Aug 6, 2019

Đoạn kết

tiếp tục Mai-nương Lệ-cốt (tức Manon Lescaut), bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh - câu chuyện đã đi đến đoạn kết; abbé Prévost, tác giả Manon Lescaut, cũng là người dịch Clarissa của Richardson sang tiếng Pháp

Câu chuyện Mai-nương Lệ-cốt càng về cuối càng hiện rõ tính chất "Ma đưa lối quỷ đem đường/Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi": đó là câu chuyện của "sổ đoạn trường", của "nòi tình"; tức là, nếu từ nhìn con mắt Kiều, câu chuyện càng có nhiều ý nghĩa. Vả lại, chắc hẳn Mai-nương Lệ-cốt hấp dẫn Nguyễn Văn Vĩnh vì nó gợi ngay đến Kiều.

Dưới đây là phần giới thiệu Mai-nương Lệ-cốt ở lần đầu tiên nó xuất hiện trong tiếng Việt ("Trước giả: Abbé Prévost Dịch giả: Nguyễn-Văn-Vĩnh"), tức là trên báo (Đông Dương tạp chí). Khi bản dịch Mai-nương Lệ cốt in thành sách (mấy năm sau đó), như đã thấy ởkia, thì bắt đầu ngay "Bài tựa của tác-giả" rồi vào truyện chứ không còn phần giới thiệu này nữa:


(sorry, chất lượng hình ảnh hơi tệ, chỉ đến thế được thôi)

Như vậy, Mai-nương Lệ-cốt hết sức quan trọng đối với Nguyễn Văn Vĩnh: công trình dịch Kiều có thể coi như là chiếm hết cuộc đời Nguyễn Văn Vĩnh - Manon Lescaut là thời điểm (cơ hội) để Nguyễn Văn Vĩnh có thể nhìn nhận Kiều từ một khía cạnh rất đặc biệt.

Trong bức ảnh trên đây, (Gustave) Lanson được nhắc tới, trong nhìn nhận Manon Lescaut như là tác phẩm do vô ý mà sinh ra, bởi tay abbé Prévost. Một câu chuyện sinh ra do được tác giả chọn, hay chính câu chuyện chọn tác giả? Chắc hẳn là cả hai. Tố Tâm ra đời do sơ ý: Hoàng Ngọc Phách không hoàn toàn hiểu tại sao. Một ông thầy tu như Prévost mà lại viết ra câu chuyện hoàn toàn có thể xếp vào hạng dâm loạn như câu chuyện về nàng Manon Lescaut, hay nhà nho Nguyễn Du viết về cô gái điếm Thúy Kiều, đều là cùng một điều - làm cho ta không thực sự hiểu được sự ra đời của một câu chuyện. Một số câu chuyện không thể không sinh ra (đi vào tồn tại).


Quay trở lại với câu chuyện dịch Manon Lescaut ở Việt Nam. Dưới đây vẫn là bản dịch ởkia (có thể gọi là "bản dịch phổ biến"), nhưng trong một ấn bản khác, ấn bản 1987:


Nhưng bản dịch (rất ít được biết đến, ngày nay) dưới đây hấp dẫn hơn nhiều:


Người dịch, Đặng Gia Ái Lan, hẳn chính là nhân vật hay ký tên "Ái Lan" xuất hiện trên một số tờ báo ra tại Sài Gòn, thập niên 50.

Niên đại cuốn sách: 1963:


Cũng giống Vương Hoài An người dịch Le Comte de Monte-Cristo ra tiếng Việt (xem ởkia) nói rõ mình chịu ơn Nguyễn Văn Vĩnh, trong "Lời dịch giả" Đặng Gia Ái Lan cũng nói tương tự:


Thậm chí còn giữ nguyên cái nhan đề Mai-nương Lệ-cốt như bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh chứ không viết theo nguyên văn Manon Lescaut hay phiên theo một kiểu khác. Chi tiết "cách đây 30 năm" (trong tương ứng với 1963 là niên đại bản dịch của Ái Lan) cho thấy Ái Lan đọc Mai-nương Lệ-cốt trong ấn bản của Âu Tây tư tưởng (ấn bản sách): đúng ra tính đến 1963, đã ngót 50 năm kể từ khi Nguyễn Văn Vĩnh dịch Mai-nương Lệ-cốt để đăng báo.




(còn nữa - riêng cho phần "intro" - đã tiếp tục "Proust: bệnh và chữa bệnh" cũng như loạt bài báo của Hồ Hữu Tường về Tạ Thu Thâu: các nhân vật có liên quan tới câu chuyện Tạ Thu Thâu như Nguyễn Văn Tạo, Trần Văn Giàu, Hồ Tá Khanh hay Trần Văn Ân thì như thế nào?)



-----------

["Thánh An-đê-rê" tức là Saint-André; "Thánh An-toan" tức là Saint-Antoine; "Thánh Mi-xen" tức là Saint-Michel; "Sa-tư-lê" tức là nhà ngục Châtelet; "La Ro-sen" tức là La Rochelle; "Ô-lê-an" tức là Orléans (trong một bản dịch khác, Nguyễn Văn Vĩnh sẽ phiên từ này thành "Ô-liên"); "Nô-mân-đi" tức là Normandie; "Thánh Ô-nô-rê" tức là Saint-Honoré; "Tân Ô-liên" tức là New-Orleans]


Nàng lấy giấy bút thảo ba dòng chữ trà lời, việc trốn-tránh thì xin lo-liệu lấy, thế nào cũng xong xuôi cả: xin chàng cứ đúng ngày giờ ấy thì chờ tại chỗ hẹn, thiếp sẽ đến hầu, không sai.

Tôi thì đi ngay tìm nhà khác mướn ở đầu thành-phố bên kia, rồi dọn tắp cả đồ đạc sang đó. Định rằng đến chiều hôm sau thì nàng ra Ba-lê đi đến chỗ nhà lầu của Mỗ Mỗ sinh đã dọn riêng cho mà ở; khi gã đã trao tay hết các món tiền bạc hẹn cho rồi, thì đến tối tảng đòi đi coi hát bội, trước khi đi thì cô chủ với thằng hầu bao nhiêu tiền bạc và đồ vàng ngọc bỏ cả vào túi mang đi cho hết. Tên đứa ở ấy chính là tên hầu-hạ ở nhà-thương con-gái khi xưa. Tôi thì đi mướn một cỗ xe đến đứng chờ ở phố Thánh An-đê-rê, bên cạnh cửa rạp hát bội. Để xe đứng chực một xó tối, rồi tôi sẽ lẻn đến chờ một bên cửa ra, nàng hẹn với tôi rằng trong lúc đương hát, nàng sẽ kiếm cớ mà xin ra ngoài một lát. Mưu-mô tính ra thật dễ thi-hành quá, chỉ trong vài phút là tôi đem được nàng đến chỗ xe chờ mà cho ngựa tế thẳng đến ấp Thánh An-toan là nơi chúng tôi vừa mướn nhà mới.

Kế ấy tuy là càn-dỡ, song chúng tôi nghĩ cũng đã chịu lấy là khéo xếp. Nhưng ngẫm cho chín thì thật là một kế thiển-cận, không tính xa, ví-dù sự thành đi nữa, về sau còn kết-quả những làm sao. Ấy vậy mà chúng tôi bàn tính qua-loa với nhau, rồi làm liền ngay tức-khắc. Mai-nương thì cùng với gã Mạc-xen (đó là tên thằng hầu của chúng tôi) đi trước. Tôi đau ruột mà nhìn nàng đi ra. Trước khi đi, tôi hôn nàng mà rằng:

- Mình ơi! mình đừng lừa tôi nhé!

Nàng ngọt-ngào mà trách tôi sao lại nghi-ngờ như thế, rồi nàng lại ôn với tôi hết cả mọi lời thề trước, nàng tính độ ba giờ thì tới Ba-lê. Tôi đi sau, tôi đến một tiệm rượu ở cầu Thánh Mi-xen mà ngồi ngậm-ngùi suốt một buổi chiều, chờ cho đến tối mới ra đường mướn một cỗ xe, đi đến đầu đường Thánh An-đê-rê, thì tôi để xe chờ đó mà xuống đi đất đến tận cửa rạp hát bội. Tôi nhìn trước nhìn sau, chẳng thấy thằng Mạc-xen đâu cả, đã giật mình, vì trước khi đi, nàng đã hẹn tôi cho nó ra đón trước. Tôi cố kiên-nại mà chờ trong một tiếng đồng-hồ, tôi đứng lộn với một bọn đứa-ở người ta, cứ chừng-chừng [trừng trừng] hai mắt chẫu lên mà nhìn những kẻ đi qua người đi lại, không bỏ sót người nào. Sau thấy chuông đánh bảy giờ, mà cũng chẳng thấy ai là người của mình hết. Tôi bèn lấy một cái vé hạng rốt mà vào trong rạp, họa may có thấy nàng với gã Mỗ Mỗ ở trong phòng hạng nhứt nào chăng? Thì chẳng thấy nàng mà cũng chẳng thấy gã kia đâu cả. Tôi lại ra ngoài ngõ mà đứng ngóng trong một khắc đồng-hồ [tức là mười lăm phút] nữa, vừa nóng lòng, vừa lo-ngại vô cùng. Chờ hết khắc đồng-hồ ấy mà chẳng thấy ai hết, tôi bèn lại về chỗ xe đợi, trong lòng bối-rối, không biết tính làm sao cả. Tên đánh xe nom thấy tôi về đàng xa, chạy ra đón trước, nháy một bên mắt mà thầm-thì với tôi rằng có một cô con-gái lịch-sự lắm ngồi chờ tôi đã một giờ ở trong xe. Khi người con-gái ấy đến hỏi thăm tôi diện-mạo là thế, áo quần là thế, thì gã biết đích-thị là tôi, gã mới bảo tôi đi ra đàng kia một lát, rồi tôi lại về thì ả nói quí-hồ có về, ả đợi đến bao giờ cũng được.

Tôi đã tưởng là Mai-nương, tôi mới lại gần thì tôi ngó thấy một cái mặt xinh-đẹp quá, nhưng mà không phải mặt Mai-nương. Người ấy xưa nay tôi chưa gặp bao giờ, thấy tôi về thì sẽ thỏ-thẻ hỏi tôi có phải là Đê Ghi-ri-ơ vũ-sĩ chăng? Tôi thưa rằng phải, thì nàng rằng:

- Thiếp có một phong-thư cho vũ-sĩ. Khi vũ-sĩ xem thư rồi thì biết thiếp đến làm chi đây, và bởi làm sao mà thiếp được tường quí danh-hiệu.

Tôi xin nàng cho phép tôi đem thư vào hàng rượu mà đọc. Nàng đòi theo tôi, và nàng bảo tôi mướn lấy một cái phòng riêng. Tôi vừa bước vào quán vừa hỏi:

- Thư của ai gởi cho tôi đó?

Nàng bảo tôi đọc thì biết. Tôi vừa mở thư ra thì nhận ngay được chữ Mai-nương. Trong thư nói đại-cương như sau này:


Mỗ Mỗ sinh thù-tiếp tôi một cách tử-tế quá, dâng biếu không còn thiếu thứ gì. Hẹn sau này đãi thiếp trân-trọng như thể đãi một vì hậu-phi vậy. Tuy nhiên, dẫu ngồi trong nhà vàng trên ghế ngọc, thiếp cũng chẳng bao quên tình nghĩa đôi ta. Ngặt vì tối nay thiếp đòi đi coi hát, mà gã kia nhứt định không chịu, cứ nài thiếp ở nhà cho được. Thôi thì vợ chồng ta đành để có hôm sau. Thiếp cũng biết như thế là hơi sai lời ước hẹn, chàng hẳn ưu-phiền. Vậy nhân tìm được cô ả mang thư đây là gái xinh-đẹp nhứt tại Ba-lê, xin dâng để chàng giải muộn.

Người tình-nương một lòng một dạ với chàng.
Ký tên là Mai-nương Lệ-cốt


Tôi xem xong thư, tức-tối, hờn-giận nàng không biết nói sao cho xiết. Đã sai lời nguyện-ước, lại còn có câu bỡn-cợt một cách thậm chưng là khiếm-nhã. Tôi ngơ-ngẩn ra một hồi lâu không biết rằng nên nổi hung lên hay là nên than khóc, sau tôi cố đè lòng quyết định từ đây mà đi, quên đứt cái đồ bội-bạc, cái đồ lật-lọng ấy đi. Bấy giờ tôi mới đưa mắt nhìn ả thanh-xuân đứng trước tôi đó. Người thì tuyệt đẹp. Tôi ước gì người ấy xinh thêm chút nữa, đẹp thêm chút nữa, để khiến cho gan tôi bội lại được gái thất-tín kia. Ngặt vì tôi cố sức thế nào, nom người ấy cũng thấy nhiều nơi khuyết-điểm quá. Mắt này bì với mắt kia sao được. Cái dáng đi kia sao có bằng cái dáng đường-hoàng đáng vì phi-hậu của Mai-nương được. Cái nước da này, cùng đã đẹp, nhưng đem tỉ với cái nước da Mai-nương thì hóa ra lợt lợt kém xa lắm lắm. Nói tổng lại thì người này làm gì có được cái vẻ khuynh-quốc khuynh-thành mà Hóa-công khăm độc đã cho cả cái con đàn-bà vô-nhân bạc-nghĩa, tên gọi Mai-nương kia mất rồi. Tôi bèn ngảnh mặt đi không nhìn người con-gái ấy nữa, mà rằng:

- Thôi, thôi, cô ơi! cái gái tệ-bạc nó sai cô đến đây với tôi, nó cũng đã biết rằng cô đi mất công vô ích. Xin cô về thay lời tôi mà bảo nó rằng nó có thể ngồi yên mà hưởng lấy cái tội ác của nó thì nó cứ ngồi mà hưởng. Tôi cũng chúc cho nó không biết cái hối-hận là cái gì. Nhưng từ nay thì tôi quyết bỏ nó, không còn bao giờ có hồi cố với nó nữa. Mà luôn thể tôi cũng xin tuyệt-giao với cả một giống đàn-bà, vì chắc thiên-hạ không còn có gái nào xinh-đẹp mặn-mà hơn nó nữa, mà chắc hết thảy đứa khác lại còn tệ-bạc, lường-đảo, bất-nhân, bằng gấp mấy nó.

Tôi đã toan đi xuống thẳng, quyết chí từ rầy không bận lòng gì đến Mai-nương nữa. Cái khí ghen bấy giờ nó như đâm ruột xé gan tôi ra, làm cho tôi sa sầm mặt xuống, thờ-thẫn ra như dại như ngây. Tôi thấy lần này không nổi hung lên dữ-tợn như mọi lần trước, tôi đã tưởng thế này là khỏi hẳn rồi. Than ôi! hay đâu bấy giờ tôi cũng là kẻ bị lừa của ái-tình.

Người con-gái mang thư, thấy tôi bước xuống thang thì hỏi tôi phải về nói lại làm sao với ông Mỗ Mỗ và cái nàng ở chung với ông Mỗ Mỗ. Tôi thấy ả hỏi thế thì tôi lại trở vào trong phòng. Lúc ấy thì tự-dưng tôi thấy đương hiền-từ ngây-dại, mà bỗng tôi nổi cơn giận lên đùng-đùng. Ai đã có trải qua cơn ghen một lần rồi mới biết được những cơn giận như thế. Trong cơn giận ấy thì tôi bảo con bé rằng:

- Mi về mi bảo cái thằng phản bạn Mỗ Mỗ, và cái con vô-lương bạc-nghĩa là con nhân-ngãi nó, rằng hai đứa nó viết cho ta cái thư này bằng nó cắt ruột đâm gan ta đó. Nhưng mi bảo cho chúng nó biết rằng chúng nó không cười khúc-khích với nhau được lâu đâu. Rồi tao đâm chết cả hai đứa bằng cái tay tao này cho mà xem.

Nói xong, tôi ngồi phịch xuống một cái ghế, mũ tôi vứt một bên, gậy vứt một bên. Mắt thì tuôn ra hai suối nước mắt ròng-ròng. Khùng lên chán rồi lại ngây-dại người ra mà đau-đớn, khóc-lóc, thở than xùi-xụt một hồi lâu. Rồi tôi gọi con bé mà rằng:

- Con lại gần đây, con! Chúng đã sai con lại đây để an-ủy lòng ta, thì con lại đây. Con thử nói ta hay có cách nào là cách giải cho khuây được cái cơn ngộ-dại lồng phách, cái cơn điên-cuồng này hay không? Ta nay chỉ muốn giết cho chết hai cái đứa bất-nhân bạc-ác này đi, rồi ta tự-tận, con có biết thuốc gì mà chữa được cho ta cái cuồng-hứng đó chăng?

Tôi thấy con bé rón-rén bước dần lại thì tôi lại bảo rằng:

- Ừ! con lại đây. Con lại đây lau ráo nước mắt cho ta. Con cố an-ủy làm sao cho nguôi được tấm lòng ta. Con lại con nói với ta rằng con yêu ta, để cho tai ta nó tập dần nghe miệng gái khác tự-tình với ta, nào! Con xinh-đẹp như vây. Có lẽ con khéo nói, rồi ta cũng xiêu lòng mà yêu con được.

Tội-nghiệp con bé, xuân-xanh mới độ mười-sáu mười-bảy tuổi, coi bộ còn thật-thà e-lệ hơn những đứa đồng-loại, nó thấy sự tôi như thế, nó cũng phải ngẩn-ngơ. Tuy nhiên, nó cũng lại gần mà vuốt-ve tôi vài cái, nhưng nó vừa rờ đến mình tôi thì tôi lấy hai tay đẩy mạnh nó ra mà mắng nó rằng:

- Mày muốn làm gì tao đó? à, phải rồi, mày là một con đàn-bà, tao ghét cái giống mày, tao không thể chịu được cái giống mày nữa, cái mặt hiền-lành của mày kia, tất lại là cái áo phủ ngoài sự nham-hiểm chi đây, mày đi đâu thì đi đi, để cho tao một mình ở yên đây.

Con bé cúi chào tôi, không trả lời chi hết, rồi quay lưng đi ra. Tôi gọi giật nó lại mà hỏi nó:

- Nhưng trước khi đi, mày hãy nói cho tao biết cớ làm sao mà chúng sai mày lại đây? mày với hai đứa ấy là thế nào? chúng nó sai mày lại đây cốt để làm gì? sao mày lại biết tên tao và lại biết cả chỗ tao đứng chờ mà đến tìm?

Nó đáp rằng nó quen với Mỗ Mỗ sinh đã từ lâu, chàng sai người đi gọi nó từ năm giờ chiều, nó liền đi theo thằng người nhà đi gọi đó, thì thằng ấy đưa nó đến một tòa nhà lầu lớn, nó vào đó thì nó thấy chàng Mỗ Mỗ đang ngồi đánh bài với một người đàn-bà đẹp. Hai người bèn nhờ nó mang phong-thư cho tôi, dặn nó rằng cứ đi ra cầu đường Thánh An-đê-rê thì thấy tôi ngồi chờ trong một cỗ xe đỗ ở đó. Tôi lại hỏi nó hai đứa kia còn dặn-dò gì nữa không, thì con bé đỏ mặt mà thưa rằng hai người có bảo nó mang thư cho tôi may ra thì tôi gạ ở lại với tôi cho vui. Tôi nói:

- Vậy là chúng đánh lừa con đó, con a. Con là phận gái, đành rằng phải có trai nào thương đến, nhưng trai nào giàu-có vẻ-vang kia, chứ như ta đây là một người trong cảnh rất sầu-khồ, thì ta không phải là người của mi tìm. Vậy mi khá trở về với chàng Mỗ Mỗ là người có đủ tư-cách cho gái đẹp phải yêu, có nhà lầu cho gái ở, có xe-ngựa cho gái ngồi, còn ta đây chỉ có tấm lòng yêu-mến, tấc dạ thủy-chung, để cho gái mà thôi, thì đàn-bà khinh-bỉ ta và lấy cái thật-thà của ta làm một trò đùa.

Tôi còn nói thêm đến nghìn câu nữa, câu thì bi-thảm, câu thì gay-gắt, tùy cái cảm-tình nó theo nhau trong dạ, lúc sầu, lúc tức, lúc ghét, lúc thương. Tôi bồi-hồi một lát như thế, rồi sau cũng khuây-khỏa dần, mà nghĩ-ngợi được một hai điều. Tôi đem cái tai-nạn sau cùng này mà tỉ với những tai-nạn đã từng trải rồi, thì thấy lần này cũng chẳng lấy gì làm nên mất hi-vọng hơn mọi lần trước. Số là tính nàng làm sao, tôi đã biết rồi. Cái nạn mình dự tính, thế tất làm sao cũng phải có ngày, thì sao lại nên khóc than rầu-rĩ? Tưởng ta nên mau mau tìm phương cấp-cứu mới là phải. Mà bây giờ tưởng cũng chưa chầy. Nghĩa-vụ của tôi là phải ra công ngăn giữ trong lúc cái sức mình còn công-hiệu, thì về sau ngộ việc có xẩy ra làm sao, mình cũng không hối-hận được rằng bởi mình biếng trễ, cho nên sinh vạ. Tôi nghĩ thế thì tôi dốc trí mà lo tính cho ra hết các phương-kế để vào con đường hi-vọng.

Dùng cường-lực mà lôi kéo nàng ra khỏi tay chàng Mỗ Mỗ, thì là một kế cùng, mà không chắc có công-hiệu, lại thêm nguy-hiểm cho tôi. Nhưng tôi nghe hình như là: giả xử [giả sử] tôi được giáp mặt nàng mà nói chuyện, thì tôi chắc là tôi khiến nổi được lòng nàng. Số là cái tính-khí nàng làm sao tôi đã thông tỏ lắm rồi, bao nhiêu nơi dễ cảm-động ở trong cái lòng ấy tôi đã biết hết. Tôi chắc nàng nhìn thấy tôi thì lại thương tôi. Như cái việc kì-quặc sai một người gái đẹp ra mà khuyên-giải lòng tôi, thì tôi đánh cuộc rằng là một trò của nàng lẩn-thẩn nghĩ ra, thương tôi buồn-bã mà bầy trò cười đó.

Tôi bèn quyết chí dùng hết phương-kế mà vào cho đến trước nàng. Tôi nghĩ quanh nghĩ quẩn ra mấy cách, trong mấy cách ấy, duy có cách sau này là tôi ưng nhứt, định bụng thi-hành:

T… công-tử vốn từ khi mới biết tôi, cũng đã đem lòng hâm-mộ, mà hết sức giúp tôi nhiều việc rồi. Tôi chắc là người thành-thực, thủy-chung. Tôi bèn tính đến ngay nhà công-tử, mà nhờ công-tử nghĩ cho một kế gì đề gọi Mỗ Mỗ sinh đi ra khỏi nhà một lát, quí-hồ để cho tôi được nói chuyện riêng với nàng trong nửa tiếng đồng-hồ là đủ. Ý tôi muốn thừa khi Mỗ Mỗ sinh đi vắng mà lén vào đến tận phòng Mai-nương.

Tôi đã quyết lòng như thế thì thấy tinh-thần tỉnh lại được nhiều. Tôi bèn lấy nhiều tiền mà cho người con-gái, tôi tảng hỏi nhà ả chốn nào, tôi hẹn ả về trước, rồi tôi về ngủ đêm với ả, để cho ả đừng trở lại nói gì với Mỗ Mỗ sinh hết. Khi ả đi về rồi, tôi kêu một cỗ xe, mà đi thẳng đến nhà T… công-tử. May sao công-tử khi ấy lại có nhà, trong khi đi đàng, tôi đã lo công-tử đi vắng thì thật hại. Tôi chỉ nói hai câu, bạn biết rõ tình tôi như thế.

T… công-tử nghe nói rằng Mỗ Mỗ sinh quyến-dũ nổi Mai-nương, cũng khí ngạc-nhiên. Bạn không biết rằng việc ấy nên cũng bởi có tay tôi giúp sức. Bạn bèn hẹn với tôi xin tức-khắc họp-tập mấy người chí thiết, cố ra tay tháo cũi xổ lồng cho tình-nương tôi thoát khỏi tay Mỗ Mỗ sinh cầm giữ, nhứt là bộc-thi lưu-huyết cũng cam. Tôi can rằng kế ấy có lẽ làm toang-hoang, hại lây đến cả nàng và tôi cùng lụy. Tôi nói:

- Quí-huynh đã một lời hẹn giúp, xin tạ ân lòng. Nhưng việc lưu-huyết hãy để dành đến khi thế bĩ. Tiểu-đệ nghĩ ra được một kế êm hơn, mà phần công-hiệu lại là chẳng kém.

Bạn nói vì tôi đã quyết đến tử sinh, huống việc khác, tôi muốn sao mà chẳng sẵn lòng. Tôi nhắc lại lời xin khi nẫy, chỉ xin người kiếm cớ gọi làm sao cho Mỗ Mỗ sinh tức-khắc vắng nhà trong một hai giờ là đủ. Bạn liền đi theo chân tôi để thi-hành kế ấy.

Hai người bàn nhau chưa biết dùng cách gì giữ được Mỗ Mỗ sinh ở ngoài lâu như thế. Tôi xui bạn đến một hàng rượu nào gần đó mà gửi một bức thư cho chàng Mỗ Mỗ, nói rằng có việc khẩn-cấp phải ra ngay, không thể trì-hoãn được phút nào cả.

- Khi đại-huynh đã gửi thư rồi, đệ mới đến rình trước cửa. Gã đi ra là đệ lén vào. Việc ấy thật dễ, vì trong nhà duy chỉ có Mai-nương và gã Mạc-xen là biết mặt tôi thôi. Trong khi ấy thì đại-huynh khéo thác rằng thua bạc mà hỏi vay tiền trả nợ. Nói rằng tiền lưng đã cạn, lại trót đánh chịch với kẻ không quen, thua nhiều tiền quá, nhờ gã cho vay mà trả. Đại-huynh nhờ việc ấy thì tất gã phải về nhà chính mà lấy bạc cho vay, hoặc phải đưa đại-huynh đi về nơi để bạc mà lấy đưa cho. Trong bấy nhiêu thời-khắc thì tiểu-đệ quyết đã xong được việc rồi.

T… công-tử y như lời tôi mà làm. Tôi đưa bạn đến một tiệm rượu, giục bạn viết thư sai người đem ngay đi, rồi tôi đến rình ở xế cửa nhà lầu. Người vừa đem thư vào thì Mỗ Mỗ sinh cùng một tên người ở đi ra. Tôi chờ cho gã đi xa một chút, rồi tôi tiến đến trước cửa nhà lầu. Tuy lúc ấy cơn giận tôi đương nổi dữ mà tôi cũng nén được lòng, tôi sẽ nhón tay gượng-dẹ mà gõ vào cánh cửa, như thể gõ cửa đền-đài nào vậy. Cũng may sao đứa ra mở cửa lại là gã Mạc-xen. Tôi sẽ ra hiệu bảo nó đừng nói chi hết. Khi tôi chắc rằng không phải sợ những đứa ở kia gì hết, thì tôi bảo nó đưa tôi vào đến phòng cô, mà đừng để cho ai trong nhà nom thấy. Gã nói rằng việc rất dễ, cứ sẽ bước trèo qua thang lớn, thì đến tận phòng.

Tôi rằng:

- Nếu vậy thì con đưa thầy lên mau. Mà trong khi thầy ở trong phòng cô, con khá trông-nom đừng cho người nào lên cả.

Nói đoạn, tôi trèo lên thang, vào đến tận phòng Mai-nương mà không có điều chi hãn-trở hết.

Mai-nương khi ấy đương ngồi đọc sách. Đó lại là một việc làm cho tôi biết thêm cái tính nàng một chút nữa. Nàng nom thấy tôi vào, nàng chẳng giật mình, chẳng sợ-hãi, mà cũng chẳng thẹn-thùng gì với tôi cả, duy chỉ thốt-nhiên một thí bởi đương nghĩ tôi xa, bỗng lại thấy gần mà thôi, Nàng rằng:

- À tình-lang đó ư?

Reo lên một câu như thế, rồi nàng chạy ra hôn tôi một cách âu-yếm thường vậy.

- Trời ơi! mình táo-tợn chưa! Tôi nào dám mong thấy mặt mình hôm nay ở nơi này nữa.

Tôi giằng tay nàng ra. Tôi đã chẳng đáp lại những cách âu-yếm của nàng thì chớ, tôi lại còn lấy cách khinh-bỉ mà đẩy mạnh nàng ra, rồi tôi lùi hai ba bước. Nàng thấy vậy thì nàng ngẩn-ngơ ra, nàng đứng sừng-sững đó, chứ không đuổi theo tôi nữa, rồi tái mặt đi mà nhìn tôi.

Kỳ trung tôi được nom thấy mặt nàng, tôi đã sướng mê đi rồi, tuy trong lòng tôi chứa biết bao nhiêu cớ nên giận, mà tôi cũng không nỡ mở miệng ra nhiếc mắng nàng được câu gì cả. Tuy nhiên, tôi nghe trong lòng tôi như ứa máu vì những nỗi nàng làm cho tôi đê-nhục. Tôi cố chí nhớ ra cho hết những nỗi ấy, để làm cho được mặt giận; hai con mắt thì tôi cố làm cho nẩy ra một thứ lửa khác lửa-tình. Tôi đứng lặng im như thế một hồi lâu, mà nàng nhìn tôi cũng biết trong dạ tôi đương bồi-hồi căm-tức, nàng bèn sợ-hãi mà run lên lẩy-bẩy.

Tôi thấy thế thì tôi không thể cầm lòng được nữa, tôi bèn dịu giọng lại mà rằng:

- Mai-nương ơi! Hỡi hỡi Mai-nương bội-bạc! Ta đương không biết trách Mai-nương câu gì trước đây. Mình ơi! sao mình tái mặt đi mà run lên thế kia? Tôi muốn mắng mình quá, mà lại e làm cho mình buồn-rầu, mình buồn-rầu thì tôi cũng buồn-rầu lo-ngại. Nhưng mà, mình ơi! tôi nói cho mình biết, mình ăn ở với tôi như thế, thật là mình đâm vào gan ruột tôi đó. Mình ơi! không chí giết nhau, thì không có ai chơi khăm nhau những miếng cay-độc như thế, mình ạ. Lần này là lần thứ ba, tôi đếm rành-rành trong cật dạ, đời đời tôi nhớ mãi chẳng bao quên. Bây giờ thì tôi xin mình định quyết một đường nào, quyết định ngay đi, kẻo nữa tôi đau-xót đến nước này là hết nước, không còn thể sao chịu đau được nữa. Tôi nghe trong mình thấy đứt ra từng khúc ruột, thấy tim khô, gan héo mất cả rồi. Tôi không thể sao chịu cực với mình được nữa. (Vừa nói thế, tôi vừa ngồi phịch xuống cái ghế). Tôi chỉ vừa sức nói ra hơi và đứng được vững mà thôi.

Nàng không trả lời tôi câu nào hết. Nhưng khi tôi đã ngồi rồi, nàng quì ngay gối xuống bên tôi cúi đầu xuống gối tôi, hai tay bưng lấy mặt. Một lát tôi thấy nước mắt nàng tuôn ra ướt đầm hai gối tôi. Trời ơi! lúc ấy thì trong bụng tôi bồi-hồi không biết thế nào mà kể nữa. Tôi thở dài mà rằng:

- Mình ơi, mình ơi, bây giờ mình khóc cũng đã chầy, vì mình đã giết tôi rồi. Thôi thì lòng mình có vì tôi mà buồn-bực gì đâu, sao mình lại khóc than như thế? Có lẽ đương lúc này cái mối đau lòng cho mình nhứt là cái mặt tôi đem đến trước mình đây. Ngẫm ra không bao giờ tôi có được là cái người mình muốn gặp, chẳng qua tôi chỉ là một thằng quấy-rối làm cho lỡ mất cuộc vui của mình mà thôi. Xin mình mở mắt ra nhìn xem tôi là người thế nào đã. Ai đâu đã bội nhau đến nước như thế, đã nỡ lòng mà bỏ nhau như thế, mà lại còn than khóc như thể thương-tiếc nhau vậy?

Nàng ôm hai tay tôi mà hôn, nhưng vẫn quì mà không nói-năng chi hết. Tôi lại rằng:

- Hỡi Mai-nương hay thay đen đổi trắng, vô-tín chi nhứt phụ-nhân! những lời chỉ non thề bể với ta, nay để vô đâu mất cả? Hỡi gái lẳng-lơ kia, cái tình yêu-mến mi hẹn với ta biết mấy mươi lần, tận sáng hôm nay, mi hãy còn với ta thề-thốt, bây giờ mi đã vứt đâu rồi? Trời cao đất dầy ơi! có lẽ đâu lại để cho một con đàn-bà nó cợt ta như thế! Vậy chẳng ra đứa bội-bạc thì trời lại thưởng, kẻ thủy-chung thì bị sầu-khổ hay sao?

Tôi nói đoạn mấy lời thảm-thiết đó rồi, tôi nghĩ mà cay-đắng, không sao cầm được giọt lệ. Mai-nương nghe tiếng nói tôi, biết tình như thế, bèn rầu-rĩ mà thưa:

- Chàng ơi! vậy ra tội thiếp rất to, mới đến nỗi để chàng xót-xa ngậm-ngùi dường ấy. Nhưng thiếp thề rằng thiếp thật oan tình, nếu thiếp có biết tội mà làm nên tội thì trời hại thiếp.

Tôi cho câu nói đó thật là vô-nghĩa mà không thành-thực một chút nào cả, tôi bèn nổi giận đùng-đùng mà quát mắng:

- Mày là một gái điêu-ngoan có một. Bây giờ tao mới biết mày là một đứa lòng chim dạ cá như vậy. Giờ tao mới biết cái tính đê-mạt của mày. (Rồi tôi lại đứng dậy mà rằng): Thôi thì từ đây tao với mày chừa mặt nhau ra, hỡi đồ vô-liêm-sỉ! Thà rằng tao chết đi chết lại nghìn lần, cũng còn hơn là lại giao-thiệp với mày nữa. Tao cũng thề rằng hễ từ nay tao còn nhìn mày nữa thì trời hại tao. Thôi thì mày cứ việc ở với thằng nhân-ngãi mới của mày. Dầu mày yêu nó hay ghét nó, mày mặt dạn mày dầy, mày làm điều cuồng-dại thế nào, tao cũng mặc mày, tao chỉ cười mà thôi.

Nàng thấy tôi nổi hung lên như thế thì nàng thất-đảm. Tôi đã đứng lên mà nàng vẫn còn quì gối, ngước mắt nhìn tôi sỉ-mạ, mình-mẩy thì run cầm-cập, sợ không dám thở nữa. Tôi còn đi vài bước nữa ra phía cửa, vừa đi vừa quay đầu trở vào, mà giương mắt nhìn nàng chòng-chọc. Nhưng mà con người bấy nhiêu vẻ đẹp, trong cơn kinh-hãi lại đẹp thêm ra, thì phỏng tôi lòng lim dạ sắt nào lại không cảm-động?

Khi ấy tôi nom thấy nàng sợ tôi đến biến sắc đi như thế, thì tôi không thể nào cầm lòng được nữa, đương giận-dữ hóa ra thương-mến; tôi chẳng suy-tính gì nữa, quay ngay trở lại mà ôm lấy nàng, mà hôn-hít đến trăm nghìn cái, và lạy mà xin nàng tha lỗi cho tôi trót lỡ nóng xằng. Tôi quì xuống mà tự xưng là đồ vũ-phu thô-tục, chẳng đáng người quốc-sắc thiên-hương yêu đến một mẩy-may nào.

Tôi lại đặt nàng ngồi xuống ghế, rồi tối quì xuống mà lạy nàng, xin nàng cho phép tôi cúi lậy như thế, mà kêu-van nàng cho đáng tội. Khi tôi đã quì xuống rồi, thì bao nhiêu những lỗi, những cách quị-lụy của đứa đàn-ông đã mê-mẩn ở dưới quyền một con đàn-bà có thể nghĩ đến mà lạy nó, đều đem ra mà gói hết ở trong mấy lời xin lỗi. Tôi khấn nàng như là khấn một vị thần thiêng, cắn rơm cắn cỏ mà kêu cho lấy được một lời ban-bảo rằng tha cho đó. Nàng không phải là đứa tàn-ác, mà để cho kẻ nam-nhi quá ư đê-hạ trước mình, cho nên nàng nom thấy tôi như thế, thì nàng ôm ngay lấy cổ tôi, mà nói rằng tội-nhân là nàng, mà người có quyền tha-thứ là tôi. Nàng thú nhận rằng bởi lầm-lỗi đã để cho tôi mang tủi đeo sầu, rồi nàng van lạy xin tôi lấy lượng hải-hà mà quên đi cho. Nàng đã sợ nói ra cho hết lẽ bởi sao mà ở ăn dường ấy, thì tôi nghe lại càng thêm giận, cho nên nàng cũng lúng-búng cho xuôi một vài lời mà thôi. Vả tôi thấy nàng có ý muốn nói cho xuôi tội như thế thì tôi lại sợ nàng phiền, tôi liền can rằng:

- Tôi nào dám trách tội mình mà mình tìm lẽ làm chi cho tổn trí-khôn. Mình ơi, mình làm những sự gì, tôi không dám hỏi lẽ mình nữa, tôi tình-nguyện từ đây nhắm mắt bịt tai mà cho hết các công-việc của mình làm là phải cả. Tôi nào dám bẻ-bai mình, quí hồ mình yêu tôi, mình hạ cố thương tôi là tôi đủ sướng thôi mà. Nhưng hỡi hỡi Mai-nương cầm quyền sinh-sát ta ơi! Hỡi hỡi Mai-nương có quyền tự ý mà cho ta được sướng, được khổ! Mai-nương khi đã thấy ta hối quá rồi, khi đã nhìn ta liếm đất gặm chân ghế mà van lạy cho Mai-nương thỏa lòng thế này rồi, cũng tưởng nên cho phép ta giãi bày cái cảnh ta xót-xa sầu-khổ một đôi lời. Mình ơi, ngày hôm nay mình định phận cho tôi làm sao đây? Cho tôi được sống hay là phải chết đây? Đêm nay mình định kết cái án xử-tử tôi mà ngủ trong cái nhã này với gã Mỗ Mỗ hay sao đây? Xin mình cũng phán-bảo cho tôi một lời để tôi đành dạ.

Tôi nói thế thì nàng nghĩ-ngợi hồi lâu, rồi mới khoan-hòa mà đáp rằng:

- Vũ-sĩ rất yêu-mến của thiếp ơi, ví nếu vũ-sĩ nói rõ ngay từ trước cho thiếp ý tình như thế, thì có phải ta đã kiêng cho nhau được bao nhiêu nỗi bồi-hồi cho chàng, xót-xa cho thiếp. Ví nếu thiếp được hay rằng lòng đấy cả ghen như thế, thì dầu chàng bảo ngay thiếp phải đi theo cho đến cuối đất đầu trời thiếp cũng xin theo. Thiếp vẫn tưởng chàng căm giận thiếp là vì cái thư kia là thư của chàng Mỗ Mỗ đọc cho thiếp viết, vì người con-gái gã sai ra an-ủy cho chàng. Thiếp ngờ rằng chàng coi thư ấy như một cách khinh chàng bỡn-cợt, và coi đứa con-gái ấy là một người của thiếp sai ra để thế-vị cho thiếp, để thiếp từ đây ở hẳn với tân-lang. Ấy thiếp nghĩ như thế mà rầu lòng, mà ân-hận, bởi vì thiếp cũng biết rằng lòng này dầu băng-tuyết, cách kia nếu là tại thiếp thì thật là tệ với lang-quân. Ai biết đâu chàng lại vì ghen nên nổi trận lôi-đình, chứ không phải chấp chi điều nô-dỡn. Chàng ơi, thiếp xin chàng hãy thử làm quan tư-pháp mà xét ra cho thiếp cái án này. Chắc rằng khi chàng đã rõ tình đầu là thế, thì chàng cũng phải công-nhận cho tình thiếp là oan.

Nàng bèn kể chuyện lại cho tôi nghe từ lúc mới ra kinh-thành, đến chỗ nhà lầu dọn sẵn, Mỗ Mỗ sinh đón rước làm sao. Quả thị lễ hoan-nghênh đà trân-trọng, nào là đưa dắt đi xem tất cả các phòng từng trên từng dưới đâu đó trang-hoàng lịch-sự. Rồi đếm cho ngay một vạn phật-lăng, lại thêm mấy món quà trân-bảo, nào là vòng-ngọc, nào là xuyến hạt-châu, chính những đồ của cha gã đã cho thuở trước. Rồi lại đưa sang phòng ăn, tiệc bày đã sẵn la-liệt những trân-cam mỹ-vị, đứa ở trong nhà hầu-hạ thì đã khéo dạy vào khuôn-phép, trình, thưa, vâng, dạ đến điều, một bẩm bà, hai bẩm bà, thói cách đãi người sang-trọng, chứ không mẩy-may rẻ-rúng. Sau lại đưa ra xem xe, xem ngựa, giao cho mà nhận lấy đủ các thứ đã hẹn cùng nàng. Rồi rủ đánh một ván bài lá để đợi giờ vào tiệc.

- Thiếp thú thật rằng thiếp nom thấy bấy nhiêu thứ thì mắt cũng hơi hoa. Thiếp nghĩ rằng nếu vội bỏ ra đi lấy một muôn phật-lăng, chiếc vòng đôi xuyến, thì chẳng hóa thiệt-thòi bao nhiêu của đáng tiền. Mà của ấy giá thiếp với chàng cùng hưởng, thì có phải sẵn-sàng một cơ-nghiệp lớn, không mất một giọt mồ-hôi mà có. Bởi thế cho nên thiếp biếng hẳn cái mưu rủ chàng đi coi hát, mà cố ngồi dò ý-tứ xem đối với lang-quân chàng định xử làm sao? Nguyên thiếp thấy chàng dễ-dãi, thiếp có nghĩ một mưu này, xin nói để lang-quân nghe xem thiếp lo-toan khéo vụng? Số là trong khi nói chuyện, gã có hỏi qua tình thiếp cùng lang-quân thế nào, bỏ lang-quân mà đi như thế, trong lòng có tiếc nhớ gì chăng? Thiếp mới đáp rằng con người như lang-quân, hảo-tâm có một, quảng-đại không hai, bấy lâu tựa bóng nương-nhờ, lòng nào chẳng mến. Tôi nói thế, thì gã lại khen lang-quân là người đáng phục, gã xưa nay cũng muốn cầu thân. Gã mới hỏi thiếp chẳng biết khi lang-quân biết rõ sự tình thì lang-quân khu-xử ra làm sao? Thiếp nói rằng đôi ta là nghĩa cũ-càng, lâu ngày lửa yêu cũng đà lạnh-lẽo. Vả lang-quân đương lúc cơn đen vận túng, có lẽ bỗng thấy uyên bay đâu mất, cũng không coi là một nạn to, mà lại nhẹ một vai gánh vác. Thiếp lại khoe hộ cho chàng tính-nết hiền từ, chắc hẳn dầu làm sao cũng không đến chuyện bộc-thi lưu-huyết mà lo. Sau này lang-quân bằng gặp mặt có hỏi-han đến tội bỏ nhà, thì thiếp sẽ bảo khéo kiếm cớ nói rằng hôm ấy nhân ra Ba-lê mua bán, trước khi đi cũng đã hỏi lang-quân cho phép hẳn-hoi. Thiếp nói vậy thì gã bảo rằng:

- Ví nếu chắc rằng tính-nết con người dễ-dãi như thế, thì ta đây cũng chẳng hẹp gì xin giúp ngay chàng một việc.

- Thiếp đáp rằng cứ như bụng dạ lang-quân thì thiếp chắc nếu chàng sẵn giúp, lang-quân hẳn cũng chịu ân, nhứt là những việc làm ăn sinh-lý, vì từ khi lang-quân đeo tội với nghiêm-đường, tiền nong lúc nào cũng hơi túng-bấn.

Chàng lại nguyện rằng xin tất tâm giúp được việc cho lang-quân. Mà ví nếu lang quân có tình muốn kiếm gái khác để thế chân cho thiếp trong sự yêu-đương, gã cũng sẵn nhường cho một cô nhân-ngãi cũ rất xinh rất đẹp, chỉ vì thiếp mà gã mới bỏ buông tay. Thiếp vội vỗ tay khen kế ấy, cho gã khỏi nghi-ngờ chi cả. Từ lúc đó thiếp lại càng quyết chí dùng mưu khéo nọ. Thiếp những mong được dịp thông-tin cho lang-quân biết, kẻo nữa để lang-quân chờ đợi lâu chẳng thấy thiếp ra nơi hẹn, lang-quân có lo-ngại gì chăng. Bởi vậy mà thiếp bàn với Mỗ Mỗ sinh sai ngay người gái tốt đi ngay tối hôm nay ra đầu đường Thánh An-đê-rê tìm lang-quân. Ý thiếp bàn ra việc ấy là chỉ mong được lấy phương nhắn tin cho lang-quân biết. Thiếp phải dùng đến kế ấy là bởi thiếp biết rằng gã ấy giữ thiếp như sơn, không để dời ra một phút. Khi thiếp bàn như thế thì gã tức cười, liền kêu đứa ở sai đi kiếm cho được người nhân-ngãi cũ. Trước gã còn toan cho ả đến tận nhà ta ở ấp Say-dô. Sau thiếp phải bảo thật rằng trước khi đi thiếp có hẹn với lang-quân tối nay gặp nhau tại nhà hát-bội, bằng lang-quân tìm thiếp tại rạp hát mà không thấy thì lang-quân đem xe đến chờ ở nơi đầu đường. Như vậy thì nên cho người gái đẹp đến tìm ở đó, dẫu chưa được việc gì, cũng được điều không để cho lang-quân chờ đợi suốt đêm. Tôi lại gạn với gã để cho tôi viết một phong-thư nói cho hay việc trao đổi là thế, nếu không thì chắc lang-quân khó hiểu sự-tình. Gã chịu để cho thiếp viết thư, nhưng lại bắt thiếp phải viết thư ngay trước mặt. Cho nên trong thư thiếp định viết một đường mà sau ra một nẻo, để cho lang-quân không hiểu nghĩa làm sao. Lang quân ơi, ấy việc đầu-đuôi như thế. Cách thiếp ăn ở với lang-quân là thế, mưu kế thiếp lo-toan là thế, không dám giấu-giếm một li nào cả. Sau người con-gái đến, thiếp thấy người cũng xinh cũng đẹp, mà thiếp lại nghĩ rằng lang-quân chờ đợi thiếp trong bấy giờ lâu, ắt hẳn cũng buồn-rầu đôi chút, vậy thiếp thật tình mà mong rằng người ấy cũng có lẽ giải-muộn được cho lang-quân trong một vài giờ. Thiếp nghĩ như thế là bởi lòng thiếp nghĩ đôi ta yêu-mến nhau, chữ trinh là ở chỗ ý-tình, chứ không ở đâu ngoài da thịt. Thiếp cũng đã muốn kiếm cách sai thằng Mạc-xen ra thưa lại với lang-quân, ngặt từ khi thiếp đến nhà lầu, chưa được lúc nào nói chuyện riêng với đứa ở của mình mà giảng-giải cho nó biết hết ý.

Sau nàng kết câu chuyện mà rằng khi Mỗ Mỗ sinh bắt được thư của T… công-tử, thì lưỡng-lự không biết quyết bề nào. Đã toan mặc bạn không đi. Sau nghĩ thế nào lại miễn-cưỡng đứng dậy, hẹn thiếp rằng một lát sẽ về. Bởi vậy mà khi thiếp mới thấy lang-quân vào đây, thiếp đã lo-sợ mà lại giật mình.

Tôi cố bấm gan mà nghe nàng nói cho hết câu chuyện. Trong bấy nhiêu điều thì lắm điều thật là cay-độc, thật là chua-chát cho tôi. Cái chí nàng đêm ấy quyết lòng thất-tiết với tôi, thì đã rõ ra mồn-một, nàng biết vậy cho nên cũng chẳng buồn che đậy nữa. Chẳng lẽ trong suốt một đêm hôm ấy, gã kia lại để mà thờ hay sao? Vậy thì cái chí thất-tiết là quyết có. Trời ơi! câu nói thật nào đau lòng cho một gã nam-nhi yêu nhân-ngãi hơn là câu nói thật ấy! Tuy nhiên tôi cũng nghĩ lại rằng tôi có một phần trách-nhiệm trong cái lỗi của nàng. Nếu tôi không đi nói ngỏ cho nàng biết tình ý gã kia say-mê nàng như thế; đến khi nàng biết rồi, nếu tôi không rồ-dại mà đồng tình với nàng trong cái việc phản-trắc mạo-hiểm ấy thì đâu có đến nỗi làm vậy. Vả tôi bẩm-sinh lại có một tính rất đặc-biệt, thấy nàng thật-thà quá đỗi, dửng dưng mà nói thật cho tôi nghe những câu xót ruột tím gan cho tôi như thế, thì tôi đã không giận mà lại thêm thương, bụng bảo dạ con này vô tình mà nên tội; đàn-bà nhẹ dạ mà chẳng biết nghĩ xa, nhưng được cái trực, cái thành nó chuộc lại cả. Vả nữa một cái thương-yêu nó đủ làm cho tôi đui-điếc, dẫu thấy nàng làm điều xằng cũng nể nàng mà nhắm mắt. Tôi những chắc rằng đêm hôm ấy quyết là hớt cẳng được gã kia cũng đã đủ thỏa rồi. Tuy vậy, tôi cũng hỏi gặng nàng một câu:

- Thế thì đêm nay, mình định ngủ với ai?

Câu hỏi ấy tôi buồn-rầu mà nói, khiến cho nàng lúng-túng chẳng biết đáp làm sao. Nàng bập-bẹ mấy câu: nhưng mà thế này, nhưng mà thế nọ. Nếu thế này, nếu thế kia, rồi tịt mất.

Tôi thấy nàng ngắc-ngứ, tôi cũng thương tình. Rồi tôi không để nàng nói lôi-thôi chi nữa, tôi lên giọng nghiêm-khắc mà bảo nàng rằng: phải đi theo tôi tức-khắc. Nàng rằng:

- Mình dạy thế, tôi xin vâng ngay. Nhưng thế là mình không đắt mưu của tôi nữa đó à?

- Thôi, tôi tưởng đến thế cũng là tôi chiều mình quá rồi. Từ trước đến giờ tôi đã y hết mọi việc mình làm, là đủ rồi. Từ giờ mà đi thì thôi.

- Thế nào! chỗ một vạn phật-lăng của gã cho tôi, mình cũng không để tôi lấy hay sao? Tiền ấy gã cho tôi rồi, là kỉ-vật của tôi rồi, sao tội lại bỏ?

- Tôi khuyên nàng vứt mẹ cả nó đó mà cùng tôi đi ra cho chóng. Tuy tôi vào đó mới được độ nửa giờ, mà tôi đã lo Mỗ Mỗ sinh về thì lỡ cả. Sau nàng nằn-nì mãi, cứ đòi bỏ cho đẫy túi hãy ra, tôi nghĩ mình bắt nàng phải theo mình được đến thế cũng là may rồi, thôi thì chiều một câu ấy nữa.

Trong lúc nàng sắp-sửa để đi ra, thì bỗng tôi nghe tiếng người gõ cửa. Tôi đã chắc là chàng Mỗ Mỗ trở về. Tôi luống-cuống lên mà thét bảo Mai-nương hễ gã bước vào là có một người mất mạng. Mà lúc bấy giờ tôi còn giận lắm thật, giả-sử Mỗ Mỗ sinh về thì chắc là tôi giết chết. May sao gã Mạc-xen chạy ngay vào mà đưa cho tôi một phong-thư của T… công-tử khiến cho tôi đương giận mà nguôi.

Trong thư ấy bạn báo cho tôi biết rằng chàng Mỗ Mỗ đã mắc mưu lừa-dối hiện đương đi về nhà chính lấy tiền. Trong khi đợi chàng trở lại, thì bạn có nghĩ ra một trò cười nhỏ. Báo thù kẻ cướp vợ mình, không gì cho bằng sẵn tiệc gian-phu bầy đó, cùng nàng thưởng bữa no say; sẵn giường thất-biểu vừa kê, cùng nàng ngủ kĩ cho đến sáng bạch. Muốn toan xong mưu ấy, bạn tưởng cũng không khó gì, quí hồ tìm ngay ba bốn người lực-lưỡng đón đường bắt lấy Mỗ Mỗ sinh, đem giữ một nơi cho đến sáng hãy tha về. Về phần bạn thì bạn xin cố giữ cho Mỗ Mỗ sinh ở nhà bạn ít ra trong một giờ nữa.

Tôi giơ thư ấy cho Mai-nương coi, luôn thể tôi thuật lại cho nàng biết cái mưu tôi dùng để vào với nàng cho lọt. Nàng năc-nỏm khen tôi với T… công-tử hai người cùng giỏi. Tôi cũng cười dài với nàng một lát. Còn như cái kế sau cùng của T… công-tử bàn với tôi trong thư đó, thì tôi cũng coi như một câu nói bỡn mà thôi, không ngờ nàng bắt ngay lấy mà van lạy tôi bảo tôi nhứt định thi-hành đi thì thú cho nàng quá. Tôi can nàng mà nói rằng tối đêm đi đâu tìm ngay cho được ba bốn tay lực-lưỡng để mà đón đường bắt Mỗ Mỗ sinh, giữ lại một nơi cho chặt bây giờ? Nàng lại biện lẽ với tôi rằng T… công-tử đoan với mình giữ được Mỗ Mỗ sinh trong những một giờ đồng-hồ nữa. Trong giờ ấy thì đi tìm đâu không được mấy người khỏe-mạnh. Còn những lời khác tôi biện ra để khuyên ngăn, thì nàng một mực cãi rằng tôi áp-chế quá, không chiều nể nàng một thí gì cả. Cứ một câu nàng nói đi nói lại mãi.

- Tiệc nó mình xơi, giường nó mình ngủ, sáng mai phỗng cả tình-nương và bạc nó mà đi. Như thế có phải thù cha, thù con, hai đường cùng trả được, sao chàng lại còn lưỡng-lự?

Tuy trong tâm-linh tôi như đã có thần-minh mật-báo cho biết rằng việc ấy quyết rồi kết-quả chẳng lành, vậy mà tôi thấy nàng nằn-nì mãi, sau tôi cũng phải chiều. Tôi bèn từ-giã nàng một lát mà đi tìm mấy người thị-vệ quen của gã Lệ-cốt khi xưa, để ủy-thác cho họ cái việc bắt giam Mỗ Mỗ sinh một chỗ. Tôi đi tìm mấy người chỉ thấy có một người ở nhà, nhưng gã ấy thật là tay quả-quyết. Thoạt nghe qua câu chuyện đã đoan với tôi việc tất phải xong, chỉ xin có mười bích-tôn để đãi anh em bữa rượu. Tôi giục hắn làm ngay kẻo trễ. Chỉ trong một khắc đồng-hồ hắn đã gọi được đủ người. Tôi ngồi chờ ở nhà hắn. Khi hắn đem được mấy người bạn về, tôi thân-hành dẫn bọn ấy đến phục ở đầu đường chỗ gần nhà chàng Mỗ Mỗ để Mai-nương. Tôi khẩn-khoản xin với họ đừng có làm điều gì nhục-nhã đau-đớn Mỗ Mỗ sinh, chỉ bắt chàng đem một nơi mà giữ kĩ đến bảy giờ sáng mới thả ra cho về mà thôi. Người đầu đảng tình-nguyện với tôi xin bắt được chàng Mỗ Mỗ đem về để ở phòng mình, bắt cởi quần áo ra, lên giường trùm mền nằm cho đến sáng trong khi chàng nằm thì mấy anh em mua rượu về uống và đánh bài với nhau để thức mà canh cho đến sáng.

Tôi đứng với họ kì cho đến lúc tôi nom thấy Mỗ Mỗ sinh về. Tôi hồ thấy hút chàng thì tôi đứng nấp vào một xó tối để ngoạn cái cảnh lạ-lùng đó. Người thị-vệ cầm súng vắn mà ra đón chàng kia, lấy lời phép-tắc ngọt-ngào mà nói rằng không muốn hại đến mạng người mà cũng không muốn lấy của, chỉ bắt về nhà chơi một đêm mà thôi, nhưng hễ không chịu đi theo lại kháng-cự hoặc kêu lên thì thế tất phải bắn vỡ đầu. Mỗ Mỗ sinh thấy gã cầm súng, sau lưng lại còn có ba người nữa, bèn đi theo liền, không dám nói-năng gì cả, tôi đứng đàng xa nom thấy chúng dắt anh ta đi như dắt con cừu như thế, tôi cũng phải tức cười.

Việc xong tôi cũng tức-khắc chạy về với Mai-nương. Lần này, thì tôi đường-hoàng gọi tất cả người hầu trong nhà mà bảo tối nay ông chủ có việc gấp không thể về được, mời tôi lại ăn cơm tối với nàng Mai-nương, đến mai ông chủ mới về. Nàng lại khéo giúp tôi trong việc khí trá đó nữa, thì quân hầu không nghi-ngờ gì cả. Hai chúng tôi ngồi vào bàn ăn. Còn người nhà đứng hầu cơm đó thì chúng tôi làm ra mặt chủ khách nghiêm-trang lắm. Khi chúng đã dọn bàn đi rồi, thì chúng tôi qua một tối rất vui-vẻ với nhau ở trong một cái phòng khách rất lịch-sự. Tôi sẽ bảo gã Mạc-xen đi thuê lấy một cỗ xe, đúng sáu giờ sáng thì đem xe đến chờ trước cửa. Độ chừng nửa đêm thì tôi tảng xin kiếu bà chủ mà ra về, nhưng tôi ra đến cửa thì gã Mạc-xen tảng lờ mở cửa ra rồi lại đóng cửa lại, tôi vẫn đứng trong nhà, rồi gã lại đưa tôi vào phòng với Mai-nương.

Trong khi ấy thì Họa-thần của chúng tôi đương làm hại chúng tôi. Thì ra chúng tôi sướng rên sướng rú với nhau mà trên đầu vẫn có thanh gươm treo lủng-lẳng. Sợi dây treo gươm ấy sắp đứt mà mình không biết.

Số là Mỗ Mỗ sinh đi đến nhà T… công-tử có đem một tên đầy-tớ theo sau. Khi bọn thị-vệ bắt chủ thì quên không bắt tên đầy-tớ. Tên ấy thấy chủ như thế thì sợ cuống-cuồng lên, vội chạy ngay về trình với cụ thân-sinh ra chủ.

Lão phú-ông nghe nói rụng-rời. Vốn phú-ông chỉ sinh ra được có một mống ấy mà thôi. Tuổi tuy còn trẻ mà đã ăn chơi quá đỗi. Trước hết cụ tra hỏi tên người nhà xem chiều hôm ấy cậu làm những việc gì? Cậu có cãi nhau với ai chăng? Cậu có can-thiệp vào đám cãi nhau của ai chăng? Cậu có vào nơi nào khả nghi chăng? Tên đầy-tớ tưởng thầy gặp cơn nguy-hiểm lắm, bèn dùng hết chước mà cầu-cứu cho chủ, không dám giấu-giếm điều gì cả, nào chuyện cậu phải lòng cô Mai-nương, chuyên cậu đi dọn nhà lầu cho cô Mai-nương ở, sắm đồ sắm vàng ngọc cho cô thế nào, cho cô bao nhiêu bạc, nó phun ra hết. Chiều hôm ấy cậu đón gái về nhà riêng thế nào, trò-chuyện với gái những làm sao, đến độ chín giờ có thư bạn đến mời đi đâu, cậu ra cậu đi những chỗ nào, về đến chỗ nào thì bị chúng bắt, tơ-tóc thằng bé đem ra trình cụ cả. Bấy nhiêu lẽ đủ làm cho phú-ông đoán chắc chuyện này là chuyện ghen-tuông. Tuy rằng khi cụ nghe ra hết chuyện, cũng đã mười giờ rưỡi đêm rồi, mà cụ cũng tất-tả đi xe đến dinh quan chánh Cảnh-sát. Cụ xin ngài tức-khắc hạ lệnh truyền cho các đội các ngũ đi tuần đêm ấy, rồi cụ lại xin riêng một ngũ, để đi theo cụ đến chỗ đầu đường mà lệnh-lang phải bắt. Cụ đi lùng hết cả các nơi khả-nghi rằng có con ta ở đó. Tìm mãi không thấy tăm hơi đâu cả, cụ mới bảo thằng người nhà đưa đến chỗ nhà lầu, những mong con đã trở về chốn ấy.

Giữa lúc tôi cùng nàng sắp đi ngủ thì họ kéo vào. Cửa buồng thì đóng kín quá, thành ra lúc họ gọi cửa ngoài đường, tôi với nàng cùng không biết cả. Sau Mỗ Mỗ phú-ông cùng với hai tên cung-thủ đi vào. Hỏi người nhà chê-chán con ta ở đâu mà không đứa nào biết cả. Cụ bèn đòi cô nhân-ngãi của con ra hỏi, họa may có biết gì không? Cụ mới sồng-sộc lên lầu, đến tận phòng ngủ mà mở toang ra, làm cho chúng tôi tự dưng nom thấy người mà hết vía. Tôi bảo Mai-nương:

- Trời ơi! chính Mỗ Mỗ lão phú-ông đó nọ.

Nói đoạn, tôi nhảy tót ra, để nhặt thanh gươm, chẳng may thanh gươm lúc ấy mắc vào bộ dây lưng, tôi kéo mãi ra không được. Hai tên cung-thủ nhảy xổ ngay lại mà giằng lấy. Một người bận áo ngủ là một người không có thế-lực cự lại được với ai cả, chúng bèn nhân đó mà làm cho tôi hết cách giữ mình.

Lão phú-ông tuy bối-rối mà cũng nhận ngay được mặt tôi. Mai-nương thì lão nhận mặt lại càng dễ lắm. Lão bèn lên giọng nghiêm-khắc mà rằng:

- Chẳng hay ta hoa mắt hay là chính-thị Đê-ghi-ri-ơ vũ-sĩ với nàng Mai-nương Lệ-cốt đây này?

Tôi vừa hổ-thẹn, vừa đau-đớn, trong lòng căm-tức không nói ra lời mà đáp lại. Trong khi tôi còn ngẩn-ngơ thì lão phú-ông hình như nghĩ-ngợi trong đầu những điều gì, rồi nổi giận lớn lên mà thét bảo tôi rằng:

- À! thằng đồ khốn này! ta chắc mi đã giết chết mất con ta rồi!

Lời sỉ-mạ ấy, làm cho tôi tức khí lên mà đáp:

- Thằng bất-nhân già kia, ví tao mà có giết ai trong nhà mày, thì tao giết mày trước, chứ tao không giết con mày.

Lão lại bảo những quân cung-thủ:

- Các anh giữ lấy nó cho chặt. Nó làm gì con tôi, nó phải nói cho tôi biết. Nếu nó không nói ngay thì đến mai tôi làm cho người ta treo cổ nó lên.

- Mày bảo được ai treo cổ tao à [des Grieux là quý tộc nên theo luật không treo cổ được], thằng đê-mạt kia? Duy có những giống như giống mày mới phải chịu giảo hình. Mày phải biết cái máu chảy trong da tao là một thứ máu sang-trọng, tĩnh-khiết hơn máu nhà mày. Hễ mày còn xấc với tao nữa, thì tao sai người bóp cổ cho con mày chết trước khi tới sáng ngày. Rồi sau tao cũng giết mày như thế nốt.

Tôi nói thật với lão rằng tôi biết con lão ở đâu như thế, thật là khờ dại. Nhưng tôi giận quá, không thể sao giữ miệng được kín. Lão bèn gọi nốt năm sáu tên cung-thủ nữa vào, rồi lão truyền trong nhà có bao nhiêu đứa ở phải bắt hết. Đoạn rồi lão khủng-khỉnh cười nhạt mà rằng:

- À! à! ông vũ-sĩ, ra ông biết con tôi ở đâu. Mà ông lại đe từ giờ đến sáng mai thì ông sai người bóp cổ nó. Ông phải biết ông đã nói thế, thì chúng tôi phải liệu, chứ ai lại có để ông tự-tiện mà làm.

Nói thế rồi lão lại ghé đến gần Mai-nương, khi ấy đang ngồi khóc trên giường, lão mỉa-mai nàng mấy câu đau-đớn, khen cho tài gái không vừa, một đôi má phấn đã chuyển động đến cả cha con, mà gớm cho gan đàn-bà cũng đã tợn tính. Thằng quỉ già lúc ấy lại còn toan trêu ghẹo nàng những cách lẳng-lơ, tôi liền thét:

- Này này tao bảo trước, mi chớ có đụng đến nàng, nếu tao bảo không nghe thì sau này không có trời nào cứu cho mi sống nữa.

Lão đi ra, để lại ba tên cung-thủ trong phòng để bắt tôi với nàng mặc quần áo vào cho chóng, lúc ấy tôi chưa biết lão định làm gì chúng tôi. Có lẽ bấy giờ tôi phun ngay ra con lão ở đâu, thì lão cũng thuận tình phóng-xá. Tôi vừa bận áo vừa tính trong bụng xem có nên xử nhũn ngay thế hay không, ngặt vì khi lão ở trong phòng bước ra thì có lẽ lão sẵn lòng cốt thấy được con mà thôi, nhưng khi lão trở vào thì lão đã đổi hẳn. Số là khi lão ra ngoài, lão đã bắt hết đứa ở ra hỏi, thì không đứa nào biết con lão đâu cả. Đến lúc lão hay được gã Mạc-xen là đứa ở cũ của tôi với nàng, thì lão bắt gã mà nạt dọa để cho gã phải nói.

Tội-nghiệp thằng bé thật là ngay-thảo, nhưng nó thật-thà, quê-kệch quá đỗi… Phần thì gã e tội trước đi đánh tháo cho Mai-nương ra khỏi phúc-đường, phần thì nó nom thấy mặt Mỗ Mỗ phú-ông nó cũng đủ run-sợ, đã lo ngay-ngáy phen này thì không biết họ đem đi tùng xẻo hay là đem đi buộc dây treo cổ đây. Nó bèn sợ cuống lên mà thú hết, chỉ cầu khỏi chết mà thôi. Lão phú-hộ thấy thằng bé lo-sợ như thế thì ngờ rằng trong việc tôi với nàng tất còn có điều gì trọng-phạm lắm nữa. Lão bèn hứa với gã Mạc-xen, hễ nói cho thật thì chẳng những không chết mà lại còn trọng-thưởng cho sau.

Thằng khốn-nạn ấy bèn phun ra hết những việc mưu-toan của chúng tôi để lừa con trai lão. Những mưu lừa chước dối ấy, chúng tôi đi ngỏ cả cho nó biết, vì phải sai nó làm một phần việc. May sao cách thi-hành mưu ấy sau chúng tôi đổi một vài nơi; đổi làm sao chưa kịp nói cho nó biết. Vậy thằng bé cung xưng rằng ý chúng tôi cốt lừa con lão. Mai-nương thì chắc đã lĩnh được món tiền vạn phật-lăng rồi. Số vạn phật-lăng ấy là chúng tôi đã định không bao giờ để lại trở về nhà Mỗ Mỗ nữa.

Lão phú-hộ vừa nghe vỡ câu chuyện như thế, cơn giận nổi lên mà tất-tả chạy lên gác, vào thẳng chỗ phòng chúng tôi ở. Lẳng-lặng mà xông vào đến tận chỗ lầu trang của Mai-nương, tìm thấy ngay túi bạc với vòng xuyến. Lão bèn đỏ mặt bừng-bừng mà chạy ra, tay xách cái túi, tay cầm hộp đồ vàng ngọc giơ ra mà bảo chúng tôi là đồ ăn-cắp, sỉ-mạ chúng tôi không còn thiếu câu gì. Đoạn rồi lại giơ cái vòng đôi xuyến vào tận mặt nàng, cười lạt mà hỏi:

- Vòng xuyến này là vòng xuyến nào, mi có nhận ra không? Thì ra đồ này dùng đã quen rồi, không phải đồ lạ nhỉ! Chính là vòng ấy xuyến ấy, thì ra mi ưa riêng một kiều đồ này. Tội-nghiệp cho hai đứa bay, hai đứa bay cùng vui tính phạm, duy chỉ phải một tật gian-lận đôi chút.

Tôi nghe lão nói sỉ-mạ, tôi tức lộn ruột. Trời ôi, lúc ấy ví-dụ ai làm thế nào cho tôi được tự-do một lát mà thôi… thì bảo tôi thế nào mà tôi không xin chịu! Sau tôi biết thế mình không làm gì được, tôi bèn nuốt giận, tôi lấy giọng rất ngọt-ngào mà bảo lão rằng:

- Thôi thôi, tôi xin ông đừng nói những lời mỉa-mai nhau bằng những lời vô-lễ ấy làm gì nữa. Ý ông muốn thế nào? Ông định làm gì chúng tôi thì xin ông cứ nói phăng đi.

Lão trả lời:

- Dám thưa vũ-sĩ, tôi muốn đem vũ-sĩ và cô ả đây đến nhà ngục Sa-tư-lê ngay tức thì. Giờ đêm đã khuya, xin để sáng mai, ban ngày ta xem-xét mọi việc nó rõ-ràng hơn ban tối. Tôi ước gì từ đây đến sáng mai thì vũ-sĩ ngỏ cho tôi biết con trai tôi bây giờ nó ở chốn nào?

Tôi không cần phải nghĩ-ngợi lâu cũng biết sự này là sự gở, tôi với nàng mà phải vào Sa-tư-lê thì sau này khốn-khổ không còn biết chừng nào. Những nghĩ đến mà sởn da gà. Tuy tôi bẩm-sinh là người rất khí-khái, mà lúc ấy cũng chịu thế mình phải khuất người ta, phải nịnh hót cái thằng mình thù ghét nhứt đó, may ra nó còn nể-nang mình chút nào chăng?

Tôi bèn lấy giọng khiêm-tốn mà xin lão nghe tôi phân-giải đôi lời. Rồi tôi nói với lão:

- Thưa ông, hèn này biết dại đã nhiều. Trẻ người non dạ, cho nên đã trót làm ra lắm điều càn-dỡ. Mà phạm đến tôn-ông. Nhưng ví nếu tôn-ông biết cái sức ái-tình nó xui khiến người ta được đến thế nào, ví nếu tôn-ông hiểu được cái xót-xa cay-đắng của một người thanh-niên vô-hạnh bị người ta cướp giật mất tình-nương yêu-mến, thì tôn-ông cũng xá cho cái lòng tiểu-kỉ thường tình phải kiếm cách trả thù người thị của. Hoặc lượng tôn-ông có hải-hà lắm nữa, thì cũng coi cái cảnh khổ-nhục của hèn này, đến thế là bõ giận của tôn-ông rồi. Lựa là phải đến lao-hình khổ-nhục mới bắt được hèn này phải thuật cho tôn-ông biết lệnh-lang ở đâu. Lệnh-lang nay yên mạng ở một chốn kia, không có nguy-hiểm chi hết. Ý hèn này không muốn làm hại gì lệnh-lang cả, mà cũng không muốn làm điều chi chướng-ngược với tôn-ông cả. Lệnh-lang hiện ở nhà nào, nếu tôn-ông thi ân hà-hải mà tha cho hèn này, thì hèn này xin thưa ngay tôn-ông biết.    

Con lão-lang ấy đã chẳng động lòng thương thì chớ, nghe tôi nói thế, lại quay lưng lại mà cười ồ lên, rồi chỉ nói nhát gừng vài ba câu ra điều ý chúng tôi làm sao nó đã biết tỏng cả rồi. Còn về việc con trai nó thì nó nói quí hồ tôi chưa giết chết, sau này thế nào mà nó chẳng thấy mặt con nó, lựa phải cầu đến tôi tìm hộ. Đoạn rồi nó thét hai tên cung-thủ:

- Bay khá giải ngay cả hai đứa đến ngục Sa-tư-lê, mà khéo chàng vũ-sĩ trốn mất. Vũ-sĩ là một gã bất-trị, đã trốn được ra khỏi Thánh La-da, không phải tầm-thường.

Lão nói thế, rồi đi ra, để tôi trong một cảnh sầu-thảm vô cùng. Tôi mới than thân rằng:

- Trời ơi! Ví nếu ông chẳng thương tôi mà ông bắt tội, thì dẫu trầm-luân khổ-hải thế nào mà tôi không cam chịu. Nhưng sao ông nỡ để đồ vô-loại kia nó làm nhục đến tôi, thì phỏng tôi chịu làm sao được?

Quân cung-thủ giục chúng tôi đi. Ngoài cửa có cỗ xe chờ. Tôi giơ tay ra, tôi dắt Mai-nương xuống gác mà bảo nàng rằng:

- Thôi, đi cùng ta, hỡi hỡi tình-nương rất yêu rất quí! đi cùng ta mà chịu cho hết cái cay-nghiệt của số-phận đôi ta. Có lẽ một ngày kia trời cao chẳng phụ, để cho đôi ta qua cơn bĩ-cực tới tuần thái-lai hơn thế này.

Hai đứa được đi chung một xe. Nàng ngồi vào lòng tôi để tôi ôm-ấp lấy mà khóc. Nguyên từ lúc lão phú-ông tới bắt nàng chưa nói nửa lời nào. Nhưng từ lúc lên xe, có một mình nàng với một mình tôi, thì nàng nói với tôi kể đến muôn vàn điều ân-ái, nỉ-non than khóc, những trách mình đã làm nên tội để cho tôi đến nỗi lầm-than. Tôi bảo nàng quí hồ nàng cứ đinh-ninh một dạ yêu tôi, thì dầu khổ thân đến thế nào nữa, tôi cũng không kêu nửa tiếng. Tôi lại nói rằng:

- Mình ơi! trong hai ta thì tôi không phải là kẻ nên thương thứ nhứt, mình ạ. Một vài thằng tù, nào tôi có sợ đâu. Mà tôi vẫn ưa ngục Sa-tư-lê hơn ngục Thánh La-da. Nhưng lòng tôi thương mình quá. Trời đất ơi! con người quốc-sắc thiên-hương như mình, ngờ đâu lại đến nỗi này! Hóa-công sao nỡ tệ, đã sáng-tạo nên một mỹ-công tuyệt-tác như thế này, mà nỡ đang tay vùi giập? Sao ông lại không sáng-tạo ra chúng tôi chếch-lệch đui-què, ngu-xuẩn, dại-dột, để cho xứng-đáng với cái kiếp lưu-li sầu-khổ mà ông đã dành cho hai chúng tôi? Ông lại đi ông cho chúng tôi có tài, có sắc, có trí-khôn, có tình-cảm, để cho chúng tôi phải dùng tài ấy, sắc ấy, trí-khôn ấy, tình-cảm ấy một cách thảm-sầu như thế. Còn biết bao nhiêu kẻ đê-mạt, đáng sầu-khổ như chúng tôi, thì ông lại cho chúng nó được đủ phú-quí vinh-hoa.

Tôi càng nghĩ như thế thì ruột lại càng đau thấm-thía! Nhưng cái đau ấy tỉ với cái đau chưa lại thì không thấm vào đâu cà. Tôi lo cho Mai-nương nhiều nhứt. Nàng đã phải vào phúc-đường một lần rồi, ví dù có được đi cửa chính mà ra chăng nữa, trở về lần thứ hai, những chốn ấy cũng đã là một việc nguy-nan, phương-chi nàng lại là một gái bị giam trốn ngục mà ra. Tôi đã toan tỏ tình lo-sợ ấy cho nàng biết, nhưng tôi lại sợ nói ra nàng lại thêm rầu. Tôi giật mình cho nàng mà không dám nói. Tôi đành cứ thở dài mà hôn nàng để tỏ cho nàng biết cái bụng yêu-thương của tôi mà thôi. Một khi tôi hỏi nàng rằng:

- Mình ơi! mình có yêu tôi được mãi mãi không, mình nói cho thật.

Nàng đáp rằng sự ấy mà tôi còn phải hỏi thì nàng buồn-rầu lắm. Tôi liền nói:

- Nếu vậy thì tôi không ngờ nữa. Tôi mà đã tin được điều ấy thì bao nhiêu kẻ thù-nghịch, bao nhiêu nỗi ngăn-ngừa tôi đoan xin vượt được hết. Tôi xin hết sức mượn thế nhà mà ra cho khỏi chốn ngục-hình. Khi tôi đã ra được ngoài rồi, nếu tôi không cứu được nàng ra theo luôn, thì bao nhiêu huyết-mạch của tôi cũng gọi là máu chảy thừa mà thôi.

Hai đứa vừa cam-kết với nhau như thế thì xe đến trước ngục-hình. Họ đem giam ngay chúng tôi riêng mỗi đứa một phòng. Sự ấy tôi đã biết trước, cho nên cũng không tức giận cho lắm. Tôi giới-thiệu nàng với tên thủ-ngục. Tôi nói tôi là con nhà sang-trọng, hễ xử tử-tế với tôi thì sau sẽ có thưởng. Trước khi từ biệt nhau, tôi hôn nàng và tôi khuyên nàng chớ nên phiền-muộn cho lắm, hễ trời cho tôi còn sống thì nàng không phải lo-sợ chi hết. Trong lưng tôi hãy còn tiền, tôi bèn cho nó ít nhiều. Còn tiền tôi lại trả trước cho nó một tháng cơm ăn nàng với tôi. Đồng tiền bỏ ra, kết-quả thật chóng. Tên thủ-ngục dọn ngay cho tôi một cái phòng sạch-sẽ lắm, lại đoan với tôi rằng nàng cũng được một cái phòng như thế.

Tôi vào đến ngục, lo ngay đến mưu giải-thoát. Tôi nghĩ trong cái việc tôi cũng không có gì thật là trọng-phạm. Ví-dù quan Tòa cứ chiếu lời cung của gã Mạc-xen mà buộc cho chúng tôi có ý lấy bạc của người nữa, thì bạc ấy chưa ra khỏi nhà Mỗ Mỗ sinh, cũng chưa thành được tang đạo thiết [?]. Tôi bèn quyết định báo ngay tin về cho ông thân-sinh tôi biết, để mời ông thân-sinh tôi thân-hành ra ngay kinh-thành mà lo-lắng cho tôi. Trên kia tôi đã nói tôi coi sự ở ngục Sa-tư-lê không nhục như ở Thánh La-da. Vả tôi là một đứa con kính-sợ cha mẹ, nhưng đi ăn chơi lưu-lạc bấy nhiêu lâu, tính-khí đã dạn ra nhiều. Tôi bèn viết thư cho cha tôi, quân coi ngục cũng cho đem thư ra, không ngăn-trở gì hết. Tôi không ngờ rằng cha tôi hôm sau, thì ra tới Ba-lê, giá tôi biết vậy thì tôi cũng không viết thư về làm gì nữa.

Nguyên cha tôi đã tiếp được phong-thư tôi gửi tám ngày về trước rồi. Cha tôi được thư ấy thì mầng-rỡ, nhưng mầng mà không tin những lời tôi hẹn xin hồi tỉnh, xin sửa mình trở lại. Cha tôi bèn quyết định thân-hành ra tận nơi mà xem tôi đã tu-tỉnh thế nào, rồi tùy cách tôi ăn ở mà đãi tôi. Thành ra tôi phải bắt giam hôm trước, thì hôm sau cha tôi ra.

Nguyên trong thư tôi có xin cha tôi gởi thư trả lời đến nhà anh Tỉ-ba, thì cha tôi ra đến nơi, vào ngay đó trước, hỏi Tỉ-ba nhà tôi ở đâu, tôi hiện đương làm gì, thì bạn tôi không biết, bạn tôi chỉ thuật lại cho cha tôi được nghe những chuyện lôi-thôi từ ngày thoát ngục Thánh La-da mà ra thôi. Nhân bạn tôi còn nhớ những lời anh em nghị-luận bữa trước về đạo-đức, về cách tu-thân, thì bạn tôi cũng nói với cha tôi rằng có lẽ phen này tôi tu-tỉnh thật. Bạn tôi lại nói nghe như tôi đã bỏ được Mai-nương rồi, duy chỉ ngạc-nhiên có một điều sao đã tám hôm nay không được tin-tức gì của tôi hết. Cha tôi không phải là một người thật-thà dễ tin như thế, cha tôi những nghe nói tám ngày chưa thấy âm-hao đã đủ nghi tình, chắc có điều gì Tỉ-ba không hiểu rõ đây. Cha tôi bèn cố sức đi thăm dò tìm kiếm, chỉ trong hai hôm thì biết đích tôi đã phải vào ngục Sa-tư-lê.

Trước khi cha tôi vào thăm trong ngục, thì tôi được thừa tiếp quan chánh Cảnh-sát. Nói thật thì là ngài thân-hành vào mà tra hỏi tôi để lấy khẩu-cung. Nhân ngài có trách mắng tôi mấy câu cũng không tàn-tệ mà cũng không sỉ-nhục cho tôi lắm. Ngài lấy giọng khoan-từ mà bảo tôi rằng ngài thấy tôi con nhà danh-giá mà hư như thế, ngài cũng buồn thay cho tôi; rằng tôi đi trêu ngươi vào một nhà thần-thế như Mỗ Mỗ phú-hộ, thật là khờ dại: thật tình thì ngài cũng cho tôi là một đứa nhẹ dạ, không biết tính xa, chứ không phải là một đứa gian-ác. Nhưng lần này tôi đến cửa ngài lần thứ hai, đã hai ba tháng ở Thánh La-da tưởng là tu-tỉnh lại rồi, ngờ đâu còn hư như thế.

Tôi được một ông quan xét án nhân-từ như vậy, thì tôi lấy lễ-phép và lấy cách ung-dung mà trình thưa để quan trên cũng phải động lòng thương tình, mà khuyên dỗ tôi chớ buồn-rầu quá, rồi ngài hết sức vị tôi con nhà gia-thế, vị tôi còn trẻ tuổi, mà thương cho được phần nào hay phần ấy. Tôi thấy quan dễ, tôi lại đánh liều bẩm với quan nói cả cho Mai-nương nữa, nhân tôi ca-tụng Mai-nương tính-nết hiền-từ trung-hậu. Quan cười mà dạy rằng quan chưa thấy mặt nàng bao giờ, song cứ lời người ta trình báo thì gái ấy là một gái bất-thiện, rất nguy-hiểm cho bọn nam-nhi niên-thiếu. Tôi nghe ngài nói thế thì tôi thương nàng không biết ngần nào mà kể nữa, tôi bèn cạn lời biện-bạch, lấy giọng nhiệt-thành yêu-mến mà cãi hộ cho nàng. Tôi vừa nói vừa chứa-chan nước mắt. Ngài sai lính lại đưa tôi vào phòng giam. Khi tôi bước ra thì ngài lên giọng nghiêm-nghị mà than rằng:

- Ái-tình! Ái-tình! biết bao giờ cho ái-tình kiêm được cả đạo-đức, than ôi!

Tôi đương ngậm-ngùi lo đến phận mình, bời-bời trăm mối sầu-thảm, và tôi đương nghĩ-ngợi đến mấy lời quan chánh Cảnh-sát dạy bảo, thì bỗng thấy cửa phòng mở ra, chính cha tôi bước vào thăm tôi. Tôi đã gửi thư mời cha tôi ra, dầu không đợi cha tôi hôm ấy thì tôi cũng đợi ngài vài hôm sau nữa, vậy thì trong trí tôi đã sửa-sang để mà tiếp cha tôi rồi. Tuy vậy mà tôi bỗng thấy cha tôi bước vào như thế, tôi cũng giật mình như sét đánh, những ước gì chỗ đất mình đứng lún xuống sâu trăm trượng, để tránh cho khuất mặt nghiêm-đường, tôi hổ-thẹn mà chạy ra hôn cha tôi, cha tôi ngồi xuống, chưa nói câu gì hết

Tôi thì đứng khoanh tay, hai mắt nhìn xuống, đầu mặt cúi gầm mà không dám ngẩng. Cha tôi nghiêm giọng mà rằng:

- Anh ngồi xuống. Ngồi xuống đó. Tôi nhờ cái tiếng đồn lừng-lẫy của miệng thế-gian, về những sự ăn chơi quái-gở độc-ác lạ đời của anh, mà biết được tin anh ở chốn này. Cái nết như nết của anh, dẫu chẳng ra gì cũng có cái đặc-sắc không sao thầm kín được. Thì ra anh đã tìm thấy con đường rất gần rất chắc để mà đến bậc nổi tiếng lẫy-lừng. Tôi ước cho anh rằng sự này mau mau kết-cục tại giữa pháp-trường mà làm gương cho thiên-hạ, như thế thì anh cũng vinh-hiển làm trang sách hay cho thế-giới.

Tôi cúi đầu nghe mà không dám thưa câu gì. Cha tôi lại nói:

- Thương hại cho tôi, đẻ được con ra, yêu-mến như châu như ngọc, tận tâm tận lực mà gây-dừng [gây dựng] cho con nên được bậc người lương-thiện, ngờ đâu công-phu ấy đã kết-quả nên một thằng đại-gian-ác nó làm xấu tiếng cho cả một nhà một họ thế này! Người ta lúc vận không hay, trời làm mất của, nạn ấy cũng chẳng đau lâu, ngày qua tháng lại, nó khuây dần đi được; đến như cái tai-nạn này là tai-nạn mỗi ngày thêm lớn, như là tai-nạn phải một đứa con đam-mê sắc-dục như anh, đến nỗi quên cả liêm-sỉ, thì phỏng còn có thuốc nào chữa được? Ừ! tao bảo thế mà mày không nói gì, thằng khốn kia! Kìa kìa ai thử xem cái mặt thùy-mị giả-dối, cái vẻ chịu lụy điêu-ngoan kia, thoạt nhìn ai mà chẳng bảo đó là một người lương-thiện nhứt ở trong dòng giống nhà nó?

Tuy tôi biết mình không oan cho lắm, mà cha tội dạy như thế, tôi nghĩ cũng hơi quá lời, tôi bèn khoan-hòa lễ-phép mà thưa lại mấy câu:

- Lạy cha, con xin cha biết cho con rằng cái mặt chàm đổ này không phải là con làm ra thế, con là con cha, nhờ phúc ấm tổ-tiên để lại cũng biết mình dòng-dõi trâm-anh, con hết lòng hiếu-kính mà thờ cha, nay thấy cha cả giận thì vẻ mặt con như thế này, thật là vẻ tự-nhiên, chứ đâu con có giả-dối, con cũng biết trong dòng-giống nhà ta, con không phải là người đứng mực thứ nhứt, cha mắng con thật là đích-đáng, nhưng con dám xin cha cũng lấy cách nhân-từ mà đãi con một chút, cha đừng coi con như một đứa mạt hạng thất-phu thế vậy. Cha nói đau con quá! lạy cha, bao nhiêu tội lỗi của con, chẳng qua bởi một chữ tình, một chữ tình giết người! than ôi! cha há lại chẳng hay, cái sức giun-giủi của nó hùng-dũng biết bao! Con là máu-mủ cha sinh ra, con chịu sức nó đến thế, cha là cội-rễ cái tính con, há lại chưa bao giờ từng trải lửa nồng tinh-dục như con-ru? Con vì tình mà say-đắm quá, mà ngây-dại quá, mà dễ-dãi quá, đến nỗi gái bảo làm gì con cũng làm, tội con chỉ có thế mà thôi. Thế thì việc gì mà phạm đến danh-giá nhà ta được. Vậy thì con xin cha mở lòng nhân-từ, thương lấy con dại, xưa nay chỉ dốc một lòng rất kính rất mến mà thờ cha, dầu con mê-mẩn đắm say đến thế nào cũng vẫn lấy điều liêm-sỉ làm trọng, con trót dại mà ra như thế này, thì phần đáng khinh ghét là ít, mà phần nên thương hại cho con thì nhiều.

Tôi vừa nói vừa đầm đìa nước mắt khóc.

Tấm lòng kẻ làm cha là một mỹ-công tuyệt-tác của con Tạo. Bao nhiêu cái từ, cái hậu, Tạo-hóa đem cả vào đó, làm cái mối sinh-lực cho người ta ăn ở. Như cha tôi đã là đấng từ-bi quảng-đại, lại là một người trí-giả, biết phân hay dở phải chăng, cha tôi nghe tôi phân biện một cách lạ-lùng như thế, thì đương giận lại hóa thương tình, mà đã thương thì không thể làm mặt giận được nữa. Cha tôi bèn ngọt ngay giọng nói mà bảo rằng:

- Tội nghiệp con ta! Con lại đây mà hôn cha đi. Cha nom thấy con cha thương quá!

Tôi hôn cha tôi thì cha tôi ôm chặt lấy tôi mà rằng:

- Nhưng biết tính làm sao mà gỡ cho con ra khỏi chốn này bây giờ? Âu là việc con làm sao, khá thật tình mà kể lại cho cha biết hết đi.

Tôi xét mình tôi không có điều chi là điều trọng-phạm đến luân-thường đạo-lý cả, đem mà tỷ với lũ đồng-niên thì còn lắm kẻ hư thân xấu nết hơn tôi nhiều. Vảà trong thời buổi ấy, đàn-ông có nhân-ngãi là một sự thường, phong-tục nước ta bấy giờ chưa cho là điều xấu. Mà cờ-bạc khéo tay, người thời ấy cũng chưa biết cho là một cách đê-tiện. Cho nên cha tôi đã hỏi thế thì tôi cũng cứ thật mà khai, xưng ra hết cả những cách ăn ở của tôi, từ khi bỏ học đi chơi. Cứ mỗi điều tội lỗi của tôi, tôi lại đem mà tỉ với việc người khác có danh tiếng hơn, để cho nhẹ bớt cái sỉ-nhục. Tôi nói:

- Lạy cha. Con có một con nhân-ngãi, nghĩa là không có phép kết-hôn mà ăn ở với một người đàn-bà mình yêu-mến. Mỗ quận-công đây kia, những hai nhân-ngãi đi lại với nhau giữa chốn kinh-thành, ai ai cũng biết. Mỗ công mê-mẩn một người tình-nương, kể đã mười năm, mà quí-báu hơn phu-nhân ở nhà. Trong số các người danh-giá ở nước Đại-pháp thì chia ba hai phần người cho sự có nhân-ngãi là một sự khoe-khoang được. Thưa cha, con trót theo đòi người lạ mà tập mấy cách khôn-ngoan trong cuộc đổ-bác. Cha không xem Mỗ hầu-tước và Mỗ bá-tước đây kia, chỉ có nghề ấy mà ăn. Như Mỗ hoàng-thân-vương, Mỗ quận-công thì lại làm chùm [trùm] cho mấy bọn cờ gian bạc lận.

Còn chuyện lừa cha con Mỗ Mỗ phú-ông mà lấy tiền, thì giả-sử tôi muốn kiếm những người kia khác ra mà tỉ cũng được, song tôi nghĩ tôi cũng còn đôi ba chút khí-khái hơn người, cho nên tôi xin chịu ngay là tội xấu, chứ không dám cãi. Tôi chỉ xin cha tôi nghĩ tình cho tôi vừa mê gái lại vừa căm-tức cha con nhà kia, nên mới lập ra mưu lừa chước dối ấy mà làm hại cha con nó chơi cho bõ ghét.

Cha tôi lại hỏi tôi đã nghĩ được cách nào lo-lắng cho mau xong việc, mà lại khỏi tai-tiếng chăng? Tôi bèn thuật lại cho cha tôi biết cái lòng nhân-từ của quan chánh Cảnh-sát đối với tôi.

- Ví bằng cha đã nói với quan chánh Cảnh-sát rồi mà việc chưa xong, thì chắc là bởi Mỗ Mỗ phú-ông ngăn-trở. Vậy con xin cha vì con mà chịu phiền đến thăm cả hai người ấy.

Cha tôi hẹn với tôi đi thăm cả hai nơi.

Tôi muốn luôn tiện xin cha tôi nói giúp cho cả Mai-nương, nhưng tôi lại thôi không dám nói; không phải là tôi không bạo nói, nhưng tôi e cha tôi lại giận lây đến nàng, mà đã không xin hộ, lại làm điều gì thiệt-hại thêm cho nàng nữa chăng. Câu chuyện ấy đến bây giờ tôi cũng hãy còn ân-hận, có lẽ là bởi vì khi ấy tôi không cả gan một chút, nói phăng với cha tôi, may ra cha tôi có thương tình mà xin cho nàng chăng, cho nên về sau nàng bị cực-khổ không ai cứu vớt được. Giả-sử tôi cố nói cho nàng với cha tôi, thì dẫu chẳng được việc gì, cũng được một điều đón trước những lời dèm-pha của lão già Mỗ Mỗ. Nói cho đáng thì cũng không biết chắc thế nào, cò lẽ là việc số-phận trời đã định trước, chứ không phải là vì tôi biếng trễ câu gì; nhưng ví thử khi ấy tôi thừa dịp cha thương mà nói nốt việc nàng thì về sau dầu có thế nào, cũng chỉ oán được cái lòng tàn-nhẫn của cha con Mỗ Mỗ mà thôi.

Cha tôi ở ngục đi ra thì đến thẳng nhà Mỗ Mỗ phú-ông. Đến nơi thì gặp cả hai cha con va ở đó. Số là bọn thị-vệ đã y ước với tôi, chỉ giữ gã một đêm, đến sáng ngày tha ngay cho về. Tôi không biết khi chúng bắt gã đem giam thì đêm hôm ấy đôi bên chuyện trò với nhau những gì. Nhưng cứ như cách Mỗ Mỗ sinh xử tàn-nhẫn với tôi về sau thì tôi cũng đoán ra sự đêm hôm ấy thế nào. Hai ông cụ liền đi với nhau đến dinh quan chánh Cảnh-sát mà xin hai điều: điều thứ nhất là phóng-xá cho tôi ngay tức thì, điều thứ hai là xử cho Mai-nương khổ giam chung-thân, hoặc đầy nàng sang châu Mỹ.

Giữa độ ấy, nhà-nước đương bắt những đồ du-đãng mà đem sang thực-dân bên Mỹ-châu, ở chỗ chiền [triền] sông Mi-xi-xi-bi. Quan Cảnh-sát y ngay lời hai cụ mà hẹn rằng chuyến tàu thứ nhất sẽ đem ngay nàng đi biệt xứ.

Hai cụ bẩm xong với quan được việc rồi cùng nhau đến ngục mà báo cho tôi biết tin phóng-thích. Mỗ Mỗ phú-ông khéo kiếm vài câu hể-hả mà nói chuyện trước, rồi lại mừng cho tôi có hạnh-phúc được cha hiền như thế, lão khuyên dỗ tôi nên vâng theo những lời nghiêm-huấn, từ rầy thì ăn ở cho ngoan, cố theo gương hay của nghiêm-phụ. Cha tôi lại bắt tôi phải xin lỗi phú-ông về việc xâm-phạm đến danh-giá nhà phú-ông, và phải cảm ơn phú-ông đã cùng cha tôi đi xin với quan Cảnh-sát tha cho một thứ.

Tôi đi theo hai cụ ra, không ai nói đả-động gì đến Mai-nương cả. Tội nghiệp, tôi muốn dặn dò đôi câu với quân ngục-tốt mà trước mặt hai cụ tôi không dám nói. Than ôi! hay đâu rằng ví có nói cũng là vô ích, bởi vì cùng trong một đạo trát sức, trên thì quan truyền phóng-thích tôi ra, mà dưới thì quan truyền đem Mai-nương đi đầy ngoại-quốc, tôi đi ra cách được một giờ thì họ giải nàng sang bên nhà-thương con-gái để vào bọn với mấy đứa kĩ-nữ cũng phải đem đi đầy như nàng.

Cha tôi bắt tôi phải đi theo về nhà trọ, khi tôi về đến đó thì đã sáu giờ tối. Bấy giờ tôi mới lén được ra ngoài mà chạy trở về nhà ngục Sa-tư-lê, có ý đưa vào cho nàng ít quà bánh và giới-thiệu nàng một lần nữa với tên thủ-ngục, chứ tôi cũng không dám mong được vào thăm nàng. Mà tôi vừa ra ngoài cũng chưa kịp nghĩ đến kế đánh tháo cho nàng.

Tôi bảo người vào gọi thủ-ngục ra tôi hỏi. Nguyên từ khi tôi vào ngục, tôi xử với y rất hậu, tính-khí tôi lại hiền-lành, cho nên y cũng tử-tế lại với tôi lắm. Y chạy ngay ra, y phàn-nàn với tôi tội-nghiệp cho Mai-nương quá! Tôi kỳ-thủy chưa nghe ra hắn phàn-nàn cho nàng ra làm sao, thành ra hai người nói chuyện với nhau mà không ai hiểu ai hết. Sau hắn thấy tôi ngơ-ngẩn không vỡ chuyện, hắn mới nói rõ cho tôi biết sự nàng, theo như lời tôi đã kể rồi, giờ tôi lại xin kể lại ngài nghe.

Tôi tưởng ai có máu động-kinh, gặp cơn thế nào, thì lúc tôi thoạt nghe hắn nói, tôi cũng phải một cơn như thế. Tôi ngã lăn ngay xuống đất, ngất người đi, tưởng chừng lúc ấy là thoát nợ phong-trần, khi tôi đã tỉnh lại, tôi vẫn còn tưởng như là sắp chết, hay là tôi đã chết rồi vậy. Tôi phải nhìn quanh nhìn quất khắp các phòng, lại phải nhìn vào mình, mới biết rằng mình hãy còn nặng nợ trần-gian, còn đeo cái tiếng là người sinh-hoạt. Trong cơn sầu-thảm khổ-não ấy thì tôi nghĩ không gì sướng cho bằng chết, cho bằng thoát khỏi được những nỗi bực dọc trên đời. Nghĩa tôn-giáo cũng không thể làm cho tôi muốn sống nữa. Vậy mà sau cái sức ái-tình cũng khiến ra được một phép lạ ở trong mình tôi. Đã quyết muốn chết rồi, mà bỗng lại tạ ân trời cho ta tỉnh lại. Bởi vì nghĩ cho cũng thì chết là ích-kỷ mà thôi. Mai-nương cần phải có ta sống mới cứu được ra khỏi ngục-hình, mới có người vì nàng trả thù cho những đứa tàn-ác. Tôi mở mắt ra thì tôi thề rằng xin cứu được nàng, xin trả thù cho nàng.

Thủ-ngục tất-tả cứu chữa cho tôi như thể một người bạn chí thân vậy. Tôi cảm ân y mà rằng:

- Than ôi! vậy ra người thương tôi! thấy tôi khổ-não mà động lòng ru! Hết thảy ai ai cũng bỏ ta. Chính cha đẻ ra ta mà cũng vào bè với những kẻ làm hại ta. Không có ai là kẻ thương ta hết. Duy có một anh, tuy ở nơi giã-man [dã man] tàn-nhẫn này, mà cũng động lòng thương đến kẻ khốn-cùng này ư?

Hắn khuyên tôi nên tỉnh lại rồi hãy ra ngoài phố. Tôi vừa đi ra vừa xua tay mà rằng:

- Thôi, để mặc ta. Để yên cho ta đi. Rồi anh lại thấy ta bây giờ, không lâu. Xin anh dọn sẵn cho ta lấy một cái ngục tối nào sâu thẳm nhứt. Ta đi phen này thì cố nên được trọng-tội cho mà xem.

Tôi nói thế vì rằng tôi bước chân ra, tôi quyết đi giết phăng hai cha con nhà Mỗ Mỗ và giết cả quan chánh Cảnh-sát nữa, rồi đi mướn rõ nhiều người đem đến phá nhà-thương con-gái. Trong cơn hung nộ ấy thì tôi tưởng chừng như cha tôi, tôi cũng không nể nữa, bởi vì thủ-ngục nói cho tôi biết rằng sự nàng nên thế là bởi cha tôi và cha con nhà Mỗ Mỗ.

Nhưng khi tôi đã đi được vài bước ra ngoài đường rồi, không-khí đã mát mặt, tinh-thần đã tỉnh táo lại rồi, thì cơn uất cũng dần dần nguôi di, khiến cho trí-khôn được tĩnh mà nghĩ ngợi một vài điều phải chăng. Tôi nghĩ rằng nếu bây giờ cả giận mà đi giết chết những kẻ làm hại ta đi, thì phỏng có được việc gì cho Mai-nương không? Hay là ta nóng-nẩy làm càn như thế, thì lại mất hết phương-kế cứu nàng. Vả ngẫm cho cùng, giết người ta đi không phải là một cách trả thù thấm-thía. Âu là bao nhiêu sức-lực, bao nhiêu tài-trí của ta, ta nên thu cả lại để mà cứu Mai-nương cho qua khỏi bước gian-truân này, còn dư mọi việc báo-cừu, ta hãy để dành hậu nhựt.

Trong lưng tiền cũng không còn được mấy mà đồng tiền là khoản thiết-yếu nhứt trong mọi việc mưu toan. Nghĩ ra có thể giúp tôi tiền, duy chỉ có ba người: một là T… công-tử, hai là cha tôi, ba là anh Tỉ-ba. Người thứ ba và người thứ hai thì nghe khó mà trông cậy được, còn người thứ nhứt thì mặt nào tôi lại dám đến quấy người ta hoài. Nhưng mà trong lúc cùng, ai là người sợ ngượng. Tôi bèn quyết định kỳ-thủy hãy đi ngay đến nhà dòng Thánh Xung-bích, hỏi thăm anh Tỉ-ba. Bạn vừa ra nói mấy câu, tôi hiểu ngay rằng bạn chưa biết những chuyện tôi phải bắt thứ sau này [?]. Tôi thấy vậy thì tôi xoay ngay bài thương-thuyết. Giá mà bạn biết hết hết tình, thì tôi cũng tính lấy lời kêu van năn-nỉ để khiến cho bạn phải xót-thương mà cứu giúp. Nhưng bạn đã không biết, thì chi bằng ta hãy thử tán đến câu chuyện cha con gặp nhau, cửu biệt tương phùng, tôi lấy làm mầng-rỡ, muốn theo cha tôi về quê mà ở, ngặt vì trước khi đi, cần phải trang chải [trang trải] mấy món nợ cho xong, không muốn để cho cha biết đến, nên chỉ đến nhờ bạn ít nhiều. Anh Tỉ-ba liền mở ngay túi bạc, bảo tôi muốn lấy bao nhiêu thì lấy. Có sáu trăm phật-lăng, tôi lấy ngay năm. Tôi xin để biên-lai, bạn nhất định không chịu.

Từ đó tôi đến nhà T… công-tử. Tôi kể hết tình-cảnh cho công-tử nghe, thì ra bạn đã biết hết gót đầu, bởi vì bạn muốn dò xem việc Mỗ Mỗ sinh sau ra làm sao. Tuy nhiên, bạn vẫn để tôi kể-lể, rồi bạn lại phàn-nàn cho tôi lắm lắm. Khi tôi vấn kế để cứu Mai-nương thì bạn lắc đầu chán-ngán mà rằng: trừ ra trời có gia ân đặc-biệt, xui nên phép lạ gì, còn thì không thấy mẩy may hi-vọng. Từ khi nàng phải di ngục sang bên phúc-đường, bạn cũng đã kiếm kế vào thăm mà không được. Quan chánh Cảnh-sát nguyên đã có lệnh truyền nghiêm-ngặt quá, quan đã định sáng hôm sau nữa, thì giải đi đầy.

Tôi nghe bạn nói, tôi khổ-não trong lòng, đến nỗi tôi không còn nghĩ ra câu gì mà hỏi mà nói với bạn nữa. Ví dù bạn nói luôn trong một giờ nữa, tôi cũng để yên. Bạn lại nói rằng khi tôi phải giam trong ngục Sa-tư-lê, bạn có ý không vào thăm, là cốt để đừng ai nghi-ngờ gì, sau cứu giúp mới dễ. Tôi được ra ngoài trong bấy nhiêu giờ, bạn không biết tôi đi vào đâu thì cũng buồn lắm, đương mong được gặp để mách bảo một kế vô-song mà cứu Mai-nương cho thoát. Nhưng kế ấy rất nguy-hiểm, bạn dặn tôi có thi-hành phải giữ cho thật kín, chớ có tiết-lộ ra bao giờ rằng bạn mách tôi kế ấy, mà lụy đến bạn sau này. Kế ấy là chọn lấy mấy tay đáo-để, đem đi đón ngoài cửa ô, để chờ khi lính giải bọn đàn-bà đi qua, thì giao-chiến mà đánh tháo. Bạn không để cho tôi đến nỗi phải nói đến túng tiền, đưa ngay cho tôi một túi bạc mà rằng:

- Đây có trăm bích-tôn, xin đại-huynh cầm lấy, hoặc khi dùng đến. Bao giờ thời vận khá, hãy đem trả cũng được.

Bạn lại nói rằng giá không e tai-tiếng thì xin thân-hành đái kiếm mà đi giúp hộ cho tôi cái việc nguy-nan đó.

Tôi thấy lòng người quảng-đại mà cảm-động đến rơi nước mắt. Trong lòng tôi bấy giờ nỗi sầu-khổ còn để sót lại bao nhiêu khí nhiệt-thành, là tôi đem hết cả ra mà tạ ân người quân-tử. Tôi lại nhờ bạn nghĩ giúp xem còn có cách gì cầu thầy-thợ, viện thần-thế ai để nói với quan Cảnh-sát được không? Bạn rằng bạn cũng đã nghĩ đến phương-kế đó, song thật không có đường hi-vọng, vì đi viện người quyền-quí trong một việc như việc ấy, tất phải có lẽ gì quan-trọng hơn cái lẽ tình riêng. Họa chăng chỉ còn có cách cạn lời nói với Mỗ Mỗ phú-ông và cha tôi để hai cụ vào kêu lại với quan chánh Cảnh-sát, xin ngài bãi cái nghị phát-lưu là được. Về phần bạn thì bạn xin nhận việc van nài với chàng Mỗ Mỗ, nhưng không dám chắc có được việc gì, vì Mỗ Mỗ sinh nghe cũng nghi tình bạn đôi chút, mà ghẻ-lạnh tình thân-thiết khi xưa. Về phần tôi thì bạn khuyên tôi khá về mà kêu nài với thân-phụ.

Việc ấy tôi lấy làm khó quá; chẳng những khó lòng mà nói cho chuyển được lòng cha tôi, mà tôi lại còn phải sợ gặp mặt cha tôi không khéo là tự mình buộc lấy chân mình. Khi cha tôi đem tôi ở ngục về nhà, dặn tôi không được đi đâu, mà tôi trái lệnh trốn đi, đi ra đến ngoài, khi tôi được tin nàng Mai-nương phải sang châu Mỹ thì tôi lại quyết không về với cha tôi nữa. Bây giờ mà về thì chắc là bị cha tôi giữ chặt lấy ở nhà, bắt phải về quê mà ở. Ngày trước anh cả tôi đã đi bắt tôi một lần rồi. Từ đó đến giờ thì tuổi tôi đã lớn, nhưng lớn tuổi không phải là một thế-lực để mà cưỡng với sức áp-chế. Sau tôi nghĩ ra được một kế giáp được mặt cha tôi mà tránh cái nguy-hiểm bị bắt. Kế ấy là mạo danh người khác mà mời cha tôi đến chỗ công-đồng. Tôi bèn quyết dùng kế ấy. T… công-tử thì đến nhà Mỗ Mỗ sinh, tôi thì đi ra lối công-viên Lục-xâm-bảo, sai một người đến nhà cha tôi mời cha tôi ra vườn có người quen hỏi điều gì cần kíp. Bấy giờ trời đã gần tối, tôi lo cha tôi không chịu đi cho. Tuy vậy mà cha tôi cũng đến, đem một tên đứa ở theo hầu. Tôi mời cha tôi cùng đi với tôi vào một con đường vắng. Cha con đi với nhau chừng trăm bước chân, không ai nói câu gì hết. Ý chừng cha tôi cũng nghĩ tôi giữ-gìn cẩn-thận như thế, tất là tôi đã toan mưu kế gì quan-trọng đây, cho nên cha tôi lặng yên mà chờ tôi nói, mà tôi thì trước khi nói còn phải lựa lời.

Mãi sau, tôi mới vừa run vừa nói mà rằng:

- Thưa cha, cha là một bậc cha rất nhân-từ quảng-đại. Từ xưa đến giờ con được nhờ ân trời biển của cha cũng đã nhiều rồi, mà cha dung-thứ cho con kể cũng đã lắm tội-lỗi thay. Bởi vậy có trời cao chứng quả cho con rằng lòng con thật là kính-mến cha. Nhưng mà con trộm nghĩ… con trộm nghĩ cái nghiêm-khắc của cha…

Cha tôi chừng nóng ruột nghe cho xong câu chuyện, thấy tôi ngắc-ngứ như thế, bèn thét hỏi:

- Cái nghiêm-khắc của tao! Rồi sao nữa?

- Lạy cha, con thiết nghĩ cái nghiêm-khắc của cha trong việc đãi nàng Mai-nương thật là thái-quá. Tội-nghiệp cho nàng! Con chắc là cha đã quá nghe Mỗ Mỗ phú-ông. Phú-ông vì căm-tức Mai-nương mà đã buộc oan cho nàng lắm nỗi. Cho nên cha cũng cứ theo như lời lão mà cho nàng là một gái xấu-xa. Lạy cha, con xin quyết với cha, nàng là một gái rất thuần-hòa, rất đáng yêu, tưởng trong thiên-hạ không còn gái nào hiền-lành nết-na hơn gái ấy nữa. Trời ơi! sao trời lại không giun-giủi cho cha được nom thấy nàng trong một lát. Con chắc hẳn rằng khi cha đã biết người biết mặt thì thế nào cha cũng phải thương nàng. Cha sẽ bênh-vực nàng và cha thương con, chứ cha không để vào tai những lời gièm-phách điêu-ngoan của Mỗ Mỗ phú-ông nữa. Điều ấy con dám cam-đoan. Con biết lòng cha từ-bậu [từ hậu], cha đã biết con người thế ấy, thì cha tất phải chuyển lòng thương đến.

Cha tôi thấy tôi lên giọng nhiệt-thành lắm, ví để cho nói mãi, thì không biết bao giờ mới hết được bài ca-tụng. Cha tôi bèn giật giọng mà thét bảo tôi muốn nói gì phải nói cho mau, chớ dài dòng văn-tự làm chi như thế. Tôi thưa rằng:

- Lạy cha, con chỉ xin cha cho con được sống mà thôi, nếu nàng đi sang Mỹ-châu, thì con chết mất.

Cha tôi quát mắng mà rằng:

- Điều gì chứ điều ấy thì không. Thà rằng tao nom thấy mày chết ngay trước mắt tao, còn hơn là tao biết mày mất trí-khôn và mất liêm-sỉ như thế.

Tôi còn nắm lấy cánh tay cha tôi mà rằng:

- Nếu vậy thì thôi. Âu là xin cha giết con đi cho con được thoát khỏi cái kiếp sầu-thảm, cái gánh nợ đời nặng quá, con không sao mang nổi được nữa đây. Trong cái cảnh khổ-não vì cha mà nên này, chết là một cái phúc lớn, con dám nài xin cha cho con được chết cho rồi. Cha đã tứ ân sinh-thành cho con, thì xin cha ban cho con cái đặc-phúc ấy.

- Tội mày đáng đến thế nào, tao chỉ cho mày được đến thế ấy mà thôi. Tao biết nhiều người khác vô-phúc thiểu âm-đức như tao thì cũng sẵn tay mà giết chết mày đi cho sạch một cái nhơ-nhuốc, nhưng mà tao thì từ-tâm quá đỗi, không nỡ đang tay, mà hại mày cũng bởi cái từ-tâm đó.

Tôi bèn quì xuống đường cái, lạy cha mà rằng:

- Lạy cha, ví bằng cha còn một chút nào cái từ-tâm đó, thì xin cha hạ tuất đến con. Con là con cha… Trời ơi! sao cha không đoái nghĩ đến mẹ con ngày trước. Khi còn mồ-ma mẹ con, cha yêu-mến mẹ con biết là dường nào! Con dám ví-dụ một điều. Giả-sử mẹ con đương ở với cha như thế, bỗng có kẻ đến bắt hiếp mẹ con mà đem đi, thì phỏng cha có chịu không? Chắc rằng cha không chịu, mà cha sẽ bênh-vực cho mẹ con đến kiệt kì huyết-mạch, muôn chết cha cũng chẳng nài. Lòng cha như thế, thì lòng con chắc cũng như thế. Ai đã từng trải sự thương-yêu nhau, sự đau-đớn rồi, lại có nỡ vô tình ở nơi thương-yêu, ở nơi đau-đớn của kẻ khác được.

Cha tôi nghe tôi nói thế thì nổi giận lên mà thét rằng:

- Tao cấm mày không được nói đến mẹ mày. Mày nhắc đến mẹ mày thì tao lại càng thêm giận. Ví dù mẹ mày có còn sống mà phen này nom thấy mày ăn ở như thế, mẹ mày cũng phải uất lên mà chết mất. Thôi thì mày câm ngay đi, đừng nói gì, tao không nghe nữa. Mày nói lắm chỉ ói tai tao mà không bao giờ khiến được tao có đổi ý đi đâu. Giờ tao về nhà, tao truyền cho mày phải đi theo tao.

Tôi những nghe cái giọng nghiêm-khắc của cha tôi truyền cho tôi câu sau đó cũng đủ hiểu rằng lòng cha tôi không sao chuyển được nữa rồi. Tôi những e cha tôi nắm lấy tôi, nên tôi phải lùi xa ra vài bước mà rằng:

- Lạy cha, thế là con cũng đã đủ khổ rồi, xin cha chớ để cho con thêm cái khổ phải trái lệnh cha nữa. Con không thể sao đi theo cha về nhà được. Mà cha đã đãi con tàn-nhẫn như thế, con cũng không thể sao mà sống được nữa. Vậy thì luôn đây, con xin vĩnh-biệt cùng cha…

Rồi tôi lại lấy giọng rất bi-thảm mà rằng:

- Nay mai thì cha sẽ được tin con đã chết rồi. Bấy giờ họa chăng cha có hồi tỉnh lại cái tấm lương-tâm đối với con. 

Tôi vừa quay lưng để đi thẳng thì cha tôi giận mà quát lên rằng:

- Vậy ra tao bảo mày đi theo tao, mày không đi. Nếu phải như thế thì mày đi đi, mày đi chết đâu thì chết đi. Tao cũng từ bỏ mày là một thằng con bạc-bội, bất-hiếu bất-mục.

Tôi cũng tức giận lên mà rằng:

- Vâng, tôi cũng xin từ-biệt cha là một người cha rất dã-man rất tàn-ác.

Tôi nói vậy, rồi tôi ra khỏi vườn Lục-xâm-bảo. Tôi đi như thằng dại ở ngoài đường, mà chạy thẳng cho đến nhà T… công-tử. Tôi vừa đi vừa ngửa mặt vừa giơ tay lên trời mà kêu cầu thần-minh soi-xét:

- Trời hỡi! hay là ông cũng tàn-nhẫn như người ta vậy, ông ơi! từ đây tôi chỉ còn trông vào có một ông nữa mà thôi!

T… công-tử đi chưa về, nhưng tôi đợi một lát thì về. Thì ra công-việc phía ấy cũng không may-mắn hơn phía này một chút nào. Bạn tôi mặt ủ mày chau mà thuật với tôi rằng Mỗ Mỗ sinh tuy không căm-tức cho bằng cha gã, song bạn nhờ về nói hộ với cha, gã cũng không chịu nói. Gã rằng những một việc cha biết con tranh gái của cha, cha gã cũng đủ hờn giận lớn rồi, còn có nể nhau gì nữa mà xin bảo hộ cho ai.

Thành ra tôi duy chỉ còn có kế mạo-hiểm của T… công-tử bày giúp mà thôi. Tôi đành phải hi-vọng vào một kế ấy. Tôi mới bảo bạn rằng:

- Quí-hữu ơi, kể thì kế ấy cũng không chắc một chút nào cả, nhưng dầu không cứu được nàng thì tiểu-đệ cũng còn cái hi-vọng được vì nàng mà chết trong việc mạo-hiểm.

Tôi nói rồi tôi từ-biệt bạn mà xin bạn ở nhà cầu-nguyện cho tôi, đoạn tôi chuyên tâm lo vào việc đi tìm lấy mấy tay sắc-sảo, tôi cố chọn lấy những người chẳng ra gì cũng được một li quả-cảm của mình.

Người tôi nghĩ đến trước nhứt, là người thị-vệ đã giúp tôi việc bắt Mỗ Mỗ sinh bữa trước. Luôn thể tôi đến xin ngủ nhờ nhà hắn một đêm, vì cả buổi chiều hôm ấy tôi loay-hoay suy tính quên mất cả đi mướn phòng mà ở. Tôi đến nơi thì thấy hắn có một mình ở nhà. Hắn thấy tôi được tha, thì hắn cũng mầng; hắn bèn giao hẹn tôi có việc gì cần đến nữa thì hắn xin giúp. Tôi kể cho hắn nghe nông-nỗi tôi là thế, và tôi xin hắn giúp tôi thi-hành hộ cái kế của T… công-tử bày cho. Hắn là người biết nghĩ, không phải là một gã hung-hăng xằng, cho nên tôi vừa ngỏ ý, hắn nom thấy ngay những chỗ nguy-hiểm. Tuy vậy mà hắn cũng cam-đoan với tôi xin làm lấy được.

Tôi cùng hắn bàn với nhau đến mãi đêm khuya. Hắn giới-thiệu với tôi ba người bạn đồng-ngũ đã giúp hắn lần trước được việc, toàn là những tay can-đảm đã có tang-chứng rồi. T… công-tử đã dò được và nói cho tôi biết trước rằng bọn cung-thủ đi hộ tống lũ con-gái chỉ có sáu người. Vậy thì chỉ năm tay quả-quyết cũng đủ mà nạt cho chúng nó phải sợ chạy.

Tôi lúc ấy chẳng thiếu gì tiền. Người thị-vệ khuyên tôi nên xử hào-phóng thì mới thành được công-chuyện. Phải tậu cho mỗi người con ngựa, khẩu súng tay và khẩu súng vắn. Sáng sớm mai thì hắn xin đi lo-liệu giúp cho đủ cả. Lại phải sắm cho ba người ba bộ quần áo nhà dân, kẻo lính thị-vệ nhà vua đâu lại dám ăn bận quần áo dấu mà đi làm một việc trái phép như việc ấy. Tôi giao cho hắn cái số tiền trăm bích-tôn của T… công-tử cho vay. Đến hôm sau thì hắn tiêu nhẵn số tiền ấy, không còn xu nhỏ. Ba người thị-vị ăn bận áo mới vào rồi diễu qua trước mặt tôi. Tôi hẹn họ không còn thiếu thức gì, để họ ra công cố sức cho tôi; ngay lúc ấy tôi hãy đưa trước mỗi người mười bích-tôn làm tin.

Hôm thi-hành đến nơi, tôi sai một người đi từ tinh-sương đến nhà-thương để hỏi xem giờ nào thì bọn ấy khởi hành. Tuy rằng tôi quá cẩn-thận mà sai người đi thăm hỏi như thế, vậy mà giả sử tôi không sai đi thì việc tôi lỡ hết. Nguyên tôi vẫn cứ tưởng họ giải bọn con-gái ra cửa biển La Ro-sen, tôi đã tính đem tiểu đội của tôi đi đón đường Ô-lê-an, thì đón đến trăm năm cũng không gặp ai cả. May sao tôi quá cẩn-thận mà sai tên lính đi thăm dò lại, mới biết đích rằng họ đi đường Nô-mân-đi mà ra cửa biển Lê-hao, rồi xuống tàu sang châu Mỹ.

Chúng tôi biết đích tin như vậy, bèn đem nhau ra phía cửa ở Thánh Ô-nô-rê, mỗi người đi một ngả, cho khỏi ai nghi, ra đến đầu ấp, mới họp nhau làm một bọn. Chúng tôi cưỡi toàn ngựa khỏe. Chỉ chờ trong một lát thì thấy sáu tên cung-thủ hộ-tống hai cỗ xe đi tới, chính là hai cỗ xe với bọn lính cung-thủ tôn-ông gặp ở Ba-xy ngày trước. Tôi thoạt nhìn thấy cảnh-tượng ấy, tôi rã rời tay chưn, tưởng chừng như chết ngất đi ngay. Tôi bèn ngửa mặt lên trời mà than rằng:

- Hoàng-thiên độc-địa! đã bắt ta đến nỗi nước này, thôi thì một là cho ta thắng, hai là cho ta chết!

Chúng tôi hội-nghị trong một lát để bàn chiến-lược, lúc ấy quân cung-thủ chỉ còn cách chúng tôi độ bốn trăm bước nữa mà thôi, chỗ ấy con đường cong trở lại, giả-sử chúng tôi đi tắt qua cánh đồng mà sang úp ngay họ thì cũng được. Người thị-vệ định thi-hành kế ấy, tôi cũng ưng theo, tôi bèn giục ngựa xuống đồng đi trước, tính xông thẳng sang đến tận nơi mà đánh. Không ngờ thần phúc-họa lại chơi khăm tôi miếng nữa.

Bọn cung-thủ đàng xa nom thấy năm con ngựa tế nước đại mà đến, biết ngay không phải là lại cầu thân. Họ bèn rút gươm mà cắm vào đầu súng, và nạp thuốc đạn sẵn sàng, có ý quả-quyết mà chờ chúng tôi lắm.

Người thị-vệ đầu đảng với tôi nom thấy thế thì lại càng hăng lên mà muốn đánh lắm, nhưng ba thằng kia, không ngờ là những đồ hèn-nhát cả. Đương chạy thì chúng nó đứng dừng cả lại, nói với nhau mấy câu gì tôi không nghe rõ, rồi quay cổ ngựa cho tế nước đại trở về Ba-lê cả ba; người thị-vệ thấy thế, cũng tức giận như tôi, bèn kêu trời mà than rằng:

- Chết nỗi ông với tôi biết tính sao đây? Mình có hai người địch với sáu sao nổi?

Tôi thì vừa tức giận vừa ngạc nhiên, nghẹn lời không thể nói được nữa, tôi cũng kìm ngựa lại mà nghĩ rằng có dễ nên đuổi ba thằng đào-tị kia mà giết cho chết để bõ giận, tôi nom theo ba con ngựa chạy mà tức lộn ruột, nhưng dẫu tức thế nào thì tức cũng không nỡ dời mắt hẳn bọn cung-thủ với hai cỗ xe; ví thử bấy giờ một mình có thể chia hai ra mà đuổi đánh cả hai đàng, thì tôi cũng chia mình ra mà xông đánh.

Người thị-vệ nom thấy mắt tôi ngơ-ngác, hiểu ý tôi phân-vân, bèn xin bàn với tôi một kế:

- Chúng ta chỉ có hai người, bên kia sáu người mà khí-giới người ta cũng cụ-bị như mình, vả bọn ấy coi bộ cũng quả-quyết thì xông đánh họ thật là một việc điên-rồ, chết uổng mạng mà thôi, không được việc gì hết. Âu là hai ta trở lại Ba-lê cố kiếm lấy mấy người mạnh-bạo hơn ba thằng vô-liêm-sỉ kia; bọn cung-thủ đi hộ-tống hai cỗ xe nặng nề như thế, chắc một ngày không đi được mấy bước đường; đến mai ta đuổi theo cũng hãy còn kịp chán.

Y bàn kế ấy thì tôi tính toán một lát đã toan theo, song lại nghĩ mọi bề, đâu ta cũng thấy những nỗi gàng-quải [?], không bề nào gọi là có ánh sáng hi-vọng cả. Tôi bèn quyết định ra một kế cùng, là kế tạ ân gã thị-vệ cho gã trở-về, còn tôi thì chẳng những không tính đánh nhau với bọn cung-thủ nữa, mà lại định lại hàng họ, chỉ xin họ cho phép tôi đi theo xe ra đến bến Lê-hao rồi đến đó tôi lại theo nàng xuống tàu sang châu Mỹ. Tôi quyết thế thì tôi bảo người thị-vệ rằng:

- Thôi, tôi xét ra mọi người ai cũng phản tôi và làm hại tôi cả. Tôi không còn biết trông cậy vào ai nữa. Tôi không tin ở thần mà tôi cũng không tin ở người nào hết. Cái khổ-sở của tôi đến thế này là cùng thôi, cũng không còn có nước nào là xót-xa hơn nữa. Âu là tôi đành nhắm mắt đưa chân mà đi theo số-phận, thôi thì tôi cầu nguyện bề trên chứng-quả cho cái lòng thảo của anh, tôi xin từ-biệt anh mà đi giúp số-phận một tay cho nó chóng đến nơi cực-điểm. Trời đã muốn bắt tôi khổ, thì chi cho bằng để tôi chạy nhanh đến chỗ cực-kì khổ, việc gì mà cưỡng lại cho nó thêm nỗi long-đong.

Người thị-vệ còn hết lời khuyên bảo tôi trở lại Ba-lê, tôi nhất định không nghe, tôi lại giục anh ta đi trở về mau, kẻo dằng-dai mãi, bọn cung-thủ lại nghi-ngờ cho là còn có ý công-kích.

Tôi thủng-thẳng mà đi lại phía họ, tôi cúi đầu rầu nét mặt mà đi, khiến cho họ không còn e sợ điều gì phản-trắc, họ để yên cho tôi đi tới. Tuy nhiên họ cũng vẫn còn giữ thế thủ cho đến tận lúc tôi đến gần họ, tôi bảo họ rằng:

- Xin các bác yên lòng, tôi đây không phải là kẻ thù lại khơi chiến, mà thật là một người hèn-hạ lại xin ân.

Tôi xin họ cứ việc mà đi, đừng nghi-ngại chi hết. Rồi vừa đi tôi vừa nói với họ ý tôi muốn xin họ những điều gì.

Sáu người bàn với nhau xem tôi khất thế thì nên chăng làm sao. Đoạn rồi người đầu đảng thay mặt cho cả bọn mà trả lời rằng lệnh quan trên nghiêm-ngặt lắm, nhưng chúng thấy tôi người vạm vỡ giỏi trai, chúng cũng sẵn lòng thương đoái mà trái lệnh quan đôi chút vì tôi, mong rằng tôi biết đền công. Trong lưng tôi lúc ấy còn vừa mười-lăm bích-tôn, tôi nói thật với họ như thế, thì người cai lại nói rằng:

- Nếu vậy chúng ta đây cũng chẳng hẹp gì. Trong bọn gái cho anh muốn chấm ả nào thì chấm, cứ một giờ trò-chuyện là một ê-cưu (ba phật-lăng) giá đi chơi gái ở Ba-lê cũng thế thôi mà.

Tôi không nói gì đến Mai-nương, vì tôi không muốn cho họ biết tôi với nàng mê nhau là thế. Kỳ-thủy chúng đồ cho tôi là một gã ăn chơi đã trải mùi đời, muốn đi tìm những thú đặc-biệt với bọn kĩ-nữ đem đầy xem ra làm sao. Từ khi chúng biết tình riêng của tôi với Mai-nương thì chúng tăng mãi giá những giờ trò-chuyện lên, đến nỗi đi khỏi thành Măng-tê thì tiền tôi không còn xu nhỏ. Đêm hôm ấy chúng tôi ngủ ở Măng-tê, sáng hôm sau thì đến Ba-xy, gặp tôn-ông ở đó.

Trong cái khúc đi đường sầu-thảm đó, tôi cùng nàng trò-chuyện với nhau những thế nào. Khi tôi được phép đến gần nàng ở trong cái cũi xe đi dong đường ấy, thì tôi nhìn thấy nàng, tôi thương-xót làm sao, tấm lòng tôi cảm-động ra thế nào, tưởng tiếng nói người ta không có đủ mà diễn đạt ra được. Tôn-ông ơi, tôn-ông tính người tình-nương của tôi thanh như hoa, nhẹ như bấc, cái thân ngà-ngọc, tưởng chừng như mãn kiếp chỉ để mà ngồi lên đệm nhung chiếu gấm, thế mà chúng nó đang tay đem cột một dây xích sắt vào ngang chỗ lưng ong thắt đáy, để cho ngồi trên đống rơm khô, đầu nàng thì tựa vào cái thành cỗ xe; mặt nàng thì xanh tái đi mà hai mắt nhắm nghiền, dòng lệ cứ tuôn rơi không dứt giọt. Nàng sầu-thảm chẳng biết đến dường nào mà khi bọn cung-thủ thấy chúng tôi đàng xa chạy lại, lao-nhao dộn-dịp lên như thế, mà nàng cũng không buồn mở mắt. Áo trong nàng thì dơ-dáy xốc-xếch, hai bàn tay ngà-ngọc thì để hở ra ngoài cho sương trêu tuyết chửi. Nói rút lại một câu thì cả cái mỹ-công tuyệt-tác của Tạo-hóa làm ra đó, cái vẻ mặt khuynh-thành có thể khiến được cho khắp vũ-trụ phải quì gối xuống mà thờ ấy, đương phải ở trong một nguồn-cơn bối-rối, một khổ-hải xót-xa, không văn-chương nào tả ra cho xiết được.

Tôi cưỡi ngựa đi theo bên cạnh xe một hồi lâu, vừa đi vừa ngắm nàng, trong ruột bồn-chồn sầu-khổ, đến nỗi đôi ba lần toan lịm đi mà ngã xuống ngang đường. Tôi thở dài thở vắn, kêu trời kêu đất luôn miệng, sau nàng cũng nghe tiếng mà đưa mắt ra nhìn. Nàng nhận được tôi thì vội-vàng đứng dậy tính nhẩy xổ ra với tôi, nhưng lại bị cái dây xích cột ngang lưng nó cầm lại, té ra hồ đứng lại ngã ngồi.

Tôi kêu van bọn cung-thủ, xin chúng thương tình mà đứng lại một lát, thì chúng cũng vị tham tiền mà đứng lại. Tôi bèn xuống ngựa rồi tôi trèo lên xe mà ngồi bên mình nàng. Nàng đau-đớn buồn-bã quá, đến nỗi trong giờ lâu không nói ra được tiếng, không cựa được hai tay. Tôi nắm lấy tay nàng rồi tuôn nước mắt vào. Khi ấy tôi cũng nghẹn lời không nói gì được, thành ra hai đứa chúng tôi ôm nhau ở trong cảnh-ngộ bi-thảm chưa từng thấy bao giờ. Đến khi hai bên nói được ra lời, thì những tình ý giãi tỏ cùng nhau lại càng ảo-não. Nàng thì nói ít. Hình như hổ-thẹn đau-đớn quá, tiếng nói cũng nghẹn không ra, vừa run vừa thì-thầm.

Nàng tạ ân tôi đã chẳng quên nhau, lại chịu khó theo nhau đến đó mà từ-biệt một lần sau rốt. Đến khi tôi nói cho nàng biết rằng tôi theo nàng đến đó không phải là để từ-biệt nàng, mà là để đi theo luôn với nàng cho đến cùng trời cuối đất, từ đấy mà đi, dầu sấm-sét búa-rìu, cũng không li-biệt được tôi với nàng ra nữa, tôi quyết chí nàng đi đâu cũng theo đi để mà săn-sóc cho nàng, để mà hầu-hạ nàng, để mà âu-yếm nàng, để mà buộc chặt cái số-mạng sầu-thảm của tôi với số-mạng nàng, khi tôi đã nói cho nàng biết thế, thì nàng vừa cảm-động, vừa xót-xa, nức nở tuôn hai hàng lụy, cảnh sầu-bi trong vũ-trụ không hai. Tôi thấy nàng như thế, tôi đã e không khéo nàng đau-xót quá mà thiệt tới thân ngay lúc ấy, bao nhiêu tình-cảm của nàng, bấy giờ tụ cả trong hai con mắt giương lên chừng-chừng mà nom tôi. Đôi ba lần nàng mở miệng toan nói cái chi mà ấp-úng không nói ra được, mãi mãi hồi lâu mới lọt ra được vài bốn câu, mà cảm-phục cái lòng yêu của tôi thủy-chung có một, mà phàn-nàn cho tôi thương-yêu nàng thái-quá; mà diễn đạt cái nghi tình của nàng chẳng biết được hạnh-phúc to đến đâu mà khiến cho tôi ngụ một khối tình thân-trọng đến dường ấy; nàng khuyên-ngăn tôi chớ đi theo nàng, nên ở lại mà kiếm lấy gái nào xứng-đáng cái tình cao-thượng ấy hơn nàng; mà nói rằng đi với nàng thì uổng mất công-phu, chứ không bao giờ được cái sướng-thỏa đích-đáng với tấm chung-tình.

Tuy cái cảnh-ngộ là cảnh-ngộ rất bi-thảm mà tôi những nom hai con mắt nàng nhìn, những thấy cái cách nàng tỏ với tôi tấm lòng mến phục, tôi cũng phải quên cái cực nhục sờ sờ trước mắt đi, mà cho mình là người thỏa sướng. Tôi dầu đã mất hết cả những cái người ta quí-trọng đi rồi, nhưng vẫn còn được tấm lòng yêu của Mai-nương là cái tôi quí-trọng thứ nhứt, của đời nhứt dai [nhất giai] tôi không còn quí-trọng cái gì nữa. Sống ở Âu-châu, hay là sống ở Mỹ-châu, bất quá cũng vậy, quí hồ được sướng-thỏa mà cùng sống với người yêu của mình, cả vũ-trụ lại chẳng phải là quê-hương của hai người tình-nhân đinh-ninh một dạ với nhau hay sao?

Đã yêu nhau thì nhìn nhau lại không đủ thấy được cả cha, cả mẹ, cả họ-hàng thân-thích, cả bằng-hữu anh em, cả vinh-hoa phú-qui ư?

Duy tôi chỉ còn tỏ có một điều là lo sau này Mai-nương nghèo khó thiếu-thốn mà thôi. Bấy giờ tôi đã tưởng-tượng ra cái cảnh tôi với nàng ở giữa nơi hoang-địa, dân cư toàn thị những đồ mọi-rợ mà thôi. Tôi bụng bảo dạ rằng: ở đó thì quyết không có những phường độc-ác như lão phú-gia Mỗ Mỗ với cha tôi. Ở đó thì người ta để cho hai chúng tôi yên lành mà ở với nhau. Cứ như những bài hành-trình của các nhà du-lịch, nếu chẳng nói ngoa, thì thổ-dân các chốn ấy lấy lẽ thiên-nhiên làm luật-phép. Không còn ai biết sự tham tài như lão-gia Mỗ Mỗ, mà không còn ai câu-nệ những điều danh-dự hão như cha tôi, vì những lý-tưởng hủ-lậu ấy nên cha con đã hóa cừu-thù. Người xứ đó ăn ở giản-dị, thấy một đôi trai gái ăn ở với nhau cũng một cách giản-dị như mình, thì hẳn không hơi đâu mà đến quấy nhiễu. Vậy thì tôi rất yên lòng về một phương-diện đó.

Duy còn cái phương-diện nhỡn tiền, là cái phương-diện đói no lành rách, những sự cần dùng hằng ngày của người ta, thì tôi không ngụ được những ý-tưởng nên văn tiểu-thuyết như thế. Số là đã nhiều phen tôi được từng trải những sự ngặt-nghèo không thể nhịn, nhứt là trong cách sinh-hoạt của một người đàn-bà yếu đuối, xưa nay ăn sung mặc sướng đã quen. Bây giờ tôi lại ân-hận rằng tiền đã trót tiêu vô ích hết cả. Trong lưng còn sót mấy đồng, cũng biết rồi vào tay bọn cung-thủ hết mà thôi. Lúc ấy tôi mới nghĩ rằng ví thử trong túi áo tôi còn một chút vốn, sang đến Mỹ-châu là đất kiếm tiền thì chẳng những có phương-kế dung thân trong buổi tới nơi mà về sau lại còn có cách gây-dừng nên việc sinh-nhai trường-cửu.

Tôi nghĩ đến câu ấy thì tôi viết thư cho Tỉ-ba, tòng-lai là người bạn tốt, không để cho tôi phải ngửa tay ra vô ích bao giờ. Đi qua trạm thứ nhứt thì tôi bỏ thư vào sở bưu-chính. Trong thư tôi chỉ biên một lẽ đi theo tiễn chân nàng đến bến Lê-hao, đến nơi thì tiền hết mất, e nữa bơ-vơ tại chốn xa-xôi không có tiền chi dụng, nên nhờ bạn trăm bích-tôn nữa. Thư kết một câu rằng: “xin anh gửi số bạc ấy cho chủ sở bưu-chính bến Lê-hao nhờ giao cho em. Lần này em quấy anh là lần sau rốt. Anh đã biết nông-nỗi tình-nương của em bị bắt đem đi biệt xứ, chẳng lẽ khi biệt-giã nhau, người đi kẻ ở, lại chẳng cho nhau được tấm bánh đồng quà, gọi chút an-ủi nỗi sầu trên con đường muôn dặm lưu-li, cho nó khuây đôi chút cái cảnh nhớ thương của người từ đây phân-rẽ”.

Khi những quân cung-thủ đã biết tôi với nàng tình sâu nghĩa trọng với nhau như thế, thì chúng xử mỗi ngày một tàn-tệ, lại càng sách nhiễu tôi già, đến nỗi tôi còn sót đồng nào lần lần chúng lấy ráo. Vả yêu nhau ai mà biết cần-kiệm. Miệt-mài một thứ keo-sơn, tôi cứ quấn lấy nàng từ sớm đến tối, không còn tính hàng giờ nữa, mỗi ngày cầm như một phút. Đến khi túi tiền đã nhẵn, thì chúng xử với tôi thật là tàn-nhẫn độc-ác. Tôn-ông đã nom thấy tình-cảnh tôi ở Ba-xy như thế. Thử thời tôi gặp được tôn-ông, thật là gặp được một hạnh-phúc đặc-biệt, như một giờ tạnh-ráo ở trong cuộc phong-ba mãi mãi. Lòng tôn-ông thật là từ-bi quảng-đại, thoạt nom thấy tình sầu-khổ dẫu không quen mà cũng đoái thương. Nhờ có món tiền của tôn-ông bố-thí, mới theo nàng cho được tới bến Lê-hao, mà may sao quân cung-thủ cũng y hẹn với tôn-ông cho đến lúc tới nơi.

Đến bến Lê-hao, tôi vội ra sở bưu-chính thì Tỉ-ba chưa kịp gửi tiền. Tôi hỏi thăm thì họ nói chừng hai ngày nữa mới được tin. Chẳng may cho tôi, tàu cũng hai hôm nữa chạy, nhưng lại chạy tờ sáng sớm. Tôi kể làm sao cho tôn-ông nghe xiết được cái nỗi buồn-rầu lúc ấy. Tôi giận thân quá kêu trời mà than rằng:

- Ô này! Hoàng-thiên chí hại ta! Sao trong cơn sầu-khổ cũng còn đãi ta một cách đặc-biệt?

Nàng nghe tôi ta-thán như vậy thì nàng nói:

- Chàng ôi, một kiếp người mà sầu-khổ cho đến nước này thì phỏng có bõ công sống hay không? Âu là đôi ta chết quách ở bến Lê-hao này đi cho rồi mọi nỗi gian-truân. Đôi ta sang đó, chắc là còn nhiều nước đắng-cay thế nữa, bởi vì họ đem thiếp đi là cốt để răn phạt, hành hình. Sao ta lại cùng nhau tha cái khổ-não đến nước non người làm chi cho nó cực? Thôi thì đôi ta chết đi, chàng ơi. Hay thế này thì hơn, chàng giết thiếp đi cho rồi thân phận thiếp, rồi chàng đi kiếm lấy người nào có hạnh-phúc hơn mà cầu lấy một cuộc trăm năm khác.

Tôi lắc đầu mà rằng:

- Không, không, xin nàng đừng nói thế, ta đây được cùng nàng chịu cực, ấy là cái hạnh-phúc đáng thèm rồi.

Tôi nghe nàng nói mà tôi run-sợ, tôi biết nàng xót-xa vì nỗi truân-truyên [truân chuyên]. Tôi bèn cố sức gượng nói gượng cười, để ra dạng con người yên phận, mà khiến cho nàng đừng phẫn thân quá. Từ đó trở đi, tôi quyết chí không bao giờ ra mặt buồn-rầu, để nàng biết nữa. Sau tôi mới nghiệm ra rằng trong những lúc ba-đào như thế, không gì khiến được người đàn-bà phải can-đảm, như là cái gan-góc của người đàn-ông.

- Khi tôi đã hết hi-vọng được tiền của bạn gửi cho rồi, tôi bán phăng con ngựa. Số tiền ấy góp lại với số tiền của tôn-ông cho còn dư, thì thành một cái vốn nhỏ mười-bảy bích-tôn. Tôi mua quà bánh ăn đường cho nàng mất bảy bích-tôn; còn mười bích-tôn, tôi bọc thật kĩ mà giắt vào lưng, để làm cái vốn bản-mệnh, sinh cơ lập nghiệp bên đất Mỹ. Bao nhiêu hi-vọng, bao nhiêu cuộc trăm năm vuông tròn của tôi với nàng, là thu hết cả trong cái số tiền một trăm phật-lăng đó. Khoản tiền cước tàu thì cũng dễ lo xong, nhân thời ấy người ta đương cần nhiều người thanh-niên cường tráng để đem sang thực-dân bên châu Mỹ. Tôi hồ xin được ngay, tiền tàu đã không phải trả, lại được cơm nuôi. Sáng hôm sau thì có trạm tải công-văn về Ba-lê, tôi bèn viết thư để lại gửi cho Tỉ-ba. Ý chừng trong thư ấy lời tôi kể lể thiết-tha quả đỗi, khiến bạn động lòng thương-xót vô cùng, cho nên về sau bạn tôi mới quyết một việc chứng tỏ tấm lòng yêu-mến tôi một cách lạ-lùng chưa từng thấy ai bằng-hữu yêu nhau đến thế bao giờ.

Tàu kéo buồm ra đại hải, may ra thuận gió xuôi dòng, từ khi đi cho đến khi tới bến, tôi nói với quan coi tàu cho tôi với nàng được một chỗ ăn nằm riêng lịch-sự. Viên ấy là người hảo-tâm hãn-hữu, đãi chúng tôi một cách thậm nhân-từ. Nguyên hôm mới xuống tàu, tôi đã được dịp nói chuyện riêng với quan coi tàu, tôi có kể qua những nỗi gian-truân của nàng cùng tôi cho ngài biết, để ngài vị nể đôi phần. Tôi nói với ngài rằng nàng với tôi đã cùng nhau kết-duyên phu-phụ. Tôi nói như thế thì trong lương-tâm tôi hình như cũng không phải thẹn gì, bụng tôi nghĩ như lời nói thật vậy, quan coi tàu ra dáng tin tôi, và đem lòng bênh-vực trong suốt một quãng đường dài đi biển. Nhiều phen hai chúng tôi đã được nhờ ân ngài mà không khổ, việc ăn uống ngài đãi cho quá hậu. Vả người cùng đi với mình thấy quan trọng-đãi cũng hóa vì nể ít nhiều. Luôn luôn tôi săn-sóc bên mình nàng để cho nàng không phải thí nào thiếu-thốn. Nàng cũng biết công cho. Phần nàng cảm cái ân ấy, phần nàng thấy tôi vì nàng mà chịu đến nước cực khổ quái lạ như thế, nàng cũng động lòng ái-ngại, mà nguồn ân biển ái thêm dầy. Thành ra tôi cố sức chiều nàng, nàng cố sức chiều tôi, hai bên cứ ganh nhau mà trọng-đãi nhau, và yêu-mến nhau đến nước. Tôi không tiếc nhớ gì Âu-châu nữa. Chẳng những thế, tàu càng gần bến, tôi lại càng thấy lòng dạ nở-nang thỏa-sướng. Ví bằng tôi được biết trước rằng tới nơi đất khách không lo thiếu-thốn sự gì thì tôi lại còn tạ ân trời đất đã xoay-vần ra cho tôi như thế.

Tàu đi trong hai tháng thì đến nơi. Mới thoạt ngoài biển nhìn vào thì không thấy cảnh gì là cảnh vui cả. Mông-mênh những đất bỏ hoang, ngọn cỏ thưa, hơi người cũng vắng, chỉ đó đây một vài bụi sậy, gốc cây, trải bao mưa sa gió táp, đã rụng rơi nhẵn lá. Trông cảnh thật đìu-hiu, tìm quanh chẳng thấy dấu chân người, mà cũng không thấy vết những vật quen bên cố-địa. Mãi đến khi quan trên tàu đã nổi một vài tiếng súng hiệu, mới thấy một lũ đông người trong phố khuất kéo ra. Số là thành-thị ở sau một trái núi đất, lúc họ kéo ra xem tàu thì hình như chúng tôi được những người trong lỗ nẻ chui ra mà đón vậy.

Họ xúm-xít nhau lại, họ hỏi thăm tin-tức nước nhà; người tỉnh nào ân-cần thăm tin tỉnh ấy. Họ ôm lấy chúng tôi mà hôn-hít yêu-đương như thể anh em máu-mủ, mầng rằng trong chốn xa-xôi vắng-vẻ, lại thêm được lũ chúng tôi đến chia nỗi khó-nhọc làm ăn. Chúng tôi cùng với họ đi vào trong thành-thị. Xưa nay thường nghe tiếng đồn về Đại-pháp rằng chốn ấy đã nên một bậc đại-thị, mà đi đến nơi thì té ra chỉ thấy leo-teo mấy nóc nhà gianh, độ năm sáu trăm dân ở. Dinh quan khâm-mạng Toàn-quyền thì cất cao hơn và lịch-sự hơn các nhà thường một chút. Xung-quanh dinh cơ thành đắp bằng đất, ngoài có hào rộng.

Kỳ-thủy quan chúa tàu đem cả bọn khách mới sang chúng tôi vào hầu quan Toàn-quyền. Ngài nói chuyện riêng hồi lâu với quan chúa tàu, rồi ngài mới quay lại lũ chúng tôi mà nhìn lần-lượt từng người đàn-bà một. Cả thảy có chừng ba-mươi thị, vì khi qua bến Lê-hao, lại thêm một bọn nữa nhập vào với bọn chúng tôi. Khi quan Toàn-quyền ngài đã xem-xét kĩ-càng từng người rồi, ngài mới cho đòi mấy người trai trẻ trong thành-phố vào dinh, mấy người ấy toàn thị những trai đương nóng lấy vợ cả. Ngài chọn lấy mấy thị xinh-đẹp nhứt mà chia cho mấy người có danh-diện nhất, còn dư thì ngài cho rút thăm, ai trúng thị nào thì nhận lấy thị ấy về làm vợ. Còn Mai-nương thì ngài không nói gì đến. Mãi đến khi bọn kia đã đi theo chồng ra hết rồi, ngài mới truyền cho tôi với nàng ở lại mà phác rằng:

- Quan coi tàu có trình với ta rằng cậu với mợ này đã lấy nhau làm vợ chồng, vả trong mấy tháng trời tàu đi ngoài biển, quan coi tàu lại thấy hai vợ chồng nhà cậu đều là người có giáo-dục, có phẩm-hạnh. Vì duyên cớ nào mà phải đầy-đọa sang đây, thì ta không luận, nhưng ví bằng vợ chồng cậu quả là người đứng-đắn, thì ta sẽ hết sức giùm-giúp cho, để nhẹ cái thân đầy-đọa đi đôi chút. Vả ta sang trọng-nhậm đất xa-xôi này, cảnh vật rất buồn mà dân lại hiếm, nếu ta gặp được người trị-hạ có phẩm-hạnh, mà ta lại cưu-mang được, thì cũng vui cho lòng ta được đôi ba phần.

Tôi khéo lựa lời trình thưa lại để ngài không phải tiếc những lời trân-trọng vừa rồi. Ngài kêu ti-thuộc vào truyền bảo kiếm nhà cho chúng tôi ở trong thành-phố, rồi ngài giữ cả hai vợ chồng ở lại hầu cơm ngài buổi tối. Khen thay một ông quan coi một hạt những dân đầy-đọa như chúng tôi, mà sao ăn ở lễ-phép như vậy. Lúc đương tiệc, có kẻ nọ người kia, ngài không hỏi gì đến lai-lịch chúng tôi cả. Khách ăn chỉ nói toàn những chuyện công. Nàng với tôi thì tuy tình-cảnh rất thảm-sầu, thấy vậy cũng phải gượng nói gượng cười cho vui bữa tiệc.

Cơm xong, ngài sai người đưa chúng tôi đến nhà riêng ngài đã sai dọn cho mà ở. Thảm hại cái nhà! tường thì bằng đất, mà trên lợp bằng ván, ngăn ra làm hai ba cái phòng, trên có cái gác xép. Ngài ban cho sáu cái ghế, và giường phản cùng những đồ thiết-dụng.

Mai-nương bước chân vào nhà, những nom thấy đã giật mình. Nàng giật mình là giật mình cho tôi, chứ không phải là nàng lo cho mình nàng. Khi người chỉ dẫn đi khỏi rồi, còn có nàng với tôi, thì nàng ngồi xuống mà ôm đầu khóc. Tôi hết sức khuyên dỗ nàng, nhưng đến khi tôi nghe ra nàng khóc vì tôi, thì tôi lại làm ra mặt tươi cười hớn-hở mà rằng:

- Nếu phải vậy thì xin mình chớ phiền-muộn nữa. Mình ơi, tôi còn phải phàn-nàn chi nữa mà mình buồn cho tôi? Thật là tôi mãn kì sở nguyện. Mình yêu tôi, có phải chăng mình? Xưa nay có bao giờ tôi ước-ao được hơn thế này đâu? Thôi, thôi, âu là phần của-cải ta mặc trời khiến định. Vả tôi xem ra thì phận đôi ta cũng còn có thể mong được mai sau. Quan thủ-hiến đây là người khoan-dung đại-độ, ngài lại có lòng vì nể chúng ta, thì chắc hẳn sau này dẫu chẳng gì đôi ta cũng không đến nỗi đói rách rồi. Còn như cái nhà này hơi lụp-xụp, đồ-đạc khí quê-mùa, thì điều ấy mình cũng chớ nên phiền-muộn. Mình có ý mà coi, ở đây có ai là người được ở nhà cao rộng trang-hoàng lịch-sự hơn ta đâu. Vả chăng, mình là một nàng tiên có phép lạ, mó vào đâu, đất cũng hóa vàng.

Tôi vừa nói thế, tôi lại hôn nàng. Nàng rằng:

- Nếu vậy thì lang-quân rồi sẽ nên người giàu-có nhứt ở trong thiên-hạ. Bởi vì thiếp chưa từng thấy ai cảm được cái ái-tình trân-trọng như lang-quân, mà cũng chưa có ai được gái yêu-đương như là thiếp yêu lang-quân. Thiếp đây là người biết mình, cũng cam chịu rằng xưa nay ăn ở với lang-quân thật chẳng xứng-đáng cái lòng âu-yếm thái-quá ấy một chút nào. Thiếp vốn là đứa nhẹ dạ, lại hư tính-nết. Vả thiếp yêu lang-quân từ thuở tương-tri cho mãi đến bây giờ, cũng là một tội phụ-bạc với lang-quân. Nhưng sự về trước không kể làm chi nữa. Hãy nói từ khi đôi ta cùng xuống tàu sang đất này, từ ấy đến giờ thì lòng thiếp đổi hẳn, không như trước nữa. Thiếp thề rằng bấy nhiêu nước mắt chua cay tuôn rơi từ đó, thật không có nửa giọt nào là nước mắt than thân trách phận. Lang-quân ơi, bao nhiêu nỗi xót-xa sầu-khổ, từ khi thiếp đã biết lang-quân xẻ nửa đến giờ, thì không xót-xa không sầu-khổ gì cho thiếp nữa, Thiếp chỉ vì yêu vì thương lang-quân mà khóc đó thôi. Chàng ơi, thiếp thề rằng trọn trong một đời của thiếp, không có lúc nào là thiếp đã chí tâm mà để chàng phiền-muộn điều gì, nếu thiếp đã vô tâm mà làm nên tủi cho chàng bao giờ, thì ân-hận ấy chung-thân còn mang nặng, những khi thiếp lỡ-làng nhẹ dạ mà quên mất nghĩa tiết-trinh, sau nghĩ ra thật muôn phần cay-đắng. Mà khen cho cái phép lạ của ái-tình, đã khiến lang-quân không nỡ bỏ một con đàn-bà khốn-nạn bấy nhiêu lần làm nhục tấm chung-tình; thiếp nghĩ đến một điều như thế, thì lòng yêu-đương lai-láng biết dường nào, tưởng dẫu đem cả huyết-mạch ra đền-bồi, cũng chưa trắng nợ với lang-quân.

Nàng nói đến câu ấy thì lại khóc hu hu lên, tôi nom thấy nàng tuôn rơi lụy, tôi nghe lời nàng nói, cái giọng thành-thực không có li hào mua chuộc, thì tôi động lòng một cách quái lạ. Bấy giờ hình như trong dạ xẻ làm đôi. Tôi mới bảo nàng rằng:

- Khéo, khéo, mình ơi, kẻo nữa sức ta không đủ mà chịu nổi bấy nhiêu hoan-lạc. Vốn xưa nay ta với mình chưa từng được biết những cách mình âu-yếm ta đến thế. Ông trời ơi, nếu vậy thì từ đây tôi không cầu gì ông nữa. Tôi xưa nay chỉ ước-ao thu được một tấm lòng nàng, nay thế là mãn nguyện rồi. Tôi tòng-lai chỉ trông mong có thế để mà sung-sướng. Được thế rồi thì từ nay trở đi cuộc sung-sướng của tôi đã vững trong tay, không còn mất được đi đâu nữa.

Nàng rằng:

- Vâng, nếu cuộc sung-sướng trăm năm của lang-quân chỉ cậy ở như thiếp mà thôi, thì quả lang-quân đã cầm chắc trong tay. Còn như cuộc sung-sướng trăm năm của thiếp, thì thiếp cũng đã biết rằng trông cậy được ở lang-quân.

Tôi mang những ý-tưởng vui mầng ấy mà đi nằm nghỉ, cái lều gianh bỗng hóa ra một tòa cung-điện, dẫu ông vua to nhứt trong thiên-hạ đến ở cũng là xứng-đáng. Mỹ-châu tự dưng trong ý tôi thành một nơi cực-lạc thế-giới. Sau thường tôi vẫn bảo Mai-nương:

- Mình ơi, thiên-hạ dại nhỉ, cứ đi tìm cuộc sung-sướng ở đâu, chẳng đến đất Tân Ô-liên này mà kiếm. Đây mới là chỗ yêu-mến nhau không phải vì tài vì lợi, không phải ghen-tuông, không phải phụ nhau mà thay đen đổi trắng. Than ôi! vậy mà người nước ta lại cứ sang đây tìm vàng tìm bạc, họ không biết rằng đôi ta đã tìm được những của quí-báu hơn vàng.

Chúng tôi cố ý hầu-hạ quan Toàn-quyền. Cách một vài tuần-lễ thì ngài đã ra ân rộng mà cho tôi một chức việc nho-nhỏ ở trong soái-phủ. Tuy việc ấy không sang-trọng gì, mà tôi cũng tạ ân ngài lĩnh lấy, coi như thể một cái hạnh-phúc to của trời ban tứ cho. Nhờ có việc làm đó, tôi có cách dung thân và nuôi vợ, chẳng phiền-lụy tới ai. Tôi nuôi một tên đứa ở, và tôi mướn một người thị-nữ cho nàng. Dần dần trong nhà thành nền-nếp. Tôi được tính tiết-kiệm, rượu-chè không, cờ-bạc cũng không. Nàng cũng một mực như tôi. Dư phong-túc, thỉnh-thoảng chúng tôi lại còn cưu-mang được kẻ khác, xóm diềng [giềng] ai nấy được cậy nhờ. Tiếng hẳn-hoi đồn dậy trong khắp xứ, ai nấy cũng yêu-đương kính-phục, chẳng bao lâu mà vợ chồng vào bậc danh-giá nhứt, trên có quan Toàn-quyền, thứ đến vợ chồng nhà mình ở trong một xứ.

Yên nghiệp làm ăn như thế, thì chúng tôi lần lần nhớ đến những nghĩa tôn-giáo. Mai-nương vốn không phải là một gái vô-đạo, mà tôi thì cũng không phải là một trai lêu-lổng ăn chơi, đã bỏ cương-thường lại quên đạo-lý. Hai chúng tôi sinh hư chẳng qua chỉ vì mê nhau mà lại trẻ người non dạ. Dẫu từ ngày lưu-lạc, cũng chưa lớn lên là mấy, nhưng trải qua những nỗi khắt-khe, nó cũng hóa ra một chút lịch-duyệt việc đời. Từ đó trở đi trò-chuyện với nhau thường có nghĩ, lần lần tưởng đến những lý-tưởng thất-gia. Tôi bàn với nàng điều ấy trước nhứt. Tôi nguyên vẫn biết bụng nàng, tính vốn thật-thà ngay-thẳng, đã có hai nết ấy thì khó gì mà chằng sửa được mình cho nên bậc đức-hạnh. Nhân một khi tôi nói với nàng rằng đôi ta muốn trọn-vẹn cùng nhau trăm năm sung-sướng, còn thiếu mất một điều.

- Điều ấy là viện chúa Trời chứng quả cho cái cuộc đoàn-tụ của nhau. Tôi với mình đôi ta đều có lương-tâm, bản-tính cũng là người phẩm-hạnh, chẳng lẽ lại cứ quên nghĩa cương-thường được mãi. Như khi đôi ta còn ở nước nhà, thuận duyên mà trái thế-tục, cho nên lìa nhau ra chẳng được, mà kết-hôn với nhau theo phép nước cũng không xong. Nay ta sang đất Mỹ này, muôn sự giai-do quyền tự-chủ, không phải quản những nỗi dòng-giống thứ bậc, người đồng-thị đã đều coi như vợ như chồng, thì cớ gì mà lại chẳng làm phép cưới lấy đứt nhau cho nên duyên cầm-sắt, có thần-minh chứng quả cho đôi ta thệ-nguyện nghĩa trăm năm. Về phần tôi thì dầu tôi có cưới mình cũng không phải là thêm ra cho mình được quyền-lợi gì nữa. Lòng tôi duyên tôi, tôi đã tận-hiến mình rồi, nay làm phép cưới, chẳng qua là dâng lại mình trước Chúa mà thôi.

Tôi nói thế thì hình như nàng mừng-rỡ vô cùng mà rằng:

- Mình ơi, mình đã nói rồi, giá tôi lại nói rằng từ khi đôi ta đem nhau sang đất Mỹ này, tôi đã tưởng đến việc ấy nghìn lần rồi, thì mình vị tất có tin là tôi nói thật. Tôi ước-ao điều ấy mà chửa nói ra, là còn ngại không vừa ý lang-quân. Biết đâu mình lại hạ-cố đến thân bèo-bọt này mà muốn cho vào bậc bố-kinh, đội tên nhà sang-trọng.

Tôi đáp:

- Ví bằng Trời có cho tôi được dòng vua chúa, tôi cũng xin cất mình lên làm bậc chính-cung. Vậy thì đôi ta chớ ngần-ngại chi nữa. Vả ta không còn sợ điều chi ngăn-trở hết. Để tôi vào bẩm ngay hôm nay với quan chúa-tể bản-phương mà thú thật với ngài cái câu dối ngài khi trước. Thôi, thôi, mặc những đứa yêu nhau cách phàm-thường hay sợ dây xe vương-víu. Ví chúng nó cũng chắc như đôi ta rằng mười phần tin yêu nhau đủ cả, thì có đâu lại sợ việc giao- kết bách-niên. Nhưng thiên-hạ thường tình yêu nhau mà vẫn dành ngày rẻ-rúng, chứ như đôi ta, trăm phần tin nhau đã đủ cả trăm rồi.      

Tôi quyết một lời như thế thì Mai-nương vui mầng không biết nói sao cho xiết được.

Tôi chắc trong thiên-hạ không có người lương-thiện nào là người không phục cái ý của tôi trong cảnh-ngộ ấy. Phần thì tôi yêu-mến nàng đã đến rất mực, chắc rằng trọn đời cũng không bao giờ ghét bỏ nhau ra nữa, phần thì tôi ân-hận đã yêu-mến nàng sao không theo phép nhà thờ mà kết nghĩa trăm năm. Trời cao hỡi hỡi! hay đâu giữa lúc tôi lo-tính việc nhà cho thuận đạo trời, thì trời lại vì thế mà hại tôi một cách oan-ức vô cùng, tôi có rên khóc mà trách trời, hẳn cũng không ai bảo tôi là trái lẽ. Tôi đã lòng thành chịu phép, mà ông trời đã chẳng cho thì thôi, lại hại tôi như thể tôi đã làm nên tội ác vậy. Thì ra trong khi tôi đui-mù, lạc lối ở trong nơi hư dại, trời lại dung tôi; đến khi tôi mở mắt ra nom rõ đường ngay, tôi muốn hồi tỉnh tấm lòng đạo-đức thì ông lại đang tâm hành-hạ đến điều. Tôn-ông ơi, tôi e rằng tôi không đủ sức, đủ cam-đảm, mà kể nốt được cho tôn-ông nghe cái khúc sầu-thảm sau cùng trong cái chuyện lưu-li của tôi.

Hôm ấy tôi bàn với Mai-nương như thế, rồi tôi vào hầu quan Toàn-quyền, để xin phép ngài cho làm lễ giao-hôn. Ví bằng tôi có thể làm mật-lễ được với ông cụ coi việc làm phúc ở Toàn-quyền phủ, thì tôi cũng chẳng nói với ai việc ấy làm gì cho tiết-lộ sự nhà để người ta nghị-luận lôi-thôi. Ngặt vì ông cụ-dạo ấy không thể thi quyền riêng mà hành mật-lễ được, cho nên tôi mới quyết định công-nhiên mà lo cho chu-tất.

Quan Toàn-quyền ngài có một người cháu trai, tên là Xinh-lê (Synnelet) rất là yêu-mến của ngài. Cậu ta thời ấy ước chừng ba-mươi tuổi, người có cam-đảm, song phải tính nóng-nảy hay làm việc cường-bạo. Vợ chưa có, khi thấy Mai-nương vừa sang đến nơi, đã đem ngay lòng say-đắm. Trong chín mười tháng trời, chúng tôi ở đất Mỹ, cậu ta cũng nhiều phen gặp mặt nàng trò-chuyện, thì lửa tình càng ngàng lại càng nồng mặn, nhưng vẫn ngậm ý riêng trong bụng, số là cậu ta cùng hết thẩy mọi người ở xứ ấy vẫn tưởng tôi với nàng đã có phép giao làm chồng làm vợ rồi, cho nên chẳng những cậu ta đã hết sức giữ kín được ý-tình thầm-vụng, không ngỏ cho ai biết tơ-hào nào cả, mà lại còn nhiều phen giúp cho tôi việc kia việc nọ.

Khi tôi vào đến dinh thì tôi gặp cả quan Toàn-quyền và người cháu đó. Tôi không có lẽ gì phải giấu-giếm chàng ta, cho nên có chàng ta đó mà tôi cũng cứ tự-nhiên bẩm xin làm phép cưới. Quan-lớn ngài nghe tôi nói, ngài cũng tỏ lòng quảng-đại chuẩn cho. Khi tôi xin ngài hạ-cố lấy tình phụ-mẫu mà đến chứng-minh cho thêm trọng-thể thì chẳng những ngài đã nhận lời, mà ngài lại còn hẹn cho tiền làm tiệc. Tôi hớn-hở mà ra về.

Cách một giờ đồng-hồ thì tôi thấy cụ-đạo đến nhà, tôi đã tưởng cụ vào dặn bảo trước mọi việc lễ-nghi. Không ngờ cụ bước vào, cụ chào tôi một cách lạnh-lùng rồi cụ nói ba câu vắn tắt cho mà biết rằng việc kết-hôn ấy quan Toàn-quyền cấm không được nghĩ tới nữa, còn phận nàng Mai-nương thì đã định cho thế khác rồi.

Tôi nghe lời như sét đánh bên tai, giật nảy mình lên mà hỏi:

- Định phận cho Mai-nương thế khác, nghĩa là làm sao, thưa cụ?

Cụ mới giải cho tôi nghe rằng quan Toàn-quyền là chủ-tể cả một phương, mọi việc do phép ngài nghĩ định. Vả Mai-nương là một gái chính-phủ tổ-quốc gửi sang để dùng cho đất thực-dân, phận nàng phải thế nào, do quyền ngài liệu định. Từ khi nàng sang đến giờ, ngài để yên cho nàng ở với tôi là vì ngài tưởng là hai người có phép giao làm vợ chồng rồi. Mới đây, chính tôi lại vào bẩm với ngài rằng phép cưới ấy chưa có, thì ngài định đem nàng mà gả cho lệnh-điệt là cậu Xinh-lê, vì cậu ấy say-mê nàng lắm lắm.

Khốn khổ cho tôi, chỉ vì tính nóng mà hại! Tôi nghe cụ-đạo nói lời chướng tai tôi như thế thì tôi lên giọng kẻ cả mà đuổi cụ ra ngay tức-khắc và tôi thách cả quan Toàn-quyền, cả cháu quan Toàn-quyền, cả quan dân đất ấy đố ai dám động đến vợ tôi, hay là nhân-ngãi tôi, tùy ý chúng nó muốn gọi là gì thì gọi, nhưng mà đụng đến của tôi thì tôi thề rằng không được.

Tôi vội-vàng thuật cho Mai-nương biết tin dữ ấy. Chúng tôi bàn nhau rằng ý hẳn từ khi tôi ở soái-phủ đi về, chàng Xinh-lê đã dỗ-dành được quan-lớn, mà tất việc này chàng mưu đã từ trước kia rồi. Thế-lực ở người ta. Hai vợ chồng mình thì bơ-vơ ở trong đất Tân Ô-liên ấy, khác nào ở giữa đại-hải, xa cách với cựu-thế-giới kể hàng vạn dặm… Xung-quanh những núi cùng rừng, toàn thị giống ác-thú ở, dân bổn-thổ thì mọi-rợ cũng không kém gì ác-thú, vậy thì biết trốn đi đâu cho lọt bây giờ? Tuy rằng trong đám người đồng-thị với mình, cũng nhiều người ái-mộ, song không lẽ khiến nổi họ được phải bênh-vực mình trong một cơn tai-nạn to như thế. Ví muốn gây lấy bè-đảng mà kháng-cự thì phải nhiều tiền mới được, mà vợ chồng mình thì nghèo, và xui được dân một nước vì mình mà cách-mệnh, là một việc trắc-trở khó-khăn, đã dễ một chốc mà thành-hiệu ra được điều gì ích cho mình. Nếu vậy thì ra thiên-tâm cố hại, thật là không có thuốc chữa phen này.

Bấy nhiêu ý-tưởng, tôi vò bối-rối ở trong đầu, tôi cũng có bàn một hai câu với Mai-nương, nhưng tôi hỏi nàng mà khi nàng đáp lại thì tôi không để tai nghe, tôi lại nghĩ ngay đến nhiều mưu kế khác, tính hết phương này, rồi lại bỏ mà tính sang phương nọ. Tôi nói một mình, tự vấn, rồi lại tự đáp, như thằng rồ, chưa hề bao giờ tôi thấy ai rồ-dại như tôi trong lúc ấy. Nàng giương mắt lên mà nhìn tôi, thấy tôi ngơ-ngác như thế, đủ hiểu cái nguy-hiểm là lớn; nàng run-sợ cho tôi thì nhiều mà run-sợ cho nàng thì ít. Tội-nghiệp, sợ mà cứ đứng ngây ra, chứ không dám hở môi nói cho tôi biết rằng sợ.

Tôi xoay-xở trong đầu đến trăm nghìn kế, rồi tôi quyết định đến kế vào kêu quan Khâm-mạng, để gắng sức lấy lẽ thành-tín, lấy cách cung-kính của tôi, từ khi tôi được hầu ngài, lấy sự yêu-mến của ngài đối với tôi, mà cố khiến cho ngài dủ [rủ] lòng thương hại. Nàng muốn giữ không cho tôi đi, nước mắt chạy quanh mà rằng: Chàng đi thì chết mất, chúng nó giết mất, chàng đi thì thiếp bao giờ còn được nhìn thấy chàng nữa, thiếp muốn cùng chàng chết luôn thể. Sau tôi phải dỗ-dành mãi, nàng mới chịu ở nhà, để cho tôi đi. Tôi phải hẹn thế nào trong một lát tôi cũng về ngay. Thì ra tôi đã không biết, nàng cũng không biết, rằng trời hờn đất giận là giận nàng, mà cái căm-tức của kẻ thù chung của chúng tôi cũng là căm-tức nàng mà làm hại nàng.

Tôi vào soái-phủ, gặp quan Toàn-quyền và ông cụ-đạo, tôi dùng hết cách khúm-núm để khiến cho người phải thương đoái đến tôi. Ví thử bởi việc khác mà tôi quị-lụy người ta đến thế, thì tưởng về sau tôi hồi tưởng lại, phải hổ-thẹn đến chết, tôi cũng biết lòng ngài không phải là lòng con ác-thú, cho nên tôi đem hết lẽ ra mà nói cho chuyển tấm lương-tâm của ngài.

Không ngờ, tôi kêu van tận-từ như thế, mà người tệ-ác ấy chỉ đáp có hai câu, nói đi nói lại, kể đến trăm lần. Mai-nương là do quyền ngài định phận, mà ngài đã trót hẹn với lệnh-điệt rồi. Cứ một mực như thế mà nói mãi. Tuy nhiên, tôi cũng quyết chí khiêm-nhún cho đến kỳ cùng, tôi khóc-lóc mà rằng thà tôi chết còn hơn phải lìa nhau với Mai-nương, ngài đã có lòng hà-hải mà trọng-đãi tôi bấy nay, lẽ đâu bây giờ ngài lại chí để tôi phải chết. Nhưng tôi kêu lắm mỏi miệng. Lão già ấy nuông cháu đến nỗi vì cháu mà làm nghìn điều thái ác, cũng sẵn lòng làm, thì phỏng còn lời-lẽ nào nói cho rung-chuyển được nữa. Cho nên khi tôi lui ra về thì tôi yên trí rằng con người ấy hết đường trông-cậy. Tuy vậy, tôi cũng vẫn quyết làm ra mặt chịu lụy khúm-núm cho đến kỳ cùng, tính trong bụng rằng, hễ họ làm ức ta quá, thì ta cho cả Mỹ-châu được xem một cái cảnh-tượng rất bi-thảm, rất gớm-ghê, cổ-lai chưa hề bao giờ có ai được nom thấy, do việc trai gái mà ra.

Tôi vừa lủi-thủi về, vừa ngẫm-nghĩ điều ấy, thì trời giun-giủi làm sao, gặp ngay chàng Xinh-lê ngoài phổ. Chàng ta nhìn mắt tôi thì đoán được ra một phần cái tư-tưởng ghê gớm của tôi rồi. Xinh-lê vốn là người can-đảm, tôi đã nói rồi, cho nên gặp tôi thì lại ngay gần tôi mà rằng: “Thôi, anh đừng phải đi tìm tôi nữa; tôi cũng biết rằng cái ý tôi thì là ngược ý anh; đôi ta thế tất là phải đâm cổ nhau phen này. Âu là ta đem nhau đi quyết việc ấy tức-thì, xem ai may ai rủi”. Tôi đáp rằng: “Anh biết điều lắm, việc này thế tất là tôi phải chết mới yên”.

Chúng tôi bèn đem nhau ra ngoài xa thành-phố, ngáng gươm với nhau một keo, tôi đâm trúng anh ta trước, tôi lại làm được cho gươm anh ta rơi xuống đất. Anh ta tức tôi quá, không chịu xin tôi tha giết và không chịu tình nguyện bỏ Mai-nương. Theo phép đấu gươm thì tôi có quyền thừa lúc ấy mà giết đi, nhưng vậy mới biết cái tộc tính nhà tôi cũng chưa đốn, đến lúc lâm nguy, khí-phách anh-hùng còn sót lại ít nhiều. Tôi bèn nhặt lấy gươm rơi vứt cho anh ta mà rằng: “Ta đánh keo nữa, lần này thì không ai dung ai”. Gã cầm lấy gươm, xông đánh tôi dữ quá. Nghề gươm vốn tôi không giỏi lắm, xưa nay chỉ tập tại Ba-lê cả thảy có ba tháng, nhưng lúc ấy thì cái ái-tình nó cầm tay đưa mắt Xinh-lê đâm tôi trúng suốt cánh tay, nhưng tôi thừa ngay được khi gươm của hắn mắc trong thịt tôi mà tôi đâm cho hắn một mũi đáo-để, hắn không kêu được nửa tiếng, ngã lăn ngay dưới chân tôi.

Tôi thắng trận thì mầng, nhưng mầng một lát, rồi lại lo đến việc giết người đó tất sau sinh sự, chứ chẳng yên. Chắc rằng tội này thì không còn kêu ai khoan-thứ cho mình được nữa. Chú cháu người ta yêu nhau như thế, việc này đến tai quan Khâm-mạng thì án mình xử quyết tức thì, không còn sống được lấy hơn một giờ đồng-hồ nào nữa. Nhưng cái lo đó dầu gấp đến đâu, cũng không phải là cái lo nhất của tôi. Mai-nương, còn cuộc nắng mưa của Mai-nương nữa, còn cái phận Mai-nương sau này thì nghĩ sao đây? Tôi những nghĩ đến điều ấy mà ghê, mà sợ, mà rầu, mà lo, đến nỗi hoảng-hốt người không biết rằng mình đứng đâu nữa. Bấy giờ tôi lại hối-hận cái việc giết Xinh-lê, tôi muốn chết ngay cho rồi phiền-bực.

Nhưng tôi nghĩ đến cuộc tự-tận thì trí-khôn tôi đương tối-tăm mờ-mịt, tự dưng lại hóa sáng-sủa ra, mà nghĩ-ngợi được đâu ra đó: Ừ mà! sao ta lại quyên-sinh! Sao ta lại muốn chết đi để rảnh lấy một cái thân ta? Nếu vậy, chẳng hóa ra ta còn sợ một thứ nữa hơn sợ phải lìa nàng ru? Âu là ta phải chịu xót-xa khổ-não cho đến nước cùng, còn chịu được đến đâu, ta phải cam lòng mà chịu đến đó, để cứu lấy nàng. Khi nào ta chịu hết nước đau-đớn cực-khổ rồi mà cũng không được việc gì cho nàng, bây giờ có phải chết, ta hãy chết, chứ sao ta còn hơi thở, lại nỡ bỏ nàng mà chết trước. Vậy chẳng ra tệ-bạc với tình ru?

Tôi nghĩ như thế, tôi lại lẳng-lặng mà vào trong phố, về thẳng nhà, thì tôi thấy Mai-nương đương lo-sợ cho tôi mà mê-mệt đi. Nàng nom thấy tôi về, nàng mới tỉnh lại. Tôi không thể giấu-giếm đươc việc đâm nhau vừa rồi. Tôi bèn kể hết cho nàng nghe, thì nàng ngất lịm ngay đi mà ngã vào lòng tôi. Tôi phải thuốc-thang lay gọi trong một khắc đồng-hồ, nàng mới tỉnh lại.

Bấy giờ tôi cũng hoảng-hốt quá, nghĩ quanh nghĩ quẩn, không còn thấy cách gì là cách giữ được toàn mạng của tôi với nàng nữa. Khi tôi thấy nàng đã hồi chút sức khỏe rồi, tôi mới hỏi: “Mình ơi, đôi ta biết tính sao đây? Ta làm thế nào bây giờ? Thế tất là tôi phải đi xa lánh, tôi đi thì một mình mình ở lại chốn này hay sao? Ừ mà phải, mình ở lại đây, cũng còn có lẽ ao-ước ngày kia được vẻ-vang sung-sướng, còn như tôi thì thế nào tôi cũng phải đi. Thôi thì mình đành để cho tôi đi vào trong rừng rú gửi xác những thổ-dân mọi-rợ, hoặc để tôi đem thân cho ác-thú nó xé đi”.

Tuy nàng còn mệt lắm, mà nàng cũng đứng phắt dậy, cầm lấy tay tôi dắt ra phía cửa mà rằng:

- Âu là ta cùng đi trốn với nhau. Mau mau không nên để trễ phút nào, kẻo nữa ai tình cờ mà nom thấy cái xác Xinh-lê, thì ta chạy không kịp nữa.

Tôi sướng-thỏa vô cùng mà rằng: “Mình ơi, nhưng đôi ta biết chạy đi đâu bây giờ? Mình có nghĩ ra được kế gì không? mà mình rủ tôi cùng trốn? hay là chi cho bằng mình cố sức ở yên đây, để tự tôi đem đầu nộp quan mà chịu tội?”

Tôi nói thì nàng lại càng nóng đi; tôi phải đi theo nàng, cũng may lúc đi tôi còn chút trí-khôn lại nhớ đến mang theo ít rượu mạnh, và ít lương-thực để ăn đường; tôi bỏ các túi cho thật đầy. Chúng tôi kêu đứa ở mà nói dối chúng nó rằng chiều đến đi chơi cho mát (nguyên hai chúng tôi chiều nào cũng giữ thói ấy), đoạn hai đứa vịn nhau mà đi thoăn-thoắt cho mau xa thành-phố. Tôi không ngờ nàng yếu như xên, mà đi được nhanh như thế.

Tuy trong bụng tôi chưa quyết được chỗ đem nàng đến ẩn, nhưng tôi cũng vẫn có hai đường hi-vọng. Nếu không còn hai lối ấy thì tôi quyết chết còn hơn là đem nàng đi long-đong không biết vào đâu. Một đường là từ mười tháng trời tôi sang đất Mỹ, tôi đã chịu khó đi thăm dò cũng biết đó biết đây một chút. Nhân tôi có học được một vài cách giao-thiệp với quân ác-mọi da đỏ. Ai mà biết những cách ấy, có thể vào trong các rợ mà không chắc chết. Và tôi lại học được đôi ba tiếng nói và một chút thói tục riêng của thổ-dân ấy nữa.

Ngoại-giả cái phương cứu cơ không chắc ấy, tôi lại còn một đường hi-vọng nữa, là tôi biết người Ăng-lê cũng có mấy chỗ thực-dân bên châu Mỹ, nhưng mà từ chỗ chúng tôi ở mà sang cho đến đất thực-dân của nước Anh, đường đi xa lắm, những nghĩ mà ghê. Phải đi qua những đất vô mao, mỗi quãng kể hàng đôi ba ngày mới thấu, rồi lại phải trèo qua những núi cao rừng rậm, đến nỗi sức trai khỏe mạnh, vị tất đã vượt nổi. Tuy vậy mà tôi cũng tự-phụ rằng đi theo hai đường đó có lẽ thoát ra khỏi được vòng nguy-hiểm. Giao-thiệp được với những quân mọi-rợ thì rồi có kẻ đưa đường, mà sang được đến đất Ăng-lê thì có nơi nương-tựa.

Chúng tôi đi mãi, kỳ cho đến khi Mai-nương không đi được nữa thì mới thôi, nghĩa là cả thảy được chừng hai dặm. Tội-nghiệp! đã mấy lần tôi thấy nàng nhọc quá, tôi bảo nghỉ chân một lát, mà nàng không chịu nghỉ, mãi kì cho đến lúc mệt nhoài, không sao nhấc được chân lên nữa, nàng mới bảo tôi rằng đi được đến đó là cùng. Khi ấy trời đà tối mịt. Vợ chồng ngồi xuống đất, ở giữa một cánh đồng rộng mông mênh, mà không có lấy một cái cây gọi là cái bóng mà tựa. Vừa thoạt nghỉ lại thì nàng lo ngay đến việc thứ nhứt, là việc thay vải quấn chỗ thương đau cho tôi. Nguyên trước khi đi, nàng đã thân-hành bó-buộc cho tôi chỗ cánh tay đau ấy. Tôi thấy nàng mệt quá, tôi can mãi xin nàng đừng lo gì đến tôi vội, mà nàng nhất định không nghe. Nếu tôi mà không cam chịu để cho nàng nâng-niu nắn bó, để cho nàng yên tâm rằng chỗ đau tôi có thuốc, thì nàng khổ-não có dễ đến chết mất. Cho nên tôi đành chịu mình mạnh khỏe mà để cho một người đàn-bà đã chết nhược phải chăm nom mình. Tôi bèn lặng yên, thẹn với một mình mà chịu ân nàng bó-buộc.

Nhưng đến khi nàng đã thỏa được cái bụng ân-cần ấy rồi, thì tôi lại sốt-sắng mà ân-cần lại. Tôi cởi hết áo ngoài ra mà trải xuống đất cho nàng nằm ngồi đỡ đau đỡ lạnh. Tôi hết sức làm cho chỗ đất hoang hóa được cái giường tiềm-tiệm cho nàng nghỉ-ngơi. Tay nàng giá ngắt, tôi phảỉ hôn lấy hôn để, phải hà hơi vào cho ấm. Suốt đêm hôm ấy, tôi thức ở bên mình nàng và tôi cầu-nguyện cho nàng ngủ được yên giấc. Trời ơi, cái lòng tôi khấn vái hôm ấy, thành-kính biết là dường nào, mà sao ông nỡ phụ?

Thôi, thưa tôn-ông cho phép tôi kể vắn-tắt cái đoạn sau cùng này, thật là một chuyện đứt ruột xé gan cho tôi. Cái nạn của tôi đó trần đời tưởng không ai từng gặp; mà trời còn cho tôi sống được ngày nào, chỉ để than khóc mà thôi, tôn-ông ạ. Chuyện ấy tuy rằng lúc nào lôi cũng nhớ như in trong cật dạ, mà nói ra lúc nào, tôi cũng lạnh gáy sởn lông.

Tôn-ông ơi, từ lúc chập tối mà cho đến khuya khuya thì nàng nằm nghỉ yên vô sự. Tôi cứ tưởng nàng mệt quá ngủ say, cho nên tôi không dám thở, những lo nàng giở giấc mà tỉnh dậy. Sáng tinh sương, tôi cầm tay nàng thì thấy lạnh mà run lẩy-bẩy. Tôi nắm hai bàn tay mà thu vào bọc cho nó ấm. Sự động-đậy ấy làm cho nàng tỉnh lại, nàng bèn cố gượng nắm lấy tay tôi, cố nói cho ra hơi mà bảo tôi rằng nghe như nàng đã lâm chung.

Trước tôi còn cho câu nói ấy là câu làm nũng thường của kẻ không quen chịu đau chịu cực. Tôi bèn lấy những lời âu-yếm mà khuyên giải. Nhưng sau tôi thấy nàng cứ thở hắt ra mãi mãi, hỏi không thấy nàng nói, gọi chẳng thấy thưa, hai tay thì vẫn nắm lấy tay tôi, chốc chốc lại nắm chặt lại, thì tôi mới biết rằng quả kiếp gian-truân nàng đã sắp đến chung cục.

Thôi, tôn-ông đừng bắt tôi tả hết cái tình cảnh của tôi khi ấy nữa. Nàng chết. Đến mãi lúc chết mới tỏ được cho tôi hay cái mối tình yêu chân thật. Tôn-ông ơi, sức tôi chỉ nói cho tôn-ông nghe được có vậy mà thôi.

Tưởng nàng chết, tôi cũng chết theo luôn. Ngờ đâu Thiên-công ý hẳn còn chưa cho hết kiếp long-đong sầu-khồ, cho nên từ ấy đến giờ, để cho sống mà qua một ngày là một ngày sầu-thảm xót-xa. Vả ví dù có còn phương nào sung-sướng, tôi cũng cam tâm mà liều bỏ kiếp xuân-xanh, không còn muốn sung-sướng làm chi nữa.

Ròng-rã trong hai-mươi-bốn giờ đồng-hồ tôi cứ luôn miệng nằm hôn cái mặt người lạnh ngắt, và hôn hai bàn tay đã giá như đồng. Trong lòng tôi đã quyết nằm liều mà chết tại đó. Nhưng qua một đêm đến sáng hôm sau nữa, tôi lại nghĩ rằng nếu tôi ôm lấy nàng mà chết như thế, thì cái thân châu ngọc kia có phải bị nanh hùm vuốt gấu nó xâu-xé tan-tành, thảm-trạng ấy dẫu khuất mắt rồi mà tưởng đến cũng đau-đớn. Âu là ta cố sức vùi nông một nấm, cho nàng yên nghỉ một nơi, rồi ta ngồi đợi chết ở bên mồ. Phần thì thương đau không có thuốc, phần thì bụng đói chẳng cơm ăn, tôi nghe mình thấy cũng đã gần cuộc chết lắm rồi, phải gắng sức nhiều mới đứng lên được vững. May sao trước khi đi, lại đem ít rượu mạnh đi theo, uống vài nhấp, dẫu không khỏe hẳn cũng đủ sức mà trả cái nghĩa sau cùng cho người mình yêu-mến. Gặp được chỗ ấy là nơi đất cát, may cũng dễ đào. Tôi bèn bẻ thanh gươm ra, tạm dùng làm thuổng cuốc, nhưng lưỡi gươm mảnh quá, không bằng cứ lấy đất ném sang bên, lâu dần cũng thành ra được một hố rộng, tôi đào xong huyệt, tôi sẽ rước cái tượng thờ của lòng tôi mà đặt cho ngay-ngắn vào đó, tôi cởi hết áo ngoài của tôi ra mà phủ kín cho nàng, kẻo nữa đất vấy vào da ngà-ngọc. Trước khi hạ huyệt, tôi còn ôm lấy hôn-hít trăm nghìn lần, mà tưới nước mắt vào; tôi còn ngồi xuống, sẽ hé mặt nàng ra mà nhìn mà ngắm cho no con mắt. Khi đặt nàng xuống huyệt, tôi còn chưa nỡ lấp đất lên trên. Về sau tôi nghe trong mình thấy mệt quá, sợ rằng mỗi chốc một yếu sức đi, thì rồi lấp đất không kịp, tôi phải nuốt thảm mà vùi xuống huyệt sâu, cái mỹ-công tuyệt-tác của Tạo-hóa ấy, xưa nay trên địa diện chưa từng thấy có ai xinh-đẹp sánh được tầy. Khi tôi đắp mồ cho nàng đâu đó rồi tôi nằm úp mặt lên trên, tôi nhắm mắt lại tính không bao giờ còn mở ra mà nhìn ánh sáng trời đất nữa; tôi tụng niệm mà chờ cái chết.

Duy có một điều, tôi nói ra chắc tôn-ông cũng không thể tin là thật được, là trong cái lúc tôi làm một việc sầu-thảm như thế, mà mắt tôi không sa nửa giọt lụy, miệng tôi không có lấy một tiếng thở dài. Thì ra con người ta đã đến cực độ bi-thương, đã đành rằng chết rồi, thì bí-tắc hết cả những cách diễn đạt thảm tình. Bởi thế tôi nằm sấp mặt như vậy chẳng được bao lâu, thì chút tinh-thần còn sót lại ở trong mình cũng tán loạn đi hết, mà ngất lịm hẳn người đi.

Thưa tôn-ông, giờ tôn-ông đã nghe hết cái chuyện sầu-thảm của tôi đến đó rồi, còn đoạn từ đó về sau thì cũng không đáng kể-lể dông-dài cho lắm mà rườm tai tôn-ông ra nữa.

Xinh-lê bị tôi đâm ngã xuống trong rừng, sau có người nom thấy, đem về trong phố, thầy thuốc xem ra thì chẳng những gã không chết, mà thương cũng không lấy chi làm nặng cả. Khi chàng tỉnh lại, chàng mới thuật hết chuyện đầu-đuôi cho chú là quan Toàn-quyền nghe, nhân chàng có lấy lòng quân-tử mà công-nhận cái lòng quân-tử của tôi trong khi hai người giao-chiến. Quan bèn tức-khắc sai người đi tìm tôi cho được. Họ thấy tôi và Mai-nương cùng vắng nhà thì ai nấy đồ ngay cho chúng tôi là đem nhau đi trốn. Lúc đó trời đã tối quá, không ai vào rừng mà tìm chúng tôi được nữa. Nhưng trong suốt hai hôm sau, thì quan sai nhiều người đi lùng khắp các xó rừng.

Họ thấy tôi nằm còng queo trên mộ nàng, đã tưởng tôi chết mất rồi. Những người thấy tôi mất cả áo mặc ngoài, mình-mẩy máu-me ghê-gớm, vì chỗ cánh tay bị dấu, thì trước họ còn đồ cho tôi bị quân hung-đồ bóc-lột mà giết đi. Họ mới khiêng tôi về tỉnh. Trong khi đi đường thì tôi thấy động mình tỉnh dậy, tôi mở bừng mắt ra, thấy mình còn sống thì tôi thở dài mấy tiếng, rồi rền-rĩ khóc than rất là bi-thảm. Người ta thấy vậy biết rằng còn có thể thuốc-thang cứu được. Than ôi! sự ân-cần của người đồng-loại đã quá công-hiệu, để cho tôi đến nỗi còn kiếp đọa-đầy.

Tuy tôi như thế mà quan cũng đem giam cẩn-mật, giao việc cho quan tòa xét-xử. Quan không thấy Mai-nương thì đồ cho tôi vị máu ghen-tuông mà đem nàng ám-sát. Tôi cứ thực cung-khai. Chàng Xinh-lê tuy nghe câu chuyện cũng xót-xa bi-thảm, mà cũng không quên chút nghĩa với người cạnh-tranh quân-tử, chàng bèn tận-từ xin quan trên xá tội cho tôi. Quan chuẩn-y cho.

Tôi yếu-đuối quá, họ phải để lên võng mà khiêng từ ngục về nhà. Tôi mang bệnh trong ba tháng mới khỏi. Trong ngần ấy tháng ngày, tôi vẫn một lòng muốn chết, nhiều lần từ chối thuốc-thang, may sao Thiên-chúa ý chừng hành-hạ tôi đã bấy nhiêu lâu, cho nên cũng đoái thương mà để cho tôi thừa được cái gương sầu-khổ ấy, mà tu-tỉnh lấy mình, dần dần hết cái u-mê mà nhớ đến những điều nghĩa-vụ mà hồi lại những tư-tưởng xứng-đáng với dòng-dõi nhà mình, với cách giáo-dục của mình.

Tâm trí đã tỉnh thì sức khỏe lần lần cũng hồi lại. Từ đó tôi dứt nhũng thói hư dại thuở xưa, mà chuyên tâm vào một việc sửa mình, trong khi chờ được chuyến tàu về Pháp thì tôi cứ làm ăn nuôi miệng. Thời ấy mỗi năm mới có một kỳ tàu ở Âu sang Mỹ. Tôi vốn đã quyết chí phen này về quê nhà mà cố ăn ở kéo lại những điều lầm-lỗi khi xưa. Chàng Xinh-lê lại có hảo tâm bàn giúp cho tôi việc đem hài-cốt Mai-nương mà mai-táng một nơi sang-trọng.

Tôi khỏi bệnh được độ sáu tuần-lễ, một hôm, tôi đi hóng mát một mình ngoài bờ biển, sực thấy một chiếc tàu đến bến. Tôi có ý nhìn những khách lên bộ, thình-lình gặp một người không mong mà thấy, mầng-rỡ chẳng biết ngần nào, người ấy là anh Tỉ-ba. Tuy rằng trong bấy nhiêu lâu, tôi trải bao nhiêu nỗi xót-xa mày-mặt kém tươi khi trước mà bạn tôi thoạt nom thấy tôi đằng xa, đã nhận ra rồi. Bạn tôi nói vượt biển sang châu Mỹ, chỉ bởi một điều thương nhớ, cho nên đã chẳng quản xa-xôi, sang thăm tôi và rủ tôi liệu xếp mà về cố-quốc. Tỉ-ba nói khi bắt được thư của tôi ở bến Lê-hao gửi về thì vội-vàng thân đi đến đó để đưa cho tôi số tiền tôi hỏi. Đi đến nơi thấy tàu đã đi rồi, thương bạn khóc than rầm-rĩ ví nếu gặp tàu thì đi theo luôn sang ngay đất Mỹ với tôi. Chẳng may chờ trong hàng mấy tháng mà chẳng thấy tàu nào đi cả. Sau mãi mới gặp một chiếc tàu buồm từ cửa biển Thánh Ma-lô tải hàng sang cù-lao Ma-ti-ních, bạn tôi liền xuống tàu, tính sang đến Ma-ti-ních, rồi lại đáp tàu nào khác mà đến Tân Ô-liên. Tàu đi giữa biển thì bị quân giặc biển Y-pha-nho bắt mất đem về mấy nơi tiếm địa của nước ấy. Sau bạn tôi dùng mưu mà trốn được ra, đi long-đong đã chán, may đâu lại gặp chiếc tàu này, thuận nẻo đưa sang nơi tôi ở.

Tôi thấy tình bạn hữu anh tôi ăn ở với tôi thủy-chung có một, rộng lượng không hai như thế, trong lòng tôi lấy làm cảm-phục. Tôi mới đưa bạn tôi về nhà, đặt lên làm chủ-ông, tùy nghi phương tiện, muốn bảo tôi làm sao, tôi cũng xin nghe. Tôi thuật lại cho bạn tôi hết cả những việc từ ngày tôi bước ra đi. Tôi lại nói một câu này để cho bạn tôi mầng-rỡ là những hạt giống đạo-đức xưa kia bạn ra sức vun-trồng trong tấm lòng thơ dại-dột, nay đà kết nên bông trái, nghe trong mình đã thấy có chí tu-thân. Bạn tôi rằng nếu được quả như lời thì bao nhiêu công-lao nguy-hiểm, bao nhiêu nỗi vượt biển trèo non bạn tôi cũng không hoài tiếc.

Hai anh em ở với nhau tại Tân Ô-liên trong hai tháng để chờ tàu lớn về Pháp. Chúng tôi về đến Lê-hao hôm nay là được nửa tháng. Thoạt tới bến, tôi đã viết thư báo tin cho nhà biết. Anh cả tôi được thư, vội kíp hồi âm cho tôi biết rằng Nghiêm-đường đã từ bỏ cõi trần. Tôi được thư như xé tim gan những hối-hận có lẽ vì ta mà đấng-thân vội khuất. Nhân thuận gió cho tàu lên bến Ca-lê, tôi bèn từ bến Lê-hao mà đến đây, tính đi ngay đến một ấp cách đây vài dặm, anh cả tôi nhắn rằng ở đó chờ tôi tại nhà một người quí-phái quen thân.




CHUNG



Mai-nương Lệ-cốt (phần 2)
Mai-nương Lệ-cốt (phần 1)
Nguyễn Văn Vĩnh kính cáo
Nguyễn Văn Tố về Nguyễn Văn Vĩnh
Nguyễn Văn Vĩnh-Mặc Đỗ-Bùi Giáng
Tiểu luận về Nguyễn Văn Vĩnh
Nguyễn Văn Vĩnh dịch Miếng da lừa
Ba chương Ba người ngự-lâm pháo-thủ
Trung Bắc
Nguyễn Văn Vĩnh trả lời phỏng vấn
Nguyễn Văn Vĩnh là ai
Sử ký Thanh Hoa


1 comment:

  1. tiếp tục (cũng vừa mới thêm một tài liệu rất hiếm có liên quan)

    ReplyDelete