Aug 30, 2012

Hồ Hữu Tường chê sử

nhân quyển đại luận Sự nghèo nàn của thuyết sử luận của Karl Popper vừa in xong (đối tượng mà Popper chống là historicism), tôi chợt nhớ đến thái độ của Hồ Hữu Tường


"Rầy, mắng, chưởi tôi, thì tôi đành chịu. Nhưng đến khi đậy nắp quan tài cho tôi rồi, tôi vẫn không nhận rằng sử học là một khoa học. Đời tôi, tôi chưa hề có dịp "làm sử", song tôi lại có dịp tiếp cận những kẻ mà các sử gia thảy công nhận là "kẻ làm sử". Như trên bình diện quốc tế: Trotsky. Như trên bình diện dân tộc, những Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Tâm, Ngô Đình Nhu,... đối với tôi có gì là xa lạ? Tôi biết những kẻ làm sử ấy bằng một lối, mà tôi rèn ra một danh từ mới để gọi, là "thực chứng pháp"... rồi tôi cũng nghe hay đọc lắm huyền thoại về họ, nghe và đọc cho đến đỗi hóa ngấy đi. Đó là một cái duyên cớ làm cho tôi không tin "sử liệu" do "nhân chứng" chép lại. Rồi luôn đà, tôi không tin nốt cái "biện chứng pháp".

Đỗ Bá Thế, tôi quên là mang bút hiệu gì, trong một hồi ký tiểu thuyết hóa, có nhắc một câu chuyện, tuy ngộ nghĩnh, song không đáng gọi là "giai thoại". Có gì đẹp đẽ cho nhà văn tài hoa, là Nhượng Tống đâu, mà gọi là "giai"? Nên chữa lại là "trào thoại", một câu chuyện kể lại để cười xòa, rồi quên đi, chớ đừng có ác ý chi cả. Lúc ấy Thâu và tôi ra Bắc, toan sang Tàu. Thâu tật nguyền, tay mặt sử dụng không được, phải dắt theo một chàng thanh niên để làm thơ ký riêng và để giúp đỡ: ấy là Thế. Ba chúng tôi tạm trọ nhà ông Văng [Lê Văn Văng], giám đốc nhà xuất bản Tân Việt; và nơi đây, gặp Nhượng Tống đến. Giữa ba điều, bốn chuyện, Thâu có trách các đảng phái quốc gia sao chỉ hoạt động ở địa phương, thêm chẳng tìm [sic] đồng minh nơi các tổ chức cách mạng khác. Nhượng Tống cãi lại hăng hái:

- Có chớ! Có chớ! Chúng tôi có phái người vào Nam mà liên lạc với Tạ Thu Thâu và Hồ Hữu Tường rồi!

- Có kết quả không?

- Kết quả mỹ mãn lắm. Thâu và Tường đều thỏa thuận bắt tay với chúng tôi cả!

Nhượng Tống có dè đâu "người điền chủ mang bịnh bán thân bất toại và tay buôn lậu" ra nghiên cứu thị trường lúa gạo ngoài Bắc lại là Tạ Thu Thâu và Hồ Hữu Tường đang nói chuyện với mình? Nếu Nhượng Tống bằng vào một bản "báo cáo của phái đoàn V.N.Q.D.Đ gởi vào Nam", thì Nhượng Tống đã bị đồng chí của mình bịp: và vài trăm năm sau, một sử gia nào chớp được bản báo cáo ấy, dùng làm sử liệu, thì thật là xa sự thật. Thực chứng một "trào thoại" buồn cười như thế, Thâu và tôi phải nén cười, chờ cho khổ chủ là Nhượng Tống bước ra khỏi nhà, thì cả nhà phá lên cười to. Càng cười ngắt nghẽo [sic] là chị chủ, cả mười phút sau, chị mới nói được:

- Thấy mặt anh năm lớn và anh năm nhỏ làm nghiêm, không đính chánh lại, tôi tức cười muốn chết! Phải chi anh Nhượng Tống rán ở lại thêm ít phút nữa, chắc là tôi nhịn cười hết nổi...

Đời tôi, tôi đã thực chứng hàng tá huyền thoại, tuy không quá buồn cười như chuyện "trào thoại" vừa kể, song cũng xa sự thật không kém. Lúc còn là sanh viên, tôi hay ngốn ngấu thứ văn chương rẻ tiền (vì có tiền đâu mà mua thứ quí?), có lượt tôi đọc được một câu khá hay: "À Saigon on se promène sous les ananas" [chủ thích dưới trang: "Ở Sài-gòn, người ta đi dạo dưới tàng cây thơm". Nhà văn ta, thấy quả thơm to hơn quả táo nhiều, tưởng tượng cây thơm phải to bằng mười lần cây táo ở Âu-châu.] Từ ấy, tôi sanh ra thương hại cho các "sử gia", trích dẫn sách nầy, sách kia, dẫn chứng những "sử liệu", để vặn cổ cái lịch sử đích thật, hầu chứng minh một cái thuyết lập dị nào đó.

Đáng lẽ, cái "sử quan" kỳ quái nầy, tôi ôm ấp trong lòng, và đừng đem ra nói cho người khác nghe, nhứt là viết bằng mực đen trên giấy trắng. Làm như vậy thật mích lòng những sử gia xây dựng uy tín của mình trên tờ a, tờ b. Nhưng chẳng đừng được, tôi phải nói. Từ khi tôi viết bộ Phi Lạc, thì trong dân gian, người nầy truyền cho người kia là "Hồ Hữu Tường nói dóc tổ". Nói dóc, quả tôi có nói dóc, khi nào cần pha trò để cười xòa. Nhưng cũng có khi nói thiệt. Đàng nầy lại ngoại suy, cho bất cứ cái chi tôi nói thảy đều dóc; rồi vài trăm năm sau, một sử gia nào đó, căn cứ vào những tài liệu của "nhân chứng" là kẻ sống một thời với tôi, lại viết vào sử rằng "Hồ Hữu Tường là tay nói dóc tổ" thì có phải thiệt cho vong hồn tôi không? Con cháu tôi, đến ngày kỵ cơm của tôi, bởi xấu hổ vì có một ông vải nói dóc quá, nên không dám "hội lại mà kể công đức" của tôi; té ra bữa kỵ cơm của tôi bị bỏ đi, rồi mãi tôi thành con ma đói!"

(trích bài "Học thiệt", tạp chí Văn số 46, 15/11/1965, tr. 3-5)

-----------

Hồ Hữu Tường có kiểu đầu óc thật giống Phan Khôi, vô cùng ương ngạnh và về bản chất là nhất định không chịu đứng vào phe nào, để rồi cứ thế mất hút trong cái gọi là lịch sử của Việt Nam

thêm về Hồ Hữu Tường

Aug 26, 2012

của người khác


Cách đây không lâu, có một nghiên cứu đưa ra kết quả: người sử dụng Facebook luôn luôn trưng ra trên “tường nhà” mình một hình ảnh về bản thân vui tươi hơn, sung sướng hơn thực tế. Có nghĩa là con người ta (giờ đây cách nói khái quát này tạm chấp nhận được vì lượng người dùng Facebook trên thế giới đã lớn lắm rồi) thường xuyên bị thôi thúc bởi ham muốn tô điểm cuộc đời. Để làm gì? Câu hỏi này đưa ta vào một lĩnh vực phức tạp và gay cấn của mối quan hệ giữa mình và người khác.

Aug 22, 2012

hiện đại và hậu hiện đại

người Pháp luận giải về "hậu hiện đại" rất khác người Mỹ, mặc dù Lyotard có một vị trí lớn trong lịch sử tư duy hậu hiện đại; dưới đây là một đoạn cho thấy sự hoài nghi đối với hậu hiện đại từ một chuyên gia văn học người Pháp:


Khoảng cuối những năm 70 của thế kỷ XX, thuật ngữ này [tức “hậu hiện đại”] nhập cư vào châu Âu, đáng chú ý nhất là trong tác phẩm của Jean-François Lyotard, Hoàn cảnh hậu hiện đại. Cùng lúc ấy, ở Mỹ, sức hút của các thực hành mang tên hậu hiện đại và của các lý thuyết Pháp mang tên “hậu cấu trúc” - Lacan, Barthes, Derrida - bắt đầu rõ rệt. Rồi trong những năm 80, khái niệm ấy được mở rộng hẳn ra ngoài sự định danh của một phong cách mới mẻ; nó thực sự trở thành thứ cái gì cũng nhét vào được. Theo Jürgen Habermas, người phê phán hậu hiện đại rất nghiêm khắc và do vậy là người bảo vệ cho chủ nghĩa hiện đại, hiệu lệnh của tính hậu hiện đại, với tư cách lời chối bỏ lý tính hiện đại bắt nguồn từ thời Khai sáng, được đồng hóa với một thứ chủ nghĩa tân bảo thủ chính trị và xã hội. Nhưng làm thế nào mà nhập chung cái nghĩa này với cách dùng từ từng xuất hiện trong kiến trúc, nhằm trỏ tới một phản ứng trước chủ nghĩa chức năng?

Ở “hậu hiện đại” có một nghịch lý lồ lộ, nó làm ra vẻ chấm dứt hiện đại nhưng khi đoạn tuyệt với hiện đại thì nó lặp lại đúng cái thao tác có tính chất hiện đại hiển nhiên nhất, thao tác ấy là đoạn tuyệt. Gianni Vattimo đã miêu tả rất khéo léo nghịch lý này:

“Việc khẳng định rằng chúng ta đang ở vào một thời điểm nằm sau tính hiện đại và cấp cho sự kiện này một ý nghĩa mang tính chất quyết định nào đó, việc ấy đặt ra giả định rằng ta chấp nhận điều đặc trưng nhất của chính quan điểm hiện đại, tức là ý niệm về lịch sử và những hệ lụy của nó: khái niệm tiến bộ và khái niệm vượt trội.”

Hậu hiện đại, với việc bày ra một mâu thuẫn trong các từ [cấu thành nên nó], liệu có phải là “avatar” mới nhất của tính hiện đại? Hay nó đại diện cho một bước ngoặt đích thực, sự thoát khỏi hiện đại? Liệu có phải nó chỉ là một điều mới mẻ so với hiện đại, như vẫn luôn luôn được hiểu như vậy trong logic của sự đổi mới? Hay nó đã thành công được trong “sự xóa bỏ phạm trù cái mới”? Nó có đặt dấu chấm hết cho học thuyết về tiến bộ và học thuyết về phát triển không? Như vậy là đòi hỏi quá nhiều, và hậu hiện đại càng gây ra nhiều hoài nghi ở Pháp hơn nữa bởi chúng ta đã không tạo ra nó, trong khi chúng ta tự cho mình là cha đẻ của tính hiện đại và “tiền phong”, cũng như quyền con người.

(trích từ chương V cuốn sách Les cinq paradoxes de la modernité - Năm nghịch lý của tính hiện đại, Antoine Compagnon, Seuil, 1990)

Aug 20, 2012

hai mươi tư khác

thành quả của hai năm vừa rồi (theo thứ tự từ xa đến gần, nhưng sắp xếp này chắc cũng không chính xác hoàn toàn vì nhiều cái giờ không còn nhớ)

hai mươi tư trước thì ở đây

Aug 19, 2012

Hồi ký Phạm Cao Củng

đến bài này là vừa tròn bốn năm, đủ 48 bài, trong bốn năm ấy chưa lần nào bị đổ trang :p

từ số tới bắt đầu đổi format


Phạm Cao Củng: một cuộc đời

Chỉ là một cuộc đời, nhưng một cuộc đời mới đáng nói làm sao. Chỉ riêng việc Phạm Cao Củng năm nay tròn 100 tuổi đã khiến người đọc bị rơi ngay vào một chấn động nhẹ trong cảm thức về thời gian: những đàn anh của ông, như Phùng Bảo Thạch, như Lê Văn Siêu, những bạn bè của ông, như Lê Tràng Kiều, rồi cả những “đàn em” của ông, như Đặng Thế Phong, như Hoàng Quý, tất thảy đều tưởng như xa lắc xa lơ, sống ở một thời đã rất cách quãng với chúng ta; không những thế nhiều người trong số họ đã kịp trở thành mục từ trong từ điển hay đốm sáng trong kho tàng huyền thoại lịch sử. Vậy mà trên bìa sau cuốn “Hồi ký Phạm Cao Củng” (Nhã Nam & NXB Hội Nhà văn) ta đọc thấy dòng chữ ông mới viết cách đây chưa lâu: “Florida, ngày 21 tháng 4, 2011. Cám ơn tất cả độc giả đã ái mộ thám tử Kỳ Phát từ nhiều năm qua”.

Tiếp đến là một chấn động nữa (lần này thì hẳn là không nhẹ, đối với những ai quan tâm nhiều đến lịch sử văn hóa và văn học Việt Nam giai đoạn trước 1945): văn chương, chữ nghĩa một thời hóa ra sinh động hơn nhiều so với những khái quát giản đơn về nhà văn An Nam nghèo khó (“khổ như chó”, nếu muốn mượn cách nói của nhà thơ Nguyễn Vỹ), nhà văn Việt Nam tranh đấu hay trí thức Việt Nam hào hùng. Cuốn hồi ký của Phạm Cao Củng cũng giống như một lời xác nhận rằng văn chương bình dân ở Việt Nam bao giờ cũng rất sôi nổi, hồn nhiên mà sôi nổi, nhưng rất ít khi được “văn học sử chính thống” nhìn nhận đến.

Một ví dụ: nhắc tới văn chương trinh thám của thời sơ khai là đương nhiên người ta nhắc tới Thế Lữ với loạt truyện “Lê Phong phóng viên” rất đứng đắn, nhưng không phải ai cũng “hạ cố” nhìn tới loạt truyện thám tử Kỳ Phát của Phạm Cao Củng (gần đây đã được in lại một số trong một bộ tuyển tập gồm năm quyển), trong khi nếu chỉ xét thuần túy trên bề mặt thể loại thôi thì Phạm Cao Củng mới thực tạo ra được một nhân vật thám tử hấp dẫn, đầy cá tính, “đúng chất”, và đặc biệt là rất bình dân, dựa trên khuôn mẫu Arsène Lupin và Sherlock Holmes. Ông là một cột mốc vô cùng đáng nhớ trong cái lịch sử không mấy phong phú của thể loại văn học ấy tại nước ta. Sau này, nếu có một tương đương về nhiều mặt với Phạm Cao Củng, hình như ta chỉ còn có thể nhắc tới Hoàng Hải Thủy nữa mà thôi.

Qua hồi ký này, ta biết Phạm Cao Củng còn là tác giả của vô số tác phẩm khác, trong đó có những lần ông giả giọng viết “kiếm hiệp Tàu” cực kỳ thành công, ăn khách, giúp được rất nhiều cho nhà xuất bản Mai Lĩnh. Phạm Cao Củng khẳng định số lượng tác phẩm của mình không hề kém “người hùng Lê Văn Trương”, người vẫn hay được coi là viết nhiều tác phẩm nhất ở Việt Nam từ xưa đến nay. Như vậy là sau Tô Hoài và hình như cả Nguyễn Công Hoan, lại có thêm một người nữa “đòi” vị trí mà Lê Văn Trương vẫn giữ bấy nay.

Vẫn chưa hết chấn động: tôi tin rằng đọc cuốn hồi ký này của Phạm Cao Củng, rất nhiều người phải ngỡ ngàng trước một đời sống văn chương, báo chí thuở ấy, một không khí nhộn nhịp nhưng thân tình, với những con người say mê đến kỳ cục, viết hết tác phẩm này tới tác phẩm khác với thành tâm to lớn và hào hứng khó tả. Rất khác với ngày nay, khi mà nhà văn Việt Nam mãi mới viết được một cuốn tiểu thuyết rồi dừng luôn, rồi lặc lè mà “tự đóng vai chính mình” trong tư cách nhà văn.

Phạm Cao Củng, con người sinh ra ở thành phố Nam Định một thời phồn hoa đô hội ấy còn khiến tôi thấy kinh ngạc vì ông chính là mẫu người cái gì cũng làm được, một nhà văn đặc biệt nhiều tài lẻ, nhiều ngón chơi, ung dung sống cuộc đời của mình. Đấy là còn chưa nói đến rất nhiều thiên tình sử được Phạm Cao Củng gộp lại trong cả một chương sách, mang cái tên gây hồi hộp như truyện trinh thám Kỳ Phát: “Cuộc đời tình ái”.

Và sau rốt, qua cuốn sách, ta được biết rằng chính nhờ hồi nhỏ đọc sách của Phạm Cao Củng mà sau này dịch giả Phạm Tú Châu, người cháu gái của ông, đã thoải mái mà dịch “Tuyết Sơn Phi Hồ” lừng lẫy của Kim Dung, góp thêm thành quả cho các dòng văn học bên lề nhưng rất bề thế và sống động ở Việt Nam.

Nhị Linh

Aug 16, 2012

chuyện của giang hồ

tôi chống Tàu một cách tự nhiên, chẳng biết chắc vì sao lại chống, nhưng ghét thì chống, chẳng biết tại sao ghét, nhưng ghét là cứ ghét, suy nghĩ kỹ thì chắc là vì cái hồi tôi sắp ra đời do chấn động của tình hình căng thẳng của cuộc chiến tranh biên giới nên nhiều mệt mỏi, chi phối cả cuộc đời sau này, cái đó gọi là ghét từ trong trứng ghét đi

thành thử tôi rất khoái những gì oánh thẳng vào các trung khu oanh liệt của văn chương Tàu, thành thử tôi rất khoái Trường An loạn của Hàn Hàn, nó oánh thẳng vào vào truyện chưởng Tàu, nó xơi tái, bẻ queo những điển phạm của một cái thứ rất oách, lan truyền rất rộng rãi ngoài biên giới Tàu, nhất là ở Việt Nam

chưởng cầu tiêu sái, thì Hàn Hàn đẻ ra một cục thù lù dở hơi dở hám, chả thấy bay bổng gì cả, lại còn nói luôn là làm quái gì có cái món khinh công, toàn là bịa ra hết cả thôi

Aug 15, 2012

propos

không dưng bỗng nhớ lại mấy câu thơ làm hồi mười lăm, mười sáu tuổi


Viết cho ai, cho em hay cho anh
Cho cơn mưa, cho rực vàng hoa cúc
Cho hôm nay, cho bao ngày tháng mất
Cho lạnh vầng trăng, cho khuyết ánh đèn

............

Ta đi qua trước mặt tháng năm dài
Năm tháng nặng, nỗi buồn là vô tận
Năm tháng trôi, chắc gì ta vô tội
Với lá rơi, em có tiếc cánh hoa
Ở đâu rồi bất hạnh của đời ta
Hoa duy nhất của một chiều duy nhất
Đỏ dịu dàng như nỗi đau trong mắt


hehe, vãi cả linh hồn VCLH

Aug 13, 2012

Lê Huy Oanh vs Thanh Tâm Tuyền

Trong lịch sử bình luận thơ Thanh Tâm Tuyền, nhà phê bình Lê Huy Oanh tạo ra mấy điểm mốc đáng nhớ. Trên số Văn đặc biệt về Thanh Tâm Tuyền (năm 1973), Lê Huy Oanh nhắc lại mình từng chê bôi, thậm chí mạt sát tập Tôi không còn cô độc đến như thế nào. Bài viết ấy giờ không dễ tìm, nó nằm trên tạp chí Sinh Lực, ấn phẩm nằm dưới sự điều hành của Võ Văn Trưng (chủ nhiệm) và Tôn Nhật Huy (chủ bút). Nên nhớ bài viết dưới đây (toàn văn) đăng không lâu sau khi Tôi không còn cô độc được ấn hành.

Đọc “TÔI KHÔNG CÒN CÔ-ĐỘC” của Thanh-tâm-Tuyền

Lê-Huy-Oanh

Giữa lúc này, người ta khao khát một tập thơ hay, như những kẻ lạc lõng trên sa-mạc thèm muốn một gốc dừa xanh bên hồ nước. Thơ Thanh-Tâm-Tuyền ra đời trong khi bao người đang chờ đợi một thi nhân có tài. Chúng ta vui-vẻ đón con người đó, hy-vọng sẽ thấy trong thơ chàng một nguồn rung cảm mới, một nghệ-thuật cao đẹp.

Tôi không muốn đọc cuốn “Tôi không còn cô độc” quá trơ trẽn. Tôi thắp lên hai cây nến trắng. Chuông đồng-hồ thong thả điểm 2 tiếng. Ngoài cửa sổ, con đường vắng trải nhựa đen im lìm dưới ánh đèn đêm thấp-thoáng. Trời hơi lành lạnh.

Tôi ưa chọn giờ để đọc thơ - nhất là đọc một tác phẩm mà tôi trót gửi vào đấy biết bao nhiêu hy vọng. - Kể ra như thế cũng hơi cầu kỳ, cái cầu kỳ của những người yêu thơ.

Tôi bắt đầu lần giở những trang giấy thơm tho một cách thành kính. Một trang, hai trang, rồi chín, mười trang… Tội nghiệp chưa, đầu tôi nóng bừng; có lúc tôi bàng hoàng như vừa ngã từ mấy từng lầu cao xuống hố bùn đen: thật khó mà tìm thấy cái hay của thơ Tự-do - một thứ tự-do kiểu Thanh Tâm-Tuyền!

Lật về trang giấy sau bức chân dung tác giả, tôi đọc đi đọc lại mấy hàng chữ đầu tiên mà tôi bắt đầu e ngại rằng đây chỉ là những lời ngạo mạn:

………
Để cai trị tôi có những luật lệ tinh-thần mà người phải thần phục nếu người muốn nhập lãnh thổ
Người hoàn toàn tự do và có thể ném cuốn sách ra cửa sổ

Tôi định ném cuốn sách ra cửa sổ thật, vì lúc đó, tôi có cảm-tưởng đã gặp phải một người khùng. Kể cũng lạ. Độc giả, yêu thơ đi tìm thơ, nghệ-thuật không thấy, thấy một chiếc ngai lạ kiểu, trên đó sừng sững một quái thai: Ông Hoàng Thanh-Tâm-Tuyền. Ông kêu lên những câu nghe rất chối tai, có lúc lại hoàn toàn vô nghĩa và ông bảo đó là thơ: một thứ thơ không cần vần, không cần âm điệu và cũng chẳng cần để ai hiểu!

Có một lúc tôi không dám phán đoán thêm nữa. Tôi lặng-lẽ nhìn ngọn lửa nến đang leo lét cháy không sao thoát khỏi cái lưới thắc-mắc, tôi cho rằng chỉ đọc một lần thì chưa thể nhận thức nổi những tinh-hoa của lối thơ này. Tôi hơi hối-hận vì đã không kìm nổi giận-dữ. Lòng dịu lại đôi chút, tôi ép má vào song cửa sổ, mặc cho gió lạnh ùa vào mặt. Cuốn thơ mầu trắng oái oăm kia nằm lệch trên bàn. Tôi trân-trối nhìn nó và tự hỏi: “nó đã lừa cảm giác tôi hay chính tôi đã lừa cảm giác tôi?

*

Suốt một tuần lễ sau tôi đọc lại cuốn thơ này. Một tuần lễ có bẩy ngày, tôi đọc lại nó tới hơn ba lần. Nghĩ mà thương cho tôi, có những đêm quá khuya, tôi vẫn còn cặm cụi trước những dòng chữ quái đản:

Tại sao em thích gọi tên hoa
Nào ngày mai của chúng ta buông từng cánh
Xuống vai trần
Viền cỏ
Bông tóc nâu
Em sẽ gọi tên anh
Mùa hoa hôm nay
Nhưng thời gian đã ngả vào lòng vô định
Chút sữa huệ ấm đời thiếu tiếng chim
Cánh hồng ngọt không gian tàn phá
Những thời gtan [sic] không rời nhau mang đến bao nhiêu mùa
Dạy em yêu phía sau cửa sổ
Thiếp điên trong chuỗi dài giấc ngủ
Rất vui
………
(Trang 32, HOA)

Tôi lật xuống những trang dưới, đọc tiếp.

………
Tôi ru chim ngủ trong cổ họng
Mặt trời kêu xuống thái dương những màu ánh sáng thơm
Tim kinh ngạc
Đời tạo câu cười thiên nhiên mãi
Hy vọng đứng ra ngoài ô ngục, ngực bâng khuâng
Lần gặp gỡ thứ nhất
Rồi kỷ niệm kim khí thủy tinh hành hạ
Đau xé trời đêm không sao bánh máy quay vũ khí
Tôi chối từ giam cầm chim đẹp trong rừng tóc
Dù tiếng hót đã chạm mấy hàm răng
Người bộ hành cô đơn chờ đêm để lên đường
Về quá khứ
Chim bay vào trận mưa sao
(Trang 46 - CHIM)

Trời ơi! đã trót yêu thơ thì tôi đành gian-díu [sic] với thơ chứ cứ đọc mãi cái điệu thơ này rồi cũng đến loạn óc mất thôi. Thi ca lập dĩ đến thế là cùng. Người ta bỏ hết dấu, người ta vứt vần xuống gót chân thô bạo, người ta cố tình ép uổng cho ý tứ thành bí hiểm: không phải người ta làm thơ mà định giết chết thơ. Hành hạ Nàng thơ đến như vậy thật dã man hết chỗ nói. Ấy thế mà Thanh Tâm Tuyền còn kêu là thơ anh bắt nguồn từ ca dao; ở trang 42 anh viết:

Không đa đa siêu thực
Thẳng thắn
Khởi từ ca dao sang tự do

Tôi ngờ rằng Thanh-Tâm-Tuyền nói dối. Âu cũng là một mánh-khóe lòe đời của những người cuồng chữ. Bảo rằng thơ anh chuyển từ ca-dao sang thì quả là định làm hại cái hay mộc mạc nhưng đầy vẻ quyến dũ [sic] của ca-dao. Ca-dao là một thứ văn chương bình-dân, đơn giản, phóng khoáng, sáng-sủa biết bao nhiêu, sao lại có thể chuyển nó sang một lối thơ “hũ nút” như vậy được.

*

Thật ra, tôi vẫn mến Thanh-Tâm-Tuyền vì anh là một thanh-niên tha-thiết với cách-mạng và anh đã muốn dùng thơ để ca-ngợi cách-mạng.

Nhưng nếu định dùng một lối thơ lập-dị để phát huy và truyền-bá tinh-thần cách-mạng, tôi e rằng khó mà thành-công. Tinh-thần cách-mạng cần được phát huy bằng những lời thơ sáng-sủa, nhịp-nhàng, giầu âm-điệu hơn.

Hình-thức của thơ càng linh-động, càng hấp dẫn, càng có năng lực làm người ta rung động; hình thức bí hiểm, tư tưởng cũng thành tối om, làm sao nó gây được ảnh-hưởng trong lòng người đọc.

Tôi không phủ nhận vai trò cần thiết của sự tự-do trong thơ, nhưng tôi chủ trương sự tự-do đó không tuyệt đối, nó phải được giới hạn trúng mức truyền cảm. Giới hạn đó không bắt buộc đứng yên một chỗ; nó có thể biến đổi, di-động tùy theo không gian và thời gian, tùy theo vài sáng-tạo của mỗi thi sĩ. Sự thực, chúng ta chẳng cần bàn nhiều về nó, ở đây, ta chỉ cần nêu ra một kết luận hết sức đơn giản:

Thi sĩ có toàn quyền định giới hạn cho sự tự do trong thơ ca của mình miễn làm sao thơ của họ phải đạt được mục đích chính yếu là truyền cảm. Thiếu tính chất truyền cảm nó hết là thơ”.

Buồn thay, đọc thơ Thanh-tâm-Tuyền ta hầu như không thấy tính-chất truyền cảm có nghĩa là ít khi ta thấy rung động mà phần nhiều chỉ thấy bực mình vì thơ.

*

Tuy nhiên, nếu cố giữ bình thản để đọc thơ anh, ta cũng tìm thấy đôi chỗ tạm gọi là nghe được. Những giòng hiếm hoi đó nằm trong vài bài thơ tương đối đỡ kỳ-quặc hơn. Bài TRƯỜNG-THÀNH (trang 18) đã khiến ta súc cảm [sic] nhờ ý tưởng nồng nàn của tác giả:

Anh biết vì sao Cộng-Sản thủ tiêu Khái-Hưng.
Mỗi lần hoàng hôn tôi bước cùng đám đông
Lòng khẫn cầu [sic] cách mạng

Anh biết vì sao Cộng-Sản thủ tiêu Phan-văn-Hùm

Mỗi lần hoàng hôn chạm mặt từng người
Có phải chúng ta đang sửa soạn

Anh biết vì sao Cộng-Sản thủ tiêu Tạ-thu-Thâu

Mỗi lần hoàng hôn tôi cố thở cho nhiều
Các anh nhớ tôi còn sống
Quờ quạng tay dan díu
Cách-mạng nổi trong sự nín thinh.

………
Mỗi lần hoàng hôn tôi chỉ là người văn-nghệ bé nhỏ.
Hoặc tôi câm mồm hoặc tôi thét la.
Mặc chúng dụ-dỗ mặc chúng dọa-nạt
Chúng sợ cách mạng vô cùng.

………

Bài “MƯA NGỦ” (trang 48) gợi cho ta tính chất quyến dũ [sic] của một thứ “poème en prose” của Baudelaire (1).

Mấy bài thơ này khiến tôi nghĩ hoài về Thanh-tâm-Tuyền tuy tôi đã cất cuốn “TÔI KHÔNG CÒN CÔ ĐỘC” vào ngăn tủ. Tôi tin rằng, nếu anh chịu rời bỏ lối thơ kỳ-quái hiện nay của anh để nhận lấy một lối thơ hợp lý hơn, thơ anh sẽ có nhiều triển vọng. Anh là người giầu tình cảm, giầu lòng yêu nước, thèm khát TỰ-DO và có óc tưởng-tượng thật phong-phú. Tiếc thay, cái tính ưa lập-dị của anh đã phản anh đã bóp nghẹt mất cả một hồn thơ rộng mở trong anh.

Tháng giêng 1957

(1) Ngoài ra, trong tờ sáng tạo số 4 [sic], ra hồi đầu tháng giêng 1957, ta còn được thưởng thức một bài nhan đề:
HÃY CHO TA KHÓC BẰNG MẮT EM,
NHỮNG CUỘC TÌNH DUYÊN BUDAPEST.
Với ý tưởng tân kỳ, bài này cũng được một số người thích,

(trích nguyệt san Sinh Lực, số 9, 1/3/1957, tr. 78-82)

-----------

Sau này, năm 1973, trên số Văn đặc biệt về Thanh Tâm Tuyền, Lê Huy Oanh đã viết khác hẳn, chẳng hạn: “Thanh Tâm Tuyền đã tuyên bố như vậy [tức đoạn đề từ] ở đầu tập Tôi không còn cô độc. Trong cơn giận dữ rất chân thật, tôi đã mạt sát đả kích anh ta thậm tệ để rồi chỉ ít ngày sau tôi dần dần thấy tất cả sự nông nổi bất công của những lời mạt sát đó, những cử chỉ đả kích đó. Tôi đã không ngần ngại “ném cuốn sách ra cửa sổ” để rồi tôi lại len lén bước ra nhặt nó lên, ấp nó vào ngực, mang nó vào nhà. Vậy thì, vậy thì tôi chỉ còn có cách phải chịu thần phục những luật lệ tinh thần của “vị hoàng đế” ấy bởi tôi rất muốn tiếp tục chuyến đi vào lãnh thổ của ông ta” (bài “Ký sự về một chuyến đi kỳ thú vào vùng rung cảm”, tr. 11).


Tập thơ Tôi không còn cô độc:

Phần 1

Phần 2

Aug 8, 2012

Sách (LV) Vài quyển mới

- Tiểu thuyết Tà dương (Dazai Osamu), Hoàng Long dịch. Đây là tác phẩm nổi tiếng bậc nhất của nhà văn Dazai cũng như dòng "vô lại" và "thua cuộc". Quyển gần đây của Dazai cũng đã in là Thất lạc cõi người, cũng Hoàng Long dịch (từ tiếng Nhật). (Phương Nam & NXB Hội Nhà văn)

- Tiểu thuyết Thánh địa tội ác, dịch từ Sanctuary của William Faulkner. Trần Nghi Hoàng dịch. Thánh địa tội ác thuộc bộ ba tác phẩm Faulkner in ở Việt Nam gần đây, cùng Bọn đạo chính (tức The Reivers) đã in và The Wild Palms sẽ in. Ngoài ra, Âm thanh và cuồng nộ cũng đã được tái bản (dùng bản dịch của Phan Đan chứ không phải bản dịch trước đây của Sài Gòn). (Bách Việt & NXB Văn học).

- Quán rượu phố Huế của Hồng Phi, cho những ai muốn đọc về đời sống văn nghệ sĩ đất Bắc những ngày u ám và rách rưới. (Phương Nam)

có vẻ như quyển hồi ký của Nguyễn Kỳ Nam cũng mới được in, đây là một cuốn sách đặc biệt quan trọng về lịch sử nói chung và lịch sử báo chí miền Nam

Aug 7, 2012

Roland Barthes về Italo Calvino

Cơ chế của mê hoặc

Ở một nhà văn, có cái gì đó luôn luôn bướng bỉnh, luôn luôn cứng đầu, cuối cùng là luôn luôn bất khả quy giản - và cũng bởi vậy mà rất khó nói về nó - và ta hãy nói rằng đó chính là cái người ta vẫn còn gọi là văn chương… hoặc có thể là cái viết, nhưng ta đừng quá sa đà vào sự biện biệt. Thế nhưng, việc Calvino là một giọng nói của văn chương có thể thấy ngay lập tức ở điểm cái viết của ông chỉ thuộc về mình ông. Ông có một cái viết tuyệt đối đặc thù: cũng như mọi nhà văn lớn. Ta nhận ra nó. Và đó là cái, trong biệt ngữ khoa học, người ta gọi là một đặc ngữ [idiolecte], một lối viết riêng có. Đặc ngữ của một nhà văn luôn luôn là một dạng định lượng, một sự pha trộn được lượng định rất tinh tế của một số vẻ mê hoặc - dùng theo nghĩa mạnh mà từ này từng có hồi thế kỷ mười bảy [Barthes dùng từ “charme” nhưng theo nghĩa “enchantement”; “charme” ngày nay hay được hiểu theo nghĩa “duyên dáng”]; một sự định lượng những vẻ mê hoặc, những nét quyến rũ, những nét thỏa mãn với bản thân ngôn ngữ hay bản thân truyện kể - điều này rất khó nói. Và ta có thể thử xem lại vài vẻ mê hoặc trong cái viết của Calvino.

Với tôi, trước hết tôi thấy rằng ông có một trí tưởng tượng rất đặc biệt và ông rèn giũa nó: về thực chất hẳn nó chính là trí tưởng tượng từng được Edgar Poe phô diễn, cái mà ta có thể gọi là trí tưởng tượng của một thứ cơ học nào đó hoặc việc đặt ra tương quan giữa trí tưởng tượng và cơ học. Đó là một mệnh đề có chút dáng vẻ nghịch lý vì, trái ngược hẳn, từ quan điểm lãng mạn, ta có thể nghĩ trí tưởng tượng là một thứ lực hoàn toàn không có tính chất cơ học mà vô cùng “bộc phát”. Thế nhưng, hoàn toàn không phải vậy. Trí tưởng tượng, có thể là trí tưởng tượng lớn, luôn luôn là sự khai triển của một cơ chế nào đó. Và ở trong đó, tuy có những khác biệt về phong cách rất lớn, có một khía cạnh Edgar Poe ở trong Calvino, vì ông đặt ra một tình huống nhìn chung là, ta hãy nói vậy, phi hiện thực nếu xét theo quan điểm giống như thật của thế giới, nhưng chỉ là trong dữ liệu xuất phát mà thôi, và rồi tiếp theo đó, tình huống phi hiện thực này được triển khai theo một cách thức hoàn toàn hiện thực và theo một logic không thể bác bỏ. Ở Calvino, đó chính là vẻ mê hoặc thứ nhất, một vẻ mê hoặc của sự khai triển; ta có thể nói điều này theo nghĩa toán học, theo nghĩa logic của từ - như một phương trình cứ khai triển mãi không ngừng, vô cùng thanh nhã - nhưng cũng có thể là theo một cách thức bất ngờ hơn và vụn vặt hơn, theo nghĩa dùng trong bộ môn đua xe đạp, giống như khi ta nói về khoảng khai triển của một chiếc xe đạp: có một chế độ làm việc của bánh xe, một chế độ làm việc của bàn đạp, cảm giác vô cùng êm dịu, theo nghĩa tốt đẹp của từ này.

Vẻ mê hoặc thứ hai mà tôi nhìn thấy ở Calvino nằm ở chỗ trên thực tế, ông là một nhà tư tưởng hay thực hành truyện kể - điều rốt cuộc không còn hay thấy lắm ngày hôm nay. Và ở đây ông mang tới một dạng tinh tế ngoạn mục. Những truyện kể của ông, cách thức ông dựng chúng lên, triển khai chúng, hẳn khá gần với cấu trúc của trò cưỡi ngựa đấu thương, của trò chơi chiến trận, của chiến lược. Vả lại, điều này cũng gần gũi với sở thích thời Trung cổ nơi ông. Thực chất, những gì ông bày ra là những cuộc đấu vô cùng phức tạp, chắc hẳn là ít đơn giản hơn nhiều so với những cuộc đấu từng thực sự diễn ra vào thời ấy. Ở ông có một dạng khai triển và lóe sáng của chiến lược, một dạng tổ hợp không giới hạn các khả năng, các thao tác, các thao túng, khiến cho tôi sẵn sàng nhìn thấy trong tác phẩm của ông, với tư cách tác phẩm tự sự, sức mạnh của một thứ chủ nghĩa Machiavel nào đó. Và, mặc dù nội dung những cuốn sách của ông không có tính chất chính trị một cách trực tiếp, chúng vẫn khiến tôi nghĩ đến một kiểu truyện kể chính trị, chính trị-hình thức. Tôi không biết rõ phải giải thích điều đó như thế nào. Truyện kể được dẫn dắt theo một dạng kết cấu hình ngôi sao. Có rất nhiều đợt tấn công, có rất nhiều lối vào. Và tất cả những đợt tấn công ấy, tôi sẽ nói chúng không được sắp xếp theo cách một truyện kể truyền thống vẫn được xây dựng. (Nhờ tự sự học, ngày nay ta bắt đầu đoán biết được một truyện kể truyền thống được xây dựng như thế nào.) Ở ông, điều này đi xa hơn rất nhiều. Đó không phải một truyện kể được sắp xếp, mà là - để chơi chữ một chút - được phối kết: một kiểu truyện kể đã thay thế khái niệm sự phối kết này vào chỗ khái niệm trật tự. Ông xây dựng các hệ thống có rất nhiều lối vào. Điều đó thật là đẹp. Và nó cũng khiến cho ta có thể xếp tác phẩm của ông ở gần với một dòng picaresque [một dạng truyện hài] trong chừng mực picaresque một cách cụ thể là câu chuyện kể một câu chuyện kể một câu chuyện khác; những câu chuyện trong các ngăn kéo, kiểu như vậy. Vẻ mê hoặc thứ hai mà tôi nhìn thấy ở tác phẩm ấy, chính là vậy: kết cấu dạng mạng của logic tự sự.

Còn có một vẻ mê hoặc khác nữa, và cũng rất gần mấy vẻ mê hoặc trên đây, mà ta có thể chỉ cần gọi một cách giản dị là sự mê hoặc. Độc giả thích thú vì những lý do đơn giản: cái nghịch lý tiếp diễn này khiến ta luôn luôn có một tình huống phi hiện thực hay mang tính chất hình thức, sự trống rỗng của một bộ áo giáp hay loạt tên riêng, chẳng hạn tên các thành phố, nhưng trên cái dữ kiện phi hiện thực này lại phát triển một dạng chủ nghĩa hiện thực hoặc sự giả tạo hiện thực của cách bài trí, của bức tranh, của cái cụ thể. Và chính đó là cái tôi thấy là vô cùng ý vị nơi ông, vả lại điều đó cũng khiến ta nghĩ đến những nhà kể chuyện huyền ảo vĩ đại: một tình huống phi hiện thực ở điểm xuất phát hoàn toàn được siêu vượt và cứ liên tục bị chống đối bởi một thứ chủ nghĩa hiện thực của sự đi tới.

Và rồi còn một điều nữa cần nói, nhưng nó khó nói hơn vì ở đây ta chỉ có những từ khá cổ mà ta luôn luôn do dự không muốn sử dụng - nhưng tại sao lại không? - đó là, trong nghệ thuật của Calvino và trong những gì mà con người ông thể hiện ra trong cái ông viết, có một sự thiết tha [sensibilité] - ta hãy sử dụng từ cổ: đây là một từ của thế kỷ mười tám. Ta cũng có thể nói đến một sự nhân hậu, tôi sẵn sàng nói gần như một lòng tốt, nếu từ này không quá trầm trọng; nghĩa là vào mọi lúc, trong các ghi nhận, đều có một sự mỉa mai không bao giờ gây tổn thương, không bao giờ gây hấn, một khoảng cách, một nụ cười, một sự cảm thông. Một dạng mê hoặc dịu dàng, mê hoặc thanh nhã. Sự tha thiết hợp nhất với một dạng trống rỗng. Chẳng hạn, tôi nghĩ đến đoạn đầu cuốn Hiệp sĩ không hiện hữu, ở đó một sự thiết tha tuyệt diệu biểu lộ còn nhiều hơn nữa nếu ta nghĩ rằng đó là một người trống rỗng, một sự trống rỗng biết nói. Trang viết tuyệt diệu bởi, từ một chủ thể trống rỗng, trống rỗng về mặt vật chất, nó miêu tả sự phức tạp của những mối quan hệ con người, cách thức chủ thể chịu đựng hình ảnh của mình giữa những hình ảnh khác, với một sự tinh luyện xuất chúng. Ở đó có những điều tinh luyện của thứ tình cảm hẳn không xa lạ với thế giới Proust. Có một tấn thảm kịch nhỏ về cuộc sống cộng đồng, về con người giữa những người khác, được diễn dưới vẻ ngoài của một câu chuyện kỳ ảo. Khi ấy, cái trống rỗng không chỉ còn là một dạng mưu mẹo tu từ học. Nó mang một chức năng chiến lược vô cùng mới mẻ và gây rất nhiều say mê, và nó, thêm nữa, lại vang vọng hoàn hảo với số lượng những thứ cùng cảm nhận về nhau, nói với nhau và nghĩ tới nhau. Trên thực tế, qua đó mà văn bản đặt ra một kiểu chu chuyển trong đó ta không bao giờ biết tính nhân quả tâm lý thực sự nằm ở đâu. Và quả thật, không còn tính nhân quả tâm lý nữa, mà có một dạng gương bất tận soi những ngẫu nhiên về mặt tâm thần - các phẩm hạnh.

(Trích từ cuộc phỏng vấn với France Culture, 1978, được đặt làm lời tựa cho tiểu thuyết Hiệp sĩ không hiện hữu thuộc bộ Tổ tiên của chúng ta, ấn bản folio, NXB Gallimard)