cuối tháng Nhất Linh
Tiểu thuyết Việt Nam có bao nhiêu phần thoát thai từ
ánh mắt bên dưới cặp lông mày nét mác của Nhất Linh? Tôi nghĩ là không ít, khi
nhìn bức chân dung Nguyễn Gia Trí vẽ Nguyễn Tường Tam năm 1952 ở Sài Gòn. Trong
bức tranh ấy, cả hàng ria nổi tiếng kia dường như cũng cố ý tự tạo thành nét
mác kiên quyết, cái kiên quyết của những “khẩu hiệu đanh thép” từng in dấu sâu
đậm đến thế vào thời “tiên khởi” của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại: “lạnh
lùng”, “đoạn tuyệt” và “tự lực”. Với Dostoeysky, văn học Nga chui ra từ chiếc
áo khoác của Gogol; văn xuôi Việt Nam như chúng ta biết hiện nay từng
cần một cú hích lạnh lùng nhưng mạnh mẽ hồi đầu những năm ba mươi ấy.
Mà đâu chỉ là văn xuôi. Nhất Linh và Tự Lực Văn Đoàn, đó còn
là địa điểm quan trọng nhất của Thơ Mới, đặc biệt vào lúc phôi thai chớm ra đời
cần hơn hết một sự cảm thông và nhất là một sự kiên định, và tờ báo Phong Hóa (ra số đầu cách nay đúng tám
mươi năm) làm ngoặt dòng tiếng cười, tách hẳn ra khỏi truyền thống truyện tiếu
lâm dân gian và cả những truyện “hài đàm”, “tiếu lâm An Nam” của trước đó không
lâu, dưới ngòi bút của những Nguyễn Đỗ Mục hay Phạm Duy Tốn. Sau sự cách tân
dùng dằng (“thổ nạp Âu Á”) của Nam Phong
và Phạm Quỳnh lỗi lạc, đến Nhất Linh lịch sử ngôn ngữ và văn chương Việt Nam
mới dứt khoát mà lên đường, giống như câu văn này của Nhất Linh: “Họ đi… đi xa
chốn hư không tịch mịch, không đoái nhìn lại, đăm đăm như theo một tiếng gọi
khác réo rắt hơn ở tận phía trước xa xa đưa đến” (truyện ngắn “Thế rồi một buổi
chiều”).
Mỗi công trình văn hóa của Nhất Linh, điều này chắc ai cũng
nhận thấy rõ, dường như đều rất sắc nét, thấu đáo, ảnh hưởng ghê gớm và có sức
thu hút không thể cưỡng nổi. Tưởng chừng cái gì ông động tay vào là gọn gàng,
chỉn chu, thành hình một chỉnh thể mang giá trị tự thân lồ lộ (giải thưởng văn
chương Tự Lực Văn Đoàn, dự án “nhà Ánh Sáng”, những bông hoa phong lan), giống
những bức tranh ông vẽ, đẹp lạnh lùng và hoàn thiện không thể thêm bớt, đơn
giản nhưng đầy sức nặng, đã xong là xong và chắc chắn ngay từ đầu là sẽ mang
sức sống lâu dài.
Thế nhưng, thật lạ lùng, vẫn có cái gì như dang dở ở Nhất
Linh. Ở Nhất Linh luôn luôn tồn tại một khía cạnh rất khó nắm bắt, khiến cho
nhà văn Võ Phiến, người coi Nhất Linh là “bậc tiền bối lỗi lạc từng sống một
đời đầy dông bão và kết thúc đau thương”, khi viết về ông thoạt đầu cho rằng
con người Nhất Linh rất nhiều niềm vui, ông vui sướng hơn bất kỳ nhà văn Việt
Nam nào khác, nhưng sau đó lại khẳng định nỗi khổ ở Nhất Linh vô cùng to lớn,
hiếm có ai khổ hơn ông. Và, còn điều này nữa, Nhất Linh hay hiện ra trong mắt
người khác như một con người thuộc đoàn thể, một nhóm nào đó, một quần tụ tinh
túy văn chương và cả chính trị, nhưng ông lại cô độc hết mức, và cặp mắt của
Nhất Linh từng được Hoàng Xuân Hãn miêu tả là rất chán chường, khi hai nhân vật
này gặp nhau ở Đà Lạt năm 1946 trong một sự kiện rất quan trọng của lịch sử
Việt Nam.
Ta có thể lý giải sự “dang dở Nhất Linh” là do ông không
được toại nguyện trong nhiều chí hướng, thất bại nhiều trên con đường chính trị
(mặc dù Vũ Hoàng Chương từng viết hai câu thơ về ông: “Chí sĩ đền xong nợ
nước/Văn hào đã thỏa ước mơ”). Cả trong văn hóa cũng vậy, sau này khi đã vào
Sài Gòn, những ý định tiếp tục con đường trước kia từng mở ra có vẻ không mấy
thuận lợi và thành công. Một thế hệ mới đã xuất hiện, cái thế hệ dẫu vẫn mang
đậm dấu ấn của tiền chiến (Mai Thảo từng đặt tên tiểu thuyết của mình là Để tưởng nhớ mùi hương bắt nguồn từ
Thạch Lam còn Viên Linh viết Hạ đỏ có
chàng tới hỏi lấy câu thơ của Huyền Kiêu làm nhan đề); giống trước kia thế
hệ của ông làm lu mờ thế hệ Thượng Chi Phạm Quỳnh; cũng như trong mọi chuyện,
lý do khách quan chiếm một vị trí không nhỏ.
Nhưng chắc hẳn còn có nhiều điều hơn thế. Sự dang dở này,
biết đâu, nằm trong bản thân con người Nhất Linh. Trước 1945, ông từng miêu tả
sự dùng dằng rất hay: “Sinh bùi ngùi, cúi mặt ngắm dòng nước, ngắm mấy cái rác,
tan tác mỗi cái trôi về một phía… khác nào hình ảnh cuộc đời của Sinh với cuộc
đời của người con gái chở đò, mỗi bên đi về mỗi ngả, không bao giờ gặp nhau”
(truyện ngắn “Nước chảy đôi dòng”). Sau 1945, đã quyết chí từ bỏ hoạt động
chính trị quay trở lại với văn nghệ, nhưng rốt cuộc Nhất Linh chỉ hoàn thành
được tiểu thuyết Giòng sông Thanh Thủy,
còn Xóm Cầu Mới, mà hẳn ông hình dung
như tác phẩm lớn nhất của đời mình, “opus” trong sự nghiệp tiểu thuyết gia của
ông, chỉ mới đi đến được chừng 600, 700 trang, chưa tới một phần mười những gì
ông dự định. Nghị lực và sức lực một con người dường như chỉ đủ cho một lần
đoạn tuyệt: ở đoạn cuối của cuộc đời, khi ông quyết chí từ bỏ lối viết tiểu
thuyết cũ (điều này được thể hiện rõ trong Viết
và đọc tiểu thuyết, Đời Nay, 1961), để bước vào một cõi tiểu thuyết mới
hẳn, không luận đề, không câu nệ mà tự nhiên như nước chảy mây trôi, thực sự đi
vào nội tâm mỗi con người, thì lúc ấy, sự dở dang đã bày ra trước mắt ông.
Và để choàng vòng hoa của dang dở lên cuộc đời thật nhiều
trọn vẹn của Nhất Linh, ở đúng chỗ kết cục là một sự kiện cực đoan nhất trong
mọi sự kiện: vụ tự sát ngày 7/7/1963 của ông, ông đã “lạnh lùng tự lực mà đoạn
tuyệt”, hay như cách nói của Vũ Hoàng Chương, “Nhất khả đoạn, nhị khả tuyệt,
tam nhi bất hủ”. Lịch sử Việt Nam có quá ít nhà văn, nhà thơ tự sát (nhà văn
Hungary Sándor Márai từng khôi hài về hiện tượng nhà văn tự sát, đại ý ông cho
rằng lâu lâu không có nhà văn nào tự sát là một điềm gở cho văn chương). Nhất
Linh thực sự là người đi ra ngoài khỏi truyền thống quá xa. Có thể đó là nguyên
do khiến ở đâu ông cũng cô độc, khiến lúc nào ông cũng kiên quyết như vậy. Có
thể nào chăng, ông ý thức được rằng cái chết của mình mở ra sự sống.
“Ðời tôi để lịch sử xử”: những lời tuyệt mệnh của Nhất Linh
Nguyễn Tường Tam bắt đầu như vậy. Không hiểu lịch sử nào sẽ xử ông, và có thể
xử ông như thế nào, nhưng chắc chắn là ông để lại di sản gồm cả những gì hoàn
chỉnh lẫn vô số dang dở. Những trọn vẹn để tạo lòng tin cho thế hệ sau, còn những
dở dang là để lịch sử tiếp tục được.
bức chân dung
Thử ngồi nghĩ xem trong số nhà văn Việt Nam có những ai tự sát: Phạm Duy Khiêm, Tam Ích.