Giờ, giỗ lễ xong rồi, ta đã có thể nói sâu vào văn chương Tô
Hoài.
Đọc đi đọc lại Cát bụi
chân ai, chẳng biết đến lần thứ mấy, tôi bỗng nhận ra, mình đúng là có mắt
như mù, Cát bụi chân ai hấp dẫn một
cách lạ thường như vậy chính là vì ở nó, lần duy nhất, Tô Hoài để lộ một số
chìa khóa ngõ hầu giúp người ta bước vào một thế giới kín bưng. Một lần, chắc
là vì hoảng hốt thế nào đó, hoặc có một tâm trạng hơi đặc biệt, Tô Hoài đã đi
chệch một chút khỏi con đường quen, thành ra đã xuất hiện những thứ bình thường
không bao giờ người ngoài mong thấy được. Về cơ bản, chẳng ai hiểu Tô Hoài hết,
kể cả những người từng ở rất sát Tô Hoài, rất quan tâm đến Tô Hoài, nói chuyện
rất nhiều với Tô Hoài. Một khi Tô Hoài đã không muốn, thì chẳng ai có thể nhìn
thấy gì, mọi thứ cứ lờ mờ. Ấy là vì chủ đích của Tô Hoài chính là tạo ra một sự
lờ mờ gầy gùa bao lấy xung quanh. Với văn chương tỉ mỉ ấy, chỉ có thể dùng một
sự tỉ mỉ còn lớn hơn, đừng để xao động bởi bất kỳ cảm xúc gì, thì mới may ra
nhìn nhận được.
Giờ đây, với Tô Hoài, tầm vóc ấy, danh tiếng ấy, sự lịch duyệt
ấy, chỉ còn duy nhất một câu hỏi có nghĩa: văn chương Tô Hoài có lớn không?
Có hai điều thường xuyên được nêu lên khi người ta nhắc đến
Tô Hoài: thứ nhất, các nhà văn trẻ cần học tập tấm gương lao động chữ nghĩa Tô
Hoài, thứ kỷ luật viết văn không quá nệ vào cảm hứng, thậm chí không hề cần đến
cảm hứng và thứ hai, Tô Hoài là một chứng nhân lịch sử và lại rất chịu khó ghi
chép tỉ mỉ, nên những chuyện Tô Hoài kể rất đáng tin.
Cả hai điều trên đều rất sai. Tô Hoài không hề là người trau
chuốt, kỹ lưỡng về chữ nghĩa (như Nguyễn Đăng Mạnh nhận định). Chẳng qua là viết
quá nhiều, thỉnh thoảng bỗng bật ra một câu là lạ, chữ nghĩa nhặt nhạnh khắp
nơi bỗng có lúc đắc dụng. Và đừng có dại mà học theo “tấm gương Tô Hoài”: chỉ một
mình Tô Hoài mới đi được con đường Tô Hoài từng đi. Điều này không hề bao hàm ý
đánh giá tốt hay xấu, giá trị văn chương vẫn có thể nằm ở những chỗ khác, bên
ngoài cảm hứng, sự trau chuốt v.v… và bản thân Tô Hoài đã là minh chứng cho điều
ấy.
Điều thứ hai thì càng tệ: đừng có dại tin bất kỳ điều gì Tô
Hoài nói, nhất là trong các tự truyện. Cũng như mọi người khác, Tô Hoài thường
xuyên nhớ nhầm. Trong Tự truyện tái bản
(không phải bản đầu 1978), Tô Hoài nhắc đến chuyện thời Nhân văn-Giai phẩm,
Hoàng Huế từng viết trên tờ Đất mới
chỉ trích “tác phong” của Nguyễn Tuân. Có nhân vật Hoàng Huế thời ấy thật,
nhưng không phải Hoàng Huế viết trên Đất
mới.
Hay như dưới đây, trích từ Chiều chiều:
“Cái người thấp, đội mũ lông để ria trông như Nhật cũng bước
lại và nói với tôi:
- Chào anh. Tôi là Lê Vinh Quốc. Tôi có thể dịch hộ anh.
Tôi không quen Lê Vinh Quốc. Nhưng tôi đã đọc trên báo ở Hà
Nội của anh bài thơ “thi sĩ máy” hay “thi sĩ gỗ” thế nào đó, tôi không thuộc.
Lê Vinh Quốc sang học bên này rồi ở lại.”
(Chương 16, chuyện xảy ra tại một hội nghị nhà văn ở nước
ngoài, đúng lúc Aimatôp đến bắt chuyện với Tô Hoài mà không có người phiên dịch
ở đó)
Ở đây Tô Hoài đã nhớ nhầm, lẫn lộn, chập Lê Vinh Quốc với một
người khác nữa. Lê Vinh Quốc hồi Nhân văn-Giai phẩm đăng một bài thơ, tên là
“Những người máy” (và là đăng trên một tờ báo chính thống), còn “Thi sĩ máy” là
một tiểu phẩm đăng trên báo Nhân văn
của Châm Văn Biếm, bút danh của Ngô Như Mai (đây vẫn là một bút danh).
Đoạn dưới đây là một đỉnh cao của “phong cách ký ức Tô
Hoài”:
“Ở nhà máy xe lửa Gia Lâm, Hồ Dzếnh làm với tổ sơn toa tàu,
được trả tiền công khoán cẩn thận - Hồ Dzếnh bảo tôi thế, tôi cũng lây cái ham
thích của anh. Hồi ấy, anh cho tôi những tập thơ Rừng phong của Vũ Hoàng Chương Nhà xuất bản Đông Phương của anh in
1953 và tập thơ thiếu nhi Mấy vần tươi
sáng của Trần Trung Phương. […] Trước kia, tôi cũng chỉ biết, không quen Hồ
Dzếnh. Khi ấy, anh đã thôi đứng bán hàng tơ lụa cho Thượng Hải thương điếm, nhà
Phan Thái Thành ở Hàng Ngang. Anh đi sửa mo-rát, trông nom nhà in Á Châu xuất bản
cục, phố Emin Nôly - đường Châu Long bây giờ, chủ nhà in và xuất bản Nguyễn Bá
Dĩnh mượn anh, nhưng Dĩnh cũng là bạn anh. Tập truyện ngắn Chân trời cũ của anh in ở đấy. Những hôm cạn tiền đi uống, đi ả
đào, Vũ Trọng Can và tôi đứng đầu phố đợi Nguyễn Bính vào nhà in Á Châu đả tiền
Hồ Dzếnh, nhưng cũng như Trúc Đường trong Ngũ Xã, anh không kéo lũ đi đàn đúm với
chúng tôi.”
Nhà xuất bản Tiếng Đông Phương xuất bản tập thơ Mê hồn ca của Đinh Hùng vào năm 1954,
kèm một lời giới thiệu rất nổi tiếng không đề tên tác giả nhưng gần như 100% là
của Hồ Dzếnh (xem thêm ở đây). Tập thơ Rừng
phong của Vũ Hoàng Chương in năm 1954 ở cơ sở xuất bản Phạm Văn Tươi trong
Sài Gòn (xem thêm ở đây), chứ không in ở Tiếng Đông Phương. Tô Hoài luôn luôn lấn bấn với
cặp Vũ Hoàng Chương-Đinh Hùng này.
Nhưng ở đoạn trích trên, điều đáng nói nhất là sự im lặng của
Tô Hoài ở một điểm liên quan đến chính Tô Hoài. Ai rành văn học sử Việt Nam đều
biết, viết như thế kia tức là Tô Hoài ngầm tố cáo Hồ Dzếnh từng in sách trong
thành Hà Nội trước 1954, “thời tạm chiếm”. Chỉ có điều, cũng chính nhà Á Châu đã in
sách của Tô Hoài, ít nhất là quyển Quê
người (xem thêm ở đây). Điều này thì Tô Hoài lẳng lặng giấu đi.
“Phong cách ký ức Tô Hoài” hoạt động rất mạnh khi đối tượng
là những người mà Tô Hoài không ưa. Ta đã biết, Tô Hoài rất ghét Việt Nam Quốc
dân đảng, Đệ tứ, Sài Gòn sau 54. Đây là đoạn về Vũ Anh Khanh, người từng thân cận
Thẩm Thệ Hà, tại miền Nam cuối thập niên 40 đầu thập niên 50:
“Lại cũng ở đơn vị như Lê Lựu, Vũ Anh Khanh miền Nam tập kết.
Vũ Anh Khanh là cây bút trẻ ở Sài Gòn rồi vào chiến khu. Đoàn nhà văn Việt Nam
đi thăm Ấn Độ, Lưu Quí Kỳ giới thiệu với tổ chức và Vũ Anh Khanh được đi cùng
Nguyễn Công Hoan. Ở Ấn Độ về, Vũ Anh Khanh lại trở về đơn vị. Nhưng cái anh tiểu
đội trưởng đội phó Vũ Anh Khanh đã mờ mờ đi đâu mất rồi. Người ta được Thủ tướng
Nêru tiếp, người ta rong thuyền chơi sông Hằng. Về đơn vị cảm thấy đây chật chội
quá, đây không phải đất dung thân. Nửa đêm, Vũ Anh Khanh đã bơi qua sông Hiền
Lương. Vũ Anh Khanh gặp nước cường bị chết đuối hay Vũ Anh Khanh mới ra đến cái
bãi cát giữa dòng đã bị dân quân tóm được. Không biết, việc thì tình cờ, nhưng
không tình cờ ở con người.”
(Chiều chiều,
Chương 8)
Những chuyện “khẩu thiệt vô bằng” chĩa vào những người mà Tô
Hoài không thích được Tô Hoài liên tiếp tung ra, thường là theo một cách thức lửng
lơ, như thể là tiện miệng mà nói. Trong Chiều
chiều ví dụ như chuyện Quang Dũng sang Trung Quốc gặp Nhất Linh Nguyễn Tường
Tam, hoặc chuyện Phan Khôi kể về những người Quốc dân đảng ở 80 Quan Thánh.
Trong Cát bụi chân ai thì mật độ những câu chuyện này
lớn khủng khiếp.
Theo tôi, Chiều chiều
được viết ra là để giảm bớt mức độ cho Cát
bụi chân ai, mà bản thân Tô Hoài chắc cũng nhận thấy là quá đà. Về cơ bản, Chiều chiều viết rất dở, kém xa Tô Hoài
thông thường, và đặc biệt kém so với Cát
bụi chân ai. Chiều chiều cũng lặp
lại quá nhiều nhưng đồng thời bỏ sót một số điều lẽ ra cần nói, chẳng hạn như
cái tác phẩm “Bà ký Đường” quan trọng như thế, được Tô Hoài dùng để kết lại cho
Chiều chiều, thì Tô Hoài tảng lờ
không nhắc đến số phận của tác giả Nguyễn Khắc Mẫn, một nhà văn quá chán chường
mà bỏ lên miền núi (Lạng Sơn thì phải), một dạng Nguyên Hồng khác.
Trong Cát bụi chân ai,
Tô Hoài kể nhiều chuyện nhất về ba nhân vật lớn: Nguyên Hồng, Văn Cao và Nguyễn
Tuân, nhưng Nguyên Hồng và Văn Cao đều hiện lên rất xấu xí, cực kỳ xấu xí (sang
đến Chiều chiều, Đặng Đình Hưng và
Nguyễn Sáng bị thế vào chỗ những nhân vật bị dìm xuống này, nhưng mức độ đã giảm
đi nhiều, về cơ bản hình ảnh của họ không xấu lắm, chứ trong Cát bụi chân ai, một nhân vật Nhân
văn-Giai phẩm khác là Trần Dần cũng được nhắc tới, vô cùng thảm hại, dẫu chỉ là
lướt qua). Theo tôi, về cơ bản, Cát bụi
chân ai là sản phẩm của một cơn hoảng hốt trộn lẫn với mặc cảm ở Tô Hoài.
Tôi có biết về sự ra đời của cuốn sách, giống như là vơ lấy tất cả mà đem in,
thành ra bản thân tác giả cũng không kịp sửa chữa. Cát bụi chân ai kể những câu chuyện theo tôi là bốc phét, mà Tô
Hoài dùng để thanh toán ân oán xưa. Đặc biệt là liên quan đến Vũ Hoàng Chương
(cái sự tích “mười hai tháng sau” và “mười hai tháng Sáu”): tôi nghĩ lúc ấy Tô
Hoài mới đọc hồi ký Ta đã làm chi đời ta
của Vũ Hoàng Chương và phát hiện ở trong đó mình bị miêu tả ngớ ngẩn, thảm hại
quá.
Những chuyện như thế, tôi không thấy tốt hay xấu. Khi đọc Tô
Hoài, tôi chỉ cố gắng sao cho mình đừng có cảm xúc gì. Tỉ mỉ nhưng không có cảm
xúc. Nguyễn Đăng Mạnh đã nhầm một điều cơ bản: văn chương Tô Hoài không buồn, bởi
vì văn chương ấy không buồn không vui, mà nó không có cảm xúc. Cả điều này nữa
cũng không tốt chẳng xấu. Nhưng phải hiểu rõ như thế thì mới nắm được văn
chương của Tô Hoài. Tôi từng nhiều lần nhìn thấy Tô Hoài, có lần chỉ ở cách Tô
Hoài chừng mươi bước chân, nhưng chưa từng bao giờ tôi có ham muốn trò chuyện với
Tô Hoài, tôi tin là đối với văn chương ấy, cần phải giữ khoảng cách thì mới
nhìn rõ được.
Đọc lại Chiều chiều,
tôi mới nhận ra bản thân Tô Hoài cũng từng đọc Kaputt của Malaparte (xem thêm ở đây). Nhưng không biết có ai nhận
ra chưa: Tô Hoài nói đến sách vở mà không bao giờ hào hứng. Tô Hoài đã quá nổi tiếng vì những lời chê thơ Đinh Hùng và Hoàng Cầm. Có vẻ như Tô Hoài
chẳng bao giờ thấy có văn chương nào hay, không đặc biệt hào hứng với bất kỳ
ai. Đây không phải là một văn chương tiết chế, kìm nén cảm xúc, mà là một văn
chương thực sự không có cảm xúc. Điều ghê gớm của văn chương Tô Hoài nằm chính ở
đó, từ đầu đến cuối nó không cần sự chi viện của các cảm xúc. Cũng chính bởi vậy,
khi động đến những gì kinh khủng, như trong Ba
người khác, văn chương ấy càng ghê rợn.
Mặc dù tôi chỉ muốn nhìn nhận văn chương Tô Hoài, nhưng cũng
có lúc không thể tách rời văn chương với con người được. Về bản thân mình, Tô
Hoài nhìn nhận như thế nào? Ngay từ “Cỏ dại” (được viết từ trước 1945 và sẽ nằm
đầu tiên trong tập Tự truyện 1978) đã
có một chi tiết rất nhiều ý nghĩa: Tô Hoài kể lẽ ra mình tên là Liên,
nhưng vì trùng tên với ông hay cụ của nhà hàng xóm, người ta sang vật nài, nên
đổi thành Sen. Đây là một chi tiết đặc vị văn chương, thậm chí là “tự huyền thoại
hóa”. Trong Chiều chiều, trái với mọi
trông đợi về sự tự thú nhận, Tô Hoài thoáng nói qua về sự son sắt thủy chung
trong cuộc sống vợ chồng của mình.
Vậy sự thật có thể nằm ở đâu? Với Tô Hoài thì khó nói về “sự
thật” lắm. Có một lúc, như thể buột miệng, trong Chiều chiều, Tô Hoài viết:
“Tôi là con ếch Cu Ba, ở rừng thì da xanh thẫm lá rừng, ở ruộng
mía thì đổ màu lá mía, đến mùa hoa, lưng ếch chấm đỏ, chấm vàng như cánh hoa
rơi.”
Sự thật có thể gần gần như thế. Nhưng chưa hết. Hồi Nhân
văn-Giai phẩm, Tô Hoài đã làm những gì, và thế nào mà thoát thân gọn ghẽ thế?
Trong cuộc họp đấu tố Trần Dần và “Nhất định thắng”, ta không thấy nhắc tên Tô
Hoài (xem ở đây). Điều này rất lạ. Hoàng Cầm là phó giám đốc cho Tô Hoài đứng đầu
nhà xuất bản Hội Nhà văn, nhưng Hoàng Cầm thì thê thảm, Tô Hoài thì không, như
vậy là thế nào? Có lúc Tô Hoài động phớt qua những điều này trong Chiều chiều:
“Sau vụ Nhân Văn
mà tôi có sai sót, tôi đã đề nghị cho đi học trường dạy viết văn Gorky ở Matxcơva.
Nguyễn Khải được chấm đi, còn tôi thì xin đi. Tôi nghĩ chỉ bỏ ra ít năm ăn chắc
một ngoại ngữ lại đưa hiểu biết và nhận thức của mình tới được một bước mới.
Nhưng rồi dự định ấy trên không chấp nhận. Lý do: Người sáng tác thì nắm thực tế
đời sống đất nước là cần hơn.
Năm sau, Nguyễn Minh Tấn ở viện Văn học được đi học viện
Gorky. Tôi thắc mắc thì nghe giải thích: Anh ấy làm nghiên cứu, cần đi.”
(Chương 7)
Nhưng chẳng có gì là cụ thể hết cả.
Cũng trong Chiều chiều,
có những lúc Tô Hoài dường như nói rất thật, chẳng hạn như thuật lại lời Phan
Khôi nói với mình:
“Tôi chưa xem bài nào của anh. Chẳng biết anh viết có ra cái
gì. Nghe có người nói anh viết truyện con giun, con dế.”
(Chương 3)
Nhưng dẫu có là thế nào, trước hết Tô Hoài là một người ngoại
thành Hà Nội, và tôi chưa từng thấy có văn chương nào đậm dấu ấn ngoại thành Hà
Nội như văn chương Tô Hoài. Người tỉnh khác, người ở xa đến không thể có ấn tượng
mạnh về Hà Nội như người ở vùng ven (cái vùng ven ở sát sạt nhưng lại như nơi đồng
không mông quạnh, năm chết đói dân nội thành được cứu tế phát chẩn gạo trong
khi người làng Tô Hoài chết như rạ, vì chỉ cứu đói đến Thụy Khuê, tức là cách
nhà Tô Hoài vài trăm mét - Tô Hoài kể trong Chiều chiều), điều này Tô Hoài đã thể hiện rất rõ trong “Cỏ dại”,
nhất là khi, hồi bé, được gửi lên ở trên khu phố cổ, tròn mắt với trò đua xe đạp
của một người họ hàng. Điều này sẽ in dấu sâu đậm lên văn nghiệp Tô Hoài, mặc
cho Tô Hoài có viết bao nhiêu tác phẩm về miền núi, về Tây Bắc, các ký sự đường
xa, nước ngoài đi chăng nữa: một tập truyện ngắn không được biết đến nhiều của Tô
Hoài tên là Người ven thành, và mãi đến
Chiều chiều, Tô Hoài lại nhấn mạnh
mình là người “ven nội”, ở đoạn kể về mấy năm theo học ở trường Nguyễn Ái Quốc,
nghĩa là trên phố Hoàng Quốc Việt, chính xác ở vùng quê nhà của Tô Hoài.
Ta hiểu một người ngoại thành như Tô Hoài có thể bị hấp dẫn
trước một sự ngông nghênh điển hình Hà Nội như thế nào, ta có thể thấy Tô Hoài
đã tập trung quan sát Nguyễn Tuân chăm chú ra sao, và bởi vậy mà Nguyễn Tuân trở
thành trung tâm trong Cát bụi chân ai,
khi mà sự thẳng băng, buồn tẻ của văn chương Tô Hoài bỗng tan loãng để chợt
xoáy lên một cách bất ngờ.
Sự hấp dẫn này (rất có thể nó xuất phát từ mặc cảm) lại trộn
lẫn với một cảm giác mà Tô Hoài dường như chưa bao giờ có: sự hốt hoảng. Có vẻ
như những biến chuyển của thời cuộc đã làm Tô Hoài cảm thấy chông chênh, đúng
vào cái lúc Tô Hoài nghĩ là cần tạo ra một hình ảnh về bản thân mình cho hậu thế,
và vậy là ở đầu cái thập niên 90 ấy, Tô Hoài bỗng viết Cát bụi chân ai. Vốn dĩ Tô Hoài đã rất giỏi trong việc tạo ra huyền
thoại, mà đỉnh cao rực rỡ nhất là trường hợp Nam Cao. Tất nhiên, những điều này
không tốt cũng chẳng xấu.
Trước Cát bụi chân ai,
văn nghiệp của Tô Hoài lúc nào cũng được giữ ở mức bình lặng, không bao giờ chỏi
lên. Viết rất nhiều, nhưng Tô Hoài sẵn sàng nhận lấy về mình một sự mờ nhạt rất
đặc trưng. Không bao giờ Tô Hoài là người nổi bật, có như vậy thì mới trôi qua
được quãng 1945 một cách yên bình, qua được cả đận Nhân văn-Giai phẩm mà không
chịu mấy thiệt hại. Như tôi đã nói ở trên, có lúc trong Chiều chiều Tô Hoài tự nhận mình giống “con ếch Cu Ba” (không rõ thực
sự là con gì) thay đổi tùy theo môi trường, nhưng nói như thế vẫn chưa đúng. Bản
thể Tô Hoài, văn chương của Tô Hoài, gần nhất với kiến.
Con kiến không có cảm giác, mà mọi thứ ở nó thuần túy là hóa
học. Và kiến thích nghi nhanh khủng khiếp. Một nhà văn từng viết bộ sách ba tập
về kiến, vô cùng thấu đáo, là Bernard Werber. Ngay cả nếu có bom nguyên tử nổ,
thì kiến cũng sẽ tự điều chỉnh để thích nghi ngay lập tức, mà không bị tuyệt diệt.
Con người thì có thể biến mất khỏi trái đất, chứ kiến thì không. Đường đi của
kiến rất mờ, rất khó nhìn, kho tàng của kiến rất bí mật, không trông thấy được
bao giờ, và cái nhìn của kiến rất đặc biệt. Trong Chiều chiều, có nhiều lúc Tô Hoài thể hiện cái nhìn ấy, dưới đây là
một ví dụ:
“Thử cười, không gật cũng không lắc. Anh tuổi chuột, tên Thử,
người loắt choắt, dáng rụt rè tinh tướng con chuột nhắt.”
(Chương 8)
Một người tên là Thử, lại có tướng tinh con chuột. Tô Hoài
nhận ra ngay những điều như thế. Và không hề ngẫu nhiên khi Tô Hoài có một con
dế mèn lừng danh đến vậy.
Nhưng hành trình kiến của Tô Hoài bị xáo trộn vào lúc Tô Hoài
thấy là cần phải sắp xếp hậu thế cho chính mình. Cách nhìn đặc trưng kiến của
Tô Hoài dẫn đến một lựa chọn rất chính xác: cần phải bám lên một ngọn núi duy
nhất ở trong tầm tay với, đó chỉ có thể là Nguyễn Tuân. Thời điểm ấy, những ngọn núi khác chết cả rồi, hoặc đã ở quá xa. Điều này dĩ nhiên không
tốt cũng chẳng xấu, chỉ có thể nói đó là một lựa chọn rất giỏi.
Một con kiến có thể ở rất cao, vì kiến thì có thể bò lên ngọn
cây, hoặc đỉnh núi, nhưng cái cao ấy là một ảo giác. Dẫu sao thì như thế cũng
đã là rất giỏi.
Trong Chiều chiều,
Tô Hoài tả con rái cá, rồi con rắn hổ mang ở Thái Bình rất tởm, chúng đều cắn đứt
cổ vịt (hai con vịt ấy Hoàng Trung Thông rồi Phùng Quán đều không dám ăn),
nhưng con vật đáng nhớ nhất trong những tự truyện của Tô Hoài nằm trong Cát bụi chân ai: đó là con kỳ đà. Con kỳ
đà xuất hiện ở đoạn cuối cuốn sách, và đó không phải là lần duy nhất nó xuất hiện
trong Cát bụi chân ai. Về cơ bản, kỳ
đà là một giống vật đáng ghê tởm. Kiến thì không, nhưng kiến nhận ra những điều
như thế.
Cảm ơn anh, một bài quá sức thú vị.
ReplyDeleteếch Cu ba thời điểm ấy là một giống ếch cho thịt rất đáng kể (như một loại gia súc) chứ không chỉ ăn chơi như giống ếch quê, được kỳ vọng góp phần tăng nguồn thực phẩm ít ỏi thời chiến gian khổ (thế nên mới được nhập về từ nước bạn Cuba!), có thể ví như loại văn chương vị nhân sinh, ích lợi thiết thực (cho nhân dân, cho sự nghiệp xây dựng XHCN...!) chứ không chỉ ăn chơi hoa lá cành
ReplyDeletecòn khả năng biến ảo như tắc kè của nó thì chỉ mới nghe Tô Hoài nói ;p
vậy rốt cục văn chương Tô Hoài lớn bằng con Dế Mèn (?)
ReplyDeletedế mèn với kiến con nào to hơn?
ReplyDeletedế mèn vs bulldog ant to bằng nhau :D
ReplyDeletecon ếch Cu Ba chắc là con này
ReplyDeletehttps://en.wikipedia.org/wiki/Cuban_tree_frog
về kiến, ngoài bộ của Bernard Weber thì còn gì khác không nhỉ? :v
Maurice Maeterlinck viết cả về mối, ong và kiến, nhưng trong mấy cái đó toàn điều ngớ ngẩn đấy, kiếm nhân vật tên là Jean-Henri Fabre mà đọc
ReplyDelete