghĩa là phá
giới, đương đạo-đức mà đâm hư dại. Mà bên ái-tình thì ít kẻ đào-tị lắm. Lấy đó
mà suy, thì bẩm sinh cái tính người, ta nên thiết-tha về ái-tình hơn là thiết-tha
về đạo-đức. Hoặc-giả anh lại cãi em câu nữa, rằng kẻ làm việc đạo-đức họa là mới
có khi gặp hoạn-nạn, chứ có phải hoạn-nạn là một sự bất đắc bất nhiên của nhà đạo-đức
đâu. Những phường bạo-quân ác-chúa đời bây giờ còn đâu nữa. Bây giờ làm gì có
câu-rút đề hành hình kẻ có đạo nữa đâu. Biết bao nhiêu là kẻ đạo-đức được trúng
câu tích thiện phùng thiện, được an nhàn sung sướng. Anh nói thế, thì em lại
xin thưa anh rằng cũng nhiều kẻ trai gái mê nhau mà được an nhàn sung-sướng. Mà
có khác nhau một điều chăng nữa, lại là một sự khác nhau lợi cho bên ái-tình. Bởi
vì trong cuộc ái-tình dẫu kẻ yêu nhau cũng có một đôi khi phụ-bạc cùng nhau,
nhưng yêu nhau lúc nào, hãy biết vui-vẻ sung-sướng với nhau một lúc ấy. Đến như
tôn-giáo thì chỉ buộc người ta những việc buồn-rầu đau-đớn mà thôi.
Tôi nói đến câu ấy,
tôi thấy cái vẻ mặt bạn tôi lại thêm ưu-phiền, thì tôi lại vội-vàng chống-chế
ngay rằng:
Tôi nói mấy câu sau đó, thì coi vẻ mặt bạn thấy dần dần tươi-tỉnh lại, bạn cũng chịu rằng trong tư-tưởng đó, lắm lẽ xuôi tai, duy bạn chỉ hỏi có một câu: sao tôi đã biết trời có đền công kẻ nhịn như thế, mà tôi lại không cố nhịn? Tôi mới đáp rằng:
- Anh ơi, đó là chỗ hèn-yếu của cái gan em. Em biết rằng nghĩa-vụ thì phải theo như câu em thuyết-lý đó mà làm. Nhưng mà việc cử-chỉ của em, giờ có do quyền em nữa đâu? Phép thiêng-liêng nào mà khiến cho em quên được cái vẻ đẹp của Mai-nương bây giờ?
Bạn rằng:
- Đó lại là một
câu ý-tưởng phản-đối lạ-lùng của bọn môn-đồ ông Jansénius.
- Em không biết
em có phải là người của đạo-phái đó chăng? Mà lý ưng phải theo môn nào, giờ em
cũng không được rõ cho lắm. Duy em biết rằng câu nói đó là câu nói rất thật.
Mấy câu đàm-luận,
dầu chẳng được việc gì cho tôi, cũng được một điều khiến cho bạn thương tình mà
không nỡ bỏ. Bạn hiểu rằng trong sự hư dại của tôi, phần là hèn không đủ sức nhẫn-nại
thì nhiều, mà phần cố ý làm điều xấu thì ít. Vì đó mà về sau bạn tôi mới hết
lòng cứu giúp. Bằng không thì chắc là tôi chết ở phen này, chứ khổ như thế
không sao mà sống được. Tuy nhiên, tôi cũng không ngỏ cho bạn biết thí gì về việc
mưu đồ thoát ngục. Tôi chỉ nhờ bạn mang giúp cho tôi phong thư mà thôi. Vốn trước
khi bạn vào thăm, tôi cũng đã tìm cơ đón trước rào sau cả rồi, khiến cho bạn
không nghi-ngờ gì về cái thư đó cả. Bạn nhận lấy phong thư mang ra. Ngay hôm ấy
thì thư đến tay Lệ-cốt.
Sáng hôm sau thì
Lệ-cốt mạo xưng là anh cả tôi mà vào
ngục thăm tôi. Tôi vừa nhìn thấy gã, tôi đã mầng lòng. Tôi bèn đóng kín các cửa
phòng lại, rồi tôi bảo gã rằng:
- Ta không nên để
phí thì-giờ một phút nào cả. Anh khá cho em biết tin Mai-nương tức thì. Rồi có cách nào cứu tôi ra thoát khỏi chốn này
thì xin anh bảo cho tôi biết ngay, kẻo chậm.
Lệ-cốt thề với
tôi rằng từ hôm trước khi tôi với nàng bị bắt, hắn không gặp mặt Mai-nương, về
sau hỏi han, thăm dò mãi mới biết việc xẩy ra như thế. Đã đôi ba lần va đến tận
phúc-đường xin vào thăm nàng mà không được. Tôi cắn răng mà rít lên rằng:
- Hỡi hỡi Mỗ Mỗ phú-hộ! Thương hại cho thân mày?
Phen này thù kia sẽ trả gấp đôi!
Lệ-cốt lại rằng:
- Còn như việc
đánh tháo cho cho chú ra được khỏi đây, thì khó lắm, chú đừng tưởng dễ đâu!
Ngay tối hôm qua, tôi đã cùng hai người bạn đến thăm phía ngoài cái nhà ngục
này rồi. Phòng này có mấy cái cửa sổ đều thông với một cái sân, mà sân ấy xung
quanh những nhà vây kín. Vậy thì qua cửa sổ mà ra, chắc là không được rồi. Vả
chú lại phải giam ở trên từng lầu thứ ba. Mà đem thừng đem thang vào đây không
được. Vậy thì phương-kế đào-tẩu không nên mang ở ngoài đem vào, mà phải tìm những
cách có ngay trong nhà này mới được.
Tôi rằng:
- Trong nhà cũng
không có phương-kế chi hết. Tôi đã xem xét cả rồi. Nhứt là từ khi ông cố coi việc
tôn-giáo ở đây, đã lấy lòng nhân-từ mà buông lỏng cho tôi nhiều ít. Cửa phòng
tôi thì họ không khóa nữa. Tôi lại được tự-tiện đi bách bộ trong phòng các nhà
thầy. Những [nhưng] các lối thang đi xuống, đều có cửa sắt thật dày, đêm ngày
đóng kín. Vậy thì những một sức tôi không sao ra nổi. Nhưng mà khoan! Tôi mới
nghĩ ra một kế. Anh có thể mang vào đây cho tôi một khẩu súng vắn [ngắn] không?
- Dễ lắm. Nhưng
chú định giết ai hay sao?
Tôi đáp rằng ý
tôi không định giết ai hết. Mang cho tôi khẩu súng, không cần phải nạp thuốc đạn
sẵn. Tôi nói:
- Mai anh đem khẩu
súng ấy vào cho tôi, rồi đến đêm mai, độ 11 giờ, thì anh kiếm đâu lấy vài ba
người bạn đến chờ tôi ở trước cửa cái nhà kia. Tôi mong rằng có thể ra với các
anh được.
Lệ-cốt hỏi tôi định làm thế nào mà ra cho thoát. Tôi nói rằng phàm
những kế mạo-hiểm như kế của tôi nghĩ ra đó, khi nào làm được xong, nói ra người
ta mới cho là phải. Tôi lại giục va chong chóng đi ra để mai lại vào cho dễ.
Đến hôm sau, Lệ-cốt lại vào thăm tôi, vào ra cũng dễ-dàng
như lần trước vậy. Dáng điệu va khi ấy nghiêm-trang lắm, nhác nom có dễ người
ta tưởng là bậc quân-tử.
Tôi được khẩu
súng, chắc rằng thoát được ngục. Kế ấy kỳ-khu mà mạo-hiểm nhưng tưởng chừng
khó-khăn, nguy-hiểm đến thế nữa, khi ấy tôi cũng làm được.
Nguyên từ khi
tôi được phép ra ngoài phòng đi lại chỗ phòng các đạo-sinh, tôi vẫn có ý nhận
ra, cứ mỗi tối thì tên canh cửa lại thu hết các thìa khóa mà đem vào nộp ông cố,
từ lúc đó trở đi thì trong các phòng lặng ngắt, ai nấy đi ngủ cả. Đêm tôi có thể
tự tiện mà đi được từ phòng tôi đến phòng ông cố. Tôi bèn nghĩ ra kế cầm súng
mà sang dọa ông cố, bắt ông phải đưa chùm thìa khóa cho mình, rồi cứ thế mở cửa
lấy mà đi ra ngoài. Tối hôm ấy, tôi chờ mãi mới thấy tên canh cổng mang thìa
khóa vào. Thì ra tại mình mong nên thấy lâu, chứ tên ấy cũng cứ một giờ như mọi
khi mà mang thìa khóa vào nộp, nghĩa là lúc quá chín giờ một chút. Tôi chờ
trong một giờ để các đạo-sinh và các đứa hầu hạ đều ngủ cả. Bấy giờ tôi mới một
tay cầm khẩu súng, một tay cầm cây nến, thắp sáng hẳn hoi mà đi sang phòng ông
cố. Trước tôi còn gõ sẽ vào cửa, để cho một mình cố nghe tiếng thức dạy mà
thôi. Cái thứ hai tôi gõ hơi mạnh thì ông cố nghe tiếng, ngỡ là thầy đạo-sinh
nào, đêm hôm đau yếu làm sao đến cầu cứu, cố bèn lật đật trở dậy ra mở cửa. Trước
khi mở, cố còn đứng trong hỏi ai gọi, muốn gì? Tôi đành phải xưng danh, và tôi
lên giọng rầu-rĩ mà kêu giở trời khó ở. Cố bèn tất-tả mở cửa ra mà rằng:
- À ra con! Con
sao đây? Có việc chi mà đêm hôm phải lật-đật sang hỏi cha làm vậy, con?
Cố vừa hé cửa
thì tôi bước vào, tôi kéo cố vào một góc buồng xa chỗ cửa mà nói phăng ngay rằng
tôi không thể nào chịu giam được lâu nữa. Đêm vắng là lúc rất tiện để lẩn ra
ngoài. Xưa nay cha đã có lòng thương-mến, nên dám cậy cha mở cửa cho ra, hoặc
xin cha cho mượn thìa-khóa để con mở lấy.
Ông cố nghe tôi
nói thế, thất đảm. Giương hai con mắt trô-trố lên mà nhìn tôi, không nói chi cả.
Tôi thì vội quá, không thể đứng đó mãi mà chờ cha đáp lại được, tôi bèn lại nói
rằng cha đãi con một cách nhân-từ như thế thì con cũng cảm ơn cha vô cùng,
nhưng mà cái tự-do là của báu nhứt trong đời, mà con bỗng phải cường-quyền
áp-chế, thì ức lắm, nhứt định đêm nay cướp lại cái tự-do mất đó, dầu thế nào
con cũng không quản. Tôi e ông cố hô-hoán cho người trong ngục thức dậy, thì phải
giở vạt áo cho cố nom thấy cái vật làm lẽ-cả cho cố phải im mồm, mà tôi thu thu
trong bọc. Cố nom thấy thế, thì cố bảo tôi rằng:
- Chết nỗi! Con
cầm súng! Con ơi! Cha xử với con như thế, mà bây giờ con định giết cha để cảm
ơn cha hay sao đó?
- Lạy cha, nếu
con có bụng khuyển-lang như thế, thì còn trời nào có dung con nữa. Vả cha là bậc
trí-giả, lẽ phải chăng thế nào cha biết, thì đâu cha lại có để cho con đến nước
phải làm việc càn-dỡ ấy. Nhưng mà lạy cha, con muốn khôi-phục lấy tự-do của
con, con đã quyết lòng thế nào đêm nay con cũng chạy ra được khỏi chốn giam cầm
này, con mới nghe. Cái quả-quyết của con gớm lắm, cha ạ. Nếu vì cha mà lỡ việc
của con đêm nay, thì thế nào con cũng phải giết cha, đành rằng mang tiếng phụ-bạc.
Cố xanh mặt run
lên mà rằng:
- Chết nỗi, con!
cha có làm gì con bao giờ mà con nỡ lòng tàn-nhẫn với cha như thế! Vì cớ gì mà
con muốn hại cha?
Tôi gắt lên mà rằng:
- Con đã bảo con
không có bụng nào muốn hại cha thế mà! Hễ cha muốn sống thì xin cha cứ mở cửa
cho con ra. Sau con xin làm thân trâu ngựa mà báo-đáp.
Tôi đương nói thế,
thì tôi nom thấy chùm thìa-khóa để trên bàn, tôi liền cầm ngay lấy, rồi tôi ra
hiệu mời cha nín lặng mà đi theo tôi.
Cha đành phải chịu
phép. Cứ qua mỗi lần cửa, ông cố mở khóa ra thì lại lẩm bẩm oán trách tôi rằng:
- Chết nỗi, con
ơi! Ngờ đâu con thế!
Cứ mỗi câu tôi lại
nhắc:
- Xin cha im hơi
kín tiếng cho.
Đi quanh-quẩn
qua mấy lần cửa rồi đến chỗ hàng rào, chỉ còn một từng cửa nữa thì ra đến đường
cái. Tôi đã tưởng là qua cầu thoát nạn rồi. Ông cố vẫn đi trước, tôi vẫn tay cầm
súng, tay cầm cây nến đi sau.
Trong khi ông cố
mở lần cửa ngoài nhứt đó, thì có một tên ngục-tốt đương nằm trong một cái phòng
canh cửa, nghe tiếng động tự-dưng trở dậy, mở cửa phòng, thò đầu ra mà ngó. Ông
cố tưởng thằng ấy có thể nắm được tôi lại, bèn dại-dột mà kêu nó ra cứu giúp.
Thằng cha lực-lưỡng hùng-hổ, thấy ông già vẫy, liền nhảy sổ ra khiến bắt tôi lại.
Tôi không nghĩ-ngợi gì nữa, giương ngay súng, nhắm vào giữa ngực thằng ấy mà bắn.
Khi nó ngã rồi, tôi vênh mặt lên mà bảo ông cố rằng:
- Đấy cha xem,
có phải vì cha mà nên nỗi có người thiệt mạng không? Nhưng thôi, cha đã giúp
con thì giúp cho trọn việc.
Vừa nói tôi vừa
đẩy ông già ra chỗ cửa ngoài để ông mở nốt. Ông già không dám từ-chối. Tôi ra
đường đi bốn bước, thì gặp Lệ-cốt với
hai người nữa đứng chờ đó.
Bốn người kéo
nhau đi, Lệ-cốt hỏi tôi lúc nãy nghe
như có tiếng súng. Tôi nói: “Sự ấy là lỗi anh. Tôi đã bảo anh đem súng không nạp
thuốc đạn vào cho tôi, sao anh lại đi cho tôi súng nạp rồi?” Tuy nhiên, tôi
cũng tạ ân Lệ-cốt, vì nếu Lệ-cốt nghe lời tôi mà đưa súng không có
đạn, thì chắc là mưu tôi lỡ hết, mà rồi tôi còn phải ở lâu trong ngục Thánh La-da. Chúng tôi kéo nhau đến một
tiệm kia ăn cơm tối. Vừa gần ba tháng, tôi phải ăn uống cực-khổ, đến hôm ấy mới
được một bữa thỏa-thích. Tuy vậy, tôi ăn không biết ngon, chơi không biết vui
gì cả, vì vắng mặt nàng, thì cảnh nào cũng là cảnh buồn. Nhân tôi có bàn với họ
rằng:
- Các ông phải
giúp em việc này nữa mới được. Thế nào ta cũng phải cứu cho Mai-nương ra khỏi ngục hình. Em mà cố trốn
ra ngoài, cùng chỉ cốt có việc cứu nàng mà thôi. Xin các ông cố sức cho. Về phần
em thì dầu chết cũng không quản, em phải làm cho kỳ được.
Mấy lời khuyên-bảo đó, thật là khôn, nhưng mình cũng phải khôn mới nghe mà theo được; ngặt vì cái lửa tương-tư của tôi đương bốc ngùn-ngụt, thì tôi nào mà đóng cửa ngồi yên được những hàng ngày, thành ra tôi nể Lệ-cốt lắm mới đoan được với hắn rằng hôm sau tôi xin ngủ suốt ngày, Lệ-cốt bèn đem tôi nhét vào phòng riêng của hắn, tôi ở đó mãi cho đến tối.
Trong ngày hôm ấy thì tôi cũng có ngủ ít nhiều, để tĩnh dưỡng tinh-thần nhọc-mệt, còn thì tôi băn-khoăn nghĩ-ngợi để tìm phương-kế cứu Mai-nương ra khỏi phúc-đường. Tôi cũng biết nơi nàng bị giam cấm, lại còn khó ra vào hơn chỗ giam tôi khi trước. Vậy thì việc này phải dùng trí, không nên dùng lực. Nhưng chắc đem ngay ông thần Mưu-mẹo xuống mà hỏi, thì trong việc này cũng không biết nên bắt đầu cử sự ở chỗ nào. Tôi đành phải chờ khi nào hỏi thăm cho biết đại-cương cái địa-thế chỗ nàng ở ra làm sao, bấy giờ hãy nên tìm mưu nghĩ kế.
Tối đến tôi nói với Lệ-cốt đi theo cùng tôi. Kì-thủy chúng tôi là-cà đến gạ chuyện với một tên canh cổng. May gặp được đứa cũng biết điều. Tôi tự xưng là một người biệt xứ, nhân nghe tin nhà phúc-đường ấy tổ-chức nên thật có qui-củ thứ-tự, cho nên tôi lấy điều du-lịch hỏi-han để về làm kí-sự. Tôi hỏi hết điều này điều nọ, rồi tôi hỏi đến tên các quan quản-lý, và chức vị các ngài làm gì? Nhân được mấy câu tên canh cổng đáp lại về khoản sau cùng đó mà tôi nghĩ được ra một kế tuyệt diệu. Nguyên tôi ngẫu hứng hỏi chê hỏi chán rồi hỏi đến câu các quan quản-lý có con cháu gì? Tên canh cổng trả lời rằng trong bấy nhiêu ông, ông nào có con ông nào không có thì va không được biết tường-tận. Duy chỉ biết rằng ông T… là một bậc quyền cao nhứt trong đám trị-sự, có một cậu con trai, cũng vừa đến tuổi lấy vợ, đã nhiều lần theo cha đến thăm phúc-đường. Có một câu như thế, mà cái tài bày vẽ của tôi nghĩ ngay ra được một kế rất thần tình.
Tôi nghĩ được câu
ấy là đủ mãn nguyện, tôi liền từ giã tên canh cổng mà về bàn với Lệ-cốt như
sau:
- Tôi chắc cậu T…
này con nhà giàu lại có thần-thế, hẳn cũng có tính ăn chơi như phần nhiều kẻ niên-thiếu
nam-nhi. Người ấy tất không ghét đàn-bà, mà chỗ đồng-niên ai có việc nhân-tình
cầu cạnh chi hẳn cũng sẵn lòng giúp-đỡ. Vậy tôi có ý cầu người ấy giúp tôi
trong việc đánh tháo cho Mai-nương,
ví bằng người ấy là người khoan-từ quảng-đại, thì chắc sẽ lấy tình đồng-chí liên-lạc
mà giúp cho tôi. Bằng người ấy không vì những lẽ cao thượng như thế chăng nữa,
thì cũng vì cái nhan-sắc của Mai-nương
mà giúp-đỡ mong lấy chút báo ân của khách má-đào. Từ nay đến mai, thế nào tôi
cũng muốn gặp mặt người ấy. Tôi tin trong bụng rằng việc này cầu đến người ấy
thì xong.
Lệ-cốt cũng cho
tôi là cao đoán, cũng chịu mưu ấy là hay. Đêm ấy cơn sầu-thảm của tôi cũng bớt
đi nhiều ít. Sáng ngày ra, tôi cố công chải-chuốt bộ quần áo cũ cho nó tươm
tươm một chút, rồi tôi kêu một cỗ xe ngựa thuê nó đem tôi đến trước cửa nhà ông
T…; T… thấy người lạ vào thăm, cũng ngạc-nhiên, nhưng lấy cách hớn-hở lễ-phép
mà ra tiếp. Tôi thoạt coi người đã biết là nơi cậy được. Tôi bèn cứ tình thật
mà nói ngay chuyện mình ra cho người biết. Tôi khoe tình-nương của tôi nhan-sắc
tuyệt-vời như thế, cho nên tôi đeo-đẳng say-mê là thế. T… đáp rằng tuy chưa gặp
mặt Mai-nương bao giờ, song đà từng
nghe người ta nói đến việc nàng cũng là nhân có cái chuyện lôi-thôi với Mỗ Mỗ phú-ông
ngày nọ, mà bị bắt tới đấy. Tôi bèn tỏ hết lòng tin mà kể lại cho T… nghe gót đầu
chuyện tôi với nàng từ trước, rồi tôi kết rằng:
- Túc-hạ nghe tiện-đệ
đã bày tỏ ra đó, thì biết rằng việc tính mạng của tiện-đệ, và việc ái-tình của
tiện-đệ ngày nay ở trong tay túc-hạ. Hai bên tiện-đệ cũng lấy làm khẩn-thiết bằng
nhau. Tiện-đệ tình cảnh làm sao, xin nói hết để túc-hạ nghe, chẳng dám nửa li
giấu-giếm, bởi vì tiện-đệ đã từng nghe túc-hạ đây là người quảng-đại, và đôi ta
tuổi lại ngang nhau, thì chắc trong ý tình tất cũng có nơi tương-tự, nghe nhau
nửa câu là hiểu.
T… thấy tôi
thành-thực mà cởi lòng cho biết như thế, cũng có ý đồng lòng. Trong câu đáp đã
có về người lịch-thiệp, lại có cảm-tình. Hai nết ấy ít khi được cả ở trong một
người, vì sự lịch-thiệp thường hay khiến cho người ta nhụt bớt cái lòng cảm-khái.
Chủ nhà nói rằng coi cái việc tôi vào thăm hôm ấy như một hạnh-phúc đặc-biệt,
mà được kết bạn với tôi thì coi như một sự may-mắn trong đời, xin hết lòng
giúp-đỡ để không phụ hai cái phúc trời đã ban cho đó. Không dám hẹn gỡ được cho
Mai-nương ra khỏi phúc-đường, vì mình
không có thần-thế gì ở trong sở đó, nhưng xin dùng hết chước để cho tôi được
vào thăm nàng, còn như việc phóng-thích thì để xin tùy đáo tùy biện ngày sau.
Tôi thấy người nói thật tình như thế, thì tôi lại mầng lòng hơn là gặp phải người
hay khoe-khoang tự-phụ thần-thế hão. Nói tổng lại, thì khi tôi từ-biệt chủ nhà
mà ra, trong bụng tôi đầy chứa những hi-vọng. Những một việc cho được vào thăm
nàng, là đủ nên ân khuyển-mã. Tôi lấy lời tạ ân một cách não-nũng, khiến cho
người cũng phải tin rằng tôi không phải là đồ bạc-bội. Hai bên ôm nhau mà
hôn-hít, thành ngay ra một đôi bạn tri-kỷ, đồng thanh đồng khí với nhau.
Bạn tỏ lòng
hâm-mộ với tôi một cách tối thân nữa, bạn đoán ra rằng tôi mới ở ngục Thánh La-da mà trốn ra như thế, tất
nhiên là đồng tiền túng-bấn, bạn bèn mở túi bạc ra mà nài tôi cứ tự-tiện dùng
cho. Tôi từ-chối mà rằng:
- Tiện-đệ dâu
dám quá lạm như thế. Những một cái ân túc-hạ làm cho tiện-đệ được giáp mặt
nàng, cũng đã đủ khiến cho tiện-đệ trọn đời phải nhớ túc-hạ rồi. Ví nếu sau này
túc-hạ lại tìm được phương cứu nàng ra khỏi nơi giam cấm nữa, thì tưởng thân này
dẫu vì túc-hạ mà thác, mai sau hồn về chín suối cũng chưa trắng nợ.
Trước khi biệt-giã,
chủ nhà hẹn tôi ngay chiều hôm ấy, lại sẽ gặp nhau. Tôi y ước đến chờ ở một tiệm
rượu kia. Độ bốn giờ thì thấy bạn đến, rồi hai người dắt tay nhau mà đến
phúc-đường. Tôi đi qua cổng trước vào đến sân, thì đùi gối run lên lẩy-bẩy,
trong bụng tôi phải khấn thầm rằng:
- Hỡi hỡi
Tinh-thần linh-nghiệm! Xin để cho ta vào được đến trước mặt nàng, đến trước mặt
vị thần của lòng ta thờ kính, cho nó bõ những lúc ta vì ai mà than khóc, mà lo
buồn. Hỡi hỡi trời cao đất dầy! Cho ta được vừa đủ sức khỏe mà vào cho đến đó rồi
thì dầu có bắt ta khổ nữa, có bắt ta phải chết, bấy giờ hãy hay. Khi ta đã được
mãn kì sở-nguyện ấy rồi thì ta không dám cầu khẩn điều gì nữa.
T… công-tử vào hỏi
thăm mấy tên canh cửa, thì thấy chúng vâng dạ vội-vàng, có ý nể sợ lắm, và bắt
chúng trỏ nẻo cho vào chỗ phòng Mai-nương
ở thì tôi thấy một tên người hầu cầm một cái thìa-khóa to cốc lếu, mà đi lên
trước. Tôi hỏi thăm tên người hầu ấy chính là đứa coi phòng nàng, xem từ khi nàng
phải vào đó ra làm sao, thì nó thưa rằng nàng thật thiên-thần giáng thế, người
đâu thuần-thục lạ dường, không hề bao giờ có nói nửa câu bất lịch-sự với kẻ hầu
người hạ. Trong sáu tuần-lễ thứ nhứt, nàng chỉ hai hàng nước mắt khóc hoài! Sau
cũng thấy nguôi dần cơn sầu-thảm. Từ đó đến nay, buông mũi kim, lại giở sách ra
xem. Tôi hỏi việc ăn uống thế nào thì tên ấy thưa rằng dẫu không được sung-sướng,
song cũng no đủ.
Đi gần đến cửa
phòng, trống ngực tôi đổ hồi thình-thịch. Tôi bèn bảo bạn rằng:
- Xin tôn-huynh
hãy vào một mình, để nói cho nàng biết trước, kẻo nàng đương không mong mà gặp
mặt, có lẽ giật mình mà biến sắc.
Cửa mở-ra, tôi đứng
nấp phía ngoài, T… công-tử vào trước, nói chuyện những câu gì, tôi nghe thấy cả.
T… công-tử nói là một người bạn thiết của tôi, vì tôi mà vào thăm nàng và kiếm
lời an-ủy. Nàng vội-vàng săn-sóc hỏi tin tôi, thì bạn hẹn rằng chầy kíp sẽ đem
tôi đến quì dưới gối, rằng tôi vẫn yêu-đương, vẫn ngay-thảo với nàng như trước.
Nàng hỏi:
- Bao giờ, ông?
- Ngay hôm nay.
Lát nữa. Nếu nàng muốn thì tức-khắc bây giờ cũng được.
Nàng hiểu là tôi
đứng ngoài. Nàng vội chạy ra, thì tôi chạy vào. Hai người ôm nhau mà hôn, ba
tháng trời xa cách, nay mới gặp nhau, nguồn ân bể ái, nói sao cho xiết được.
Nào là thở vắn thở dài, những tiếng reo mừng như rên như rú, những lời nói ra bỏ
nửa quãng, những tiếng thương-yêu, tớ, mình, đây, đấy, những giọng nói ngọt như
đường phèn, êm như gió thổi, trong một khắc đồng-hồ, thành ra một cảnh-ngộ xúc
động, khiến cho T… công-tử phải ngẩn-ngơ ra mà rằng:
- Túc-hạ làm cho
tiểu đệ thèm muốn cái hạnh-phúc lạ-lùng của túc-hạ đó. Trời đấi ơi! công-danh
phú-quí nào mà lại chẳng nên vứt bỏ đi để mà theo một người tình-nương xinh đẹp
như kia, mặn-mà như kia.
Tôi đáp:
- Thưa túc-hạ, bởi
vậy mà bao nhiêu ngai vàng trong thiên-hạ, tiểu-đệ cũng không thèm hết, để cho
một người này yêu đến mà thôi.
Còn cả khúc sau câu
chuyện, đại khái ý tình chỗ nào cũng nồng mặn như thế hết. Nàng kể cho tôi nghe
những nỗi nàng từ ngày phải bắt. Tôi cũng kể lại nàng nghe những việc của tôi.
Hai đứa cùng tuôn bốn dòng nước mắt chua-xót đắng cay, mà than cái tình-cảnh hiện
đương của nàng, và cái tình-cảnh vừa qua của tôi. T… công-tử lại khéo lấy lời
ngon-ngọt dỗ-dành khuyên-giải, lại hẹn ra công ra sức để làm cho chúng tôi
chóng được đoàn-viên. Bạn khuyên tôi lần đầu không nên ở lâu quá, thì lần sau mới
lại dễ vào. Tuy là lời nói rất phải, mà bạn nói đi nói lại nhiều lần, chúng tôi
mới chịu nghe cho. Nhứt Mai-nương thì
cứ muốn giữ riệt tôi lại đó, không để cho đi. Đứng lên ngồi xuống kể đến trăm lần.
Cứ thí nữa rồi lại thí nữa, hết cầm tay rồi lại nắm áo, khắc canh chẳng mấy mà
chầy. Nàng rằng:
- Mình nỡ bỏ tôi
lại một mình ở chốn này ru! Ai đoan được cho tôi rằng mình ở đây đi ra, rồi còn
có trở lại?
T… công-tử phải
hẹn với nàng rồi xin đem tôi lại luôn luôn. Công-tử lại vui cười mà rằng:
- Còn như chỗ này,
thì từ đây xin chớ gọi là nơi ô-uế nữa. Từ khi cái phòng này đã khóa kín xuân-xanh
của một người đáng vì phi-hậu như nàng, thì chốn ấy tôi cầm như chỗ cực-lạc thế-giới.
Vê-xay hoàng-cung, tưởng cũng không
vui đến thế vậy.
Khi tôi ra, tôi
cho thằng hầu phòng đó ít tiền, để nó săn-nom cho nàng tử-tế. Thằng ấy thật là
có lòng tốt, không tàn-nhẫn như những quân một giống với nó. Nó đứng nhìn hai
chúng tôi thương nhau, nó cũng xiêu lòng cảm tuất. Kế đến tôi lại dúi vào tay
cho nó một đồng tiền vàng sáng quắc, thì nó lại càng thêm nể thêm vì. Khi xuống
đến sân, nó bèn ghé vào tai mà nói riêng với tôi:
- Ông ơi, ví bằng
ông đoan với tôi rằng sau này tôi có mất chỗ làm thì ông nuôi tôi hoặc ông thưởng
tôi cái gì cho bõ, thì tôi xin hiến kế đem nàng ra khỏi nhà này.
Tôi muốn khoan
cho rộng hai tai mà nghe lời nó nói. Bấy giờ tuy tôi đã cạn hết tiền đến nỗi những
thứ khẩn-thiết của mình cũng không có, mà tôi dám đoan kết với nó những sự trời
bể, ở trên sức tôi làm được cả. Tôi cũng tưởng về sau thế nào mình chẳng có khi
vận khá, mà báo-đền cho kẻ hảo-tâm. Sau tôi bảo nó rằng:
- Con cứ giúp thầy.
Sau này con bảo thầy làm sao, thầy cũng xin làm được cho con vừa ý. Từ đây cái
danh-phận của con, thầy cũng xin hết sức lo-lắng như là danh-phận của thầy vậy.
Tôi sẽ hỏi nó
xem nó định dùng phương kế nào, thì nó nói rằng:
- Thưa ngài,
phương-kế của con thật giản-dị, tối đến con xin mở cửa phòng cho nàng ra, rồi
con đưa nàng cho đến cổng ngoài. Ngài phải đón nàng ở ngoài ngõ để đưa ngay
nàng đi.
Tôi lại hỏi thế
ngộ đi qua các phòng, các sân, mà gặp ai nhận được mặt nàng thì ra làm sao? Nó
đáp rằng việc tất nhiên là nguy-hiểm, chứ nếu dễ thì ai không làm được. Trong cơ-mưu
tất cũng phải có việc làm liều, nếu không, sao gọi là khó.
Tuy rằng tôi thấy
thằng bé quả-quyết như thế, tôi đã mầng lòng, song tôi cũng gọi T… công-tử mà
thuật lại câu chuyện ấy và ngỏ cho bạn biết cái chỗ nguy-hiểm nhứt trong việc
mưu toan. Bạn lại lấy việc làm khó hơn nữa mà rằng:
- Đành là mưu ấy
có lẽ công-hiệu. Nhưng nếu nàng đi qua mấy cái phòng và mấy cái sân mà không lọt,
quân canh nom thấy mà bắt lại thì thật đương tội nhẹ hóa ra chung thân cấm cố.
Vả túc-hạ ở kinh-thành này lâu nữa cũng nguy-hiểm lắm, cần phải lánh ngay cho
xa đi, mới được. Chắc là cảnh-sát đương tìm. Đến khi Mai-nương trốn nốt thì hẳn họ lại tầm-nã ra riết lắm. Một người đàn-ông
đi trốn thì còn là dễ, đeo-đẳng thêm một người đàn-bà nữa, mà người đàn-bà ấy lại
là một bực khuynh-thành, thì ẩn núp chỗ nào cho kín được?
Tuy lời khuyên ngăn
đó là phải lẽ, mà không đè nén nổi được cái hi-vọng của tôi muốn cứu nàng ra tức-thì
kia. Tôi lấy tình thật mà ngỏ cùng T… công-tử, và tôi xin công-tử dung thứ cho
kẻ say mê cái tội nóng-nảy vội-vàng đó. Tôi nói rằng cứu được nàng ra tôi xin từ
ngay kinh-địa mà đem nàng đi ẩn núp đâu trong chỗ làng xóm ngoài thành. Tôi bèn
bịt tai không nghe lời bạn bảo, giục tên hầu phòng khá lo-liệu khởi hành mưu kế
ngay, chớ để lâu lại. Chúng tôi định ngay đến tối hôm sau thì hành-sự. Định
thêm một điều nữa cho chắc, là đem quần áo đàn-ông vào cho nàng mặc giả trai mà
đi ra. Hiềm vì đem được quần áo vào trong phúc-đường là việc khó. Nhưng mà trí-khôn
tôi khi ấy thì khó đến đâu mà không nghĩ ra được cách làm liều. Tôi bèn xin với
T… công-tử đến hôm sau có vào thăm cùng với tôi lần nữa, thì bận hai áo trong mình,
chọn lấy thứ áo nào mỏng-mảnh, còn mọi việc khác tôi xin kham lấy, không dám
phiền bạn.
Sáng hôm sau,
tôi cùng T… công-tử lại vào nhà-thương. Tôi thì bận trong mình những thứ áo lót
mình cùng là bít-tất. Ngoài tôi khoác một cái áo vừa dài vừa rộng, để không ai
nom thấy phồng-phều trong ngực và các túi. Chúng tôi vào chỉ đứng một lát ra
ngay. T… công-tử thì cởi một lần áo ra để lại. Tôi thì cởi những áo lót mình và
bỏ đôi bít-tất giắt trong túi ra cho nàng dùng. Bộ cánh nam-nhi đủ cả, duy còn
có cái quần, tôi quên không nghĩ đến.
Việc quên ấy giá
phải lúc khác thì là một việc buồn cười, nhưng trong cái bước nguy-hiểm này thì
làm cho chúng tôi thật là bối-rối. Tôi đã than thân kém phúc vô duyên, mọi điều
lo đâu đó cả, chỉ còn sót có một ly một đỉnh như thế mà đến nỗi lỡ cả công việc.
Sau tôi có nghĩ ra một kế hơi liều là cởi quần của tôi ra mà đưa cho nàng bận
Cũng may, cái áo
ngoài của tôi dài lắm, chắc rằng cứ mạnh-bạo mà đi, cũng không ai nom thấy.
Ngày hôm ấy làm
sao tôi thấy dài dằng-đẵng, chờ mãi mới thấy đến tối. Tối rồi, tôi với T…
công-tử đi xe ngựa đến chờ ở xế cửa phúc-đường. Chờ được một lát thì thấy Mai-nương cùng tên hầu phòng từ trong
nhà-thương mà ra. Xe mở cửa sẵn, hai người trèo tuột ngay lên. Tôi mở rộng hai
cánh tay cho nàng đâm choàng vào. Nàng hãy còn run lên lẩy-bẩy. Tên đánh xe
quay lại hỏi tôi kéo đi đâu. Tôi mầng quá nói dại ngay một câu rằng:
- Anh xe chúng
tôi đi đến chỗ nào là cùng thế-giới thì xe. Chỗ nào là chỗ tôi với Mai-nương vĩnh-viễn không phải dời nhau
ra nữa thì anh xe chúng tôi đến đó.
Vì một câu nói dại
thích chí quá mà để buột miệng ra đó, xuýt nữa nên tai-vạ lớn cho mình. Câu nói
ấy làm cho tên đánh xe nghĩ-ngợi lôi-thôi. Đến khi tôi nói tên phố chỗ tôi muốn
đi thì nó trùng-trình đứng lại mà nói rằng nó nghe công-chuyện không minh, nó
không muốn can liên đến những việc ngầy-ngà như thế. Nó lại nhìn kỹ Mai-nương mà rằng nó tưởng là trai, hóa
ra con-gái, thì ra người này là người phải giam cấm trong nhà-thương, mà tôi
đem trộm ra ngoài. Sau hết nó nói rằng nó với tôi chẳng có tình-nghĩa gì với
nhau, mà nó đi nhúng tay vào một việc gian lận trái phép như vậy.
Những câu nói
nhân-nghĩa đạo-đức của thằng đánh xe ấy, chẳng qua là để vòi tiền mà thôi.
Chúng tôi khi ấy hãy còn ở gần nhà phúc-đường quá, cho nên tôi không dám cãi lại
với nó. Tôi chỉ bảo nó rằng:
- Mày im đi thì
có một đồng tiền vàng 20 phật-tăng [phật-lăng]
để phần mày đây.
Tôi vừa nói thế,
thì tưởng chừng như giá có sai nó vào đốt cả phúc-đường đi nó cũng đốt.
Chúng tôi bèn bảo
xe kéo đến nhà Lệ-cốt. Bấy giờ đêm đã
khuya; T… công-tử từ-giã chúng tôi mà về, hẹn đến hôm sau xin lại đó thăm. Thằng
hầu phòng thì ở lại đó với chúng tôi hầu-hạ.
Khi ở trong xe, tôi
với nàng ôm chặt lấy nhau mà ngồi, thành ra hai người chỉ chật có một chỗ. Nàng
thì mầng quá mà tuôn từng sông nước mắt ra chảy xuống ướt cả hai bên má tôi như
giội.
Đến lúc xuống
xe, vào nhà Lệ-cốt, mới lại sinh ra một
việc lôi-thôi quá đỗi với tên đánh xe. Vì việc ấy sau này mà tôi với nàng lại
qua một bước gian-truân. Bấy giờ tôi sực nhớ ra câu tôi hứa cho nó đồng tiền
vàng, thì tôi hối-hận vô cùng: Một là vì số tiền ấy đắt quá, tỉ với cái việc nó
giúp mình không đáng chút nào; hai là trong mình tôi không có tiền đâu mà cho
nó được. Tôi sai gọi Lệ-cốt ra. Ông
anh ra tận cửa đón. Tôi sẽ ghé vào tai mà nói nhỏ cái nguồn cơn túng-bấn. Tính
nết Lệ-cốt vốn đã phũ-phàng, tòng lai
lại không có thói kiêng nể giống phu-xe, va bèn mắng tôi một trận.
- Thừa tiền mà
cho thằng này đến 20 phật-lăng. Chú để
tôi cho nó hai-mươi gạy.
Tôi thấy ông anh
to tiếng, tôi phải can đi, sợ nữa lôi-thôi việc gì thì mình có vạ. Nhưng nói thế
nào thì nói, ông anh cũng chẳng nghe, nhân nom thấy tay tôi cầm gạy, ông anh giằng
ngay lấy, khiến đánh tên cầm xe thật.
Thằng này ý dáng
xưa nay cũng đã được biết tay các ngài thị-vệ với các ngài ngự-lâm rồi, cho nên
thấy nói thế thì không chờ gạy vào lưng, giật ngay cương ngựa cho phóng nước đại,
nhưng nó vừa chạy, nó vừa kêu vừa chửi tôi, bảo tôi lường-đảo, rồi lại đe rằng
sau sẽ biết tin. Tôi cố sức vẫy nó lại để tôi khất và nói tử-tế với nó, mà nó
không quay cổ lại.
Vì việc ấy tôi lấy
làm lo-sợ lắm. Chắc là nó đi báo cảnh-sát. Tôi phải bảo ông anh rằng:
- Thật là anh
làm hại em. Chúng tôi vào đây quyết là không được ở yên, thôi, anh để chúng tôi
lánh đi nơi khác vậy.
Đê-ghi-ri-ơ
vũ-sĩ kể chuyện cho tôi nghe trong hơn một tiếng đồng-hồ thì đến đoạn đó. Tôi sợ
vũ-sĩ mỏi miệng, tôi bèn xin hãy nghỉ một lát ăn cơm. Trong khi vũ-sĩ nói, thấy
thầy trò nhà tôi ngây mặt ra mà nghe, thì biết rằng câu chuyện chúng tôi cũng
thích. Khách bèn nói rằng đoạn sau còn nhiều nơi áo-não nữa. Cơm xong rồi,
vũ-sĩ lại kể nốt chuyện mà rằng:
ĐOẠN THỨ HAI
Khen thay cái cách ông trời ông ấy dắt-díu cho mọi sự
liên-tiếp với nhau, nhiều khi thật là lạ-lùng khôn-khéo. Chúng tôi vừa đi được
độ năm sáu phút đồng-hồ thì bỗng gặp một người ở đàng xa hăm-hổ chạy lại, dòm vào
tận mặt ông anh. Ý chừng là người ấy đã đến nhà Lệ-cốt tìm không thấy, mới chạy ra tìm gã ở đó. Khi hắn chạy đến gần
thì hắn giở súng bắn một phát, trúng vào giữa ngực Lệ-cốt mà rằng:
- À thằng Lệ-cốt.
Đêm nay thì tao cho mày lên ăn cơm với thiên-thần.
Bắn xong là quay lưng chạy thẳng. Lệ-cốt thì ngã lăn ngay xuống, không thấy kêu mà cũng không thấy rẫy,
ý hẳn đạn trúng giữa tim. Tôi giục Mai-nương
chạy trốn cho mau, ở lại mà cứu cái thây ma, cũng là vô ích, mà vô-phúc lính cảnh-sát
tới nơi, nó lại cứ mình mà buộc tội. Tôi cùng nàng với thằng ở, đi đến chỗ phố
ngang thì rẽ. Nàng thì ngẩn-ngơ ngây dại cả người, tôi phải lôi đi xềnh-xệch.
Đi đến đầu phố ngang ấy thì mới gặp xe, liền gọi lại mà trèo ngay lên. Khi tên
đánh xe hỏi kéo đi đâu thì tôi khó đáp quá. Nhà mình không có, mà cũng không
còn ai quen thuộc là chỗ tin-cẩn được cả. Tiền thì trong túi chỉ còn có nửa bích-tôn. Mai-nương phần thì sợ-hãi, phần thì nhọc-mệt, trèo được lên xe thì
nằm lăn ngay lên gối tôi. Mà tôi thì nghĩ đen chuyện Lệ-cốt bị hại mà ghê hãy còn lính cảnh-sát đuổi đằng sau bắt mình.
Biết tính làm sao bây giờ? Cũng may sao! tôi lại sực nhớ đến nơi quán trọ ở Say-dô (Chaillot) ngày trước, là nơi tôi
với nàng đến tạm ở trong mấy hôm, trước khi đi mướn được nhà. Tôi mong rằng đến
đó mà xin trọ, thì chẳng những có chỗ nương ẩn trong ít lâu, mà còn ăn ở chịu,
chủ quán quen, chắc hẳn không nài tiền trước. Tôi mới bảo xe kéo về Say-dô, thì tên đánh xe nói khuya không
chịu đi xa như thế, đòi tôi một bích-tôn
mới chịu đi cho. Đó lại là một nỗi ngầy-ngà. Sau tôi phải nằn-nỉ mãi nó mới chịu
lấy sáu phật-lăng. Cả cơ-nghiệp tôi
còn có ngần ấy mà thôi.
Tôi phải làm ra mặt phấn-chấn, để cho Mai-nương hởi dạ, nhưng tình thực thì tôi chết từng khúc ruột. Ví
mà trong tay tôi không ôm được cái lý độc-nhất vô-nhị nên sống, thì tôi cũng chết
quách đi, chết đi chết lại đến nghìn lần cho nó rảnh xác. Tôi chỉ nghĩ đến một
câu sau này, là khuây hết nỗi thảm-sầu: Chẳng gì ta cũng giữ được nàng ở trong
tay ta bây giờ. Nàng yêu ta, nàng ở tay ta. Tha hồ cho anh Tỉ-ba thuyết lý thế nào mặc dầu, anh cũng không làm cho ta tin được
rằng đó chỉ có cái ảo-ảnh sự khoái-lạc. Ta mà giữ được nàng rồi, ví dù cả vũ-trụ
long-lở, ta cũng không nhìn đến, vì ngoại-giả nàng, ta không yêu-mến, ta không
thiết-tha điều gì ở trong khắp vũ-trụ.
Cái cảm-tình đó là thành-thực, chứ không phải trong một lúc
say-sưa mà tôi nói quá đâu. Ngặt vì trong cái lúc tôi khinh-rẻ của đời người thế
như vậy, thì tôi đương túng-bấn nghèo-ngặt quá, ví thử trong những thứ của-cải
mình khinh bỏ đó, mà mình lại cũng có được một chút trong tay nữa, thì tưởng lại
càng dư thế dư thần mà khinh-bỉ của khác. Đã đành mình yêu ai thì người yêu của
mình là khẩn-thiết cho mình hơn hết cả, vinh-hoa phú-quí nào cũng không bằng,
ngọc vàng của-cải nào cũng không bợn mắt, nhưng mà nghe như cái ái-tình cũng cần
phải có tài hóa di dưỡng. Không gì não lòng cho kẻ đắm say bằng cái nỗi phải lo
đến chỗ khuyết đó. Thật mình chí không tưởng, mà nó buộc mình phải tưởng đến-những
sự tham-lam thèm muốn, những dục-tình thô-tục, hình như là kẻ hèn-mạt nhứt
trong nhân-loại vậy.
Khi chúng tôi đến Say-dô,
thì vừa 11 giờ đêm. Chủ quán nhận mặt khách quen, ra đón tiếp. Thời bấy giờ
đàn-bà con-gái ở kinh-thành thường hay ăn mặc giả trai, cho nên họ thấy Mai-nương thay hình đổi lốt, họ cũng
không ngạc-nhiên gì.
Tôi bắt quán trọ dọn ăn hầu-hạ cho nàng một cách lịch-sự, dường
như tôi đương lúc dồi dào phong-lưu vậy. Nàng chưa biết rằng tôi túng tiền, mà
tôi cũng hết sức giấu-giếm không để hở cơ điều gì cho nàng biết cả, tôi quyết
chí sáng mai thì ra phố, tìm cho được phương-kế mà chữa khỏi cái bệnh không ông
lang nào chữa được ấy.
Khi nàng ăn cơm, tôi có ý nhìn nàng, thì thấy người gày đi
mà xanh lướt. Lúc ở nhà-thương thì tôi không nom thấy, vì cái phòng nàng ở,
không phải là nơi sáng-sủa quang đãng. Tôi hỏi nàng có phải tại nàng thấy anh bị
hại mà thương, cho nên tái người mất sắc đi như thế, thì nàng nói rằng anh em dầu
máu-mủ tình thâm, nhìn thấy thế ai mà không đau xót; nhưng cái lẽ vì đâu mà
xương mai gày mòn, mặt ngọc kém tươi, là bởi trong ba tháng nàng phải xa cách với
tôi mà nên thế. Tôi vội hỏi nàng:
- Vậy ra nàng cũng yêu tôi lắm lắm hay sao?
- Cái lòng tôi yêu mình, tôi nói ra chỉ được đến một phần
trong nghìn phần mà thôi.
- Nếu vậy, thì từ nay trở đi, không bao giờ mình bỏ tôi nữa
à?
- Không bao giờ nữa.
Nàng ước hẹn với tôi như thế, rồi lại âu-yếm hôn-hít tôi,
như để gắn chặt lời nguyền, rồi lại trỏ trời vạch đất, khiến cho tôi chắc dạ
không bao giờ nàng quên đi được nữa. Tôi vẫn đinh-ninh một dạ tin rằng những lời
nàng thề-thốt đó là lời thành thực, không có lý nào sau lại ăn ở được ra thế
khác. Nhưng con người ấy, hễ nom thấy gái khác được sung-sướng phong-túc, mà
xét mình thấy nghèo-hèn túng-bấn, thì tính nết đổi hẳn, ăn ở không còn ra thế
nào nữa, mình quên hẳn mất cái mình đi, mà làm ra những điều càn-dỡ vô cùng.
Khi ấy tôi sắp đến cái ngày phải nom thấy nhỡn tiền sự nàng đổi trắng thay đen
đến nước, tưởng chừng các bậc con nhà gia-thế như tôi không thể bao giờ gặp được.
Nguyên tôi vẫn biết tính-nết nàng như vậy, cho nên sáng sớm
hôm sau, tôi đã vội ra ngay thành-thị. Anh nàng mới bị hại hôm trước, tôi cùng
nàng áo quần rách-rưới bẩn-thỉu cả, cần phải sắm ít đồ mới mà dùng, thì lựa là
tôi còn phải kiếm cớ mới đi được. Tôi bèn lững-thững từ quán trọ đi ra, nói
khoác với nàng và chủ-quán rằng để đi tìm xe-ngựa mà thuê ra phố, kì thực là
trong lưng không còn xu nhỏ, phải chịu đi chân. Tôi bước dảo cẳng đến chỗ Hoàng-hậu-nhai thì tôi nghỉ lại, để tính
toán ra Ba-lê đi những đâu mà làm những
việc gì.
Đến đó, tôi ngồi xuống bãi cỏ, tôi nghĩ-ngợi một hồi lâu,
thì kết-cục thành ba cái vấn-đề thiết-yếu sau này, cần phải giải ngay mới được.
Một là phải đi lo lấy ít tiền mà chi trăm nghìn món khẩn-thiết bằng nhau cả.
Hai là phải lo-lắng làm sao cho sau này có kế duynh-sinh mà ăn ở cùng nhau cho
được trọn-vẹn. Ba là cần phải hỏi-han tin-tức, rồi kiếm kế thủ thân làm sao cho
tôi với nàng cùng được ở yên, không phải e sợ chi quan đòi bắt nữa.
Tôi ngồi xoay đi tính lại mãi, để tìm phương giải-quyết ba vấn-đề
khẩn-cấp ấy, mà thấy ba điều cùng khó; sau tôi lại định tạm bỏ bớt đi hai điều
sau rốt, để hãy chuyên tâm lo lấy một điều thứ nhứt. Tôi với nàng đem nhau đến
chỗ xóm Say-dô, tưởng cũng đã là kín
đáo. Còn như những kế sinh-nhai hậu nhựt, thì tưởng trước hãy nên lo lấy sự khẩn-thiết
đương thời.
Vậy thì việc khẩn-cấp nhứt là lo làm sao cho cái túi không,
tự-dưng có bạc bỏ vào, T… công-tử đã có hảo tâm mà xin giúp tôi ít tiền tiêu dụng,
nhưng tôi đã từ-chối đi rồi, không lẽ bây giờ lại đến ngửa tay xin lại. Mặt nào
mà lại đi đem nông-nỗi túng-bấn của mình kể-lể với một người khách lạ, mà xin
người ta tư giúp cho mình! Duy chỉ có những quân vô-liêm-sỉ mới dạn dầy thế được.
Hoặc là một người quá sùng-thượng cái lý-tưởng hạ mình trong Gia-tô tôn giáo, mới dám lên trên được
cái nước mặt dày hổ-thẹn ấy. Mà tôi thì không phải là đứa vô-liêm-sỉ, cũng chẳng
phải là người sùng đạo. Ví dù tôi phải xẻ đôi huyết-mạch ra mà tránh được khỏi
những nước hèn-hạ ấy, tôi cũng sẵn lòng xẻ bỏ kia mà.
Sực tôi lại nhớ đến anh Tỉ-ba
mà nghĩ trong bụng rằng: Anh Tỉ-ba, bạn
tốt Tỉ-ba của ta, có lẽ nào có thể cứu
được ta mà lại không cứu? Hẳn là bạn ta không bao giờ tàn-nhẫn đến thế. Ta kể
nông-nỗi cho bạn nghe thì chắc bạn cũng xiêu lòng bạn giúp, nhưng mà trước khi
giúp, chắc bạn còn đem những điều nhân-nghĩa, luân-lý ra mà làm cho ta đến chết
ngạt.
Thôi thì đành một trận mắng nhiếc tận từ, đành chịu những lời
thấp cao khuyên-bảo, đành nghe mấy câu dọa-nạt đến điều. Bạn ta chắc sẽ đem
lòng cứu giúp, mà bán cho ta thật đắt, cái điêu-đứng ấy ta nghĩ đến trước thì
thà rằng đem xẻ một phần máu cho ai mà tránh khỏi được cũng xin đem xẻ, còn hơn
rằng để bạn mắng mỏ tận từ, làm cho ta phải đau lòng, phải hối-hận mãi mãi về
sau. Nghĩ đi thì thế, tôi lại nghĩ lại rằng: Ừ! Vậy ra ta không còn hi-vọng nào
nữa. Bởi vì ngoại hai phương-kế ấy, không còn có phương-kế nào khác. Mà trong
hai phương-kế ấy, mỗi phương-kế nào cũng nhục cho ta đến nỗi thà đổ đi nửa máu
còn hơn phải dụng, nghĩa là thà đổ hết máu trong mình đi, còn hơn phải dụng cả
hai. Ừ mà thật thế, thà rằng ta mất hết máu trong mình không còn một giọt để lại,
còn hơn phải đến nước đê-hạ lạy van.
Nhưng mà đương lúc này, nào phải là lúc ta lo huyết-mạch còn
hết đầy vơi. Ta lo là lo cho Mai-nương
làm sao có cách độ thân di-dưỡng. Ta lo là lo làm sao cho được mãi mãi yêu nàng,
cho nàng trọn-vẹn cùng ta. Còn có cái gì là cái ta đem cân-nhắc được cho ngang
với nàng nữa. Từ khi ta gặp nàng cho đến bây giờ, ta chưa hề dám đem cái gì ra
mà cân với nàng bao giờ. Nào là vinh, hoa, phú, quí, hiếu, nghĩa, liêm, sỉ, có
cái gì ta coi bằng nàng đâu. Quyết hẳn cũng còn có điều ta trọng lắm đến nỗi chết
để mà được, chết để mà khỏi, ta cũng không nên từ. Nhưng mọi điều ấy là ta coi
hơn mạng ta mà thôi, chứ bao giờ ta có coi được bằng Mai-nương. Tôi đã tự biện ra những lẽ tinh-vi như thế, thì tôi quyết
ngay một việc. Tôi bèn đứng dậy ra đi, chí đánh liều đến ngay nhà Tỉ-ba trước, rồi đấy không xong, ta mới
lại đến thăm T… công-tử.
Vào đến cửa ô, tôi tuy trong mình không có xu nhỏ, mà dám
kêu xe đi, chắc thế nào trong hai nơi cũng có một nơi vay được. Tôi bảo xe đem
tôi đến vườn Lục-xâm-bảo rồi tôi chờ
đó, sai người đánh xe đi gọi Tỉ-ba đến.
Bạn không để đợi, ra ngay. Tôi thật tình mà tỏ ngay nông-nỗi túng-bấn. Bạn hỏi
tôi chỗ trăm bích-tôn tôi hoàn lại
khi trước có đủ hay chăng. Tôi rằng đủ, thì bạn đi kiếm ngay mang đến, mặt mày
hớn-hở tươi cười mà đưa cho tôi. Cái vui-vẻ trong việc cho nhau như thế, duy chỉ
trai gái-yêu nhau, bạn hữu yêu nhau mới có mà thôi.
Tuy rằng trước khi tôi cầu bạn, tôi cũng đã biết rằng bạn phải
cho rồi, vậy mà tôi thấy nói dễ đắt lời như thế, tôi cũng phải lấy làm quái-lạ.
Sao mà lần này anh tôi tại không trách móc khuyên ngăn chi cả? Nhưng tôi tưởng
thế là xong, thật đã lầm to. Lúc bạn đếm bạc ra cho tôi cầm lấy rồi, chỉ còn một
việc từ-giã bạn mà về nữa thôi, thì bạn rủ tôi dạo quanh một lượt trong vườn
nhà-nước. Nguyên tôi chửa nói động gì đến Mai-nương
cả, thì bạn vẫn chưa biết rằng nàng cũng đã ra ngoài. Vậy cho nên cái bài
luân-lý của bạn giảng cho tôi nghe hôm ấy, chỉ nói riêng về một việc tôi mạo-hiểm
trốn ra khỏi ngục Thánh La-da mà
thôi. Bạn e rằng tôi đã không theo được những cách giáo-dục hay ở trong ngục-thất,
phen này giang-hồ rồi lại quen thú vẫy-vùng.
Nhân bạn mới thuật cho tôi nghe rằng tôi trốn ra được hôm
trước, hôm sau thì bạn vào thăm tôi ở nơi ngục-thất, vào đến nơi nghe tôi trốn
khỏi một cách hung-hiểm như vậy thì ngạc-nhiên quá đỗi, không sao nói xiết. Bạn
vào hầu chuyện ông cố coi ngục, thì thấy đạo-nhân hãy còn run-sợ chưa yên. Tuy
vậy, mà người còn có lòng từ-bi giấu-giếm không bẩm quan trên biết hết sự thật;
còn việc tôi giết tên canh cổng, cố cũng giữ không để tai-tiếng ra ngoài. Vậy
thì về phương-diện đó, tôi không cần phải lo sợ cho lắm. Nhưng nếu trong người
tôi còn lại lấy chút lương-tâm, thì nên phải cảm lấy ân trời cao rộng, khiến
cho việc ấy êm xuôi. Trước hết nên dâng thư về cho ông thân-sinh tôi xin về mà
chịu ân giáo-huấn. Bạn khuyên tôi khá mau mau từ chốn Ba-lê về trong gia-tộc mà cố tu-tỉnh gỡ lại những điều tội lỗi.
Tôi chịu khó nghe bài diễn-thuyết của bạn cho đến hết. Trong
lời bạn nói, cũng có nhiều câu hởi dạ cho tôi. Kỳ nhứt, là tôi không phải lo sợ
chi về việc trốn ngục mà ra cả. Từ đây các phố xá kinh-thành lại là một đất tự-do
cho tôi rồi. Kỳ nhị, tôi mầng rằng bạn không biết chuyện Mai-nương đã trốn khỏi phúc-đường về ở với tôi rồi. Tôi có ý xét
thì bạn trong khi nói chuyện hay kiêng việc nàng mà không nói đả-động gì đến,
chừng là bạn cũng tưởng nỗi nhớ thương của tôi phai-lạt đi rồi. Nếu không, sao
lại yên lòng về nàng như thế. Tôi quyết chí theo lời bạn, dẫu chẳng về quê ở với
cha tôi thì cũng dâng vài lời tạ tội và tình nguyện từ nay xin ăn ở cho phải đạo
cùng xin vâng lời nghiêm-huấn. Tình thật thì tôi chỉ gạn-gùng ông già làm sao,
để ông gửi cho tôi ít bạc, nói rằng để ăn học tại kinh-thành, ngày ngày vào
nghe giảng sách tại Hàn-lâm. Nói rằng xin tu trở lại thì chắc nghiêm-đường cũng
chẳng tin nào. Mà tôi xét trong lòng, thì lời tôi kính dâng thân-phụ như thế
cũng gần tình thật của tôi. Chẳng những chí tôi không muốn chơi-bời lêu-lổng gì
nữa, mà tôi lại muốn có việc gì chăm-chút cho ra con người lương-thiện mà hữu dụng
cho đời, quí hồ công-việc ấy đừng có ngăn trở việc tình của tôi mà thôi. Tôi
tính rằng vừa ở với nàng vừa đi học cũng là thuận cảnh, chứ không có điều gì
trái ngược cả.
Tôi nghĩ trong bụng như thế, thì hoan-hỉ mà hẹn với bạn nội
ngày hôm ấy tôi có thư đệ về cho thân-phụ. Tôi từ-biệt bạn, tôi vào ngay một
nơi kia, nhờ một góc bàn, mua một tờ giấy viết một bức tâm-thư thật là kính
yêu, thật là chịu lụy mà gửi về cho cha tôi nhà-quê. Lời lẽ tôi viết ra khi ấy
từ tim gan mà ra, cho nên văn-từ não-nuột, ý-tứ thật-thà, khi tôi đọc lại, tôi
cùng phải khen lấy rằng hay, chắc hẳn gan lim cũng chuyển.
Tiền lưng đã sẵn,ví thử bây giờ tôi đi xe thì cũng được rồi,
nhưng tôi lại làm cao với mình, đủng-đỉnh đi chưn đến nhà T… công-tử, tự hồ được
thi-thố cái tự-do thiên-phó chi quyền ra ở đường cái, lấy làm hớn-hở. Nhưng tôi
đương đi vung-văng ngoài phố thì tôi sực nghĩ ra rằng bạn tôi bảo chẳng nên lo,
là chẳng nên lo về việc tôi thoát ngục mà thôi. Chết một nỗi sau khi tôi thoát
ngục rồi, tôi lại còn can-liên một việc đi đánh tháo cho Mai-nương, rồi kế việc anh nàng bị bại, dầu mình chẳng có ý gì gian
trong việc ấy, mình cũng là một người chứng tá, mắt nom thấy việc tất nhiên
quan cũng cho tìm. Tôi sực nhớ đến những điều ấy thì tôi sợ lạnh gáy, tôi bèn
đi tít vào một ngõ ngang, rồi tôi kêu xe mà đến thẳng nhà T… công-tử. Công-tử
thấy tôi lo sợ cũng phải phì cười. Đến khi công-tử thuật lại chuyện cho tôi
nghe, thì tôi cũng phải cười tôi về cơn sợ hão. Bạn tôi nói rằng tôi đem nàng
đi khỏi hôm trước thì sáng sớm hôm sau, bạn tìm kế che đậy cho khỏi ai ngờ rằng
mình có can-liên đến việc đánh tháo. Bạn bèn giả tảng không biết gì mà lại vào
phúc-đường xin thăm nàng Mai-nương.
Thì ra trong phúc-đường chẳng ai ngờ cho bạn, mà cũng chẳng ai ngờ cho tôi cả.
Họ thấy bạn vào thì họ cười ồ mà thuật lại cho bạn nghe rằng người đâu nhan-sắc
tuyệt-vời như thế, lại theo thằng ở mà đi. Bạn nghe nói thế, thì bạn lại tảng lờ
đáp rằng: Lạ chi câu ấy, đi theo ai cho thoát khỏi chốn giam cầm, mà chẳng đi
theo.
Từ phúc-đường, T… công-tử đến nhà Lệ-cốt để thăm hai chúng tôi, hỏi chủ có nhà cho mướn, làm nghề
đóng xe-ngựa, thì chủ nhà nói chẳng thấy đôi nào đến đây ở cả. Ví phỏng là
khách của Lệ-cốt thì trách nào mà chẳng
thấy vào, vì giữa lúc ấy, Lệ-công vừa bị hại, ý chừng khách đến cửa nghe tin
thì lại trở ra. Nhân đó chủ nhà lại kể cho T… công-tử nghe đầu đuôi cái chuyện
giết người hôm trước. Số là hai giờ đồng-hồ về trước, có thấy một người bạn đồng-ngũ
của Lệ-cốt đến rủ va đánh bài. Hai
người đánh chác gì với nhau không biết, trong non một tiếng đồng-hồ thì thấy
người kia kêu đã thua mất trăm ê-cưu
nghĩa là cả gia-tài có vậy. Khách thua bạc xin vay lại một nửa. Lệ-cốt không nghe; hai bên cãi nhau nói
đến những lời tàn-tệ. Người kia rủ ra đấu kiếm, thì Lệ-cốt cũng lần-khân chẳng chịu, người thua bạc bèn ra về mà đe
chuyện đập đầu. Cách một lát thì quả y như lời dọa. T… công-tử lại nói rằng từ ấy
vẫn vì vợ chồng tôi mà lo ngay-ngáy, chẳng hay ấm lạnh làm sao. Luôn tiện
công-tử lại nài có việc chi cần xin giúp-đỡ. Tôi bèn nói thật ngay chỗ ẩn cho bạn
biết, thì bạn xin phép lại thăm và cùng chúng tôi ăn cơm tối.
Tôi chỉ còn một việc đi sắm ít quần áo cho nàng, tôi bèn mời
bạn đi theo tôi ngay một thể, chờ tôi trước cửa hàng áo, rồi cùng về Say-dô với tôi. Tôi không biết rằng T…
công-tử thấy tôi nói thế thì đồ cho tôi muốn gạ vay tiền sắm áo, hay là bởi
tính con người bẩm sinh phóng-khoáng, tự-nhiên thấy tôi túng-bấn mà thương tình
muốn giúp, công-tử liền đưa tôi đến nhà hàng quen, bảo tôi chọn lấy đồ dùng cho
đủ, tôi lấy thứ vừa thì lại bắt tôi lấy những thứ thượng hạng đắt tiền, rồi đến
khi tôi hỏi tính tiền để trả thì lại cấm nhà hàng không được lấy xu nào của tôi
hết. Sự ấy ban tôi cho tôi một cách rất nhã, tôi không nỡ từ-chối, mà cầm lấy
cũng không thấy ngượng chút nào. Từ đó mà ra, tôi với khách cùng nhau về Say-dô, đem cái vẻ mặt tôi khi về mà tỉ
với cái vẻ mặt lúc ra đi, thì vui buồn khác nhau nhiều lắm.
Nàng thấy tôi về, lại thấy ông khách tử-tế thì dẫu còn chút
lo-phiền nào cũng phải tan đi hết sạch. Vả tôi về đến cửa, tôi đã bảo ngay nàng
rằng:
- Mình ơi! ta hãy quên những nỗi ưu-phiền mới khỏi đi, mà từ
đây ăn ở với nhau cho hết đường sung-sướng. Ngẫm cho cùng ái-tình là một ông thầy
dạy khôn hay lắm. Yêu nhau gặp được lúc cơn may vận tốt như lúc này, một tiếng
cười, một đuôi con mắt nhìn nhau, cùng hả nghìn nỗi gian-nan.
Bữa cơm của chúng tôi hôm ấy, thật là một cảnh-tượng vui-vẻ.
Tôi được ở với Mai-nương,
trong tay cầm trăm bích-tôn, tưởng chừng
như kẻ phú-hộ giàu nhứt ở đất Ba-lê
cũng không sướng bằng mình. Người ta ở đời thế-lực phỉ được bao nhiêu điều sở ước
là giàu-có bấy nhiêu, chứ không nên đem số bạc ra mà tính giàu nghèo. Khi đó
bao nhiêu điều sở ước của tôi đã mãn cả rồi, không còn có thứ gì phải thèm muốn
nữa. Đến như cảnh tương-lai, tôi cũng không lo. Tôi chắc rằng thế nào cha tôi
cũng gửi ra cho tôi nhiều ít, bởi vì năm ấy tôi vừa đúng hai-mươi tuổi, theo
phép nước thì tôi đã được quyền chia gia-tài của mẹ tôi để lại cho rồi.
Tôi nói thật ngay với nàng Mai-nương rằng cơ-nghiệp tôi cả thảy chỉ có trăm bích-tôn. Bấy nhiêu tưởng cũng đủ mà ngồi
yên chờ hồi-vận khá, mà vận khá rồi tất là phải đến, một là có của cha tôi gởi
cho, hai là tôi đi đánh bạc được.
Bởi vậy trong mấy tuần-lễ đầu, tôi chỉ nghĩ đến cách ăn ở
làm sao cho thỏa-thuê sung-sướng, hãy biết nắm trong tay cái phong-túc một thời.
Buổi ấy tôi còn chút ngượng mặt với các bạn quen, vả lại
cũng còn e quan Cảnh-sát đôi ba chút, cho nên chưa dám đến những chỗ sòng to
ngày trước. Tôi đành phải đến đánh cò-con ở mấy nơi bạc nhỏ ít tai-tiếng. Ở các
nơi đó, Tài-thần may cũng vị tôi, không đến nỗi phải giở ra những nghề lắt-léo.
Cứ mỗi buổi chiều, tôi ra phố tìm nơi dậy-hóa, tối lại về Say-dô. Thường thường tôi đưa cả T… công-tử cùng về. Công-tử thì mỗi
ngày một nên thân-thiết với chúng tôi.
Mai-nương
thì tự đã tìm lấy được những phương giải muộn. Đi lại làm quen được với mấy ả
thanh-xuân cứ mỗi năm đến mùa xuân thì về vùng ấy ở. Mấy chị em rủ nhau khi thì
đi dạo chơi ngắm cảnh, lúc thì giở vài ba ngón tiêu-khiển của đàn-bà. Thỉnh-thoảng
xoay ra ván bài ván bất cỏn-con, nàng cũng kiếm được đủ tiền xe ngựa. Lúc rảnh
lắm nàng đi dạo chơi trong vườn Bưu-luân,
đến tối tôi về thấy nàng lại càng đẹp lắm, càng vui-vẻ lắm, càng mặn-nồng với
tôi lắm.
Tuy nhiên, trên quãng trời quang-đãng bỗng thấy kéo một vài
đám mây đen nó dọa mưa to gió lớn vào cái dinh sung-sướng của tôi. Nhưng chẳng
bao lâu, mây ấy tan đi hết sạch mà tính vui cười của Mai-nương lại khéo làm cho câu chuyện kết-cục một cách buồn cười, để
cho tôi về sau nhớ đến chuyện ấy bao giờ, thì lại càng cảm cái bụng nàng yêu
thương tôi vì cái tính nàng hay bỡn-cợt.
Việc ấy đầu đuôi như sau này: Thằng nhỏ ở hầu chúng tôi, một
ngày kia nó gọi tôi ra một chỗ, lúng-túng mà thưa với tôi rằng nó có một câu
chuyện bí-mật muốn thuật cho tôi biết. Tôi giục nó cứ thật mà nói tôi nghe thì
nó nói quanh nói quẩn một hồi, rồi rỉ với tôi rằng có một ông quan lớn ngoại-quốc
phải lòng cô Mai-nương. Tôi thoạt
nghe nói, máu nóng đùng-đùng chuyển động trong huyết-mạch. Tôi mới thét hỏi: “Vậy
thế cô mày có phải lòng người ta không?” Tôi phải tính nóng, làm cho thằng bé sợ-hãi,
không dám nói hết. Tôi hỏi dồn phách mãi, nó mới ấp-úng mà thưa rằng con mắt nó
mới nom được đến đó mà thôi. Nó chỉ biết người ngoại-quốc ấy mấy bữa nay chăm
vào vườn Bưu-luân lắm, đỗ xe-ngựa một
nơi, rồi cứ một mình lủi-thủi vào các đường con ngõ ngách mà đi, có ý đón đường
cô Mai-nương mà đi qua trước mặt hoặc
đi gần mà tán chuyện. Nó thấy thế thì nó có ý hỏi dò những quân hầu-hạ người
ngoại-quốc, thấy quân ấy nói chủ là bậc Hoàng-thân bên nước Ý-đại-lị, nghe như chủ cũng có chuyện
hoa-nguyệt chi đây. Nó chỉ biết có vậy mà thôi. Bữa qua Hoàng-thân khi ở trong
vườn đi ra, thấy nó đi hầu cô, có ghé lại hỏi tên nó, rồi khen nó khéo kiếm được
bà chủ quốc-sắc thiên-hương mà hầu. Thằng bé vừa nói vừa run lẩy-bẩy.
Tôi nghe mà nóng ruột, chỉ muốn nó nói mau mau cho đến câu kết
xem thế nào. Nhưng nó chỉ kết bằng van bằng lạy, bằng lời xin lỗi. Tôi biết là
khờ tại mình nóng-nảy. Sau tôi phải làm mặt thuần-hòa lại mà giục nó nói hết
chuyện cho tôi nghe thì nó thề rằng nó chỉ biết đến thế, vả từ hôm qua đến nay
nó không gặp những quân hầu của Hoàng-thân Ý-đại-lị,
thì từ hôm qua đến giờ, có những gì nó không biết. Tôi hối lại sự tôi nóng-nảy,
tôi lấy ngọt-ngào mà khen nó và tôi lại thưởng cho nó nhiều tiền, và bảo nó cố
rình mò ông Hoàng Ý-đại-lị xem ông ấy
làm những trò-trống gì. Còn về phần Mai-nương
thì tôi không để cho nàng biết rằng tôi có nghi-ngờ gì nàng cả.
Nói thật tình thì tôi thấy nó run-sợ mà nói như thế, bụng
tôi cũng nghi-ngờ, máu ghen nổi lên chết từng khúc ruột. Chắc thằng này còn biết
nhiều nữa mà sợ ta không dám nói. Sau tôi nghĩ đi nghĩ lại thì tôi lại không ngờ
gì nữa, lại tiếc rằng mình sao vội giận. Mai-nương
bị kẻ khác yêu không phải là phạm một tội. Có lẽ người ta yêu nàng mà nàng
không biết. Vả nếu tôi mà thêm cái thói ghen vào trong lòng nữa thì rồi khổ-não
lại biết là bao.
Hôm sau tôi lại lên tỉnh thành định đánh bạc to mà dậy-hóa
cho mau, để lấy tiền mà mau mau dọn nhà đi nơi khác, cho khỏi lo âu gì về cái
chuyện ông Hoàng Ý-đại-lị này nữa. Tối
hôm ấy, không có tin-tức gì làm cho tôi phải lo-lắng cả. ông Hoàng-thân Ý-đại-lị cũng vào chơi vườn hoa, cũng lại
gạn-gùng làm quen với thằng ở của tôi, muốn nhờ nó làm mai cho mình với Mai-nương. Lấy đó mà suy, thì biết rằng chưa
có giao-thiệp riêng với nàng lần nào. Ông Hoàng hỏi nó căn-vặn hết chuyện nọ đến
chuyện kia. Hẹn cho nó không còn thiếu thức gì, rồi dúi cho nó một phong-thư với
mấy đồng tiền vàng, mà nhờ nó đưa giùm phong-thư cho chủ.
Được hai hôm như thế không có điều gì rủi-ro hết. Đến hôm thứ
ba thì hơi thấy động. Hôm ấy tôi đi đánh bạc về khí trễ. Thằng nhỏ nói với tôi
rằng ban chiều cô đi chơi với mấy người đàn-bà khác, bỗng thấy cô bỏ bạn mà đi
lảng vào chỗ vắng, rồi ra hiệu cho ông Hoàng Ý-đại-lị đi theo, khi ông Hoàng đến gần cô thì cô dúi cho ông một
phong-thư, ông Hoàng mầng-rỡ mà nhận lấy, toan nắm tay cô mà hôn, nhưng cô chạy
vội-vàng ngay ra với bạn thì ông Hoàng chỉ ôm cái phong-bì mà hôn chữ thôi. Từ
lúc cô về nhà, cô vui-vẻ khác thường, lúc nào mặt-mày cũng hớn-hở. Mỗi một tiếng
nó nói, như dao đâm vào ruột tôi. Tôi còn nghĩ, lại hỏi nó rằng:
- Con chắc như thế, không phải là mắt quáng mà nhìn sai chứ?
Thằng bé trỏ trời vạch đất mà thề.
May đâu, giữa lúc ấy thì nàng nghe tiếng giầy tôi đi về, chạy
ra đón tôi một cách mong-nhớ lạ-lùng, trách tôi sao về chậm quá. Giá nàng không
ra thì không hay tôi phát điên phát rồ lên đến thế nào. Nàng hỏi tôi thế, rồi
chẳng để cho tôi kịp nói, đã ôm lấy tôi mà hôn lấy hôn để. Khi thằng nhỏ đã đi
xa rồi, nàng lại trách tôi sao độ này về khuya như vậy, đã ba tuần-lễ, chẳng
ngày nào là ngày tôi ở luôn với nàng, cứ để nàng phải trông ngóng hoài-hoài, vậy
từ nay, nàng xin với tôi cứ hai ngày thì phải để riêng cho nàng một, đến mai
thì tôi phải ở nhà với nàng suốt từ sáng cho đến tối, không được đi đâu. Tôi
đang tức bèn gay-gắt mà rằng:
- Mai ta sẽ ở nhà, điều ấy xin đừng phải bảo.
Nàng làm lơ như không biết rằng tôi phiền-muộn, rồi nàng cứ
cười cười nói nói mà kể cho tôi nghe ban ngày hôm ấy đi chơi những đâu, làm những
trò gì. Tôi thấy nàng thế thì tôi nghĩ trong bụng rằng: “Lạ thay là cái gái
này! Không biết những cách điệu này là điềm lành hay điềm dữ đây?” Bấy giờ tôi
mới lại sực nhớ đến cái chuyện phân-ly buổi trước. Tuy nhiên, trong cái vẻ vui
cười, trong cách ve-vuốt của nàng, tôi nom cũng có điều thành-thực, hợp với khí
sắc bề ngoài.
Tôi nói tôi hơi rầu-rầu kém tươi là vì canh bạc đen, thua mất
nhiều ít, thì nàng tin ngay là thật. Tôi thấy tự nàng gạn tôi hôm sau ở nhà với
nàng cả ngày thì tôi lấy làm may lắm. Như thế thật là gãi ngay chỗ ngứa của
tôi. Ví nếu nàng không nói trước, thì tôi cũng đã định như thế, nhưng tự tôi mà
ở nhà thì tất nhiên là để nàng ngờ. Tôi đã tính trước hôm sau dầu không có việc
gì xẩy ra chăng nữa, tôi cũng quyết dọn sạch cửa nhà ra thành-phố, đến xóm nào
là xóm không có dây-dướng gì đến những hoàng-thân nước Ý-đại-lị mà ở cho yên. May mà được như ý tôi thế thì đêm hôm ấy tôi
ngủ yên giấc hơn một chút, song cũng vẫn ghê có việc gì đau-đớn tới nơi đây.
Sáng ngày ra, vừa thức dậy, Mai-nương bảo tôi rằng dẫu ở trong nhà với nhau mà thôi, không đi
đâu cả, song nàng cũng muốn để tôi chải-chuốt lịch-sự, nàng xin nhận phần chải
đầu xếp tóc cho tôi. Nguyên tóc tôi đẹp lắm. Thường nàng đã chải-chuốt lấy cho
tôi nhiều lần rồi. Nhưng hôm ấy thì tôi thấy nàng uốn-nắn kỹ-càng một cách đặc-biệt.
Tôi phải chiều nàng mà ngồi vào trước cái bàn gương-lược của nàng, để cho nàng
tùy thích mà lôi kéo, chải gỡ, vặn tết trăm vành trăm vẻ. Chốc chốc nàng lại bắt
tôi quay mặt lại để cho nàng nhìn, thì nàng tì hai bàn tay vào vai tôi rồi ngắm
nghía một cách yêu-đương quí-trọng lạ-lùng. Khi nàng đã xoay-xở tôi cho đến vừa
ý rồi, nàng hôn hai ba cái, rồi lại bắt ngồi vào bàn để nàng chải-chuốt nữa.
Việc rỡn nhau như thế kéo dài cho đến bữa cơm chiều. Tôi
không hề thấy lúc nào nàng có nóng ruột, rõ ra thích chí mà làm đỏm cho tôi, chứ
không có một li nào là li hàng chợ, tôi không thể nào còn ngờ được rằng nàng có
ý thất tiết với tôi hôm ấy. Đã mấy lần tôi toan nói thật cả những nỗi ngờ vực
cho nàng nghe mà xin lỗi với nàng đi cho nó nhẹ tấm lòng. Nhưng tôi lại ước-mong
việc ấy tự khác [khắc] rồi nàng nói trước, tôi đã sẵn-sàng làm ra cái bộ mặt thắng,
hợm đời ta có nhân-ngãi yêu mình đây.
Chải-chuốt xong, nàng với tôi cùng nhau ra ngoài phòng
khách. Ra đến nơi, nàng lại sửa-sang mái tóc cho tôi một lần nữa, đương sửa dở
thì người nhà vào nói có Mỗ
Hoàng-thân-vương xin vào bái yết. Tôi vừa nghe lọt, tôi lấy tay tôi đẩy nàng ra
mà thét rằng:
- Cái gì? À? Hoàng-thân-vương nào?
Nàng không đáp tôi chỉ bảo thằng ở:
- Mời thân-vương lên đây.
Rồi mới quay lại tôi mà rằng:
- Mình ơi! tôi yêu mình hết sức. Nhưng tôi xin mình chiều
tôi một lát, một giây phút mà thôi. Mình mà chiều tôi thì tôi yêu mình gấp
nghìn phần. Tôi đội ân mình cho đến mãn kiếp.
Tôi vừa tức giận, vừa giật mình, líu lưỡi không nói ra được.
Nàng lại nài câu ấy lần nữa, tôi thì lúng-búng tìm lời tàn-tệ để mà chối phắt
không cho. Giữa lúc ấy thì nàng nghe tiếng người mở cửa vào, nàng bèn một tay
túm tóc tôi để xõa trên vai, một tay thì cầm lấy cái gương để trên bàn rửa mặt.
Nàng cố sức lôi tôi ra cho kỳ được, lấy chân đạp cánh cửa mà đem tôi ra ngoài,
để cho ông khách vào chơi gặp một cảnh-ngộ lạ-lùng, khiến cho khách phải
ngơ-ngác. Tôi nhìn ra thì thấy một người ăn bận rất là lịch-sự, nhưng mặt thì
nhăn-nhó như con hầu [con khỉ].
Tuy rằng khách thấy vậy cũng lúng-túng chưa hiểu ra chuyện
gì, song khách cũng cúi chào một cách rất khiêm-tốn lễ-phép. Mai-nương không để cho khách kịp mở miệng
nói nửa câu gì, giơ ngay gương vào tận mặt khách mà rằng:
- Xin quí-khách hãy nhìn vào gương mà ngắm cho kĩ, rồi khách
thử phân-giải cho phận đàn-bà ở thế nào là phải. Quí-khách sở cầu lòng thiếp
thương-yêu. Đây là người của thiếp yêu, và thiếp đã thề trăm năm cũng chỉ yêu
có một người này. Xin quí-khách thử so-sánh lấy mà coi. Nếu quí-khách tự-phụ rằng
có thể tranh được lòng thiếp với người yêu của thiếp, thì cũng xin nói cho thiếp
hay cái tự-phụ ấy dựa vào hà duyên cố? Bởi vì cứ như con mắt thiển-cận của tiện-thiếp
đây nom ra, thì bao nhiêu Hoàng-thân-vương nước Ý-đại-lị góp nhặt cả lại, tưởng cũng không ăn đứt được một sợi tóc
tay thiếp cầm đây thì phải.
Trong khi nàng đọc cái bài diễn-thuyết cuồng-dại ấy, mà chừng
là những lời nghĩ sẵn đâu từ trước, thì tôi cố sức tôi gỡ tóc tôi ra. Tôi đã
khiến lấy cách nhã mà chữa lại cái lời sỉ-mạ người ta đó. Nhưng người khách
vương-tôn lại xử khiếm-nhã trước, làm cho tôi toan đãi tử-tế mà lại thôi. Khách
cười gượng mà rằng:
- Cô ơi, cô, quả tôi mới được mở mắt ra nom rõ, thì tôi nom
ra cô đã thạo nghề lắm lắm. Trước tôi vẫn tưởng cô chưa lõi đến thế.
Nói thế rồi khách không thèm nhìn Mai-nương mà quay lưng đi ra, vừa đi vừa lẩm-bẩm rằng gái nước Pháp
không hơn gì gái nước Ý. Tôi thấy con người nhỏ-nhen lại lấy cách tiểu-nhi mà đối
lại với tiểu-nhi như thế, thì tôi cũng khinh ngay đi, chứ tôi không nghĩ gì đến
sự khiến cho người ấy phải nghĩ thế khác về đàn-bà nước tôi làm gì nữa.
Khách ra khỏi, Mai-nương
buông tóc tôi ra, chạy đến ngồi phịch vào một cái ghế bành mà cười vỡ cửa vỡ
nhà. Thật tình thì tôi thấy nàng vì tôi mà bỏ đám khách giàu-sang, tôi cũng động
lòng cảm cái tình yêu-mến. Nhưng cái trò đùa tôi cho là hơi quá. Tôi bèn sẽ
trách mắng nàng. Bấy giờ nàng mới thuật lại cho tôi nghe rằng, người ấy đeo-đuổi
nàng trong vườn Bưu-luân đã mấy ngày
trời, hết nhăn mặt khi lại đến đảo đôi mắt trố, rồi lại viết thư mà nhờ tay tên
đánh xe-ngựa đưa cho nàng, để ghẹo nguyệt trêu hoa, chẳng quản thân danh như thế
mà đi đề hết tên, họ, phẩm-tước vào dưới cái thư ve-vãn. Nào những hẹn ta nếu
chịu theo chàng sang bên kia núi (Từ Đại-pháp
sang Ý-đại-lị cách rẫy núi A-lặc-bá) thì những đúc nhà vàng, những
kê giường thất bửu. Nàng nói rằng ngay lúc ấy nàng đã toan về kể hết với tôi
chuyện ấy, sau lại nghĩ ra một cuộc vui đùa, cho nên bấm gan mà xếp nên trò,
đáp thư cho khách vương-tôn, xin tùy-tiện lầu trang đi lại, chí để cho tôi đóng
vai tuồng mà không nói trước. Tôi cũng chẳng nói chi cho nàng biết những câu
tôi đã biết rồi, tính âu-yếm từ đó lại mặn-nồng hơn trước, nàng làm điều gì tôi
cũng xin cho là phải.
Tôi có ý nghiệm trong xuốt một đời tôi lúc nào ông Trời cũng
cứ chơi khăm, kén chọn giữa khi đương rất vẻ-vang sung-sướng, mà bắt phải gặp
những tai-ách lạ. Thuở ấy tôi được T… công-tử là bạn chí thân yêu-mến, lại được
tình-nương âu-yếm đến dường, thì tưởng chừng như không còn có mối lo-sợ nào nữa.
Ai hay đất bằng nổi sóng đùng-đùng, đương lúc ấy là lúc tôi sắp-sửa gặp một nạn
to ghê-gớm, vì nạn ấy mà tôi đến cái nỗi chua-cay, tôn-ông đã nom thấy tại ấp Ba-xy. Rồi sau dần dần tôi còn những bước
lưu-ly cực-kỳ sầu-thảm, bây giờ tôi kể lại chắc tôn-ông cũng không thể cho là
thật được.
Hôm ấy, T… công-tử đương ăn cơm tối với chúng tôi, bỗng nghe
tiếng xe đỗ cửa, chúng tôi hỏi xe ai, thì thấy người nhà vào nói có Mỗ Mỗ thiếu-niên muốn vào chơi, chàng là
con Mỗ Mỗ phú-ông nghĩa là người
thâm-thù của chúng tôi đã bắt tôi mà bỏ vào ngục Thánh La-da, và bắt nàng mà bỏ vào nhà thương làm phúc. Những nghe
danh-hiệu, mặt tôi đã đỏ bừng-bừng, tôi mới bảo T… công-tử:
- Thật lòng trời giun-giủi cho gã này đến trước mặt ta để chịu
tội thay cho cha đó. Đệ cùng người này phải ngáng gươm cùng nhau một cuộc mới
yên.
Trước khi mời Mỗ Mỗ sinh vào, T… công-tử còn nói nhỏ cho Mỗ Mỗ sinh biết trước chúng tôi là ai. Khách thoạt bước chân vào, chúng tôi đã đem ngay bụng mến. Khách hôn tôi, tôi mời khách cùng ngồi, khách nhìn Mai-nương mà tấm-tắc khen con người quốc-sắc, rồi lại khen tôi và khen lây cho đến cả những đồ-vật của chúng tôi; đoạn rồi khách ngồi vào cái bàn cùng ăn uống một cách thật-thà thân-thiết.
Khi đứa ở đã dọn sạch bàn đi rồi, câu chuyện hóa ra nghiêm-nghị, khách cúi đầu nhìn xuống đất mà kể lại sự cha cay-nghiệt trước kia quá tàn-nhẫn với chúng tôi. Rồi khách xin lỗi chúng tôi một cách rất nhã mà rằng:
- Xin phép huynh-ông, tạ tội vài lời vắn tắt mà thôi, kẻo nữa nói dài-dang bao nhiêu lại nhuốc cho tiểu-đệ bấy nhiêu.
Cái tình ân-hận ấy
lúc sơ-thủy gặp nhau đã là thành-thực, khách ngồi lâu, lần lần lại thấy
thành-thực nữa. Sau khi khách đến chừng độ nửa tiếng đồng-hồ, thì tôi coi mặt
khách hình như thấy lòng khách đã bị cái sức quyến-luyến của đôi má-hồng Mai-nương nó làm xiêu-động nhiều rồi.
Đôi mắt nhìn của khách, những cách điệu của khách mỗi ngày một thấy có ý-vị ngọt-ngào
đằm-thắm. Duy trong lời ăn tiếng nói, khách vẫn giữ-gìn không để hở cơ chút đỉnh.
Tôi dầu chẳng có máu ghen đi nữa, nhưng cái duyệt-lịch trong ái-tình giới, cũng
đã đủ đoán ra được cái mắt nhìn nào, cái cách điệu nào, là mắt nhìn, là cách điệu
kẻ đắm-say.
Khách ngồi chơi
cho mãi đến đêm khuya, trước khi đứng dậy ra về, lại còn ước hẹn có lần này lần
khác, xin phép đến chơi luôn và có việc gì thì giúp. Đến sáng ngày ra thì khách
với T… công-tử cùng lên xe-ngựa về Ba-lê.
Tôi tính không
hay ghen, mà lại dễ tin những lời nàng thề-thốt. Vả nàng bẩm sinh không phải là
người hàng chợ, cùng tôi hai bên tự-do hòa-hợp, chứ không ai là kẻ ép-nài. Vì lẽ
thanh-khí, vì lẽ thương-yêu mà ăn ở với nhau, chứ không ai là người vị cần vị lợi,
thì lời thề đâu có lẽ nên nghi. Tôi thấy Mỗ
Mỗ sinh chết mệt, chẳng những tôi không trách oán, mà lại còn vui riêng về
nỗi tình-nương ta có phẩm-giá khác thường. Ai cũng thèm muốn, mà duy ta chiếm
được, đó là cái thỏa-chí riêng của bọn nam-nhi. Tôi biết vậy cũng chẳng buồn ngỏ
chi cho nàng biết. Trong mấy hôm chúng tôi luôn luôn lo bận vào việc may xống-áo
mới cho nàng và bàn nhau xem tối có nên cùng nhau đi coi hát bội chăng, có còn
phải e ai nhận được mặt hay chăng. Cách đó mấy bữa, thì T… công-tử lại về thăm
chúng tôi. Nhân chúng tôi có hỏi điều ấy, thì công-tử chiều ý Mai-nương mà miễn-cưỡng đáp rằng cứ đi
coi hát được. Chúng tôi bèn quyết đi coi ngay tối hôm ấy, rủ cả T… công-tử đi nữa.
Tuy vậy mà ý muốn
một đàng rồi nó ra một nẻo. Số là khi ấy T… công-tử nói xong câu chuyện đi coi
hát rồi lại gọi tôi ra một chỗ mà nói riêng với tôi rằng:
- Từ hôm nọ đến
nay, tiểu-đệ lấy làm khó nghĩ quá. Bởi việc khó nghĩ đó mà hôm nay lại về thăm
nhân-huynh. Nhân-huynh ơi, số là Mỗ Mỗ
sinh từ hôm ấy phải lòng tình-nương của ngô-huynh, lại rỉ cùng em biết chuyện.
Em với va là chỗ thân bằng cố hữu, việc gì cũng giúp lẫn nhau. Nhưng em với anh
tuy mới giao-du, song cũng thân yêu chẳng kém. Em cho sự ấy là càn-dỡ, em cũng đã
mắng nhiếc tận từ. Ví nếu người bạn của em chỉ dùng phương-kế tầm thường mà quyến-dũ
người yêu của anh, thì em cũng cam một điều thủ-tín chẳng nói đi nói lại cho
anh biết làm chi. Chẳng may bạn em đã tỏ tường cả tính-nết Mai-nương. Chẳng hay ai nói mà bạn lại biết rằng nàng ưa tiền bạc dồi-dào,
lại thích sự chơi-bời cho sướng thỏa. Vả bạn em tiền nhiều của lắm, quyết lấy hoàng-kim
mà làm đen lòng phụ-nữ. Bạn em có khoe với em rằng sắp đem làm quà cho Mai-nương một món tiền to, rồi lại hẹn
tư-cấp mỗi năm là một vạn phật-lăng.
Hai bên cùng vì nể, cứ một lẽ giao-du mà xử, thì em tính mặc ai giữ lấy lợi mình,
em là người đứng giữa. Song em nghĩ cho chín, thì đối với ngô-huynh, em đã phải
vị nghĩa giao-du, lại còn phải vị nghĩa công-lý. Vả sự này cũng có bởi nỗi em
sơ ý. Vị cây dây leo, tại em dắt-díu người đến đây mà nên cái họa chia uyên rẽ
thúy sau này. Bởi thế mà phải lo phương-kế tránh sao cho khỏi thiệt anh.
Tôi tạ ân T…
công-tử. Tôi chịu lời bạn nói, quả tính-khí Mai-nương
như vậy, nghe tiếng nghèo đã đủ ghét rồi. Nhưng tôi lại hồi tấm lòng tin mà rằng:
- Tuy nàng thế
thật, nhưng một mười một chín chắc nàng cũng không nỡ bỏ em mà đi tìm chỗ giàu
hơn. Em bây giờ dẫu không là phú-quí, cũng chẳng đến nỗi để cho nàng thiếu-thốn
thức gì. Mà xem vận nhà em cũng thấy mỗi ngày một khá. Duy em chỉ e có một điều,
là Mỗ Mỗ sinh nhân biết chốn vợ chồng
em ở, mà đem việc trước làm điều phản-trắc gì chăng.
T… công-tử nói rằng
về khoản ấy thì tôi không nên e sợ. Mỗ Mỗ
sinh là một gã ngông-cuồng, vì tình mà làm nên việc rồ-dại thì có, không bao giờ
có làm được việc vô-lương đê-mạt. Ví nếu sau này mà chàng quá đam-mê đến nỗi
làm điều như thế, thì công-tử đoan rằng xin tự ra tay, chẳng quản tình sâu
nghĩa cũ, giết phăng con người hèn-hạ, để chữa cái vạ vì mình.
Tôi nói:
- Ngô-huynh có bụng
ấy, tiểu-đế muôn đội ân thâm. Chỉ e khi chờ được nạ thì má đã sưng. Lúc việc
xót-xa đã lỡ thì thuốc kia nào chắc có hay. Như thế thì em tưởng tránh nạn đi
ngay chốn khác, có dễ yên hơn.
- Vâng, em cũng
biết xa chạy cao bay là phải. Nhưng lại e không kịp nữa rồi. Mỗ Mỗ sinh chính ngọ thì tới đây, từ hôm
qua đã nói cho em biết trước. Bởi thế mà em vội-vàng về đây thật sớm, để báo
anh hay. Mỗ Mỗ sinh đến trong giây
phút bây giờ.
Việc cấp báo như
thế, tôi lấy làm lo. Tránh mặt Mỗ Mỗ
sinh thì quyết là không được rồi, mà đã tiếp chàng thì lại khó lòng mà ngăn cấm
được chàng trò-chuyện với Mai-nương.
Âu là ta bảo cho Mai-nương biết trước.
Tôi cũng nghĩ rằng nàng đã biết rằng tôi thông-tỏ mà khách lại gạn với nàng ở
trước mắt tôi, thì bao giờ nàng lại còn có xẩy chân nơi cám-dỗ được. Tôi ngỏ ý
cùng T… công-tử, thì T… công-tử nói rằng câu chuyện hơi khó. Tôi đáp:
- Em cũng biết
là câu chuyện hơi khó. Nhưng bao nhiêu lẽ người ta nên tin ở tình-nương, em đều
có cả, em chắc rằng tình-nương của em yêu em. Duy có số tiền gã kia ước hẹn khí
to, nên sợ nó làm cho nàng quáng mắt. Nhưng em đã có lời nói anh biết rằng Mai-nương không phải là gái tham tiền.
Nàng dẫu ưa ăn ngon mặc tốt, ưa vui cười sung-sướng, nhưng mà nàng cũng có bụng
thương em nữa. Như trong cái tình-cảnh bây giờ thì tôi tưởng không có lẽ nàng lại
rẻ tôi hơn cái thằng con trai lão Mỗ Mỗ
nó đã đem nàng giam cầm ở nơi đê-nhục.
Nói tổng lại là
tôi nhứt quyết ngỏ cùng nàng. Tôi nói thế, rồi tôi kéo nàng ra một chỗ mà nói hết
chuyện cho nàng nghe. Nàng cám ơn tôi lại tin nàng được đến thế, rồi nàng hẹn
tôi để khi nào gã kia có giở ngón gạn-gùng thì nàng sẽ trả lời một cách cho gã
đến già không bao giờ dám gạn nữa. Tôi lại phải can rằng:
- Không. Mình chẳng
nên lấy cách sống-sượng quá mà đãi người ta làm gì. Người ấy có thể hại ta được.
Rồi tôi lại cười cợt mà rằng: Thôi, nhưng mình ranh-mãnh chán, lựa là tôi phải
bảo mình cách đuổi đứa đàn-ông mình không thích.
Nàng ngồi ngẩn-ngơ
một lát rồi bảo tôi rằng:
- Mình ơi, tôi mới
nghĩ ra một kế tuyệt-trần, cao tầy thánh, mình ạ. Gã này là con lão Mỗ Mỗ phú-gia ngày trước, nó làm hại
mình với tôi. Chúng ta phải trả thù lão một phen mới thỏa. Thù ấy ta đừng bắt
con nó chịu, nhưng ta bắt cái tủ-bạc nó chịu là phải, mình để tôi cứ giả vờ
nghe gã gạn-gùng, tôi khoét cho nó một mẻ, cho gì tôi cũng lấy cho thật nhiều,
rồi tôi cười vào mặt nó. Mưu ấy mình nghĩ sao?
- Kế thì hay,
nhưng xin mình nhớ cho rằng đôi ta cũng đã theo con đường ấy mà vào thẳng đề-lao
với nhà làm phúc…
Tôi hết sức ngăn
can nàng việc ấy nguy-hiểm. Nàng cứ nhứt định đòi làm, nói rằng khéo thì chẳng
việc gì hết. Tôi cãi câu gì, nàng cũng biện được câu ấy. Lạ gì cái thói đàn-ông
mê gái, nó bảo gì mà không nghe. Cái dở hơi của nó xuôi tai cũng hóa ra việc
nên làm. Việc ấy thật là tôi dại quá. Tôi bèn quyết chí cùng nàng lừa cho Mỗ Mỗ sinh một mẻ. Hay đâu kẻ bị lừa về
sau lại chính là tôi.
Chừng lúc mười-một
giờ thì thấy xe-ngựa chàng đến. Bước vào cười cười nói nói, kiếm đâu được toàn thị
những câu cẩm-tú mà xin lỗi trước cái cách dễ-dàng tự-tiện chẳng mời mà xin ăn
cơm. Mỗ Mỗ sinh nom thấy T… công-tử đến
trước rồi, cũng không nghi tình chỉ cà, vì công-tử đã khéo thác việc kia việc nọ
mà ra đi trước, không nhận lời đến rủ đi cùng xe với gã. Tuy rằng trong bốn người
đồng-tịch, không người nào là chẳng có tư-tưởng phản-phúc trong đầu, vậy mà hớn-hở
vui cười cả bốn, mà ngồi bàn ăn. Trong bữa ăn, Mỗ Mỗ sinh được nhiều cơ-hội tự-tình với Mai-nương, chắc hẳn trong bụng cũng khen tôi là một anh chồng dễ chịu
trong lúc ăn cứ vào ra thoăn-thoắt, vắng mặt hàng mười-lăm phút một, để tha hồ
cho khách gạ vợ mình.
Khi tôi trở vào,
tôi nhìn mặt khách đủ biết rằng những câu đáp lại của Mai-nương không phải là những câu khiến cho trai phải đi tự-tận. Mặt
khách tươi như hoa, cười khanh-khách. Tôi cũng tảng lờ ra dạng tươi cười. Khách
lại có ý chê trong bụng rằng tôi quá thật-thà, mà tôi thì cũng có tình chê lại
khách. Trong cả một buồi chiều hôm ấy, cứ người nọ làm một trò vui cho mắt người
kia. Trước khi khách đứng dậy ra về, tôi còn tảng có việc nhà trong để khách tự-do
mà to nhỏ với Mai-nương một lát.
Thành ra khi khách ra về, trong bụng khách đã khen món ăn ngon tốt, lại còn phải
khen ông chủ dễ-dàng.
Khi khách cùng với
T… công-tử đã lên xe rồi, Mai-nương giơ
hai tay mà chạy lại ôm tôi, rồi cười khanh-khách. Thuật lại cho tôi hết cả những
lời đôi bên đối thoại, không bỏ sót câu nào. Những câu ấy rút lại một lời
toát-yếu thì là khách mê vợ tôi quá đỗi. Hẹn chia đôi với nàng một nửa số lợi tức
riêng của mình đương có bây giờ, tính cả đồng niên cũng đã ngoài bốn vạn, chưa
kể cái gia-tài của cha sau khi chết mới để lại nữa. Hẹn nay mai thì cho về làm
chủ-trương mọi việc gia-đình, tay hòm thìa-khóa giao hết cả cho. Giờ hãy tạm
dâng một cỗ xe song-mã, một cái nhà lầu đồ-đạc sẵn-sàng hết cả, một ả thị-tì,
ba đứa ở trai, với một tên đầu-bếp. Nàng kết-luận rằng:
- Mình coi đó.
Con thế mới là con tốt bụng hơn cha!
Tôi hỏi:
- Mình ơi, tôi hỏi
câu này, mình nói thật. Gã hẹn bấy nhiêu, mình có ý thiết-tha chút nào chăng?
Nàng khéo trả lời
tôi ngay mấy câu tập thơ Racine:
Sao chàng nỡ ngờ ta bụng ấy?…
Mặt mũi nào còn thấy được nhau!
Phúc-đường chuyện đó nhớ lâu…
Tôi cũng muốn
thi văn-tài với nàng, bèn đáp:
Đây cũng biết Phúc-đường chuyện cũ.
Không phải là một dấu ái-ân.
Nhưng một cái
nhà lầu sẵn-sàng đồ-đạc, một ả thị-tì, một thằng đầu-bếp, cỗ xe với ba thằng ở
là một cái quà ngon mắt, hồ dễ trai gái yêu nhau đã mấy kẻ cho nhau đến thế.
Nàng lại chỉ non
thề biển, mà quyết với tôi rằng trăm năm cũng một mình tôi, chứ không có của
nào mà khiến nổi được cho nàng thay đen đổi trắng:
- Gã hẹn thiếp
cho nhiều bao nhiêu thì cái lòng căm-tức của thiếp được thỏa mà thôi, chứ không
bao giờ có xiêu-đổ được tấm chung-tình.
Tôi lại hỏi nàng
có định nhận tòa nhà với xe song-mã không, thì nàng nói nàng chỉ muốn khoét cho
gã ít bạc mà thôi.
Hiềm một nỗi có
chịu khoản kia, mới được khoản nọ. Chúng tôi định với nhau chờ xem gã hạ bút viết
thư cho nàng cam-kết minh-bạch những thế nào. Đến hôm sau thì quả thị có một thằng
nhỏ không bận áo dấu, lén đến mà đưa cho nàng cái thư giao hẹn, nó khéo chọn lúc
lén vào nhà bao giờ tôi không biết. Nàng bảo nó đứng chờ một chỗ, sẽ có hồi âm,
rồi nàng đem thư vào mở cho tôi đọc.
Trong thư tự-tình
mọi lẽ cũng như những thư tự-tình của người ta mà thôi, đoạn sau cam-kết rạch-ròi
từng khoản. Mỗ Mỗ sinh thật là một gã
ăn chơi phóng-túng. Số tiền hẹn cho rộng-rãi vô công. Xin hễ nàng dọn đến nhà
riêng ở thì đưa ngay một vạn phật-lăng,
để làm tiền bỏ túi tiêu vặt, tình nguyện săn-sóc đến luôn, để cho số tiền ấy
tha hồ tiêu mà không bao giờ khuyết. Mà ngày giờ đính hẹn không xa-xôi gì cả,
chỉ xin có hai hôm, nghĩa là buổi chiều hôm sau thì rước nàng lại chỗ nhà riêng
ở đường ấy, số ấy, xin nàng cứ trốn tôi mà đi lại đó, nhà cửa và tiền bạc sẵn-sàng.
Mọi việc chàng đã dự tính đâu đó cả, duy chỉ có việc trốn ra cho khỏi tay tôi
là chàng e khí khó, vậy xin nàng có liệu lấy được thì nói cho biết để yên lòng.
Bằng có điều gì trắc-trở thì nàng cũng ngỏ cho hay, để chàng tìm phương ngoại ứng.
(còn nữa)
Mai-nương Lệ-cốt (phần 1)
Nguyễn Văn Vĩnh kính cáo
Nguyễn Văn Tố về Nguyễn Văn Vĩnh
Nguyễn Văn Vĩnh-Mặc Đỗ-Bùi Giáng
Tiểu luận về Nguyễn Văn Vĩnh
Nguyễn Văn Vĩnh dịch Miếng da lừa
Ba chương Ba người ngự-lâm pháo-thủ
Trung Bắc
Nguyễn Văn Vĩnh trả lời phỏng vấn
Nguyễn Văn Vĩnh là ai
Sử ký Thanh Hoa
tiếp tục
ReplyDelete